SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  46
Télécharger pour lire hors ligne
GV Trần Quang Khánh                                                                                       1




                               *LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM
1. Nguoàn goác vaø baûn chaát cuûa vaên hoaù
_ Thời điểm phát minh ra "lửa" là dấu mốc quan trọng ban đầu cho sự ra đời và phát triển của văn hoá.Nói
như vậy có nghĩa văn hoá là sản phẩm chỉ riêng có ở loài người, đi liền với sự phát triển của xã hội loài
người.
_ Nhìn lại lịch sử: "Thềm trước" của nền văn minh lửa đốt là một bức tranh sinh hoạt mang tính sinh học
thuần tuý của động vật bậc thấp; Còn "sân sau" của nền văn minh lửa đốt là ánh sáng tư duy của động vật
bậc cao. Văn hoá chính là thành quả đằng sau chuỗi tiến hoá lâu dài của loài người, gắn liền với phương
thức sống nhất định.
_ Khai mở như trên là nhằm chứng minh nguồn gốc của văn hoá từ trong lao động. Lao động vừa là điều
kiện cho sự xuất hiện của văn hoá, nhưng đồng thời cũng là phương thức duy trì sự tồn tại và phát triển của
văn hoá. Cũng chính lao động là dấu hiệu để phân biệt loài người với loài vật, vì từ lao động là tiền đề vật
chất tiên quyết cho sự ra đời của tư duy-Cái chỉ có ở loài người (còn loài vật thì không có).
_ Xét về mặt quan hệ: Tư duy là sản phẩm của tiến trình tiến hoá lâu dài bởi sự tác động của con người vào
giới tự nhiên. Nói một cách khác, "tư duy chính là thực tiễn được cải biến đi ở trong bộ óc con người".
Song, tư duy không phải là một hiện tượng thụ động, bất biến. Nó mang "nội dung thực tiễn", vừa có chức
năng lưu trữ tri thức, vừa có nhiệm vụ truyền tải tri thức. Cho nên, ngôn ngữ với bản chất là "cái võ vật chất
của tư duy" đã trở thành mắt xích quan trọng trong quá trình trao đổi thông tin, duy trì và phát triển các quan
hệ giữa con người với con người trong quá trình cải biến tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
_ Sáng tạo là thuộc tính của tư duy nhưng sáng tạo cũng chỉ có thể được thể hiện thông qua những điều kiện
vật chất nhất định. Nhưng điều kiện vật chất đáp ứng sáng tạo phải thông qua lao động vì, "nếu phương diện
kinh tế của lao động là sự sản xuất ra của cải vật chất, thì phương diện văn hoá của lao động chính là sự
sáng tạo-biểu hiện của các lực lượng bản chất người. Quá trình biểu hiện của các lực lượng bản chất người
ấy chính là quá trình sức sáng tạo được vật thể hoá trong hoạt động chiếm lĩnh và cải tạo thế giới, trong đó
có bản thân con người". Cũng chính sự sáng tạo văn hoá là động lực tiến bộ của loài người; Sự đa dạng của
văn hoá là kho tàng quý báu nhất của văn hoá nhân loại và là một yếu tố cần thiết của phát triển"
 *Như vậy, cùng với lao động, tư duy, sáng tạo và ngôn ngữ là cội nguồn là điều kiện nhưng cũng là
phương thức tồn tại và phát triển của văn hoá.
Từ thực tiễn vật chất và tinh thần của văn hoá cho thấy, văn hoá là một lĩnh vực có nội hàm và ngoại diên
rất rộng lớn: Vô cùng đa dạng và phong phú nhưng cũng không kém phần phức tạp.
_ Cho đến nay đã tồn tại nhiều định nghĩa về văn hoá. Tuỳ theo quan điểm, góc độ tiếp cận khác nhau mà
các nhà văn hoá đưa ra các định nghĩa khác nhau về văn hoá:
Hồ Chí Minh-Một danh nhân văn hoá thế giới cho rằng "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá"
_ Tổ chức văn hoá thế giới định nghĩa: "Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong
xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người những khả
năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý
tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức
được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản
thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới mẻ và tạo nên
những công trình vượt trội lên bản thân".
_ Từ lập trường duy vật biện chứng truy cứu về văn hoá thấy rằng: Xét theo nghĩa rộng, Văn hoá là "trình
độ phát triển lịch sử nhất định của một xã hội, sức sáng tạo và năng lực của con người trong xã hội, biểu
hiện các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hoạt động, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do
con người tạo ra.....Văn hoá bao gồm những kết quả khách quan của hoạt động con người (sản xuất, máy
móc, thiết bị, kết quả nhận thức, tác phẩm nghệ thuật, chuẩn tắc đạo đức và Pháp luật) cũng như của sức
sáng tạo và năng lực con người được thể hiện trong hoạt động (tri thức, kỷ năng, thói quen, trình độ trí tuệ,

Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                   1
GV Trần Quang Khánh                                                                                       2
sự phát triển đạo đức và thẩm mỹ, thế giới quan, phương thức và hình thức giao tiếp giữa con người với
nhau). Xét theo nghĩa hẹp, văn hoá là lĩnh vực đời sống tinh thần của con người"
Tóm lại, văn hoá là một trong những căn cứ để phân biệt con người với loài vật. Nguồn gốc lao động của
văn hoá khẳng định một cách khách quan, duy vật về một hình hình thái ý thức xã hội. Từ trong văn hoá,
chúng ta tìm thấy được những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội loài người qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau.

2. Tieán trình phaùt trieån cuûa vaên hoaù Vieät Nam

   _ Mỗi dân tộc đều có nền văn hoá riêng của mình. Văn hoá dân tộc là thành tựu của cả dân tộc đi cùng
lịch sử của dân tộc đó.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc bình đằng với tất cả các dân tộc trên thế giới, có chủ quyền, độc lập và
toàn vẹn về lãnh thổ, có lịch sử dựng nước và giữ nước, do đó có nền văn hoá riêng, mang phong cách, bản
sắc độc đáo của khu vực Á-Đông.
Văn hoá dân tộc Việt Nam là thành tựu của cả dân tộc Việt Nam, được hình thành trong quá trình đấu tranh
với thiên nhiên, chống xâm lược ngoại bang và thực tiễn lao động sản xuất.
_ Văn hoá Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc. Trước hết là nền văn hoá thời Tiền sử với
những thành tựu ban đầu của người nguyên thuỷ ở núi Đọ (Thanh Hoá) và sau đó là nền văn hoá Sơn Vi
(hậu kỳ đá cũ). Đặc trưng của nền văn hoá này là săn bắt, hái lượm, dùng đá làm công cụ sản xuất. Theo dấu
tích khảo cổ học, thời kỳ này "người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa. Họ chôn người ngay nơi cư trú. Thức ăn
chủ yếu là nguyễn thể, những cây, quả, hạt và một số các loại động vật vừa và nhỏ". Từ thế giới quan triết
học phải thừa nhận rằng, hành vi chôn người chết của người nguyên thuỷ biểu hiện một quan niệm duy tâm-
tôn giáo. Chính việc chôn người chết kèm theo những vật dụng ngay nơi cư trú là thể hiện niềm tin về một
thế giới khác sau khi lìa bỏ thế giới sống trần tục. Đây cũng được xem là một quan niệm nhân văn, nhân đạo
sâu sắc bước đầu của tổ tiên người Việt.
Thời kỳ đá mới (cách đây hơn một vạn năm) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lối sống của con
người. Thời kỳ này con người đã nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu từ đá, đất sét,
sừng, xương, tre, nứa, gỗ,.. để làm công cụ sản xuất. Đặc biệt hơn, họ đã biết làm gốm, thuần dưỡng động
vật, biết trồng cây, biết quy hoạch định cư thành từng nhóm, dân số theo đó cũng tăng lên,..Chính phương
thức sống này đã đẩy văn hoá phát triển lên một tâm cao mới, tiêu biểu cho sự tiến bộ đó là những đặc trưng
của nền văn hoá Hoà Bình.
Văn hoá thời Sơ sử với ba trung tâm lớn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam:
-Văn hoá Đông Sơn hình thành ở các lưu vực sông (Sông Hồng, Sông Cả, Sông Mã). Đặc trưng của phương
thức sống thời kỳ này vẫn là sự chuyển tải nội dung của nền văn hoá Hoà Bình nhưng ở một trình độ cao
hơn. Vào thời kỳ này, cư dân tiền Đông Sơn đã biết trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc làm thức ăn, làm
phương tiện chuyên chở hàng hoá,... Tuy nhiên việc tìm thấy vật liệu đồng thau đã gây ra sự tác động không
nhỏ đến đời sống kinh tế-xã hội thời kỳ này. Chính nguyên vật liệu từ đồng đã thúc đẩy nghề đúc đồng phát
triển. Phần lớn những công cụ sản xuất, vũ khí được đúc bằng đồng với kỷ thuật tinh xảo. Đặc biệt những
chiếc trống đồng là sản phẩm đằng sau kỷ thuật đỉnh cao của nghệ nhân thời Đông Sơn đã trở thành biểu
tượng của văn hoá dân tộc.
Từ các di chỉ khảo cổ cho thấy, thời kỳ Đông Sơn đã có sự phân khu, phân tầng văn hoá, đồng thời cũng
diễn ra sự giao lưu văn hoá giữa các bộ lạc bởi vì đã có hoạt động trao đổi kinh tế, tặng vật phẩm tín ngưỡng
tôn giáo,... Và cũng chính những hoạt động này là căn cứ thừa nhận tư duy sáng tạo trong đời sống tín
ngưỡng cũng như nghệ thuật của một nền văn hoá non trẻ. Trong lĩnh vực nghệ thuật, thời kỳ này, con
người đã biết trang trí với những hoạ tiết có tính đối xứng chặt chẽ. Cho nên, về mặt triết học phải thấy được
rằng đó là "tư duy phân đôi", ít nhiều mang tính biện chứng của người Sơ sử.
Văn hoá, nghệ thuật thời kỳ này cũng rất đa dạng và phong phú với những huyền thoại, thần thoại mang tính
sử thi ("Đẻ đất đẻ nước") cùng những nhạc cụ âm nhạc sinh động từ vật liệu thiên nhiên, đặc biệt là đồng
với những chiếc trống có âm thanh vang xa, vọng.
Nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân Đông Sơn gắn liền với nghề trồng lúa nước. Vì vậy, thần Mặt trời là vị thần
chủ đạo được thờ phụng nhằm cầu may cho mùa màng tốt tươi để cư dân được no ấm, an bình,...
 -Văn hoá Sa Huỳnh có không gian phân bố rộng lớn, từ Bình Trị Thiên kéo dài tới lưu vực sông Đồng Nai.
Nếu văn hoá Đông Sơ với đặc trưng lớn nhất là những cộng cụ, vật dụng bằng đồng, phục vụ cho sản xuất
thì nền văn hoá Sa Huỳnh lấy sắt làm nguyên liệu chủ yếu để chế tạo ra những cộng cụ phụ vụ cho nền sản
xuất nông nghiệp lúa nước, cùng các loại cây ăn quả, củ khác. Cũng đặt trong so sánh, nếu cư dân Đông Sơn
hãnh diện về kỷ thuật đúc đồng thì cư dân Sa Huỳnh cùng tự hào về kỷ thuật đúc sắt. Những công cụ bằng
Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                   2
GV Trần Quang Khánh                                                                                     3
sắt của cư dân Sa Huỳnh nhiều không kém công cụ bằng đồng của cư dân Đông Sơn, Thậm chí còn nhiều
hơn.
Ngoài ra cư dân Sa Huỳnh còn nổi tiếng với truyền thống dệt vải, đúc đồ gốm, làm trang sức bằng nhiều
chất liệu từ thiên nhiên. Điều đó chứng tỏ tư duy của người Sa Huỳnh đã phát triển ở tâm cao, tạo ra một
nền văn hoá tiến bộ, chủ động khai phá, cải biến tự nhiên.
 -Văn hoá Đồng Nai là nền văn hoá của cư dân vùng Nam Bộ. Đặc điểm của nền văn hoá này gắn liền điều
kiện tự nhiên (sông nước miệt vườn). Vì vậy, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
Nếu cư dân Đông Sơn dùng nguyên liệu đồng, cư dân Sa Huỳnh dùng Sắt để chế tạo cộng cụ sản xuất là chủ
yếu, thì cư dân Đồng Nai sử dụng đá làm nguyên liệu chính thống chế tác ra những công cụ sản xuất và
thậm chí cả những hàng trang sức để phụ vụ đời sống tinh thần.
_ Đời sống tín ngưỡng của cư dân vùng này còn dừng lại ở cấp độ "Bái vật giáo", song họ vẫn tin có một thế
giới khác ngoài thế giới hiện thực của con người người sống.
Nhìn chung, cư dân Đông Nai sống ven cửa sông, rạc, biển nên từ lâu đời đã có truyền thống "ăn to nói
lớn", khoáng đảng, bổ bả, ít suy tư trầm lắng như người vùng ngoài.
Văn hoá Bắc thuộc là nền văn hoá phụ thuộc vào sự thống trị của Phong kiến Trung Hoa ở phương Bắc.
Thời kỳ này đã đặt văn hoá Việt Nam vào thế cam go phải đấu tranh với sự đô hộ của phong kiến xâm lược
chống lại sự đồng hoá dân tộc.
_ Văn hóa Việt Nam vốn dĩ độc lập trong sự cởi mở, rộng lượng của truyền thống người Việt cổ sau quá
trình tiếp biến thiên nhiên và cuộc sống lâu dài nay có nguy cơ bị Hán hóa, biến thành một tiểu khu của
Trung Hoa đại lục.Phong kiến phương Bắc đưa chân đến đất Nam không chỉ chuyên chở ý đồ chính trị mà
còn kéo theo văn hoá bản địa. Hành trang chủ yếu của văn hoá bản địa là đạo Nho, Lão-Trang với những
nội dung phục vụ cho mục đích đồng hoá.Không chịu khuất phục trước sức mạnh về số lượng, dân tộc Việt
Nam trương cao ngọn cờ: Đấu tranh để bảo vệ bản sắc, bảo vệ dân tộc, chống đồng hóa, tiếp tục phát huy
giá trị văn hóa dân tộc, giải phóng đất nước.
Tuy nhiên, từ giác độ xã hội học phải thừa nhận rằng: Những nội dung máng đậm tính nhân văn của đạo
Nho Trung Quốc (nhân-lễ-nghĩa-chính danh) rất gần gũi trong nếp ăn, thói ở của người Việt. Cho nên,
Phong kiến Trung Hoa đã biết lợi dụng điều đó mà khuyếch trương, truyền giáo. Nếu có thể đặt ra ngoài vấn
đề chính trị mà nhìn sâu vào đời sống tinh thần thì có thể thấu rõ được một sự thực là: Bản thân những giá
trị nhân văn, nhân bản của Nho giáo đã tồn tại trong lòng truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Cùng với những chuẩn giá trị đạo đức của các tôn giáo Trung Hoa, mà chủ yếu là đạo Nho. Phật Giáo (một
trong ba tôn giáo lớn trên thế giới) cũng có mặt ở Việt Nam. Những kỷ cương, luân lý của đạo Phật đã góp
phần không nhỏ xiết chặt lối sống buông thả của con người trần tục. Xét về mặt ý nghĩa, nó phù hợp với tâm
can hướng thiện của người Việt. Cho nên văn hoá Việt Nam tiếp biến đạo Phật là góp thêm phần đa dạng,
phong phú và nhân đạo của một truyền thống lâu đời.
Trước khi bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, văn hoá Việt Nam ghi nhận dấu ấn của nền văn hoá champa và
Óc Eo.
Với sự thống trị của các triều đình phong kiến Việt Nam (đặc biệt là triều đình nhà Nguyễn), vào thế kỷ thứ
XVI một tôn giáo có nguồn gốc từ Phương tây đã xâm nhập vào văn hoá Việt Nam. Đó là Thiên Chúa Giáo-
tôn giáo làm nên văn minh phương Tây.
Nội dung của Thiên Chúa giáo tập trung chủ yếu ở phúc âm. Giáo lý dạy: Con người là một sinh linh vô
cùng nhỏ bé, khi sinh ra đã mang nặng tội tổ tông. Vì vậy, sống kiếp làm người phải ăn năn, xám hối, chuộc
lỗi với Chúa, cầu mong Chúa cứu rỗi, ban ơn,...Sự nghiệp trần thế của con chiên là phụng dưỡng ý đồ cứu
độ của Thiên Chúa để khi chết không bị đầy xuống tuyền đài mà được trở về với Thiên đường sống hạnh
phúc bên Thiên Chúa vô vàn tôn kính.
_ Lý tưởng của Kinh Thánh sớm ăn nhập vào tâm tri của một bộ phận không nhỏ dân chúng có cuộc sống
khổ đau, bần hàn. Nó đã được dân tộc việt Nam tiếp biến, cải biên phần nào cho phù hợp với truyền thống
văn hoá dân tộc. Từ đây, văn hoá Việt Nam được bổ một nội dung văn hoá tôn giáo mới, tăng thêm phân đa
dạng và sâu sắc.
Nửa sau thế kỷ XIX, văn hoá Việt Nam đặt dưới sự thống trị của thực dân. Dưới sự chèo lái của triều đình
nhà Nguyễn,"dân tộc Việt Nam đã đánh mất hành động độc lập trong lịch sử”, làm cho con thuyền văn hoá
dân tộc chỉu nặng ý đồ chính trị thực dân Phương tây. Lúc này, văn hoá Việt Nam mang hai nội dung chủ
yếu là: “Tiếp xúc và giao thoa văn hóa Việt Pháp; và giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông
tây”.
_ Đặc biệt lĩnh vực văn hoá vật chất được thực dân Pháp phát triển ồ ạt trên lãnh thổ Việt Nam, làm phai
nhạt tính đậm đà, bản sắc của văn hoá dân tộc và thay vào đó bằng văn hoá ngoại lai, xa lạ với cư dân nông
nghiệp lúa nước.
Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                               3
GV Trần Quang Khánh                                                                                       4
Vì vậy, trước khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1943 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xây dựng bản Đề
cương văn hoá, vạch ra tình trạng "Văn hoá Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền
tư bản. Chiến tranh và xu trào văn hoá hiện nay: Ảnh hưởng của văn hoá Phát xít làm cho tính chất phong
kiến, nô dịch trong văn hoá Việt Nam mạnh lên, những đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hoá tân dân chủ,
xu trào văn hoá mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nẩy nở". Xuất phát từ thực trạng văn hoá
này, đảng ta đã đề ra nhiệm vu xây dựng nền văn hoá mang nội dung: Dân tộc, Khoa học và Đại chúng.
Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một mốc son
vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bức vào kỷ nguyên của độc lập, tự chủ, xây dựng nền văn hoá mới
xã hội chủ nghĩa. Từ đây, những nội dung của bản Đề cương văn hoá dân dần được bổ sung, phát triển theo
tỉnh hình cách mạng của dân tộc.
_ Sau năm 1955, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền: Miền bắc xây dựng, phát triển kinh tế-chính trị, văn
hoá-xã hội xã hội chủ nghĩa; Miền nam còn chịu ách thống trị của thực dân-đế quốc Mỹ, do đó văn hoá
Miền nam bị ảnh hưởng nhiều bởi lối sống của văn hoá Phương tây.
Năm 1975, Miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập, giang sơn thu về một mối, văn hoá Việt Nam
thống nhất phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
_ Trải qua một thời kỳ văn hoá bao cấp, năm 1986 Đẳng ta đổi mới tư duy phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống mới. Từ đây, cùng với các lĩnh vực khác, văn hoá
được Đảng ta trú trọng quan tâm bằng những quyết sách cụ thể.
_ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
chỉ rõ: "Công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt động văn hoá, văn
nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác
ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của
các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi".
_ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
vạch ra nhiệm vụ của cách mạng văn hoá Việt Nam là: "Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá
Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại. Vận động toàn dân thực hiện lối sống cần, kiệm, văn minh, lịch sự. Phổ biến rộng rãi trong nhân dân
những kiến thức văn hoá cần thiết cho sản xuất và đời sống. Thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ nhân
phẩm phụ nữ. Phát động phong trào quần chúng bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác".
_ Đại Hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo, các hoạt động văn hoá, văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú
đời sống tinh thần con người Việt Nam. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được
thấm đậm không chỉ trong công tác văn hoá-văn nghệ, mà cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật
chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta
có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam". Do đó, "Mọi hoạt động văn
hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh
cho sự phát triển xã hội". Đồng thời, "kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di
sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc".
Tiếp tục đường hướng nói trên, năm 1998 Đảng ta tổ chức Hội Nghị TW V, chuyên bàn về vấn đề văn hoá.
Xác định xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn phát triển mới.
_ Nền văn hoá tiên tiến không có nghĩa là xoá bỏ truyền thống mà nó là nền văn hoá mang những đặc trưng
cụ thể như: Yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-lênin,
tư tưởng Hồ Chí minh; nhân văn; phong phú cả về nội dung và hình thức.
_ Tính chất tiên tiến phải đảm bảo được nội dung nhân văn, nhân đạo sâu sắc, nhưng đồng thời phải thể hiện
sự đa dạng và phong phú về hình thức.
Tính chất đậm đà của nền văn hoá dân tộc đảm bảo giữ gìn và phát huy những giá trị mang bản sắc dân tộc
như lòng yêu nước, tinh thần nhân ái, sự bao dung, độ lượng, quý trọng nghĩa tình, đạo lý, dũng cảm và đặc
biệt giữ gìn tinh thần đoàn kết dân tộc.
Để xây dựng nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà, Hội Nghị TW V đã xác định:
-Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã
hộ;
-Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
-Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam;

Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                4
GV Trần Quang Khánh                                                                                       5
-Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ
vai trò quan trọng;
-Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải
có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
_ Nhìn lại 20 năm đất nước đổi mới, văn hoá Việt Nam đang "thăng hoa", tiến bước cùng sự phát triển của
lịch sử dân tộc.
Bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển về giáo dục,...văn hoá nghệ thuật đã gặt
hái được nhiều thành tựu góp phần đưa đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lên một tầm cao mới.
_ Tuy nhiên, thì đại ngày này được xem là thời đại vũ bảo, guồng máy phát triển của thế giới được bôi trơn
bởi nền tri thức vượt bậc của nhân loại. Xu hướng toàn cầu hoá đã cuốn hút tất cả các nền văn hoá dân tộc
trên thế giới vào quỷ đạo chúng. Chính quá trình này đã diễn ra sự "đụng độ" giữa các nền văn minh, và văn
hoá của các dân tộc có cơ hội được "cọ sát".
_ Toàn cầu hoá là cơ hội để Việt Nam tham gia vào sân "chơi trí tuệ" của thế giới, từ đó học hỏi, thu nhận
có chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại. Nhưng toàn cầu hoá cũng là một thách thức không nhỏ, bởi vì
nếu không vững lập trường sẽ rất dễ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, phải xác định: "Hoà nhập
nhưng không hoà tan". Văn hoá là tấm thẻ căn cước để tham gia vào quá trình hội nhập, nhưng bằng mọi giá
phải giữ cho được tấm thẻ đó, nếu mất nó là đánh mất quyền lợi trong "cuộc chơi" và cũng đồng nghĩa với
việc đánh mất mình.
_ Tóm lại, văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần của con người được hình thành sau lịch sử đấu tranh
mạnh mẽ với thiên nhiên, với xã hội. Mỗi một dân tộc đều có lịch sử văn hoá của riêng mình biểu hiện tính
cách, bản sắc độc đáo không lặp lại hay đồng nhất với bất kỳ văn hoá của dân tộc nào trên thế giới. Vì vậy,
"giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá" không chỉ là sự lựa chọn mà còn là nhiệm vụ, là mục tiêu của cả dân
tộc Việt nam trong thời đại mới.

                              *KHAÙI QUAÙT NEÀN VAÊN HOAÙ VIEÄT NAM

_ Văn hóa Việt Nam, hay nói riêng là văn hóa của dân tộc Kinh mà đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt
Nam, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ở trong khu vực Thái Bình Dương. Mặc dù như vậy,
nhưng qua ảnh hưởng lớn của Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều đặc điểm gần giống với
những dân tộc của miền Đông Á, và khác những nước ở khu Thái Bình Dương (như là Campuchia, Lào và
Thái Lan) mà đã chịu một phần lớn ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
_ Nhưng tuy là ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất của một nước ngoài trên nền văn hóa
cổ truyền Việt Nam, dân tộc Kinh đã vẫn giữ gìn được rất nhiều nét văn hóa riêng của mình, mà cho tới
ngày hôm nay những phong tục riêng đó vẫn quan trọng vô cùng trong đời sống của người Việt.
_ Có nhiều nhà viết sử cho rằng là trước khi ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, Văn hóa Đông Sơn có gốc
ở miền bắc Việt Nam (mà cũng đã phát triển mạnh ở những nước khác ở khu Thái Bình Dương) là phần đầu
của lịch sử Việt Nam.
_Có thể nói chung văn hóa của Việt Nam là một pha trộn đặc biệt giữa nhiều những văn hóa cổ xưa cùng
với văn hóa bản xứ của người Việt, ngoài ảnh hưởng lớn nhất của Trung Hoa cũng có ảnh hưởng rất nhỏ
hơn của văn hóa Ấn Độ, Chàm, và sau này ảnh hưởng lớn của văn hóa phương tây (Pháp, Nga, Mỹ).
Đất nước
_ Văn hóa Việt Nam đặc biệt là văn hóa miền Bắc rất đa dạng. Nó được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử.
Các phong tục như tục nhuộm răng, ăn trầu, các lễ hội như: lễ hội Chùa Hương, giỗ tổ Hùng Vương, hội
Lim, hội xuống đồng của người Tày. Ở cá dân tộc miền núi có ngày hội tình yêu, đến mỗi dịp Xuân về
những dôi trai gái tập trung lại họ chơi các trò chơi như ném Còn,hát Đối...
_ Dân số Việt Nam năm 2003 là 83.666.356, mật độ dân số 987 người trên km vuông (665 dặm vuông). Đa
số dân cư sống trong hoặc gần khu vực các châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long đông đúc.
Tổ chức cộng đồng
_ Cộng đồng người Việt được tổ chức theo các đơn vị cơ bản là làng. Làng là một tổ chức khá khép kín.
Làng thường có đình làng là nơi thờ cúng các vị thành hoàng và hội họp dân làng, nơi tổ chức các lễ hội
quan trọng. Làng được bao bọc bởi lũy tre làng và có cổng làng, trong làng còn có cây đa, có thể có chùa.
Những người đứng đầu làng được mọi người tôn kính, thường là những người già cả, người có tiền. Làng

Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                 5
GV Trần Quang Khánh                                                                                   6
thường có những luật tục. Làng biểu hiện tất cả những nét tốt đẹp cũng như không hay của văn hóa Việt
Nam thời phong kiến.
_ Đơn vị xã hội nhỏ hơn làng là các gia đình. Khác với người phương Tây, gia đình ở Việt Nam được hiểu
là một gia đình lớn, gồm có nhiều thế hệ có quan hệ máu mủ ruột thịt cùng chung sống. Gia đình được tổ
chức theo thứ bậc chặt chẽ, người dưới phải có hiếu và kính trọng người trên, người trên có nghĩa vụ phải
chăm lo dạy dỗ con cháu nên người.
Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
_ Vì nền tảng văn hóa là nông nghiệp nên người Việt có quan niệm ứng xử hài hòa với thiên nhiên. Kinh
thành Huế được xây dựng theo quan niệm hòa hợp với cảnh quan xung quanh.
_ Người Việt có hiểu biết lớn về thiên nhiên, đặc biệt là về điều kiện tự nhiên thích hợp cho nông nghiệp.
Người Việt có nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với thiên nhiên để phát triển nông nghiệp, điển hình
là".
_ Trong bất cứ một môi trường nào, con người đều chịu ảnh hưởng, chi phối bởi điều kiện tự nhiên, môi
trường sống và điều kiện sinh hoạt Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó, con người không thể chống lại nó, cải tạo
nó một cách thuần thuc mà phải thích nghi vớ môi trường sống để điều hòa nhịp sống của mình Với môi
trường tự nhiên đắp đê phòng lũ lụt được phản ánh rõ nét trong truyện cổ tích "Sơn Tinh, Thủy Tinh, không
chỉ con người Việt Nam, mà hầu như tất cả các cộng đồng dân tộc quốc gia trên thế giới đều phải tìm hiểu,
lựa chọn thích nghi để tồn tại. Và quá trình đó đã nảy sinh những yếu tó văn hóa mà ta gọi là " văn hoá ứng
xử với môi trường tự nhiên". Và những yếu tố văn hóa đó đã thể hiện rất rõ trong sinh hoạt của con người.
_ Đó là việc con người đã sử dụng những sản phẩm của tự nhiên như: tre nứa, gỗ lạt, mây tre măng trúc để
làm nhà, thức ăn, thức uống khai thác ở sông suối, đánh bắt ở biển để chế biến thức ăn trong bữa ăn. Đặc
biệt, có những sản vật nổi tiếng được chế biến từ cá, tôm, canh cua.... Trong kiến trúc nhà cửa: con người đã
biết nhắm hướng nhà, hướng đất, tránh hướng gió độc, đón lấy hướng mắt trời, hay xây dựng nhà cửa gần
sông suối để tiện nước sinh hoạt, trồng trọt
_ Một điểm đăc biệt trong kiến trúc nhà cửa, là các kiến trúc đều thuận theo thuật phong thủy. Đó là sự hài
hòa giữa thế đất, thế núi, nguồn nước...Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc kinh thành như thành Thăng
Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế...hay trong thuyết tam tài của người dân là : "thiên - địa - nhân"
_ Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của con người còn được thể hiện trong cách ăn mặc của người
dân. Đó là cách ứng xử mùa nào thức nấy, mùa hè mặc chất liệu vải mát, mùa đông màu áo chất liệu vải giữ
nhiệt...
_ Hay trong kinh nghiệm sản xuất, trị thủy. Dự báo thời tiết, mùa nào thì nên trồng cây nào cho thích hợp ...
Tuy nhiên, hiện nay, do môi trường cơ chế thị trường, con người đã xâm hại tự nhiên quá lớn, để rồi tự nhận
lãnh hậu quả là những trận lũ lụt khủng khiếp, động đất, sóng thần... Vì thế, để được thiên nhiên giúp đỡ,
mọi người hãy tự nhận thức sự cần thiết của môi trường tự nhiên, hãy bảo vệ và xây dựng để môi trtường
ngày càng tốt đẹp hơn
Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
_ Người Việt Nam ngay từ nhỏ đã được dạy dỗ theo các chuẩn mực đạo đức của dân tộc và của đạo Khổng,
trong đó chú trọng việc tu thân dưỡng tính, lấy chữ Nhân làm trọng, kính trên nhường dưới, luôn rèn luyện
để có thể cống hiến thật nhiều cho đất nước và chăm lo cho gia đình. Đến thời hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nâng các quan điểm đạo đức xa xưa lên một tầm cao mới, với các lời căn dặn như: "Trung với
nước, hiếu với dân" (ngày xưa là "Trung quân ái quốc").
_ Người Việt Nam có tinh thần "tôn sư trọng đạo". Người Việt xem cha mẹ có công sinh thành ra mình, còn
thầy cô có công dưỡng dục mình nên người: "Mùng một Tết cha, mùng hai Tết chú, mồng ba Tết thầy".
Những nghề nghiệp được tôn phong bằng chữ "sư" (thầy) là những nghề nghiệp được người Việt tôn kính:
võ sư, thầy thuốc...Việt Nam có Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11.
_ Việt Nam thời phong kiến "trọng nam khinh nữ", điều này gây nhiều bất hạnh cho người phụ nữ. Phụ nữ
phải thực hiện "tam tòng tứ đức". Sau khi lập nước năm 1945, Chính phủ công nhận chính thức quyền bình
đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh viết tặng chị em phụ nữ 8 chữ vàng "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang".và câu danh ngôn "trên bước đường thành công không có dấu chân kẻ lười biếng"



Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                 6
GV Trần Quang Khánh                                                                                       7
Xã hội
   •   Nông nghiệp
Khoảng 74% người Việt Nam hiện sống tại các vùng nông nghiệp, và mặc dầu nhiều vùng đang bị ảnh
hưởng bởi quá trình đô thị hóa và toàn cầu hoá, các phong tục nông nghiệp và các truyền thống hiện vẫn
đóng một vai trò mạnh mẽ trong việc hình thành văn hóa Việt Nam. Trên tổng số dân 83.535.576 sẽ có
66.828.460 người sống ở các vùng nông thôn và 16.707.115 người sống ở các vùng đô thị. Trong tương lai
không xa nữa, với tốc độ đô thị hóa và hoàn cảnh đất nước hội nhập WTO thì các đô thị mới sẽ mọc lên,
vùng nông thôn được thu hẹp lại, kéo theo là đời sống nhân dân tăng cao.
   •   Tổ chức
Nói về các thuật ngữ phản ánh các mức độ tổ chức xã hội, hai đơn vị quan trọng nhất là làng và nước.
Người Việt thường nói rằng làng liên quan chặt chẽ với nước. Các đơn vị tổ chức trung gian như huyện và
tỉnh có nhiều tầm quan trọng thấp hơn.
   •   Quan hệ dòng tộc:
_ Ở nước Việt Nam nông nghiệp, quan hệ dòng tộc đóng một vai trò quan trọng. Nếu có thể nói rằng các
nền văn hóa Phương Tây coi trọng chủ nghĩa cá nhân, thì cũng có thể nói rằng các nền văn hóa Phương
Đông coi trọng những vai trò gia đình và dòng họ. So sánh với văn hóa Phương Tây, văn hóa Trung Quốc
đề cao gia đình hơn dòng họ trong khi văn hóa Việt Nam đề cao dòng họ hơn gia đình. Mỗi dòng họ có một
trưởng họ, nhà thờ họ và những ngày giỗ họ.
_ Đa số dân cư có liên hệ với nhau về huyết thống. Sự thực này hiện vẫn còn có thể bắt gặp trong những tên
làng ví dụ Đặng Xá (làng của người họ Đặng), Châu Xá, Lê Xá,... vân vân. Ở Tây Nguyên truyền thống
nhiều gia đình thuộc một họ ở chung với nhau trong những ngôi nhà dài hiện vẫn phổ biến. Ở đa số các
vùng nông nghiệp hiện nay ở Việt Nam vẫn còn thấy ba tới bốn thế hệ sống dưới cùng mái nhà.
_ Bởi vì quan hệ dòng tộc đóng vai trò quan trọng trong xã hội nên có một hệ thống quan hệ thứ bậc rất
phức tạp. Trong xã hội Việt Nam, có chín kiểu quan hệ họ hàng gần xa riêng biệt (cửu tộc).
_ Hầu như mọi ngày giỗ và các ngày lễ bên trong một họ đều tuân thủ các nguyên tắc thế hệ. Những người
trẻ tuổi có thể có vị trí cao hơn theo cấp bậc triều đình so với người lớn tuổi nhưng vẫn phải tôn trọng người
lớn tuổi kia.
Ẩm thực
_ Ẩm thực Việt Nam dựa chủ yếu trên gạo, tương và nước mắm. Mùi vị đặc trưng của nó là ngọt, cay, và rất
nhiều loại rau thơm khác.
Món ăn cơ bản trên mâm cơm hằng ngày là: canh, mặn và món xào.
_ Việt Nam cũng có nhiều kiểu mì. Các vùng khác nhau sáng tạo ra các kiểu mì khác nhau, về hình dạng,
mùi vị, màu sắc vân vân. Một trong những món mì nổi tiếng nhất là Phở, gồm các sợi bánh phở và nước
dùng, thịt bò, thịt gà. Món này có nguồn gốc từ miền bắc Việt Nam.
_ Miền trung Việt Nam cũng nổi tiếng với nhiều món ẩm thực ngon miệng và có những hương vị rất riêng.
Trang phục
_ Trang phục Việt Nam rất đa dạng. Ở thời phong kiến, có những quy định khắt khe về cách ăn mặc. Dân
thường không được phép mặc đồ nhuộm bất kỳ màu gì ngoài đen, nâu hay trắng. Quần áo của người dân
hầu hết rất là tầm thường và đơn sơ, đễ hợp với số phận trong xã hội (ngoài những dịp lể quan trọng hoạc
đắm cưới vân vân). Một trong những y phục cổ xưa nhất mà đã được phụ nữ bình dân mặc từ xưa đến đầu
thế kỷ 20 là bộ Áo tứ thân. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là Áo tứ thân có thể đã ra đời từ thế kỷ 12.
_ Vào thế kỷ 18, người bình dân ở hết 3 vùng chính Việt Nam đã bắt đầu mặc bộ đồ pijama đơn sơ (có thể
có nguồn gốc ở miền nam), được gọi là áo cánh ở miền bắc và Áo bà ba ở miền nam. Khăn trùm đầu của họ
là một mảnh vải đơn giản quấn quanh đầu và đồ đi dưới chân chỉ là một đôi guốc. Những dịp trọng đại đàn
ông mặc hai thứ đồ truyền thống là áo dài có xẻ hai bên, và một khăn xếp, thường màu đen hay xám và
được làm bằng vải bông hay tơ tằm.
_ Trang phục của cung đình, khác biệt hẳn từ trang phục đơn sơ của nông dân, rất rắc rối và gồm cố tới bao
chục kiểu áo khác nhau đễ hộp với mổi hoàn cảnh và nghi lễ. Chỉ riêng nhà vua được quyền mặc đồ màu
vàng, quan lại mặc đồ đỏ hay màu tía. Còn làm rắc rối hơn là mổi triều đại có thể thích thú hoạc coi khinh
Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                   7
GV Trần Quang Khánh                                                                                        8
kiểu áo hòang gia của triều đại trước, hèn chi thời trang ở trong cung đình nhiều lúc thay đổi với mổi triều
đại.
_ Trang phục truyền thống Việt Nam mà được quí nhất ngày nay là chiếc "Áo Dài", thường được mặc trong
những dịp đặc biệt như cưới hỏi,tang tế v.v... Trang phục này có thể là đã có nguồn gốc từ thế kỷ 18 hoạc ở
trong cung đình Huế. Từ lúc đó, Áo dài đã trải qua bao nhiêu sự phát triển, từ bộ áo ngũ thân rất rộng và
không bó vào người như Áo dài hiện nay, cho tới bao nhiêu cải tiến khác nhau để hợp với những thay đổi
trong thế giới thời trang. Cũng có người cho rằng Áo tứ thân mới là Áo dài đầu tiên, đã được biến thành Áo
ngũ thân và cuối cùng mới thành chiếc Áo dài mình có hôm nay.
_ Áo dài trắng đã trở thành bắt buộc tại nhiều trường cấp ba Việt Nam. Các giáo viên nữ mặc Áo Dài mọi
buổi lên lớp. Một số nữ nhân viên văn phòng như tiếp tân, thư ký, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc Áo dài
khi làm việc. Và theo đánh gia của một tờ báo của Nhật thi dường như chỉ có dáng của người con gái Việt
Nam là mặc áo dài đẹp nhất _ Vì sự phổ biến của nó, áo dài đã trở thành biểu tượng quốc gia, đại diện cho
các giá trị văn hóa Việt Nam.
_ Trong đời sống hàng ngày, kiểu ăn mặc truyền thống viên nay hiện đã theo phong cách phương tây. Trang
phục truyền thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt. Phụ nữ có thể không mặc váy và cả hai giới hiếm
khi mặc các loại quần sóc.
Tôn giáo
_ Tôn giáo chủ yếu ở Việt Nam là Tam Giáo đặc trưng bởi sự phức tạp pha trộn tôn giáo ở vùng Đông Á
giữa Phật giáo đại thừa, Khổng giáo, và Đạo giáo là các tôn giáo ngoại nhập. Ngoài các tôn giáo trên, còn có
hai tôn giáo Cao Đài và Hoà Hảo- là các tôn giáo nội sinh. Các cộng đồng thiểu số Thiên chúa giáo chiếm
khoảng 8% và đa số theo Thiên chúa giáo La Mã, nhưng có một thiểu số nhỏ gồm những nhóm Tin Lành
mới về sau này. Những nhà thờ Tin lành lớn nhất là Nhà thờ phúc âm Việt Nam và Nhà thờ phúc âm Degar.
_ Một tập hợp lẫn lộn dòng Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Bashi đã bản địa hóa cũng được thi hành tín ngưỡng
phần lớn bên trong dân tộc thiểu số Chàm, nhưng cũng có một số người thiểu số Việt Nam theo Đạo Hồi ở
phía tây nam
Văn hóa vùng lãnh thổ
_ Văn hóa vùng thuộc dạng thức văn hóa lãnh thổ, mang tính chất liên văn hóa. Văn hóa vùng (hay văn hoá
địa phương) là một thực thể văn hóa, hình thành và tồn tại trong một không gian lãnh thổ nhất định, thể hiện
qua một tập hợp các đặc trưng văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại vận chuyển; về
cách tổ chức xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong tục và lễ hội; về các sinh hoạt
văn hóa nghệ thuật; về vui chơi giải trí; về các sắc thái tâm lí của cư dân..., từ đó có thể phân biệt với các
đặc trưng văn hóa của vùng khác. Những đặc trưng văn hóa đó hình thành và định hình trong quá trình lịch
sử lâu dài, do cư dân các dân tộc trong vùng thích ứng với cùng một điều kiện môi trường, có sự tương đồng
về trình độ phát triển xã hội, đặc biệt là giữa họ có mối quan hệ giao lưu văn hóa mật thiết. Trên cơ sở
những quan niệm lí thuyết nêu trên, Giáo sư Ngô Đức Thịnh đã tiến hành phân vùng văn hóa ở Việt Nam
thành 7 vùng văn hóa lớn, trong mỗi vùng như vậy lại có thể phân chia thành các tiểu vùng văn hóa nhỏ
hơn, khoảng 23 tiểu vùng.


                               *VAÊN HOAÙ GOÁC NOÂNG NGHIEÄP
1. Caùc ñaëc tröng cuûa vaên hoùa goác noâng nghieäp theå hieän trong quan heä giao tieáp cuûa ngöôøi Vieät

    _Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp. Người Trung Quốc viết chữ “nhân” với nghĩa là “tính
người” 仁bằng cách ghép chữ “nhị” với bộ “nhân đứng” tính người bộïc lộ trong quan hệ giữa hai người.
Nhà triết học người Đức L. Pheurbach từng viết: “Con người cá thể không chứa bản chất con người trong
mình… Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong thể thống nhất giữa con người với con người.
Con người để cho mình chỉ là con người theo nghĩa thông thường; còn con người trong giao tiếp với đồng
loại, trong sự thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế” (dẫn theo Kagan [1988: 24]).

    1.1. Trước hết, xét về THÁI ĐỘ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm
của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè.
Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                        8
GV Trần Quang Khánh                                                                                   9
    _ Như đã nói, người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các
mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến người
Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra mối quan hệ: Dao năng liếc năng sắc, người
năng chào năng quen (tục ngữ). Sự giao tiếp củng cố tình thân: Áo năng may năng mới, người năng tới
năng thân (tục ngữ). Năng lực giao tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá con
người, ca dao có câu:
                                    - Vàng thì thử lửa, thử than,
                             Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.
                                   - Một thương tóc bỏ đuôi gà,
                              Hai thương ăn nói mặn mà có duyên…

    Vì coi trọng giao tiếp cho nên người Việt Nam rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ
yếu ở hai điểm:

     _ Từ góc độ của mình, chủ thể giao tiếp, thì người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Phàm đã là
người Việt Nam, đã thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau ở đâu, bao nhiêu lần đi nữa, những lúc
rảnh rỗi, họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng nhau đây không còn là nhu cầu công việc mà là biểu hiện của
tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ. Đối với phương Tây, người ta chỉ đi thăm viếng
những người mà bình thường mình ít có điều kiện gặp gỡ.

     _ Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ,
thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu, cũng cố gắng tiếp đón một cách chu đáo và tiếp đãi một cách
thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, các đồ ăn ngon nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi
lẽ Đói năm, không ai đói bữa. GS. Phan Ngọc [1996: 38] nhận xét: “Bạn đi công tác, đến đâu có dân là ở
đấy có sự che chở. Người ta nhường cho bạn nơi nào? Gian thờ. Gian nhà được xem là trang trọng nhất. Mà
bạn nào giúp đỡ gì cho họ đâu, nào có bà con gì với họ đâu? Họ nghèo thì chịu nghèo, đói thì chịu đói chứ
không để cho bạn đói. Tôi có gặp một anh bạn người Đức. Anh ta không sao hiểu được chuyện này. Nếu là
ở Đức, vào nhà người ta là rất khó, ngủ lại càng khó, đừng nói ngủ ở nơi trang trọng nhất”. Tính hiếu khách
này càng tăng lên khi ta về những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi. “Người đàn bà – A.
Pazzi [1970: 47] nhận xét – dầu có nhan sắc đến đâu, tài giỏi đến đâu cũng bị người Việt Nam coi là người
vợ xấu nết nếu làm mất lòng khách đến thăm nhà, tỏ ra thái độ không mấy lịch thiệp, hoặc là ích kỷ, khó
tính đối với bà con, bạn hữu”.

     _ Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có một đặc tính gần như ngược lại là rụt rè –
điều mà những người quan sát nước ngoài hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách dường như
trái ngược nhau (tính thích giao tiếp và tính rụt rè) này chính là bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã
Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị:

     _ Đúng là người Việt Nam xởi lởi, rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi thấy mình đang ở trong phạm vi
của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng (liên kết) ngự trị. Còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng
đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, bao giờ cũng tỏ
ra rất rụt rè. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau ấy lại không hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ
trong những môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất. Là biểu hiện cho cách
ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.

    1.2. Xét về QUAN HỆ GIAO TIẾP, nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn
người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm – lấy sự yêu sự ghét – làm nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp: Yêu
nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo… (tục ngữ), và:
Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                          9
GV Trần Quang Khánh                                                                                   10
                                   - Yêu nhau yêu cả đường đi,
                                Ghét nhau, ghét cả tông ty họ hàng.
                                     - Yêu nhau cau sáu bổ ba,
                                 Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
                                  - Yêu nhau mọi việc chẳng nề,
                                Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
                                             (ca dao)

     _ Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm nguyên lý chủ đạo nhưng vẫn thiên
về âm tính hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi
cần cân nhắc giữa tình với lý thì tình được đặt cao hơn lý: Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình (tục
ngữ); Đưa nhau đến trước cửa quan, Bên ngoài là lý, bên trong là tình (ca dao)… Vẫn biết rằng tiền của là
quý, là quan trọng (Có tiền mua Tiên cũng được - tục ngữ), nhưng người Việt Nam còn biết rõ hơn rằng: Có
tình có nghĩa hơn cả của tiền (tục ngữ); Của tiền có có không không, Có tình có nghĩa còn mong hơn tiền
(ca dao).

     _ Người Việt Nam luôn nhắc nhở nhau coi trọng tình cảm hơn mọi thứ ở đời. Trong gia đình thì Vợ
chồng là nghĩa ở đời, Ai ơi chớ nói những lời thiệt hơn (ca dao). Ngoài xã hội, ai giúp mình một chút gì đều
phải nhớ ơn; ai bảo ban mình một tý gì cũng đều tôn làm thầy: Ở Việt Nam, khái niệm “thầy” được mở ra
rất rộng – thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói, thầy địa lý, thầy phù thủy, thầy cãi, thầy rắn
(người giỏi về các loại rắn, chữa rắn cắn ở Nam bộ), v.v. và v.v.

     1.3. Với ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP, người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh
giá… Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có
vợ/chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Thói
quen ưa tìm hiểu này (hoàn toàn trái ngược với người phương Tây!) khiến cho người nước ngoài có nhận
xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này – dù gọi bằng tên gì đi chăng nữa – chẳng qua cũng chỉ là
một sản phẩm nữa của tính cộng đồng làng xã mà ra.

     _ Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn
quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do phân biệt chi ly các quan hệ xã hội, mỗi cặp giao tiếp đều
có những cách xưng hô riêng, mà muốn chọn được từ xưng hô cho thích hợp thì cần phải có đủ các thông
tin cần thiết về cá nhân người đối thoại.

   _ Tính hay quan sát khiến người Việt Nam có được một kho kinh nghiệm xem tướng hết sức phong phú:
chỉ cần nhìn vào cái mặt, cái mũi, con mắt… là đã biết được tính cách con người. Chẳng hạn, riêng về xem
người qua con mắt đã có các kinh nghiệm như:
                         - Trên trời Phạm Nhan, thế gian một mắt (tục ngữ)
                                       - Đàn bà con mắt lá dăm,
                               Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
                                     - Người khôn con mắt đen sì,
                                Người dại con mắt nửa chì nửa thau.
                                     - Con lợn mắt trắng thì nuôi,
                             Những người mắt trắng đánh hoài đuổi đi.
                                    - Những người ti hí mắt lươn,
                            Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người…
                                               (ca dao).


Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                               10
GV Trần Quang Khánh                                                                                   11
    _ Biết tính cách, biết người để lựa chọn chọn đối tượng giao tiếp thích hợp: Tùy mặt gởi lời, tùy người
gởi của; Chọn mặt gởi vàng (tục ngữ). Trong trường hợp không được quyền lựa chọn thì người Việt Nam
sử dụng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặt áo cà sa, đi
với ma mặt áo giấy (tục ngữ).

     1.4. Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới góc độ CHỦ THỂ GIAO TIẾP, có đặc
điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết
để tiếng (tục ngữ). Như đã nói, danh dự được người Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp: Lời nói ra để lại
dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng. Không phải ngẫu nhiên
mà từ “tiếng” trong tiếng Việt, từ nghĩa ban đầu là “ngôn ngữ” (ví dụ: tiếng Việt), đã được mở rộng ra để chỉ
sản phẩm của ngôn ngữ (ví dụ: Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa), và cuối cùng, chỉ cái thành quả mà tác
động của lời nói đã gây nên đó là “danh dự, uy tín” (ví dụ: nổi tiếng).

    Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện

                                        - Ở đời muôn sự của chung,

                                   Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.

                                     - Đem chuông đi đấm nước người,

                                   Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.
                                                          (ca dao)

                          - Một quan tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng.
                                                          (tục ngữ)

     _ Ở làng quê, thói sĩ diện thể hiện trầm trọng ở tục lệ ngôi thứ nơi đình trung là tục chia phần. Các cụ
già bảy tám mươi, tuy ăn không ăn được, nhưng vì danh dự (sĩ diện), vẫn có thể to tiếng với nhau vì miếng
ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Thói sĩ diện này đã được Lưu Quang Vũ lấy làm đề tài
riêng cho một vở kịch là Bệnh sĩ: “Người Việt Nam coi trọng cái tiếng hơn bất cứ thứ gì trên đời” đó là lời
một nhân vật trong vở kịch. Thói sĩ diện đã tạo nên giai thoại “cá gỗ” nổi tiếng về ông đồ xứ nghệ che dấu
cái nghèo của mình bằng cách làm những con cá bằng gỗ để bày ra mỗi bữa ăn. Thói sĩ diện buộc người ta
phải sống và hành động khác mình, nhiều khi giả dối với chính mình.

      _ Lối sống trọng danh dự, trọng sĩ diện dẫn đến cơ chế tin đồn, tạo nên dư luận như một vũ khí lợi hại
bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã. Người Việt Nam sợ dư luận tới mức nhà văn Lê
Lựu đã viết trong tiểu thuyết Thời xa vắng: “Người ta chỉ dám lựa theo dư luận mà sống chứ ai dám dẫm lên
dư luận mà đi theo ý mình”. “Ở đời này người ta chỉ sẵn sàng chết đói, chết rét, chết bom, chết đạn để che
chở, nuôi nấng cho con mình tai qua nạn khỏi, con mình được sung sướng, được vinh hoa chứ không ai chịu
tai tiếng, chịu sỉ nhục để con mình được tự do theo ý nó”.

    1.5. Về CÁCH THỨC GIAO TIẾP, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận.

     _ Lối giao tiếp tế nhị, ý tứ khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo tam quốc”, không bao
giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao
tiếp là phải vấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để tạo không khí, để đưa đẩy, người Việt

Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                11
GV Trần Quang Khánh                                                                             12
Nam trước đây có truyền thống “miếng trầu làm đầu câu chuyện”. Với thời gian, trong chức năng “mở đầu
câu chuyện” này, “miếng trầu” từng được thay thế bằng chén trà, điếu thuốc lá, ly bia…

   _ Để biết người đối thoại với mình còn cha mẹ hay không, người Việt Nam thường hỏi: Các cụ nhà ta
vẫn mạnh giỏi cả chứ? Để biết người phụ nữ đang nói chuyện với mình có chồng hay không, người Việt
Nam ý tứ sẽ hỏi: Chị về muộn thế liệu anh nhà (hay ông xã) có phàn nàn không? Còn đây là lời tỏ tình rất
vòng vo của người con trai Nam Bộ (nơi mà người Việt có tiếng là bộc trực hơn cả) qua một bài ca dao:

                                          Chiếc thuyền giăng câu,

                                             Đậu ngang cồn cát,

                                              Đậu sát mé nhà,

                                        Anh biết em có một mẹ già,

                                Muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không?

    _ Lối giao tiếp “vòng vo tam quốc” kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp tạo ra ở người
Việt Nam thói quen chào hỏi “chào” đi liền với “hỏi”: “Bác đi đâu đấy?”, “Cụ đang làm gì đấy?”… Ban
đầu, hỏi là để có thông tin, dần dần trở thành một thói quen, người ta hỏi mà không cần nghe trả lời và hoàn
toàn hài lòng với những câu “trả lời” kiểu: “Tôi đi đằng này một cái” hoặc trả lời bằng cách hỏi lại, chẳng
hạn, với câu hỏi: Cụ đang làm gì đấy?, có thể trả lời: Vâng, bác đi đâu đấy?

     _ Lối giao tiếp ưa tế nhị ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối quan
hệ (tư duy tổng hợp, biện chứng). Nó tạo nên một thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói năng:
                - Ăn có nhai, nói có nghĩ.
                - Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói.
                - Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.
                - Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì sống…
                                                          (tục ngữ)

                                       - Lời nói không mất tiền mua,

                                    Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

                                    - Trăm người bán, vạn người mua,

                                    Lựa lời mà trả cho vừa lòng nhau.

                                        - Ở sao cho vừa lòng người,

                                   Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.

                                      - Người khôn ăn nói nửa chừng,

                                     Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo…

Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                               12
GV Trần Quang Khánh                                                                                     13
                                                           (ca dao)

     _ Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để
tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người
Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người
ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. “Suy từ nụ cười, chúng ta thấy người Việt
Nam có một sự quân bình đặc biệt suốt trong mọi ngành sinh hoạt khiến họ chấp nhận hợp lý được mọi
quan niệm, dung hòa đuợc mọi ý kiến dị đồng. Đời sống của dân tộc họ dù có chiến thắng vẫn không có
những hân hoan tột độ, và dù chiến bại vẫn không có những bi đát tột cùng” [Pazzi 1970: 12-13].

    _ Tâm lý trọng sự hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn nhau: Một sự nhịn là
chín sự lành (tục ngữ); Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê (ca dao)…

    1.6. Người Việt Nam có một hệ thống NGHI THỨC LỜI NÓI rất phong phú.

     _ Trước hết, đó là sự phong phú trong HỆ THỐNG XƯNG HÔ tiếng Việt: Trong khi các ngôn ngữ khác
chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt, ngoài các đại từ nhân xưng (mà số lượng cũng rất phong
phú do có nhiều biến thể), còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng (anh, chị - em;
ông, bà, bác, cô, gì, chú - cháu, con…) và một số danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (thầy, cô, bác sĩ, ông
cai, ông lý, ông huyện, ông đội…) để thay thế cho đại từ, chúng trở thành các từ đại từ hóa, những từ đại từ
hóa này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng.

Trong tiếng Việt có tổng cộng trên 60 từ xưng hô. Hệ thống xưng hô cực kỳ phong phú này thể hiện rất rõ
các đặc tính của văn hóa nông nghiệp Việt Nam:

    a) Có tính chất thân mật hóa cao (đặc tính trọng tình cảm). Với cách xưng hô này, tất cả mọi người
trong cộng đồng đều trở thành bà con họ hàng trong một gia đình.

     b) Có tính chất cụ thể hóa cao (tính linh hoạt). Trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái “tôi”
chung chung: với mỗi người đối thoại khác nhau, người nói ở vào những cương vị khác nhau, những vai
khác nhau. Trong hệ thống từ xưng hô này, cũng không có cái “anh” chung chung, cái “nó” chung chung;
quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp: Cùng là một cặp đối
thoại, lúc ở trường học thì người này gọi người kia là thầy, nhưng khi về nhà thì lại gọi là em, vì người thầy
kia chính là em trai (hoặc em họ) của người này. Tục ngữ Việt Nam có câu: Chú khi ni, mi khi khác. Cùng là
hai người nam nữ, nhưng khi nhỏ thường gọi nhau bằng mày-tao; lớn lên gọi nhau là cậu-tớ; lấy nhau rồi
gọi nhau là anh-em, là nhà nó; có con rồi gọi nhau là bố nó - mẹ nó, ba nó - má nó; có cháu rồi gọi nhau là
ông nó - bà nó. Còn nhớ, vào những năm 60, có một vị lãnh đạo từng kêu gọi mọi người dùng các đại từ tôi,
nó trong giao tiếp, xưng hô như ở các ngôn ngữ khác cho giản tiện và dân chủ, thế nhưng truyền thống văn
hóa vẫn mạnh hơn: không một người Việt Nam nào có thể xưng “tôi” với một người cao tuổi, một người
bậc trên; cũng như không một người Việt Nam nào có thể gọi một người cao tuổi, một người bậc trên là
“nó”.

     c) Có tính xã hội hóa cao (tính cộng đồng). Hai người nói chuyện với nhau đấy, xưng hô với nhau đấy,
nhưng thực ra vẫn luôn luôn kéo cả những người thứ ba, thứ tư… vào cuộc. Đó là những lối gọi nhau bằng
tên con, tên cháu, tên vợ, tên chồng… Hai vợ chồng gọi nhau là bố nó - mẹ nó, ba nó - má nó, ông nó - bà
nó… chẳng là đã lôi cả những người thứ ba là con mình, cháu mình vào cuộc đấy ư? Hai người nói chuyện
với nhau đấy nhưng cũng chính là đang thông báo, đang tự giới thiệu cho những người ngoài những người


Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                 13
GV Trần Quang Khánh                                                                              14
thứ tư biết rằng mình đã có con, có cháu; đã lên bậc cha, bậc mẹ; lên bậc ông, bậc bà…, để những người
này nếu muốn nói chuyện với mình thì còn biết đường mà xưng hô!

     d) Có tính đa nghĩa cao (tính tổng hợp). Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có thể đồng thời tổng
hợp được các quan hệ khác nhau: Lối xưng hô ông-con, chú-con, bác-em… vừa thể hiện quan hệ “ông-
cháu”, “chú-cháu”, “bác-cháu”, vừa thể hiện quan hệ “cha-con”, “anh-em”; vừa thể hiện được sự cách biệt
về tuổi tác (gọi “ông” là cách biệt rất lớn, ngang tuổi ông mình; gọi “bác” là cách biệt nhiều, ngang tuổi anh
bố mình; gọi “chú” là cách biệt ít hơn, ngang tuổi em bố mình), sự cách biệt về vai vế (“ông” bằng vai với
ông mình, “chú”, “bác” bằng vai với bố mình), vừa thể hiện được sự gần gũi, thân mật như cha con, anh em.
Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng là em và đều cùng gọi nhau là chị lối xưng hô
ấy không có gì mâu thuẫn, bởi lẽ một người xưng là “em” vì ít tuổi hơn, còn người kia xưng “em” vì có vai
vế thấp hơn. Những quan hệ phức tạp khác nhau trong cuộc sống đều được thể hiện rất tài tình trong hệ
thống xưng hô của người Việt Nam.

     e) Có tính tôn ty, nhưng đồng thời lại vẫn rất dân chuû. Tôn ty đây là sự thể hiện đúng quan hệ tuổi tác,
thứ bậc trong họ hàng, ngoài xã hội…, và vì thể hiện đúng, cho nên rất dân chủ, công bằng. Dân chủ cho
nên mới có chuyện cả hai cùng là chị và cùng là em. Dân chủ cho nên mới có cách gọi theo tên chồng tên
vợ: Trong khi ở phương Tây chỉ có cách gọi theo tên chồng thể hiện quyền sở hữu của người chồng, thì ở
Việt Nam, bạn bè của chồng có thể gọi vợ là chị Thanh (= “vợ anh Thanh”), bạn bè của vợ có thể gọi chồng
là anh Nga (= “chồng chị Nga”).

     f) Thể hiện tâm lý nhường nhịn, trọng sự hòa thuận (hiếu hòa). Người Việt Nam xưng và hô theo
nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (tự xưng thì khiêm nhường còn gọi đối tượng giao tiếp với mình thì tôn
kính). Tính khiêm nhường này gắn liền với tính xã hội hóa: khiêm nhường đến mức không có một đại từ
ngôi thứ nhất chung chung mà có rất nhiều cách tự thể hiện mình khác nhau: với người ngang hàng thì xưng
là tôi, tớ, tao, mình…, với người trên thì xưng là em, con, cháu…, với người dưới thì xưng là anh/chị,
cô/chú, bác, ông/baø… Khiêm và tôn đến mức hai trong số các đại từ dùng để tự xưng với người ngang
hàng là tôi và tớ vốn bắt nguồn từ hai danh từ tôi và tớ có nghĩa là kẻ hầu người hạ (so sánh các cách nói
bầy tôi, kẻ tôi tớ này…). Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: tên riêng xưa kia không
phải là cái dùng để gọi nhau (trái với chức năng bẩm sinh của nó!); gọi đến tên riêng, nhất là tên riêng của
bố mẹ nhau (tên cái), là một sự xúc phạm ghê gớm – người ta chỉ lôi tên cái ra để “réo” khi chửi nhau. Đặt
tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề trên trong họ hàng cũng như xung quanh
hàng xóm. Cũng vì kiêng tên riêng mà người Việt Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy: vào nhà ai, phải
hỏi tên chủ nhà trước để khi nói chuyện nếu có dùng đến từ đó thì phải nói chệch đi (người phương Tây thì,
ngược lại, gặp nhau phải hỏi tên nhau để còn dùng tên ấy mà gọi).

     Có trường hợp hai người quen nhau mấy chục năm mà chỉ khi một trong hai người mất, người kia mới
biết được tên thật của bạn qua cáo phó; và không phải ngẫu nhiên mà trong một cuộc thi “Ở nhà chủ nhật”
của Đài truyền hình VTV3 có câu đố yêu cầu các cháu tham gia cuộc thi nói được tên thật của bà nội mình.
Trong cuộc sống, trẻ em luôn giấu tên bố mẹ vì sợ bị các bạn lôi ra chửi.

    Một hệ thống xưng hô quá tinh tế và linh hoạt như vậy chỉ gặp trong tiếng Việt và một vài ngôn ngữ
Đông Nam Á chứ không có trong các ngôn ngữ phương Tây, Trung Hoa, kể cả những ngôn ngữ mà sự kính
trọng người trên đã được ngữ pháp hóa như tiếng Nhật Bản, Hàn Quốc.

    Nghi thức lời nói trong lĩnh vực CÁC CÁCH NÓI LỊCH SỰ cũng rất phong phú.



Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                 14
GV Trần Quang Khánh                                                                                   15
    Do truyền thống nặng về tình cảm và tính linh hoạt nên người Việt Nam truyền thống không có những
từ cảm ơn, xin lỗi khái quát có thể dùng chung cho mọi trường hợp như người phương Tây. Cũng như trong
xưng hô, đối với mỗi người, ta có một cách xưng hô khác nhau thì trong việc cảm ơn, xin lỗi, mỗi trường
hợp có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú! (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá!, Anh tốt
quá! (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá! (cảm ơn khi được tiếp đón chu đáo), Quý hóa quá! (cảm
ơn khi có khách đến thăm), Anh quá khen! (cảm ơn khi được khen), Cậu đã cứu cho tớ một bàn thua trông
thấy!, Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy! (cảm ơn khi được giúp đỡ)…; Nói vô phép, Nói khí không
phải (xin lỗi khi nói điều gì sơ xuất), Tôi sơ ý (vô ý) quá, Tôi lỡ tay, Mong bác bỏ quá đi cho (xin lỗi khi
làm hỏng)…

    Tiếng Việt thậm chí còn không có từ nào tương ứng với các khái niệm please, s’il vous plait, ïỵỉàëĩéđịà
của các tiếng Anh, Pháp, Nga; khi cần thể hiện nghĩa này, người Việt Nam thường nói: Phiền ông (bà), Ông
bà làm ơn, Xin phép cụ, Xin gởi ông, Không dám, Có gì đâu… tùy từng trường hợp.

    Trong lĩnh vực NGHI THỨC CHÀO HỎI thì trong khi người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo
quan hệ xã hội, theo không gian (hệ thống xưng hô đã nói ở trên) và theo sắc thái tình cảm (Cháu chào ông
ạ!; Xin phép ông cháu về; Ông ở lại, cháu về!…) thì người phương Tây lại phân biệt kỹ các lời chào theo
thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay (tiếng Anh: How do you do, Good-bye; tiếng Pháp: Salut, Au
revoir; tiếng Nga: Здравствуйте, Досвидание); chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối… (tiếng
Anh: Good morning, Good afternoon, Good night; tiếng Pháp: Bonjour, Bonsoir, Bonne nuit; tiếng Nga:
Доброе утро, Добрый день, Добрый вечер,……). Điều đó cho thấy rõ sự khác biệt giữa văn hóa gốc
nông nghiệp ưa sống ổn định (nên vị trí xã hội và tình cảm là quan trọng) với văn hóa gốc du mục ưa hoạt
động (nên thời gian là quan trọng). Người Việt Nam nông nghiệp chú trọng quan hệ không gian nhiều hơn,
người phương Tây công nghiệp chú trọng quan hệ thời gian nhiều hơn.

    2. Tính bieåu tröng, bieåu caûm vaø tính linh hoaït trong ngheä thuaät ngoân töø Vieät Nam

    _Công cụ của giao tiếp là ngôn ngữ. W. Humboldt, nhà văn hóa lớn của nhân dân Đức, từng nói rằng
ngôn ngữ là “linh hồn của một dân tộc”. Nhìn vào tiếng Việt, có thể thấy đúng là nó phản ánh rõ hơn đâu
đâu hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam.

    2.1. Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG cao. Tính biểu trưng thể hiện
ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa.

     Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Trong
khi người Pháp nói de toutes parts (từ tất cả các phía), người Anh nói he opens his eyes (nó mở những con
mắt của nó) thì người Việt nói từ ba bề bốn bên, từ khắp bốn phương trời; nó mở to đôi mắt. Ở những
trường hợp, khi người châu Âu dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ chỉ số lượng ước lệ [Phan Ngọc
1989: 24]: ba thu, nói ba phải, ba mặt một nhời, năm bè bảy mối, tam khoanh tứ đốm, trăm khôn ngàn khéo,
tiền trăm bạc vạn, trăm họ, vạn sự, ngàn thu… Nguyễn Bính viết:

                                         Nhà em cách bốn quả đồi,

                                  Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng,

                                        Nhà em xa cách quá chừng,

                                  Em van anh đấy, anh đừng thương em!
Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                               15
GV Trần Quang Khánh                                                                               16
    _ Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu
hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là
một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.

     _ Theo nguyên lý cấu trúc loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng
không nhỏ các từ song tiết; điều quan trọng hơn nữa là mỗi từ đơn tiết lại hầu như đều có thể có những biến
thể song tiết, dạng láy, cho nên thực chất trong ngôn từ, lời nói Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các
thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu tạo theo cấu trúc có hai vế đối ứng: trèo cao / ngã đau; ăn vóc / học
hay; một quả dâu da / bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt / không biết dựa cột mà nghe…

    _ Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối là một loại sản phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công
phu tỷ mỷ, lại vừa cô đúc ngắn gọn. Trong một tác phẩm “mini” ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp
nhàng của hình thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lý phương Đông. Ở Việt Nam xưa kia, nhà nhà,
đình đình, chùa chùa… nơi nào cũng đều có treo câu đối. Và trong mọi dịp, người ta đều làm câu đối từ
việc hiếu cho đến việc hỷ. Câu đối chữ Hán có, chữ Nôm có,vừa Hán vừa Nôm cũng có.

   _ Đây là đôi câu đối của Nguyễn Khuyến làm cho một người vợ khóc chồng làm nghề thợ nhuộm với đủ
mọi kỳ công: vế trước nói về vợ, vế sau nói về chồng; vế trước nói về người sống, vế sau nói về về người
chết; nghĩa đen với tình cảm vợ chồng thắm thiết, nghĩa bóng với đủ mọi sắc màu của nghề thợ nhuộm:

    Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, lúc vận tía, buổi cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ;

    Chàng ở dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.

     _ Kurn Stern trong lời tựa một tập thơ Việt Nam dịch ra tiếng Đức có nhận xét rằng “Việt Nam là đất
nước của thơ ca và chiến tranh”. Người Việt Nam, hầu như ai cũng biết làm thơ. Văn hóa gốc nông nghiệp
trọng âm, trọng tình cảm tất yếu sẽ có khuynh hướng thiên về thơ; văn hóa gốc du mục trọng dương, trọng
lý trí tất yếu dẫn đến khuynh hướng thiên về văn xuôi: truyền thống văn chương phương Tây mạnh về văn
xuôi. Trung Hoa cũng thiên về văn xuôi hơn thơ<!--[if !supportFootnotes]-->[iii]<!--[endif]-->. Trong khi
đó, suốt cả lịch sử mấy nghìn năm văn chương của Việt Nam đều là lịch sử của thơ ca – một thứ thơ ca có
cấu trúc chặt chẽ (lục bát, song thất lục bát) và có vần điệu nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối hài hòa.

     _Thống kê trên hai tập Từ điển văn học (NXB KHXH, Hà Nội, 1983-1984) cho thấy trong 198 mục từ
về các tác phẩm văn học phương Tây (Châu Âu và Nga) thì có 43 tác phẩm thơ và 155 tác phẩm văn xuôi,
tức là văn xuôi chiếm 78,3%. Trong khi đó, trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt Nam (không kể các
chuyện cổ tích được nhắc đến riêng rẽ như Trầu Cau, Thánh Gióng…) thì có 69 tác phẩm thơ và 26 tác
phẩm văn xuôi, tức là thơ chiếm 72,6% (trong số 26 mục từ văn xuôi này có rất nhiều tác phẩm thuộc các
thể loại hịch, chèo, tuồng… là những thể loại mang đậm chất thơ).

Đây là một sự khác biệt mang tính nguyên lý, nó bắt nguồn từ chính sự khác biệt gốc rễ giữa hai loại hình
văn hóa: Văn hóa gốc DU MỤC với bản tính ĐỘNG tất thiên về trình bày các nội dung tình tiết, sự kiện với
bút pháp tả thực và lối diễn đạt tự do phóng túng – tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu
hiện tập trung trong văn xuôi (ngay cả thơ phương Tây chủ yếu cũng là thơ tự do). Văn hóa gốc NÔNG
NGHIỆP với bản tính TĨNH tất thiên về trình bày các nội dung tâm lý, tình cảm với bút pháp biểu trưng và
lối diễn đạt cân xứng nhịp nhàng – tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập trung trong
thơ.



Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                   16
GV Trần Quang Khánh                                                                                 17
    _So sánh Truyện Kiều (TK) của Nguyễn Du là tác phẩm thơ nổi tiếng của Việt Nam với Kim Vân Kiều
truyện (KVKT) của Thanh Tâm Tài Nhân là một tác phẩm văn xuôi Trung Hoa mà Nguyễn Du đã mượn
làm cốt truyện để sáng tác, ta thấy rất rõ đối lập này: Trong khi KVKT là văn xuôi thì TK là thơ. Những
đoạn tả sự kiện, hành động trong KVKT chi tiết, dài dòng bao nhiêu thì trong TK, chúng ngắn gọn, đơn giản
bấy nhiêu; với những đoạn tả tâm lý, tình cảm thì diễn ra một tình hình ngược lại: Chẳng hạn, đoạn tả sự
kiện Thúc Sinh chuộc Kiều trong KVKT dài trên 1600 chữ thì trong TK chỉ vỏn vẹn có 8 dòng thơ; trong
khi đó, đoạn tả nỗi lòng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích ở KVKT chỉ có khoảng chưa đầy trăm chữ thì ở
TK Nguyễn Du đã thể hiện nó dài tới 22 dòng thơ!

     _Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là
một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho câu văn rồi. Từ những bài
văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, hoặc viết theo lối tự do như thơ dụ
hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, cho tới những lời văn nôm bình dân … khắp nơi, ta đều gặp một lối cấu
trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu vần điệu.

     _Đây là một vài câu trong thư của Nguyễn Trãi gửi Vương Thông: “Nhà lớn gần xiêu, một cây gỗ khôn
hay chống đỡ; đê dài sắp vỡ, một vốc đất khó thể duy trì. Nếu không lượng sức mà cứ cưỡng làm, thì ít khi
không thất bại…”. Còn đây là lời cầu trong trò phụ đồng chổi của trẻ em: “Phụ đồng cái chổi, mau nổi mà
lên. Ba bề bốn bên, đồng lên cho chóng. Nhược bằng cửa đóng, cũng phá mà vào; cách sông cách ao, phải
vào cho được. Hoặc đồng còn đi quét lá đa, hoặc đồng còn đi xa về gần, hoặc đồng còn đi ân về ái, nghe lời
thầy gọi, cũng phải về ngay. Ông chổi đi trước, bà chổi đi sau, dắt díu lấy nhau, nhập vào cái chổi…”.

    _Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, cân đối, nhịp
nhàng, đầy chất thơ (không chỉ lời chửi, mà cả cách thức chửi, dáng điệu chửi… cũng mang đầy tính nhịp
điệu, xem hình 15.1). Không phải ngẫu nhiên mà ngôn ngữ dân gian Việt Nam vẫn gọi đùa việc chửi bằng
các từ chỉ các loại hình nghệ thuật diễn xướng như ca, hát, tế… (ta thường nghe thanh niên nói với nhau:
Mày nói vậy, bà ấy tế cho một trận bây giờ; Tao vừa bị mẹ tao ca cho một bài…). Với lối chửi có vần điệu,
có cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không hề
nhàm chán. Đây là một “nghệ thuật chửi” độc nhất vô nhị mà có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có
được. “Nghệ thuật” này, xưa không ai truyền cho ai, nhưng những cô con gái Việt, do đã nghe mẹ, nghe
hàng xóm láng giềng chửi nhiều lần nên ngẫu nhiên đã nhập tâm, sau này khi đi lấy chồng, có gia đình
riêng, hễ va chạm với xã hội là cái “nghệ thuật” chửi này lại được dịp phô bày và hoàn thiện.

     _Ở Việt Nam, văn chương truyền thống là văn chương thơ; và thơ truyền thống là thơ có vần điệu, cấu
trúc cân đối, nhịp nhàng. Chỉ có sau này, từ đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phương Tây, thơ tự do và tiểu
thuyết mới xuất hiện. Nhưng ngay trong thể loại tiểu thuyết mới xuất hiện do ảnh hưởng của văn xuôi
phương Tây này cũng vẫn bộc lộ rất đậm nét dấu ấn của truyền thống cân đối nhịp nhàng, biểu trưng ước lệ.
Đây là những câu văn tả người của Tản Đà: Tiếng nói nhẹ bao nhiêu, dáng người mềm bấy nhiêu; mềm bao
nhiêu, chín bấy nhiêu; chín bao nhiêu, tươi bấy nhiêu; tươi bao nhiêu, tình bấy nhiêu. Như ghét, như yêu,
như chiều, như ngượng. Lông mày ngài, đôi mắt phượng, cô chờ ai? (Giấc mộng con).

     _Không chỉ tiểu thuyết mà ngay cả văn chính luận Việt Nam cũng có thể mang đầy chất thơ nhờ sự cấu
tạo cân đối nhịp nhàng. Đọc Tuyên ngôn độc lập hay những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoặc
những câu sau đây của Người, ta thấy rất rõ chất thơ đó: “Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng.
Nếu không có chính phủ thì không ai dẫn đường”; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có
hại cho dân, ta phải hết sức tránh.”


Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                             17
GV Trần Quang Khánh                                                                   18
   2.2. Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất GIÀU CHẤT BIỂU CẢM – sản
phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình cảm.

    _Về mặt từ ngữ, chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung
hòa, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ
thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè, xanh lét… Bên cạnh màu đỏ trung tính thì có
đỏ rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe…

     _Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt (ở phần lớn các ngôn ngữ
khác, kể cả tiếng Hán, tuy có phương thức láy, nhưng số lượng từ láy thì hết sức ít ỏi, tới mức không đáng
kể): không phải ngẫu nhiên mà trong thơ ca của ta có thể gặp rất nhiều từ láy. Ở trên vừa nói tiếng Việt
thiên về thơ, mà thơ là mang đậm chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với
nó. Chính nhờ sức biểu cảm của các từ láy mà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rất đạt một Tú Bà với hình ảnh
Nhác trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao… Một Mã Giám Sinh với hình ảnh Mày râu
nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao, Trước thầy sau tớ lao xao… Còn ai đã từng đọc thơ Hồ Xuân Hương rồi thì
quên làm sao được những hình ảnh: Cầu trắng phau phau…, Nước trong leo lẻo…, Cỏ gà lún phún…, Cá
diếc le te…

    _Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé, chăng,
chớ, hả, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” mang sắc thái đánh giá (sách siếc, bàn biếc…) cũng góp
phần quan trọng trong việc tăng cường hệ thống các phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt.

    _Sự phổ biến của thơ hơn văn xuôi đã nói đến ở trên không chỉ là sản phẩm của tính biểu trưng mà rõ
ràng cũng đồng thời là sản phẩm của tính biểu cảm. Khuynh hướng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch
sử văn chương truyền thống không có những tác phẩm anh hùng ca ca ngợi chiến tranh; có nói đến chiến
tranh chăng thì chỉ là nói đến nỗi buồn của nó (ví dụ: Chinh phụ ngâm, một truyện thơ Nôm dài nói về nỗi
lòng của người vợ có chồng đi chinh chiến).

    2.3. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam còn có đặc điểm thứ ba là TÍNH ĐỘNG và LINH HOẠT.

     _ Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các
ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo
lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh
hoạt tối đa. Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ
pháp ngữ nghĩa.

      _ Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải chia động từ theo các thể, các ngôi…; phải đặt
danh từ vào các giống, các số, các cách…; phải đặt tính từ vào những hình thái phù hợp với danh từ…; tóm
lại là phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái nhất mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó yêu cầu (ngay
cả khi ý nghĩa ngữ pháp đó đã được thể hiện năm bảy lần trong câu bằng những hình thái khác rồi cũng
vậy). Còn trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt, không diễn đạt hay diễn
đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó. Chẳng hạn, để diễn đạt ý nghĩa thời tương lai, tiếng Việt có thể
có các cách nói: (Ngày mai) tôi đi Hà Nội; (Ngày mai) tôi sẽ đi Hà Nội, trong khi tiếng Anh chỉ có thể nói:
I’ll go to Ha Noi (tomorrow). Để truyền đạt ý nghĩa giống cái, câu tiếng Việt “Coâ giáo trẻ người Nga dạy
tôi viết” chỉ cần thể hiện một lần; trong khi câu tiếng Nga tương ứng bắt buộc phải thể hiện tới bốn lần (hai
lần bằng tính từ, một lần bằng danh từ và một lần bằng động từ): Ìỵëỵäàÿ ðĩđđêàÿ ĩ÷èịåëüíèưà íàĩ÷èëà ìåíÿ
ïèđàịü. Tiếng phương Tây gán ghép giống cho cả những danh từ biểu thị các sự vật không hề có “giống”,

Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam                                                                18
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com
Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com

Contenu connexe

Plus de Thế Giới Tinh Hoa

Nữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.comNữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.comNhững chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.comNhững bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Những bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.com
Những bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.comNhững bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.com
Những bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.comNgôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Mùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.com
Mùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.comMùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.com
Mùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Mắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.com
Mắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.comMắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.com
Mắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Thế Giới Tinh Hoa
 
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comKhái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12 môn ngữ văntruonghocso.com
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12   môn ngữ văntruonghocso.comHướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12   môn ngữ văntruonghocso.com
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12 môn ngữ văntruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 

Plus de Thế Giới Tinh Hoa (20)

Huongdansudung izishop
Huongdansudung izishopHuongdansudung izishop
Huongdansudung izishop
 
Ho so nang luc cong ty
Ho so nang luc cong tyHo so nang luc cong ty
Ho so nang luc cong ty
 
seo contract
seo contractseo contract
seo contract
 
di google cong
di google congdi google cong
di google cong
 
E1 f4 bộ binh
E1 f4 bộ binhE1 f4 bộ binh
E1 f4 bộ binh
 
E2 f2 bộ binh
E2 f2 bộ binhE2 f2 bộ binh
E2 f2 bộ binh
 
E3 f1 bộ binh
E3 f1 bộ binhE3 f1 bộ binh
E3 f1 bộ binh
 
E2 f1 bộ binh
E2 f1 bộ binhE2 f1 bộ binh
E2 f1 bộ binh
 
E1 f1 bộ binh
E1 f1 bộ binhE1 f1 bộ binh
E1 f1 bộ binh
 
Nữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.comNữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.com
 
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.comNhững chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
 
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.comNhững bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
 
Những bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.com
Những bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.comNhững bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.com
Những bài văn hay về nghị luận xã hộitruonghocso.com
 
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.comNgôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
 
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
 
Mùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.com
Mùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.comMùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.com
Mùa lá rụng trong vườn ma văn khángtruonghocso.com
 
Mắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.com
Mắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.comMắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.com
Mắt bão (phan hồn nhiên)truonghocso.com
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
 
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comKhái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
 
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12 môn ngữ văntruonghocso.com
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12   môn ngữ văntruonghocso.comHướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12   môn ngữ văntruonghocso.com
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp lớp 12 môn ngữ văntruonghocso.com
 

Lịch sử phát triển văn hóa việt namtruonghocso.com

  • 1. GV Trần Quang Khánh 1 *LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM 1. Nguoàn goác vaø baûn chaát cuûa vaên hoaù _ Thời điểm phát minh ra "lửa" là dấu mốc quan trọng ban đầu cho sự ra đời và phát triển của văn hoá.Nói như vậy có nghĩa văn hoá là sản phẩm chỉ riêng có ở loài người, đi liền với sự phát triển của xã hội loài người. _ Nhìn lại lịch sử: "Thềm trước" của nền văn minh lửa đốt là một bức tranh sinh hoạt mang tính sinh học thuần tuý của động vật bậc thấp; Còn "sân sau" của nền văn minh lửa đốt là ánh sáng tư duy của động vật bậc cao. Văn hoá chính là thành quả đằng sau chuỗi tiến hoá lâu dài của loài người, gắn liền với phương thức sống nhất định. _ Khai mở như trên là nhằm chứng minh nguồn gốc của văn hoá từ trong lao động. Lao động vừa là điều kiện cho sự xuất hiện của văn hoá, nhưng đồng thời cũng là phương thức duy trì sự tồn tại và phát triển của văn hoá. Cũng chính lao động là dấu hiệu để phân biệt loài người với loài vật, vì từ lao động là tiền đề vật chất tiên quyết cho sự ra đời của tư duy-Cái chỉ có ở loài người (còn loài vật thì không có). _ Xét về mặt quan hệ: Tư duy là sản phẩm của tiến trình tiến hoá lâu dài bởi sự tác động của con người vào giới tự nhiên. Nói một cách khác, "tư duy chính là thực tiễn được cải biến đi ở trong bộ óc con người". Song, tư duy không phải là một hiện tượng thụ động, bất biến. Nó mang "nội dung thực tiễn", vừa có chức năng lưu trữ tri thức, vừa có nhiệm vụ truyền tải tri thức. Cho nên, ngôn ngữ với bản chất là "cái võ vật chất của tư duy" đã trở thành mắt xích quan trọng trong quá trình trao đổi thông tin, duy trì và phát triển các quan hệ giữa con người với con người trong quá trình cải biến tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. _ Sáng tạo là thuộc tính của tư duy nhưng sáng tạo cũng chỉ có thể được thể hiện thông qua những điều kiện vật chất nhất định. Nhưng điều kiện vật chất đáp ứng sáng tạo phải thông qua lao động vì, "nếu phương diện kinh tế của lao động là sự sản xuất ra của cải vật chất, thì phương diện văn hoá của lao động chính là sự sáng tạo-biểu hiện của các lực lượng bản chất người. Quá trình biểu hiện của các lực lượng bản chất người ấy chính là quá trình sức sáng tạo được vật thể hoá trong hoạt động chiếm lĩnh và cải tạo thế giới, trong đó có bản thân con người". Cũng chính sự sáng tạo văn hoá là động lực tiến bộ của loài người; Sự đa dạng của văn hoá là kho tàng quý báu nhất của văn hoá nhân loại và là một yếu tố cần thiết của phát triển" *Như vậy, cùng với lao động, tư duy, sáng tạo và ngôn ngữ là cội nguồn là điều kiện nhưng cũng là phương thức tồn tại và phát triển của văn hoá. Từ thực tiễn vật chất và tinh thần của văn hoá cho thấy, văn hoá là một lĩnh vực có nội hàm và ngoại diên rất rộng lớn: Vô cùng đa dạng và phong phú nhưng cũng không kém phần phức tạp. _ Cho đến nay đã tồn tại nhiều định nghĩa về văn hoá. Tuỳ theo quan điểm, góc độ tiếp cận khác nhau mà các nhà văn hoá đưa ra các định nghĩa khác nhau về văn hoá: Hồ Chí Minh-Một danh nhân văn hoá thế giới cho rằng "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá" _ Tổ chức văn hoá thế giới định nghĩa: "Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người những khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới mẻ và tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân". _ Từ lập trường duy vật biện chứng truy cứu về văn hoá thấy rằng: Xét theo nghĩa rộng, Văn hoá là "trình độ phát triển lịch sử nhất định của một xã hội, sức sáng tạo và năng lực của con người trong xã hội, biểu hiện các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hoạt động, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra.....Văn hoá bao gồm những kết quả khách quan của hoạt động con người (sản xuất, máy móc, thiết bị, kết quả nhận thức, tác phẩm nghệ thuật, chuẩn tắc đạo đức và Pháp luật) cũng như của sức sáng tạo và năng lực con người được thể hiện trong hoạt động (tri thức, kỷ năng, thói quen, trình độ trí tuệ, Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 1
  • 2. GV Trần Quang Khánh 2 sự phát triển đạo đức và thẩm mỹ, thế giới quan, phương thức và hình thức giao tiếp giữa con người với nhau). Xét theo nghĩa hẹp, văn hoá là lĩnh vực đời sống tinh thần của con người" Tóm lại, văn hoá là một trong những căn cứ để phân biệt con người với loài vật. Nguồn gốc lao động của văn hoá khẳng định một cách khách quan, duy vật về một hình hình thái ý thức xã hội. Từ trong văn hoá, chúng ta tìm thấy được những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội loài người qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. 2. Tieán trình phaùt trieån cuûa vaên hoaù Vieät Nam _ Mỗi dân tộc đều có nền văn hoá riêng của mình. Văn hoá dân tộc là thành tựu của cả dân tộc đi cùng lịch sử của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc bình đằng với tất cả các dân tộc trên thế giới, có chủ quyền, độc lập và toàn vẹn về lãnh thổ, có lịch sử dựng nước và giữ nước, do đó có nền văn hoá riêng, mang phong cách, bản sắc độc đáo của khu vực Á-Đông. Văn hoá dân tộc Việt Nam là thành tựu của cả dân tộc Việt Nam, được hình thành trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, chống xâm lược ngoại bang và thực tiễn lao động sản xuất. _ Văn hoá Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc. Trước hết là nền văn hoá thời Tiền sử với những thành tựu ban đầu của người nguyên thuỷ ở núi Đọ (Thanh Hoá) và sau đó là nền văn hoá Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ). Đặc trưng của nền văn hoá này là săn bắt, hái lượm, dùng đá làm công cụ sản xuất. Theo dấu tích khảo cổ học, thời kỳ này "người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa. Họ chôn người ngay nơi cư trú. Thức ăn chủ yếu là nguyễn thể, những cây, quả, hạt và một số các loại động vật vừa và nhỏ". Từ thế giới quan triết học phải thừa nhận rằng, hành vi chôn người chết của người nguyên thuỷ biểu hiện một quan niệm duy tâm- tôn giáo. Chính việc chôn người chết kèm theo những vật dụng ngay nơi cư trú là thể hiện niềm tin về một thế giới khác sau khi lìa bỏ thế giới sống trần tục. Đây cũng được xem là một quan niệm nhân văn, nhân đạo sâu sắc bước đầu của tổ tiên người Việt. Thời kỳ đá mới (cách đây hơn một vạn năm) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lối sống của con người. Thời kỳ này con người đã nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu từ đá, đất sét, sừng, xương, tre, nứa, gỗ,.. để làm công cụ sản xuất. Đặc biệt hơn, họ đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật, biết trồng cây, biết quy hoạch định cư thành từng nhóm, dân số theo đó cũng tăng lên,..Chính phương thức sống này đã đẩy văn hoá phát triển lên một tâm cao mới, tiêu biểu cho sự tiến bộ đó là những đặc trưng của nền văn hoá Hoà Bình. Văn hoá thời Sơ sử với ba trung tâm lớn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam: -Văn hoá Đông Sơn hình thành ở các lưu vực sông (Sông Hồng, Sông Cả, Sông Mã). Đặc trưng của phương thức sống thời kỳ này vẫn là sự chuyển tải nội dung của nền văn hoá Hoà Bình nhưng ở một trình độ cao hơn. Vào thời kỳ này, cư dân tiền Đông Sơn đã biết trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc làm thức ăn, làm phương tiện chuyên chở hàng hoá,... Tuy nhiên việc tìm thấy vật liệu đồng thau đã gây ra sự tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế-xã hội thời kỳ này. Chính nguyên vật liệu từ đồng đã thúc đẩy nghề đúc đồng phát triển. Phần lớn những công cụ sản xuất, vũ khí được đúc bằng đồng với kỷ thuật tinh xảo. Đặc biệt những chiếc trống đồng là sản phẩm đằng sau kỷ thuật đỉnh cao của nghệ nhân thời Đông Sơn đã trở thành biểu tượng của văn hoá dân tộc. Từ các di chỉ khảo cổ cho thấy, thời kỳ Đông Sơn đã có sự phân khu, phân tầng văn hoá, đồng thời cũng diễn ra sự giao lưu văn hoá giữa các bộ lạc bởi vì đã có hoạt động trao đổi kinh tế, tặng vật phẩm tín ngưỡng tôn giáo,... Và cũng chính những hoạt động này là căn cứ thừa nhận tư duy sáng tạo trong đời sống tín ngưỡng cũng như nghệ thuật của một nền văn hoá non trẻ. Trong lĩnh vực nghệ thuật, thời kỳ này, con người đã biết trang trí với những hoạ tiết có tính đối xứng chặt chẽ. Cho nên, về mặt triết học phải thấy được rằng đó là "tư duy phân đôi", ít nhiều mang tính biện chứng của người Sơ sử. Văn hoá, nghệ thuật thời kỳ này cũng rất đa dạng và phong phú với những huyền thoại, thần thoại mang tính sử thi ("Đẻ đất đẻ nước") cùng những nhạc cụ âm nhạc sinh động từ vật liệu thiên nhiên, đặc biệt là đồng với những chiếc trống có âm thanh vang xa, vọng. Nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân Đông Sơn gắn liền với nghề trồng lúa nước. Vì vậy, thần Mặt trời là vị thần chủ đạo được thờ phụng nhằm cầu may cho mùa màng tốt tươi để cư dân được no ấm, an bình,... -Văn hoá Sa Huỳnh có không gian phân bố rộng lớn, từ Bình Trị Thiên kéo dài tới lưu vực sông Đồng Nai. Nếu văn hoá Đông Sơ với đặc trưng lớn nhất là những cộng cụ, vật dụng bằng đồng, phục vụ cho sản xuất thì nền văn hoá Sa Huỳnh lấy sắt làm nguyên liệu chủ yếu để chế tạo ra những cộng cụ phụ vụ cho nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, cùng các loại cây ăn quả, củ khác. Cũng đặt trong so sánh, nếu cư dân Đông Sơn hãnh diện về kỷ thuật đúc đồng thì cư dân Sa Huỳnh cùng tự hào về kỷ thuật đúc sắt. Những công cụ bằng Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 2
  • 3. GV Trần Quang Khánh 3 sắt của cư dân Sa Huỳnh nhiều không kém công cụ bằng đồng của cư dân Đông Sơn, Thậm chí còn nhiều hơn. Ngoài ra cư dân Sa Huỳnh còn nổi tiếng với truyền thống dệt vải, đúc đồ gốm, làm trang sức bằng nhiều chất liệu từ thiên nhiên. Điều đó chứng tỏ tư duy của người Sa Huỳnh đã phát triển ở tâm cao, tạo ra một nền văn hoá tiến bộ, chủ động khai phá, cải biến tự nhiên. -Văn hoá Đồng Nai là nền văn hoá của cư dân vùng Nam Bộ. Đặc điểm của nền văn hoá này gắn liền điều kiện tự nhiên (sông nước miệt vườn). Vì vậy, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Nếu cư dân Đông Sơn dùng nguyên liệu đồng, cư dân Sa Huỳnh dùng Sắt để chế tạo cộng cụ sản xuất là chủ yếu, thì cư dân Đồng Nai sử dụng đá làm nguyên liệu chính thống chế tác ra những công cụ sản xuất và thậm chí cả những hàng trang sức để phụ vụ đời sống tinh thần. _ Đời sống tín ngưỡng của cư dân vùng này còn dừng lại ở cấp độ "Bái vật giáo", song họ vẫn tin có một thế giới khác ngoài thế giới hiện thực của con người người sống. Nhìn chung, cư dân Đông Nai sống ven cửa sông, rạc, biển nên từ lâu đời đã có truyền thống "ăn to nói lớn", khoáng đảng, bổ bả, ít suy tư trầm lắng như người vùng ngoài. Văn hoá Bắc thuộc là nền văn hoá phụ thuộc vào sự thống trị của Phong kiến Trung Hoa ở phương Bắc. Thời kỳ này đã đặt văn hoá Việt Nam vào thế cam go phải đấu tranh với sự đô hộ của phong kiến xâm lược chống lại sự đồng hoá dân tộc. _ Văn hóa Việt Nam vốn dĩ độc lập trong sự cởi mở, rộng lượng của truyền thống người Việt cổ sau quá trình tiếp biến thiên nhiên và cuộc sống lâu dài nay có nguy cơ bị Hán hóa, biến thành một tiểu khu của Trung Hoa đại lục.Phong kiến phương Bắc đưa chân đến đất Nam không chỉ chuyên chở ý đồ chính trị mà còn kéo theo văn hoá bản địa. Hành trang chủ yếu của văn hoá bản địa là đạo Nho, Lão-Trang với những nội dung phục vụ cho mục đích đồng hoá.Không chịu khuất phục trước sức mạnh về số lượng, dân tộc Việt Nam trương cao ngọn cờ: Đấu tranh để bảo vệ bản sắc, bảo vệ dân tộc, chống đồng hóa, tiếp tục phát huy giá trị văn hóa dân tộc, giải phóng đất nước. Tuy nhiên, từ giác độ xã hội học phải thừa nhận rằng: Những nội dung máng đậm tính nhân văn của đạo Nho Trung Quốc (nhân-lễ-nghĩa-chính danh) rất gần gũi trong nếp ăn, thói ở của người Việt. Cho nên, Phong kiến Trung Hoa đã biết lợi dụng điều đó mà khuyếch trương, truyền giáo. Nếu có thể đặt ra ngoài vấn đề chính trị mà nhìn sâu vào đời sống tinh thần thì có thể thấu rõ được một sự thực là: Bản thân những giá trị nhân văn, nhân bản của Nho giáo đã tồn tại trong lòng truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cùng với những chuẩn giá trị đạo đức của các tôn giáo Trung Hoa, mà chủ yếu là đạo Nho. Phật Giáo (một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới) cũng có mặt ở Việt Nam. Những kỷ cương, luân lý của đạo Phật đã góp phần không nhỏ xiết chặt lối sống buông thả của con người trần tục. Xét về mặt ý nghĩa, nó phù hợp với tâm can hướng thiện của người Việt. Cho nên văn hoá Việt Nam tiếp biến đạo Phật là góp thêm phần đa dạng, phong phú và nhân đạo của một truyền thống lâu đời. Trước khi bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, văn hoá Việt Nam ghi nhận dấu ấn của nền văn hoá champa và Óc Eo. Với sự thống trị của các triều đình phong kiến Việt Nam (đặc biệt là triều đình nhà Nguyễn), vào thế kỷ thứ XVI một tôn giáo có nguồn gốc từ Phương tây đã xâm nhập vào văn hoá Việt Nam. Đó là Thiên Chúa Giáo- tôn giáo làm nên văn minh phương Tây. Nội dung của Thiên Chúa giáo tập trung chủ yếu ở phúc âm. Giáo lý dạy: Con người là một sinh linh vô cùng nhỏ bé, khi sinh ra đã mang nặng tội tổ tông. Vì vậy, sống kiếp làm người phải ăn năn, xám hối, chuộc lỗi với Chúa, cầu mong Chúa cứu rỗi, ban ơn,...Sự nghiệp trần thế của con chiên là phụng dưỡng ý đồ cứu độ của Thiên Chúa để khi chết không bị đầy xuống tuyền đài mà được trở về với Thiên đường sống hạnh phúc bên Thiên Chúa vô vàn tôn kính. _ Lý tưởng của Kinh Thánh sớm ăn nhập vào tâm tri của một bộ phận không nhỏ dân chúng có cuộc sống khổ đau, bần hàn. Nó đã được dân tộc việt Nam tiếp biến, cải biên phần nào cho phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc. Từ đây, văn hoá Việt Nam được bổ một nội dung văn hoá tôn giáo mới, tăng thêm phân đa dạng và sâu sắc. Nửa sau thế kỷ XIX, văn hoá Việt Nam đặt dưới sự thống trị của thực dân. Dưới sự chèo lái của triều đình nhà Nguyễn,"dân tộc Việt Nam đã đánh mất hành động độc lập trong lịch sử”, làm cho con thuyền văn hoá dân tộc chỉu nặng ý đồ chính trị thực dân Phương tây. Lúc này, văn hoá Việt Nam mang hai nội dung chủ yếu là: “Tiếp xúc và giao thoa văn hóa Việt Pháp; và giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông tây”. _ Đặc biệt lĩnh vực văn hoá vật chất được thực dân Pháp phát triển ồ ạt trên lãnh thổ Việt Nam, làm phai nhạt tính đậm đà, bản sắc của văn hoá dân tộc và thay vào đó bằng văn hoá ngoại lai, xa lạ với cư dân nông nghiệp lúa nước. Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 3
  • 4. GV Trần Quang Khánh 4 Vì vậy, trước khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1943 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xây dựng bản Đề cương văn hoá, vạch ra tình trạng "Văn hoá Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản. Chiến tranh và xu trào văn hoá hiện nay: Ảnh hưởng của văn hoá Phát xít làm cho tính chất phong kiến, nô dịch trong văn hoá Việt Nam mạnh lên, những đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hoá tân dân chủ, xu trào văn hoá mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nẩy nở". Xuất phát từ thực trạng văn hoá này, đảng ta đã đề ra nhiệm vu xây dựng nền văn hoá mang nội dung: Dân tộc, Khoa học và Đại chúng. Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một mốc son vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bức vào kỷ nguyên của độc lập, tự chủ, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Từ đây, những nội dung của bản Đề cương văn hoá dân dần được bổ sung, phát triển theo tỉnh hình cách mạng của dân tộc. _ Sau năm 1955, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền: Miền bắc xây dựng, phát triển kinh tế-chính trị, văn hoá-xã hội xã hội chủ nghĩa; Miền nam còn chịu ách thống trị của thực dân-đế quốc Mỹ, do đó văn hoá Miền nam bị ảnh hưởng nhiều bởi lối sống của văn hoá Phương tây. Năm 1975, Miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập, giang sơn thu về một mối, văn hoá Việt Nam thống nhất phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. _ Trải qua một thời kỳ văn hoá bao cấp, năm 1986 Đẳng ta đổi mới tư duy phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống mới. Từ đây, cùng với các lĩnh vực khác, văn hoá được Đảng ta trú trọng quan tâm bằng những quyết sách cụ thể. _ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: "Công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt động văn hoá, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi". _ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII vạch ra nhiệm vụ của cách mạng văn hoá Việt Nam là: "Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Vận động toàn dân thực hiện lối sống cần, kiệm, văn minh, lịch sự. Phổ biến rộng rãi trong nhân dân những kiến thức văn hoá cần thiết cho sản xuất và đời sống. Thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ. Phát động phong trào quần chúng bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác". _ Đại Hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, các hoạt động văn hoá, văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú đời sống tinh thần con người Việt Nam. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm đậm không chỉ trong công tác văn hoá-văn nghệ, mà cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam". Do đó, "Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội". Đồng thời, "kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc". Tiếp tục đường hướng nói trên, năm 1998 Đảng ta tổ chức Hội Nghị TW V, chuyên bàn về vấn đề văn hoá. Xác định xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn phát triển mới. _ Nền văn hoá tiên tiến không có nghĩa là xoá bỏ truyền thống mà nó là nền văn hoá mang những đặc trưng cụ thể như: Yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí minh; nhân văn; phong phú cả về nội dung và hình thức. _ Tính chất tiên tiến phải đảm bảo được nội dung nhân văn, nhân đạo sâu sắc, nhưng đồng thời phải thể hiện sự đa dạng và phong phú về hình thức. Tính chất đậm đà của nền văn hoá dân tộc đảm bảo giữ gìn và phát huy những giá trị mang bản sắc dân tộc như lòng yêu nước, tinh thần nhân ái, sự bao dung, độ lượng, quý trọng nghĩa tình, đạo lý, dũng cảm và đặc biệt giữ gìn tinh thần đoàn kết dân tộc. Để xây dựng nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà, Hội Nghị TW V đã xác định: -Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hộ; -Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; -Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 4
  • 5. GV Trần Quang Khánh 5 -Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; -Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. _ Nhìn lại 20 năm đất nước đổi mới, văn hoá Việt Nam đang "thăng hoa", tiến bước cùng sự phát triển của lịch sử dân tộc. Bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển về giáo dục,...văn hoá nghệ thuật đã gặt hái được nhiều thành tựu góp phần đưa đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lên một tầm cao mới. _ Tuy nhiên, thì đại ngày này được xem là thời đại vũ bảo, guồng máy phát triển của thế giới được bôi trơn bởi nền tri thức vượt bậc của nhân loại. Xu hướng toàn cầu hoá đã cuốn hút tất cả các nền văn hoá dân tộc trên thế giới vào quỷ đạo chúng. Chính quá trình này đã diễn ra sự "đụng độ" giữa các nền văn minh, và văn hoá của các dân tộc có cơ hội được "cọ sát". _ Toàn cầu hoá là cơ hội để Việt Nam tham gia vào sân "chơi trí tuệ" của thế giới, từ đó học hỏi, thu nhận có chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại. Nhưng toàn cầu hoá cũng là một thách thức không nhỏ, bởi vì nếu không vững lập trường sẽ rất dễ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, phải xác định: "Hoà nhập nhưng không hoà tan". Văn hoá là tấm thẻ căn cước để tham gia vào quá trình hội nhập, nhưng bằng mọi giá phải giữ cho được tấm thẻ đó, nếu mất nó là đánh mất quyền lợi trong "cuộc chơi" và cũng đồng nghĩa với việc đánh mất mình. _ Tóm lại, văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần của con người được hình thành sau lịch sử đấu tranh mạnh mẽ với thiên nhiên, với xã hội. Mỗi một dân tộc đều có lịch sử văn hoá của riêng mình biểu hiện tính cách, bản sắc độc đáo không lặp lại hay đồng nhất với bất kỳ văn hoá của dân tộc nào trên thế giới. Vì vậy, "giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá" không chỉ là sự lựa chọn mà còn là nhiệm vụ, là mục tiêu của cả dân tộc Việt nam trong thời đại mới. *KHAÙI QUAÙT NEÀN VAÊN HOAÙ VIEÄT NAM _ Văn hóa Việt Nam, hay nói riêng là văn hóa của dân tộc Kinh mà đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ở trong khu vực Thái Bình Dương. Mặc dù như vậy, nhưng qua ảnh hưởng lớn của Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều đặc điểm gần giống với những dân tộc của miền Đông Á, và khác những nước ở khu Thái Bình Dương (như là Campuchia, Lào và Thái Lan) mà đã chịu một phần lớn ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. _ Nhưng tuy là ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất của một nước ngoài trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, dân tộc Kinh đã vẫn giữ gìn được rất nhiều nét văn hóa riêng của mình, mà cho tới ngày hôm nay những phong tục riêng đó vẫn quan trọng vô cùng trong đời sống của người Việt. _ Có nhiều nhà viết sử cho rằng là trước khi ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, Văn hóa Đông Sơn có gốc ở miền bắc Việt Nam (mà cũng đã phát triển mạnh ở những nước khác ở khu Thái Bình Dương) là phần đầu của lịch sử Việt Nam. _Có thể nói chung văn hóa của Việt Nam là một pha trộn đặc biệt giữa nhiều những văn hóa cổ xưa cùng với văn hóa bản xứ của người Việt, ngoài ảnh hưởng lớn nhất của Trung Hoa cũng có ảnh hưởng rất nhỏ hơn của văn hóa Ấn Độ, Chàm, và sau này ảnh hưởng lớn của văn hóa phương tây (Pháp, Nga, Mỹ). Đất nước _ Văn hóa Việt Nam đặc biệt là văn hóa miền Bắc rất đa dạng. Nó được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử. Các phong tục như tục nhuộm răng, ăn trầu, các lễ hội như: lễ hội Chùa Hương, giỗ tổ Hùng Vương, hội Lim, hội xuống đồng của người Tày. Ở cá dân tộc miền núi có ngày hội tình yêu, đến mỗi dịp Xuân về những dôi trai gái tập trung lại họ chơi các trò chơi như ném Còn,hát Đối... _ Dân số Việt Nam năm 2003 là 83.666.356, mật độ dân số 987 người trên km vuông (665 dặm vuông). Đa số dân cư sống trong hoặc gần khu vực các châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long đông đúc. Tổ chức cộng đồng _ Cộng đồng người Việt được tổ chức theo các đơn vị cơ bản là làng. Làng là một tổ chức khá khép kín. Làng thường có đình làng là nơi thờ cúng các vị thành hoàng và hội họp dân làng, nơi tổ chức các lễ hội quan trọng. Làng được bao bọc bởi lũy tre làng và có cổng làng, trong làng còn có cây đa, có thể có chùa. Những người đứng đầu làng được mọi người tôn kính, thường là những người già cả, người có tiền. Làng Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 5
  • 6. GV Trần Quang Khánh 6 thường có những luật tục. Làng biểu hiện tất cả những nét tốt đẹp cũng như không hay của văn hóa Việt Nam thời phong kiến. _ Đơn vị xã hội nhỏ hơn làng là các gia đình. Khác với người phương Tây, gia đình ở Việt Nam được hiểu là một gia đình lớn, gồm có nhiều thế hệ có quan hệ máu mủ ruột thịt cùng chung sống. Gia đình được tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ, người dưới phải có hiếu và kính trọng người trên, người trên có nghĩa vụ phải chăm lo dạy dỗ con cháu nên người. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên _ Vì nền tảng văn hóa là nông nghiệp nên người Việt có quan niệm ứng xử hài hòa với thiên nhiên. Kinh thành Huế được xây dựng theo quan niệm hòa hợp với cảnh quan xung quanh. _ Người Việt có hiểu biết lớn về thiên nhiên, đặc biệt là về điều kiện tự nhiên thích hợp cho nông nghiệp. Người Việt có nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với thiên nhiên để phát triển nông nghiệp, điển hình là". _ Trong bất cứ một môi trường nào, con người đều chịu ảnh hưởng, chi phối bởi điều kiện tự nhiên, môi trường sống và điều kiện sinh hoạt Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó, con người không thể chống lại nó, cải tạo nó một cách thuần thuc mà phải thích nghi vớ môi trường sống để điều hòa nhịp sống của mình Với môi trường tự nhiên đắp đê phòng lũ lụt được phản ánh rõ nét trong truyện cổ tích "Sơn Tinh, Thủy Tinh, không chỉ con người Việt Nam, mà hầu như tất cả các cộng đồng dân tộc quốc gia trên thế giới đều phải tìm hiểu, lựa chọn thích nghi để tồn tại. Và quá trình đó đã nảy sinh những yếu tó văn hóa mà ta gọi là " văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên". Và những yếu tố văn hóa đó đã thể hiện rất rõ trong sinh hoạt của con người. _ Đó là việc con người đã sử dụng những sản phẩm của tự nhiên như: tre nứa, gỗ lạt, mây tre măng trúc để làm nhà, thức ăn, thức uống khai thác ở sông suối, đánh bắt ở biển để chế biến thức ăn trong bữa ăn. Đặc biệt, có những sản vật nổi tiếng được chế biến từ cá, tôm, canh cua.... Trong kiến trúc nhà cửa: con người đã biết nhắm hướng nhà, hướng đất, tránh hướng gió độc, đón lấy hướng mắt trời, hay xây dựng nhà cửa gần sông suối để tiện nước sinh hoạt, trồng trọt _ Một điểm đăc biệt trong kiến trúc nhà cửa, là các kiến trúc đều thuận theo thuật phong thủy. Đó là sự hài hòa giữa thế đất, thế núi, nguồn nước...Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc kinh thành như thành Thăng Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế...hay trong thuyết tam tài của người dân là : "thiên - địa - nhân" _ Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của con người còn được thể hiện trong cách ăn mặc của người dân. Đó là cách ứng xử mùa nào thức nấy, mùa hè mặc chất liệu vải mát, mùa đông màu áo chất liệu vải giữ nhiệt... _ Hay trong kinh nghiệm sản xuất, trị thủy. Dự báo thời tiết, mùa nào thì nên trồng cây nào cho thích hợp ... Tuy nhiên, hiện nay, do môi trường cơ chế thị trường, con người đã xâm hại tự nhiên quá lớn, để rồi tự nhận lãnh hậu quả là những trận lũ lụt khủng khiếp, động đất, sóng thần... Vì thế, để được thiên nhiên giúp đỡ, mọi người hãy tự nhận thức sự cần thiết của môi trường tự nhiên, hãy bảo vệ và xây dựng để môi trtường ngày càng tốt đẹp hơn Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội _ Người Việt Nam ngay từ nhỏ đã được dạy dỗ theo các chuẩn mực đạo đức của dân tộc và của đạo Khổng, trong đó chú trọng việc tu thân dưỡng tính, lấy chữ Nhân làm trọng, kính trên nhường dưới, luôn rèn luyện để có thể cống hiến thật nhiều cho đất nước và chăm lo cho gia đình. Đến thời hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng các quan điểm đạo đức xa xưa lên một tầm cao mới, với các lời căn dặn như: "Trung với nước, hiếu với dân" (ngày xưa là "Trung quân ái quốc"). _ Người Việt Nam có tinh thần "tôn sư trọng đạo". Người Việt xem cha mẹ có công sinh thành ra mình, còn thầy cô có công dưỡng dục mình nên người: "Mùng một Tết cha, mùng hai Tết chú, mồng ba Tết thầy". Những nghề nghiệp được tôn phong bằng chữ "sư" (thầy) là những nghề nghiệp được người Việt tôn kính: võ sư, thầy thuốc...Việt Nam có Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11. _ Việt Nam thời phong kiến "trọng nam khinh nữ", điều này gây nhiều bất hạnh cho người phụ nữ. Phụ nữ phải thực hiện "tam tòng tứ đức". Sau khi lập nước năm 1945, Chính phủ công nhận chính thức quyền bình đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh viết tặng chị em phụ nữ 8 chữ vàng "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".và câu danh ngôn "trên bước đường thành công không có dấu chân kẻ lười biếng" Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 6
  • 7. GV Trần Quang Khánh 7 Xã hội • Nông nghiệp Khoảng 74% người Việt Nam hiện sống tại các vùng nông nghiệp, và mặc dầu nhiều vùng đang bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa và toàn cầu hoá, các phong tục nông nghiệp và các truyền thống hiện vẫn đóng một vai trò mạnh mẽ trong việc hình thành văn hóa Việt Nam. Trên tổng số dân 83.535.576 sẽ có 66.828.460 người sống ở các vùng nông thôn và 16.707.115 người sống ở các vùng đô thị. Trong tương lai không xa nữa, với tốc độ đô thị hóa và hoàn cảnh đất nước hội nhập WTO thì các đô thị mới sẽ mọc lên, vùng nông thôn được thu hẹp lại, kéo theo là đời sống nhân dân tăng cao. • Tổ chức Nói về các thuật ngữ phản ánh các mức độ tổ chức xã hội, hai đơn vị quan trọng nhất là làng và nước. Người Việt thường nói rằng làng liên quan chặt chẽ với nước. Các đơn vị tổ chức trung gian như huyện và tỉnh có nhiều tầm quan trọng thấp hơn. • Quan hệ dòng tộc: _ Ở nước Việt Nam nông nghiệp, quan hệ dòng tộc đóng một vai trò quan trọng. Nếu có thể nói rằng các nền văn hóa Phương Tây coi trọng chủ nghĩa cá nhân, thì cũng có thể nói rằng các nền văn hóa Phương Đông coi trọng những vai trò gia đình và dòng họ. So sánh với văn hóa Phương Tây, văn hóa Trung Quốc đề cao gia đình hơn dòng họ trong khi văn hóa Việt Nam đề cao dòng họ hơn gia đình. Mỗi dòng họ có một trưởng họ, nhà thờ họ và những ngày giỗ họ. _ Đa số dân cư có liên hệ với nhau về huyết thống. Sự thực này hiện vẫn còn có thể bắt gặp trong những tên làng ví dụ Đặng Xá (làng của người họ Đặng), Châu Xá, Lê Xá,... vân vân. Ở Tây Nguyên truyền thống nhiều gia đình thuộc một họ ở chung với nhau trong những ngôi nhà dài hiện vẫn phổ biến. Ở đa số các vùng nông nghiệp hiện nay ở Việt Nam vẫn còn thấy ba tới bốn thế hệ sống dưới cùng mái nhà. _ Bởi vì quan hệ dòng tộc đóng vai trò quan trọng trong xã hội nên có một hệ thống quan hệ thứ bậc rất phức tạp. Trong xã hội Việt Nam, có chín kiểu quan hệ họ hàng gần xa riêng biệt (cửu tộc). _ Hầu như mọi ngày giỗ và các ngày lễ bên trong một họ đều tuân thủ các nguyên tắc thế hệ. Những người trẻ tuổi có thể có vị trí cao hơn theo cấp bậc triều đình so với người lớn tuổi nhưng vẫn phải tôn trọng người lớn tuổi kia. Ẩm thực _ Ẩm thực Việt Nam dựa chủ yếu trên gạo, tương và nước mắm. Mùi vị đặc trưng của nó là ngọt, cay, và rất nhiều loại rau thơm khác. Món ăn cơ bản trên mâm cơm hằng ngày là: canh, mặn và món xào. _ Việt Nam cũng có nhiều kiểu mì. Các vùng khác nhau sáng tạo ra các kiểu mì khác nhau, về hình dạng, mùi vị, màu sắc vân vân. Một trong những món mì nổi tiếng nhất là Phở, gồm các sợi bánh phở và nước dùng, thịt bò, thịt gà. Món này có nguồn gốc từ miền bắc Việt Nam. _ Miền trung Việt Nam cũng nổi tiếng với nhiều món ẩm thực ngon miệng và có những hương vị rất riêng. Trang phục _ Trang phục Việt Nam rất đa dạng. Ở thời phong kiến, có những quy định khắt khe về cách ăn mặc. Dân thường không được phép mặc đồ nhuộm bất kỳ màu gì ngoài đen, nâu hay trắng. Quần áo của người dân hầu hết rất là tầm thường và đơn sơ, đễ hợp với số phận trong xã hội (ngoài những dịp lể quan trọng hoạc đắm cưới vân vân). Một trong những y phục cổ xưa nhất mà đã được phụ nữ bình dân mặc từ xưa đến đầu thế kỷ 20 là bộ Áo tứ thân. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là Áo tứ thân có thể đã ra đời từ thế kỷ 12. _ Vào thế kỷ 18, người bình dân ở hết 3 vùng chính Việt Nam đã bắt đầu mặc bộ đồ pijama đơn sơ (có thể có nguồn gốc ở miền nam), được gọi là áo cánh ở miền bắc và Áo bà ba ở miền nam. Khăn trùm đầu của họ là một mảnh vải đơn giản quấn quanh đầu và đồ đi dưới chân chỉ là một đôi guốc. Những dịp trọng đại đàn ông mặc hai thứ đồ truyền thống là áo dài có xẻ hai bên, và một khăn xếp, thường màu đen hay xám và được làm bằng vải bông hay tơ tằm. _ Trang phục của cung đình, khác biệt hẳn từ trang phục đơn sơ của nông dân, rất rắc rối và gồm cố tới bao chục kiểu áo khác nhau đễ hộp với mổi hoàn cảnh và nghi lễ. Chỉ riêng nhà vua được quyền mặc đồ màu vàng, quan lại mặc đồ đỏ hay màu tía. Còn làm rắc rối hơn là mổi triều đại có thể thích thú hoạc coi khinh Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 7
  • 8. GV Trần Quang Khánh 8 kiểu áo hòang gia của triều đại trước, hèn chi thời trang ở trong cung đình nhiều lúc thay đổi với mổi triều đại. _ Trang phục truyền thống Việt Nam mà được quí nhất ngày nay là chiếc "Áo Dài", thường được mặc trong những dịp đặc biệt như cưới hỏi,tang tế v.v... Trang phục này có thể là đã có nguồn gốc từ thế kỷ 18 hoạc ở trong cung đình Huế. Từ lúc đó, Áo dài đã trải qua bao nhiêu sự phát triển, từ bộ áo ngũ thân rất rộng và không bó vào người như Áo dài hiện nay, cho tới bao nhiêu cải tiến khác nhau để hợp với những thay đổi trong thế giới thời trang. Cũng có người cho rằng Áo tứ thân mới là Áo dài đầu tiên, đã được biến thành Áo ngũ thân và cuối cùng mới thành chiếc Áo dài mình có hôm nay. _ Áo dài trắng đã trở thành bắt buộc tại nhiều trường cấp ba Việt Nam. Các giáo viên nữ mặc Áo Dài mọi buổi lên lớp. Một số nữ nhân viên văn phòng như tiếp tân, thư ký, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc Áo dài khi làm việc. Và theo đánh gia của một tờ báo của Nhật thi dường như chỉ có dáng của người con gái Việt Nam là mặc áo dài đẹp nhất _ Vì sự phổ biến của nó, áo dài đã trở thành biểu tượng quốc gia, đại diện cho các giá trị văn hóa Việt Nam. _ Trong đời sống hàng ngày, kiểu ăn mặc truyền thống viên nay hiện đã theo phong cách phương tây. Trang phục truyền thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt. Phụ nữ có thể không mặc váy và cả hai giới hiếm khi mặc các loại quần sóc. Tôn giáo _ Tôn giáo chủ yếu ở Việt Nam là Tam Giáo đặc trưng bởi sự phức tạp pha trộn tôn giáo ở vùng Đông Á giữa Phật giáo đại thừa, Khổng giáo, và Đạo giáo là các tôn giáo ngoại nhập. Ngoài các tôn giáo trên, còn có hai tôn giáo Cao Đài và Hoà Hảo- là các tôn giáo nội sinh. Các cộng đồng thiểu số Thiên chúa giáo chiếm khoảng 8% và đa số theo Thiên chúa giáo La Mã, nhưng có một thiểu số nhỏ gồm những nhóm Tin Lành mới về sau này. Những nhà thờ Tin lành lớn nhất là Nhà thờ phúc âm Việt Nam và Nhà thờ phúc âm Degar. _ Một tập hợp lẫn lộn dòng Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Bashi đã bản địa hóa cũng được thi hành tín ngưỡng phần lớn bên trong dân tộc thiểu số Chàm, nhưng cũng có một số người thiểu số Việt Nam theo Đạo Hồi ở phía tây nam Văn hóa vùng lãnh thổ _ Văn hóa vùng thuộc dạng thức văn hóa lãnh thổ, mang tính chất liên văn hóa. Văn hóa vùng (hay văn hoá địa phương) là một thực thể văn hóa, hình thành và tồn tại trong một không gian lãnh thổ nhất định, thể hiện qua một tập hợp các đặc trưng văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại vận chuyển; về cách tổ chức xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong tục và lễ hội; về các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật; về vui chơi giải trí; về các sắc thái tâm lí của cư dân..., từ đó có thể phân biệt với các đặc trưng văn hóa của vùng khác. Những đặc trưng văn hóa đó hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài, do cư dân các dân tộc trong vùng thích ứng với cùng một điều kiện môi trường, có sự tương đồng về trình độ phát triển xã hội, đặc biệt là giữa họ có mối quan hệ giao lưu văn hóa mật thiết. Trên cơ sở những quan niệm lí thuyết nêu trên, Giáo sư Ngô Đức Thịnh đã tiến hành phân vùng văn hóa ở Việt Nam thành 7 vùng văn hóa lớn, trong mỗi vùng như vậy lại có thể phân chia thành các tiểu vùng văn hóa nhỏ hơn, khoảng 23 tiểu vùng. *VAÊN HOAÙ GOÁC NOÂNG NGHIEÄP 1. Caùc ñaëc tröng cuûa vaên hoùa goác noâng nghieäp theå hieän trong quan heä giao tieáp cuûa ngöôøi Vieät _Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp. Người Trung Quốc viết chữ “nhân” với nghĩa là “tính người” 仁bằng cách ghép chữ “nhị” với bộ “nhân đứng” tính người bộïc lộ trong quan hệ giữa hai người. Nhà triết học người Đức L. Pheurbach từng viết: “Con người cá thể không chứa bản chất con người trong mình… Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong thể thống nhất giữa con người với con người. Con người để cho mình chỉ là con người theo nghĩa thông thường; còn con người trong giao tiếp với đồng loại, trong sự thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế” (dẫn theo Kagan [1988: 24]). 1.1. Trước hết, xét về THÁI ĐỘ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè. Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 8
  • 9. GV Trần Quang Khánh 9 _ Như đã nói, người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra mối quan hệ: Dao năng liếc năng sắc, người năng chào năng quen (tục ngữ). Sự giao tiếp củng cố tình thân: Áo năng may năng mới, người năng tới năng thân (tục ngữ). Năng lực giao tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá con người, ca dao có câu: - Vàng thì thử lửa, thử than, Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời. - Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên… Vì coi trọng giao tiếp cho nên người Việt Nam rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai điểm: _ Từ góc độ của mình, chủ thể giao tiếp, thì người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Phàm đã là người Việt Nam, đã thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau ở đâu, bao nhiêu lần đi nữa, những lúc rảnh rỗi, họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng nhau đây không còn là nhu cầu công việc mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ. Đối với phương Tây, người ta chỉ đi thăm viếng những người mà bình thường mình ít có điều kiện gặp gỡ. _ Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu, cũng cố gắng tiếp đón một cách chu đáo và tiếp đãi một cách thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, các đồ ăn ngon nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ Đói năm, không ai đói bữa. GS. Phan Ngọc [1996: 38] nhận xét: “Bạn đi công tác, đến đâu có dân là ở đấy có sự che chở. Người ta nhường cho bạn nơi nào? Gian thờ. Gian nhà được xem là trang trọng nhất. Mà bạn nào giúp đỡ gì cho họ đâu, nào có bà con gì với họ đâu? Họ nghèo thì chịu nghèo, đói thì chịu đói chứ không để cho bạn đói. Tôi có gặp một anh bạn người Đức. Anh ta không sao hiểu được chuyện này. Nếu là ở Đức, vào nhà người ta là rất khó, ngủ lại càng khó, đừng nói ngủ ở nơi trang trọng nhất”. Tính hiếu khách này càng tăng lên khi ta về những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi. “Người đàn bà – A. Pazzi [1970: 47] nhận xét – dầu có nhan sắc đến đâu, tài giỏi đến đâu cũng bị người Việt Nam coi là người vợ xấu nết nếu làm mất lòng khách đến thăm nhà, tỏ ra thái độ không mấy lịch thiệp, hoặc là ích kỷ, khó tính đối với bà con, bạn hữu”. _ Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có một đặc tính gần như ngược lại là rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách dường như trái ngược nhau (tính thích giao tiếp và tính rụt rè) này chính là bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị: _ Đúng là người Việt Nam xởi lởi, rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi thấy mình đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng (liên kết) ngự trị. Còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, bao giờ cũng tỏ ra rất rụt rè. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau ấy lại không hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất. Là biểu hiện cho cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam. 1.2. Xét về QUAN HỆ GIAO TIẾP, nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm – lấy sự yêu sự ghét – làm nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp: Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo… (tục ngữ), và: Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 9
  • 10. GV Trần Quang Khánh 10 - Yêu nhau yêu cả đường đi, Ghét nhau, ghét cả tông ty họ hàng. - Yêu nhau cau sáu bổ ba, Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười. - Yêu nhau mọi việc chẳng nề, Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. (ca dao) _ Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm nguyên lý chủ đạo nhưng vẫn thiên về âm tính hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lý thì tình được đặt cao hơn lý: Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình (tục ngữ); Đưa nhau đến trước cửa quan, Bên ngoài là lý, bên trong là tình (ca dao)… Vẫn biết rằng tiền của là quý, là quan trọng (Có tiền mua Tiên cũng được - tục ngữ), nhưng người Việt Nam còn biết rõ hơn rằng: Có tình có nghĩa hơn cả của tiền (tục ngữ); Của tiền có có không không, Có tình có nghĩa còn mong hơn tiền (ca dao). _ Người Việt Nam luôn nhắc nhở nhau coi trọng tình cảm hơn mọi thứ ở đời. Trong gia đình thì Vợ chồng là nghĩa ở đời, Ai ơi chớ nói những lời thiệt hơn (ca dao). Ngoài xã hội, ai giúp mình một chút gì đều phải nhớ ơn; ai bảo ban mình một tý gì cũng đều tôn làm thầy: Ở Việt Nam, khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng – thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói, thầy địa lý, thầy phù thủy, thầy cãi, thầy rắn (người giỏi về các loại rắn, chữa rắn cắn ở Nam bộ), v.v. và v.v. 1.3. Với ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP, người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá… Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này (hoàn toàn trái ngược với người phương Tây!) khiến cho người nước ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này – dù gọi bằng tên gì đi chăng nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm nữa của tính cộng đồng làng xã mà ra. _ Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do phân biệt chi ly các quan hệ xã hội, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, mà muốn chọn được từ xưng hô cho thích hợp thì cần phải có đủ các thông tin cần thiết về cá nhân người đối thoại. _ Tính hay quan sát khiến người Việt Nam có được một kho kinh nghiệm xem tướng hết sức phong phú: chỉ cần nhìn vào cái mặt, cái mũi, con mắt… là đã biết được tính cách con người. Chẳng hạn, riêng về xem người qua con mắt đã có các kinh nghiệm như: - Trên trời Phạm Nhan, thế gian một mắt (tục ngữ) - Đàn bà con mắt lá dăm, Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền. - Người khôn con mắt đen sì, Người dại con mắt nửa chì nửa thau. - Con lợn mắt trắng thì nuôi, Những người mắt trắng đánh hoài đuổi đi. - Những người ti hí mắt lươn, Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người… (ca dao). Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 10
  • 11. GV Trần Quang Khánh 11 _ Biết tính cách, biết người để lựa chọn chọn đối tượng giao tiếp thích hợp: Tùy mặt gởi lời, tùy người gởi của; Chọn mặt gởi vàng (tục ngữ). Trong trường hợp không được quyền lựa chọn thì người Việt Nam sử dụng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặt áo cà sa, đi với ma mặt áo giấy (tục ngữ). 1.4. Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới góc độ CHỦ THỂ GIAO TIẾP, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng (tục ngữ). Như đã nói, danh dự được người Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp: Lời nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng. Không phải ngẫu nhiên mà từ “tiếng” trong tiếng Việt, từ nghĩa ban đầu là “ngôn ngữ” (ví dụ: tiếng Việt), đã được mở rộng ra để chỉ sản phẩm của ngôn ngữ (ví dụ: Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa), và cuối cùng, chỉ cái thành quả mà tác động của lời nói đã gây nên đó là “danh dự, uy tín” (ví dụ: nổi tiếng). Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện - Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. - Đem chuông đi đấm nước người, Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh. (ca dao) - Một quan tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng. (tục ngữ) _ Ở làng quê, thói sĩ diện thể hiện trầm trọng ở tục lệ ngôi thứ nơi đình trung là tục chia phần. Các cụ già bảy tám mươi, tuy ăn không ăn được, nhưng vì danh dự (sĩ diện), vẫn có thể to tiếng với nhau vì miếng ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Thói sĩ diện này đã được Lưu Quang Vũ lấy làm đề tài riêng cho một vở kịch là Bệnh sĩ: “Người Việt Nam coi trọng cái tiếng hơn bất cứ thứ gì trên đời” đó là lời một nhân vật trong vở kịch. Thói sĩ diện đã tạo nên giai thoại “cá gỗ” nổi tiếng về ông đồ xứ nghệ che dấu cái nghèo của mình bằng cách làm những con cá bằng gỗ để bày ra mỗi bữa ăn. Thói sĩ diện buộc người ta phải sống và hành động khác mình, nhiều khi giả dối với chính mình. _ Lối sống trọng danh dự, trọng sĩ diện dẫn đến cơ chế tin đồn, tạo nên dư luận như một vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã. Người Việt Nam sợ dư luận tới mức nhà văn Lê Lựu đã viết trong tiểu thuyết Thời xa vắng: “Người ta chỉ dám lựa theo dư luận mà sống chứ ai dám dẫm lên dư luận mà đi theo ý mình”. “Ở đời này người ta chỉ sẵn sàng chết đói, chết rét, chết bom, chết đạn để che chở, nuôi nấng cho con mình tai qua nạn khỏi, con mình được sung sướng, được vinh hoa chứ không ai chịu tai tiếng, chịu sỉ nhục để con mình được tự do theo ý nó”. 1.5. Về CÁCH THỨC GIAO TIẾP, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. _ Lối giao tiếp tế nhị, ý tứ khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo tam quốc”, không bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải vấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để tạo không khí, để đưa đẩy, người Việt Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 11
  • 12. GV Trần Quang Khánh 12 Nam trước đây có truyền thống “miếng trầu làm đầu câu chuyện”. Với thời gian, trong chức năng “mở đầu câu chuyện” này, “miếng trầu” từng được thay thế bằng chén trà, điếu thuốc lá, ly bia… _ Để biết người đối thoại với mình còn cha mẹ hay không, người Việt Nam thường hỏi: Các cụ nhà ta vẫn mạnh giỏi cả chứ? Để biết người phụ nữ đang nói chuyện với mình có chồng hay không, người Việt Nam ý tứ sẽ hỏi: Chị về muộn thế liệu anh nhà (hay ông xã) có phàn nàn không? Còn đây là lời tỏ tình rất vòng vo của người con trai Nam Bộ (nơi mà người Việt có tiếng là bộc trực hơn cả) qua một bài ca dao: Chiếc thuyền giăng câu, Đậu ngang cồn cát, Đậu sát mé nhà, Anh biết em có một mẹ già, Muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không? _ Lối giao tiếp “vòng vo tam quốc” kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp tạo ra ở người Việt Nam thói quen chào hỏi “chào” đi liền với “hỏi”: “Bác đi đâu đấy?”, “Cụ đang làm gì đấy?”… Ban đầu, hỏi là để có thông tin, dần dần trở thành một thói quen, người ta hỏi mà không cần nghe trả lời và hoàn toàn hài lòng với những câu “trả lời” kiểu: “Tôi đi đằng này một cái” hoặc trả lời bằng cách hỏi lại, chẳng hạn, với câu hỏi: Cụ đang làm gì đấy?, có thể trả lời: Vâng, bác đi đâu đấy? _ Lối giao tiếp ưa tế nhị ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối quan hệ (tư duy tổng hợp, biện chứng). Nó tạo nên một thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói năng: - Ăn có nhai, nói có nghĩ. - Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói. - Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. - Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì sống… (tục ngữ) - Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. - Trăm người bán, vạn người mua, Lựa lời mà trả cho vừa lòng nhau. - Ở sao cho vừa lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. - Người khôn ăn nói nửa chừng, Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo… Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 12
  • 13. GV Trần Quang Khánh 13 (ca dao) _ Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. “Suy từ nụ cười, chúng ta thấy người Việt Nam có một sự quân bình đặc biệt suốt trong mọi ngành sinh hoạt khiến họ chấp nhận hợp lý được mọi quan niệm, dung hòa đuợc mọi ý kiến dị đồng. Đời sống của dân tộc họ dù có chiến thắng vẫn không có những hân hoan tột độ, và dù chiến bại vẫn không có những bi đát tột cùng” [Pazzi 1970: 12-13]. _ Tâm lý trọng sự hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn nhau: Một sự nhịn là chín sự lành (tục ngữ); Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê (ca dao)… 1.6. Người Việt Nam có một hệ thống NGHI THỨC LỜI NÓI rất phong phú. _ Trước hết, đó là sự phong phú trong HỆ THỐNG XƯNG HÔ tiếng Việt: Trong khi các ngôn ngữ khác chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt, ngoài các đại từ nhân xưng (mà số lượng cũng rất phong phú do có nhiều biến thể), còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng (anh, chị - em; ông, bà, bác, cô, gì, chú - cháu, con…) và một số danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (thầy, cô, bác sĩ, ông cai, ông lý, ông huyện, ông đội…) để thay thế cho đại từ, chúng trở thành các từ đại từ hóa, những từ đại từ hóa này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Trong tiếng Việt có tổng cộng trên 60 từ xưng hô. Hệ thống xưng hô cực kỳ phong phú này thể hiện rất rõ các đặc tính của văn hóa nông nghiệp Việt Nam: a) Có tính chất thân mật hóa cao (đặc tính trọng tình cảm). Với cách xưng hô này, tất cả mọi người trong cộng đồng đều trở thành bà con họ hàng trong một gia đình. b) Có tính chất cụ thể hóa cao (tính linh hoạt). Trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái “tôi” chung chung: với mỗi người đối thoại khác nhau, người nói ở vào những cương vị khác nhau, những vai khác nhau. Trong hệ thống từ xưng hô này, cũng không có cái “anh” chung chung, cái “nó” chung chung; quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp: Cùng là một cặp đối thoại, lúc ở trường học thì người này gọi người kia là thầy, nhưng khi về nhà thì lại gọi là em, vì người thầy kia chính là em trai (hoặc em họ) của người này. Tục ngữ Việt Nam có câu: Chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người nam nữ, nhưng khi nhỏ thường gọi nhau bằng mày-tao; lớn lên gọi nhau là cậu-tớ; lấy nhau rồi gọi nhau là anh-em, là nhà nó; có con rồi gọi nhau là bố nó - mẹ nó, ba nó - má nó; có cháu rồi gọi nhau là ông nó - bà nó. Còn nhớ, vào những năm 60, có một vị lãnh đạo từng kêu gọi mọi người dùng các đại từ tôi, nó trong giao tiếp, xưng hô như ở các ngôn ngữ khác cho giản tiện và dân chủ, thế nhưng truyền thống văn hóa vẫn mạnh hơn: không một người Việt Nam nào có thể xưng “tôi” với một người cao tuổi, một người bậc trên; cũng như không một người Việt Nam nào có thể gọi một người cao tuổi, một người bậc trên là “nó”. c) Có tính xã hội hóa cao (tính cộng đồng). Hai người nói chuyện với nhau đấy, xưng hô với nhau đấy, nhưng thực ra vẫn luôn luôn kéo cả những người thứ ba, thứ tư… vào cuộc. Đó là những lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên vợ, tên chồng… Hai vợ chồng gọi nhau là bố nó - mẹ nó, ba nó - má nó, ông nó - bà nó… chẳng là đã lôi cả những người thứ ba là con mình, cháu mình vào cuộc đấy ư? Hai người nói chuyện với nhau đấy nhưng cũng chính là đang thông báo, đang tự giới thiệu cho những người ngoài những người Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 13
  • 14. GV Trần Quang Khánh 14 thứ tư biết rằng mình đã có con, có cháu; đã lên bậc cha, bậc mẹ; lên bậc ông, bậc bà…, để những người này nếu muốn nói chuyện với mình thì còn biết đường mà xưng hô! d) Có tính đa nghĩa cao (tính tổng hợp). Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có thể đồng thời tổng hợp được các quan hệ khác nhau: Lối xưng hô ông-con, chú-con, bác-em… vừa thể hiện quan hệ “ông- cháu”, “chú-cháu”, “bác-cháu”, vừa thể hiện quan hệ “cha-con”, “anh-em”; vừa thể hiện được sự cách biệt về tuổi tác (gọi “ông” là cách biệt rất lớn, ngang tuổi ông mình; gọi “bác” là cách biệt nhiều, ngang tuổi anh bố mình; gọi “chú” là cách biệt ít hơn, ngang tuổi em bố mình), sự cách biệt về vai vế (“ông” bằng vai với ông mình, “chú”, “bác” bằng vai với bố mình), vừa thể hiện được sự gần gũi, thân mật như cha con, anh em. Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng là em và đều cùng gọi nhau là chị lối xưng hô ấy không có gì mâu thuẫn, bởi lẽ một người xưng là “em” vì ít tuổi hơn, còn người kia xưng “em” vì có vai vế thấp hơn. Những quan hệ phức tạp khác nhau trong cuộc sống đều được thể hiện rất tài tình trong hệ thống xưng hô của người Việt Nam. e) Có tính tôn ty, nhưng đồng thời lại vẫn rất dân chuû. Tôn ty đây là sự thể hiện đúng quan hệ tuổi tác, thứ bậc trong họ hàng, ngoài xã hội…, và vì thể hiện đúng, cho nên rất dân chủ, công bằng. Dân chủ cho nên mới có chuyện cả hai cùng là chị và cùng là em. Dân chủ cho nên mới có cách gọi theo tên chồng tên vợ: Trong khi ở phương Tây chỉ có cách gọi theo tên chồng thể hiện quyền sở hữu của người chồng, thì ở Việt Nam, bạn bè của chồng có thể gọi vợ là chị Thanh (= “vợ anh Thanh”), bạn bè của vợ có thể gọi chồng là anh Nga (= “chồng chị Nga”). f) Thể hiện tâm lý nhường nhịn, trọng sự hòa thuận (hiếu hòa). Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (tự xưng thì khiêm nhường còn gọi đối tượng giao tiếp với mình thì tôn kính). Tính khiêm nhường này gắn liền với tính xã hội hóa: khiêm nhường đến mức không có một đại từ ngôi thứ nhất chung chung mà có rất nhiều cách tự thể hiện mình khác nhau: với người ngang hàng thì xưng là tôi, tớ, tao, mình…, với người trên thì xưng là em, con, cháu…, với người dưới thì xưng là anh/chị, cô/chú, bác, ông/baø… Khiêm và tôn đến mức hai trong số các đại từ dùng để tự xưng với người ngang hàng là tôi và tớ vốn bắt nguồn từ hai danh từ tôi và tớ có nghĩa là kẻ hầu người hạ (so sánh các cách nói bầy tôi, kẻ tôi tớ này…). Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: tên riêng xưa kia không phải là cái dùng để gọi nhau (trái với chức năng bẩm sinh của nó!); gọi đến tên riêng, nhất là tên riêng của bố mẹ nhau (tên cái), là một sự xúc phạm ghê gớm – người ta chỉ lôi tên cái ra để “réo” khi chửi nhau. Đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề trên trong họ hàng cũng như xung quanh hàng xóm. Cũng vì kiêng tên riêng mà người Việt Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy: vào nhà ai, phải hỏi tên chủ nhà trước để khi nói chuyện nếu có dùng đến từ đó thì phải nói chệch đi (người phương Tây thì, ngược lại, gặp nhau phải hỏi tên nhau để còn dùng tên ấy mà gọi). Có trường hợp hai người quen nhau mấy chục năm mà chỉ khi một trong hai người mất, người kia mới biết được tên thật của bạn qua cáo phó; và không phải ngẫu nhiên mà trong một cuộc thi “Ở nhà chủ nhật” của Đài truyền hình VTV3 có câu đố yêu cầu các cháu tham gia cuộc thi nói được tên thật của bà nội mình. Trong cuộc sống, trẻ em luôn giấu tên bố mẹ vì sợ bị các bạn lôi ra chửi. Một hệ thống xưng hô quá tinh tế và linh hoạt như vậy chỉ gặp trong tiếng Việt và một vài ngôn ngữ Đông Nam Á chứ không có trong các ngôn ngữ phương Tây, Trung Hoa, kể cả những ngôn ngữ mà sự kính trọng người trên đã được ngữ pháp hóa như tiếng Nhật Bản, Hàn Quốc. Nghi thức lời nói trong lĩnh vực CÁC CÁCH NÓI LỊCH SỰ cũng rất phong phú. Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 14
  • 15. GV Trần Quang Khánh 15 Do truyền thống nặng về tình cảm và tính linh hoạt nên người Việt Nam truyền thống không có những từ cảm ơn, xin lỗi khái quát có thể dùng chung cho mọi trường hợp như người phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với mỗi người, ta có một cách xưng hô khác nhau thì trong việc cảm ơn, xin lỗi, mỗi trường hợp có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú! (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá!, Anh tốt quá! (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá! (cảm ơn khi được tiếp đón chu đáo), Quý hóa quá! (cảm ơn khi có khách đến thăm), Anh quá khen! (cảm ơn khi được khen), Cậu đã cứu cho tớ một bàn thua trông thấy!, Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy! (cảm ơn khi được giúp đỡ)…; Nói vô phép, Nói khí không phải (xin lỗi khi nói điều gì sơ xuất), Tôi sơ ý (vô ý) quá, Tôi lỡ tay, Mong bác bỏ quá đi cho (xin lỗi khi làm hỏng)… Tiếng Việt thậm chí còn không có từ nào tương ứng với các khái niệm please, s’il vous plait, ïỵỉàëĩéđịà của các tiếng Anh, Pháp, Nga; khi cần thể hiện nghĩa này, người Việt Nam thường nói: Phiền ông (bà), Ông bà làm ơn, Xin phép cụ, Xin gởi ông, Không dám, Có gì đâu… tùy từng trường hợp. Trong lĩnh vực NGHI THỨC CHÀO HỎI thì trong khi người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội, theo không gian (hệ thống xưng hô đã nói ở trên) và theo sắc thái tình cảm (Cháu chào ông ạ!; Xin phép ông cháu về; Ông ở lại, cháu về!…) thì người phương Tây lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay (tiếng Anh: How do you do, Good-bye; tiếng Pháp: Salut, Au revoir; tiếng Nga: Здравствуйте, Досвидание); chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối… (tiếng Anh: Good morning, Good afternoon, Good night; tiếng Pháp: Bonjour, Bonsoir, Bonne nuit; tiếng Nga: Доброе утро, Добрый день, Добрый вечер,……). Điều đó cho thấy rõ sự khác biệt giữa văn hóa gốc nông nghiệp ưa sống ổn định (nên vị trí xã hội và tình cảm là quan trọng) với văn hóa gốc du mục ưa hoạt động (nên thời gian là quan trọng). Người Việt Nam nông nghiệp chú trọng quan hệ không gian nhiều hơn, người phương Tây công nghiệp chú trọng quan hệ thời gian nhiều hơn. 2. Tính bieåu tröng, bieåu caûm vaø tính linh hoaït trong ngheä thuaät ngoân töø Vieät Nam _Công cụ của giao tiếp là ngôn ngữ. W. Humboldt, nhà văn hóa lớn của nhân dân Đức, từng nói rằng ngôn ngữ là “linh hồn của một dân tộc”. Nhìn vào tiếng Việt, có thể thấy đúng là nó phản ánh rõ hơn đâu đâu hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam. 2.1. Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG cao. Tính biểu trưng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa. Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Trong khi người Pháp nói de toutes parts (từ tất cả các phía), người Anh nói he opens his eyes (nó mở những con mắt của nó) thì người Việt nói từ ba bề bốn bên, từ khắp bốn phương trời; nó mở to đôi mắt. Ở những trường hợp, khi người châu Âu dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ chỉ số lượng ước lệ [Phan Ngọc 1989: 24]: ba thu, nói ba phải, ba mặt một nhời, năm bè bảy mối, tam khoanh tứ đốm, trăm khôn ngàn khéo, tiền trăm bạc vạn, trăm họ, vạn sự, ngàn thu… Nguyễn Bính viết: Nhà em cách bốn quả đồi, Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng, Nhà em xa cách quá chừng, Em van anh đấy, anh đừng thương em! Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 15
  • 16. GV Trần Quang Khánh 16 _ Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt. _ Theo nguyên lý cấu trúc loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng không nhỏ các từ song tiết; điều quan trọng hơn nữa là mỗi từ đơn tiết lại hầu như đều có thể có những biến thể song tiết, dạng láy, cho nên thực chất trong ngôn từ, lời nói Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu tạo theo cấu trúc có hai vế đối ứng: trèo cao / ngã đau; ăn vóc / học hay; một quả dâu da / bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt / không biết dựa cột mà nghe… _ Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối là một loại sản phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công phu tỷ mỷ, lại vừa cô đúc ngắn gọn. Trong một tác phẩm “mini” ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp nhàng của hình thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lý phương Đông. Ở Việt Nam xưa kia, nhà nhà, đình đình, chùa chùa… nơi nào cũng đều có treo câu đối. Và trong mọi dịp, người ta đều làm câu đối từ việc hiếu cho đến việc hỷ. Câu đối chữ Hán có, chữ Nôm có,vừa Hán vừa Nôm cũng có. _ Đây là đôi câu đối của Nguyễn Khuyến làm cho một người vợ khóc chồng làm nghề thợ nhuộm với đủ mọi kỳ công: vế trước nói về vợ, vế sau nói về chồng; vế trước nói về người sống, vế sau nói về về người chết; nghĩa đen với tình cảm vợ chồng thắm thiết, nghĩa bóng với đủ mọi sắc màu của nghề thợ nhuộm: Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, lúc vận tía, buổi cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ; Chàng ở dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh. _ Kurn Stern trong lời tựa một tập thơ Việt Nam dịch ra tiếng Đức có nhận xét rằng “Việt Nam là đất nước của thơ ca và chiến tranh”. Người Việt Nam, hầu như ai cũng biết làm thơ. Văn hóa gốc nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm tất yếu sẽ có khuynh hướng thiên về thơ; văn hóa gốc du mục trọng dương, trọng lý trí tất yếu dẫn đến khuynh hướng thiên về văn xuôi: truyền thống văn chương phương Tây mạnh về văn xuôi. Trung Hoa cũng thiên về văn xuôi hơn thơ<!--[if !supportFootnotes]-->[iii]<!--[endif]-->. Trong khi đó, suốt cả lịch sử mấy nghìn năm văn chương của Việt Nam đều là lịch sử của thơ ca – một thứ thơ ca có cấu trúc chặt chẽ (lục bát, song thất lục bát) và có vần điệu nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối hài hòa. _Thống kê trên hai tập Từ điển văn học (NXB KHXH, Hà Nội, 1983-1984) cho thấy trong 198 mục từ về các tác phẩm văn học phương Tây (Châu Âu và Nga) thì có 43 tác phẩm thơ và 155 tác phẩm văn xuôi, tức là văn xuôi chiếm 78,3%. Trong khi đó, trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt Nam (không kể các chuyện cổ tích được nhắc đến riêng rẽ như Trầu Cau, Thánh Gióng…) thì có 69 tác phẩm thơ và 26 tác phẩm văn xuôi, tức là thơ chiếm 72,6% (trong số 26 mục từ văn xuôi này có rất nhiều tác phẩm thuộc các thể loại hịch, chèo, tuồng… là những thể loại mang đậm chất thơ). Đây là một sự khác biệt mang tính nguyên lý, nó bắt nguồn từ chính sự khác biệt gốc rễ giữa hai loại hình văn hóa: Văn hóa gốc DU MỤC với bản tính ĐỘNG tất thiên về trình bày các nội dung tình tiết, sự kiện với bút pháp tả thực và lối diễn đạt tự do phóng túng – tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập trung trong văn xuôi (ngay cả thơ phương Tây chủ yếu cũng là thơ tự do). Văn hóa gốc NÔNG NGHIỆP với bản tính TĨNH tất thiên về trình bày các nội dung tâm lý, tình cảm với bút pháp biểu trưng và lối diễn đạt cân xứng nhịp nhàng – tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập trung trong thơ. Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 16
  • 17. GV Trần Quang Khánh 17 _So sánh Truyện Kiều (TK) của Nguyễn Du là tác phẩm thơ nổi tiếng của Việt Nam với Kim Vân Kiều truyện (KVKT) của Thanh Tâm Tài Nhân là một tác phẩm văn xuôi Trung Hoa mà Nguyễn Du đã mượn làm cốt truyện để sáng tác, ta thấy rất rõ đối lập này: Trong khi KVKT là văn xuôi thì TK là thơ. Những đoạn tả sự kiện, hành động trong KVKT chi tiết, dài dòng bao nhiêu thì trong TK, chúng ngắn gọn, đơn giản bấy nhiêu; với những đoạn tả tâm lý, tình cảm thì diễn ra một tình hình ngược lại: Chẳng hạn, đoạn tả sự kiện Thúc Sinh chuộc Kiều trong KVKT dài trên 1600 chữ thì trong TK chỉ vỏn vẹn có 8 dòng thơ; trong khi đó, đoạn tả nỗi lòng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích ở KVKT chỉ có khoảng chưa đầy trăm chữ thì ở TK Nguyễn Du đã thể hiện nó dài tới 22 dòng thơ! _Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho câu văn rồi. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, hoặc viết theo lối tự do như thơ dụ hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, cho tới những lời văn nôm bình dân … khắp nơi, ta đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu vần điệu. _Đây là một vài câu trong thư của Nguyễn Trãi gửi Vương Thông: “Nhà lớn gần xiêu, một cây gỗ khôn hay chống đỡ; đê dài sắp vỡ, một vốc đất khó thể duy trì. Nếu không lượng sức mà cứ cưỡng làm, thì ít khi không thất bại…”. Còn đây là lời cầu trong trò phụ đồng chổi của trẻ em: “Phụ đồng cái chổi, mau nổi mà lên. Ba bề bốn bên, đồng lên cho chóng. Nhược bằng cửa đóng, cũng phá mà vào; cách sông cách ao, phải vào cho được. Hoặc đồng còn đi quét lá đa, hoặc đồng còn đi xa về gần, hoặc đồng còn đi ân về ái, nghe lời thầy gọi, cũng phải về ngay. Ông chổi đi trước, bà chổi đi sau, dắt díu lấy nhau, nhập vào cái chổi…”. _Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ (không chỉ lời chửi, mà cả cách thức chửi, dáng điệu chửi… cũng mang đầy tính nhịp điệu, xem hình 15.1). Không phải ngẫu nhiên mà ngôn ngữ dân gian Việt Nam vẫn gọi đùa việc chửi bằng các từ chỉ các loại hình nghệ thuật diễn xướng như ca, hát, tế… (ta thường nghe thanh niên nói với nhau: Mày nói vậy, bà ấy tế cho một trận bây giờ; Tao vừa bị mẹ tao ca cho một bài…). Với lối chửi có vần điệu, có cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không hề nhàm chán. Đây là một “nghệ thuật chửi” độc nhất vô nhị mà có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có được. “Nghệ thuật” này, xưa không ai truyền cho ai, nhưng những cô con gái Việt, do đã nghe mẹ, nghe hàng xóm láng giềng chửi nhiều lần nên ngẫu nhiên đã nhập tâm, sau này khi đi lấy chồng, có gia đình riêng, hễ va chạm với xã hội là cái “nghệ thuật” chửi này lại được dịp phô bày và hoàn thiện. _Ở Việt Nam, văn chương truyền thống là văn chương thơ; và thơ truyền thống là thơ có vần điệu, cấu trúc cân đối, nhịp nhàng. Chỉ có sau này, từ đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phương Tây, thơ tự do và tiểu thuyết mới xuất hiện. Nhưng ngay trong thể loại tiểu thuyết mới xuất hiện do ảnh hưởng của văn xuôi phương Tây này cũng vẫn bộc lộ rất đậm nét dấu ấn của truyền thống cân đối nhịp nhàng, biểu trưng ước lệ. Đây là những câu văn tả người của Tản Đà: Tiếng nói nhẹ bao nhiêu, dáng người mềm bấy nhiêu; mềm bao nhiêu, chín bấy nhiêu; chín bao nhiêu, tươi bấy nhiêu; tươi bao nhiêu, tình bấy nhiêu. Như ghét, như yêu, như chiều, như ngượng. Lông mày ngài, đôi mắt phượng, cô chờ ai? (Giấc mộng con). _Không chỉ tiểu thuyết mà ngay cả văn chính luận Việt Nam cũng có thể mang đầy chất thơ nhờ sự cấu tạo cân đối nhịp nhàng. Đọc Tuyên ngôn độc lập hay những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoặc những câu sau đây của Người, ta thấy rất rõ chất thơ đó: “Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì không ai dẫn đường”; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.” Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 17
  • 18. GV Trần Quang Khánh 18 2.2. Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất GIÀU CHẤT BIỂU CẢM – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình cảm. _Về mặt từ ngữ, chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè, xanh lét… Bên cạnh màu đỏ trung tính thì có đỏ rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe… _Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt (ở phần lớn các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Hán, tuy có phương thức láy, nhưng số lượng từ láy thì hết sức ít ỏi, tới mức không đáng kể): không phải ngẫu nhiên mà trong thơ ca của ta có thể gặp rất nhiều từ láy. Ở trên vừa nói tiếng Việt thiên về thơ, mà thơ là mang đậm chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với nó. Chính nhờ sức biểu cảm của các từ láy mà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rất đạt một Tú Bà với hình ảnh Nhác trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao… Một Mã Giám Sinh với hình ảnh Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao, Trước thầy sau tớ lao xao… Còn ai đã từng đọc thơ Hồ Xuân Hương rồi thì quên làm sao được những hình ảnh: Cầu trắng phau phau…, Nước trong leo lẻo…, Cỏ gà lún phún…, Cá diếc le te… _Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ, hả, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” mang sắc thái đánh giá (sách siếc, bàn biếc…) cũng góp phần quan trọng trong việc tăng cường hệ thống các phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt. _Sự phổ biến của thơ hơn văn xuôi đã nói đến ở trên không chỉ là sản phẩm của tính biểu trưng mà rõ ràng cũng đồng thời là sản phẩm của tính biểu cảm. Khuynh hướng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch sử văn chương truyền thống không có những tác phẩm anh hùng ca ca ngợi chiến tranh; có nói đến chiến tranh chăng thì chỉ là nói đến nỗi buồn của nó (ví dụ: Chinh phụ ngâm, một truyện thơ Nôm dài nói về nỗi lòng của người vợ có chồng đi chinh chiến). 2.3. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam còn có đặc điểm thứ ba là TÍNH ĐỘNG và LINH HOẠT. _ Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa. _ Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải chia động từ theo các thể, các ngôi…; phải đặt danh từ vào các giống, các số, các cách…; phải đặt tính từ vào những hình thái phù hợp với danh từ…; tóm lại là phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái nhất mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó yêu cầu (ngay cả khi ý nghĩa ngữ pháp đó đã được thể hiện năm bảy lần trong câu bằng những hình thái khác rồi cũng vậy). Còn trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt, không diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó. Chẳng hạn, để diễn đạt ý nghĩa thời tương lai, tiếng Việt có thể có các cách nói: (Ngày mai) tôi đi Hà Nội; (Ngày mai) tôi sẽ đi Hà Nội, trong khi tiếng Anh chỉ có thể nói: I’ll go to Ha Noi (tomorrow). Để truyền đạt ý nghĩa giống cái, câu tiếng Việt “Coâ giáo trẻ người Nga dạy tôi viết” chỉ cần thể hiện một lần; trong khi câu tiếng Nga tương ứng bắt buộc phải thể hiện tới bốn lần (hai lần bằng tính từ, một lần bằng danh từ và một lần bằng động từ): Ìỵëỵäàÿ ðĩđđêàÿ ĩ÷èịåëüíèưà íàĩ÷èëà ìåíÿ ïèđàịü. Tiếng phương Tây gán ghép giống cho cả những danh từ biểu thị các sự vật không hề có “giống”, Tài liệu Môn học Cơ sở Văn Hóa Việt Nam 18