1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
---------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ThÞ tr-êng vµng viÖt nam thùc Tr¹ng
vµ gi¶i ph¸p
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Mỹ Linh
Lớp :
Khóa : 45
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Thu Thủy
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
2. MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................. 2
CHƢƠNG I: ................................................................................................. 4
TỔNG QUAN VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƢỜNG VÀNG............................... 4
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG .......................................................... 4
1.1. Các đặc tính của vàng..................................................................................4
1.1.1. Tính chất hoá học ......................................................................... 4
1.1.2. Tính chất vật lý............................................................................. 4
1.1.3. Tính thẩm mỹ ............................................................................... 5
1.2. Ứng dụng của vàng......................................................................................5
1.2.1. Làm đồ trang sức .......................................................................... 6
1.2.2. Là một loại kim loại thiết yếu ....................................................... 7
1.2.3. Là tiền loại tiền tệ thế giới chung duy nhất ................................... 7
1.3. Đơn vị đo lường và cách quy đổi của Vàng.................................................8
2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ................................... 8
2.1. Vàng với vai trò là một loại tiền tệ...............................................................9
2.2. Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ...................................................10
2.2.1. Chế độ đồng bản vị..................................................................... 10
2.2.2. Chế độ bản vị vàng ..................................................................... 12
2.2.3. Chế độ lưu thông tiền giấy.......................................................... 15
3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG............................................ 18
3.1. Khái niệm về thị trường vàng....................................................................18
3.2. Các yếu tố tác động đến thị trường vàng ...................................................19
3.3. Một số thị trường vàng phát triển trên thế giới ..........................................24
3. CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM...... 26
1. BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM
HIỆN NAY.................................................................................................. 26
1.1. Các bước phát triển của thị trường vàng Việt Nam ...................................26
1.2. Thực trạng về tình hình hoạt động thị trường vàng giai đoạn 2007-2009..30
1.3. Phân tích những nguyên nhân gây biến động đến thị trường vàng............38
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng Việt Nam...........................40
1.4.1. Chính sách nhà nước................................................................... 40
1.4.2. Biến động thị trường vàng thế giới ............................................. 42
1.3.3. Những yếu tố khác ảnh hưởng đến thị trường vàng Việt Nam .... 49
2. TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƢỜNG VÀNG ĐẾN NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM................................................................................................. 52
2.1. Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu ................................................52
2.2. Ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư...............................................................53
2.3. Ảnh hướng đến thị trường bất động sản ....................................................54
2.4. Ảnh hưởng đến hàng hoá khác ..................................................................55
2.5. Ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của nhân dân....................................56
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM............ 58
3.1. Thành công................................................................................................58
3.2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân.................................................58
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT
NAM............................................................................................................ 60
1. DỰ BÁO XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM................................................................................. 60
1.1. Thị trường vàng thế giới............................................................................60
1.2. Thị trường vàng Việt Nam.........................................................................61
4. 1.3. Những chính sách của nhà nước tác động đến thị trường vàng trong thời
gian tới.......................................................................................................62
2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP ........................................................................... 63
2.1. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về thị trường vàng.........................63
2.2. Đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh ..............................................67
2.3. Phát huy hiệu quả kho ngoại quan vàng ....................................................68
2.4. Phát triển kế hoạch xây dựng sàn vàng quốc gia .......................................70
2.5. Quản lý việc kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng .............................72
2.6. Xây dựng các dịch vụ tư vấn đầu tư vàng..................................................74
2.7. Xây dựng các công cụ phân tích kỹ thuật và thông tin thị trường.............75
2.8. Đẩy mạnh nghiên cứu đào tạo đồng thời phổ biến rộng rãi kiến thưc về giá
vàng và thị trường vàng.............................................................................76
KẾT LUẬN................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 79
5. 1
DANH MỤC BẢNG BIỀU SỬ DỤNG TRONG BÀI
Biểu đồ 1: Nguồn cung cấp vàng trung bình trong 5 năm từ 2004-
2008
Biểu đồ 2: Sản lƣợng vàng thế giới theo khu vực từ năm 1980 –
2007
Biểu đồ 3: Nhu cầu trung bình vàng trên thế giới 5 năm từ năm
2004 - 2008
Biểu đồ 4: Giá vàng 10 tháng đầu năm 2008
Biều đồ 5: Giá vàng trong nƣớc so với giá vàng thế giới ngày
11/11/2009
Biều đồ 6: Diễn biến giá vàng từ lúc khởi điểm khủng hoảng kinh tế
đến cuối năm 2008
Biểu đồ 7: Nhu cầu vàng trang sức quý 3 năm 2008 tại một số quốc
gia
Biểu đồ 8: Nhu cầu vàng công nghiệp (Đơn vị: tấn)
Biểu đồ 9: Biểu đồ giá vàng trong nƣớc và quốc tế 18/3/2008 đến
20/2/2009
6. 2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính thiết yếu của đề tài
Từ xưa đến nay vàng vẫn luôn được coi là biểu tượng của quyền lực và
của cải, luôn được lưu giữ như một khoản tiết kiệm trong mỗi gia đình. Vàng
tượng trưng cho vẻ đẹp, sự giàu có thịnh vượng của mỗi con người, của mỗi
quốc gia. Mọi người luôn quan tâm đến vàng vì nó là công cụ chính để bảo vệ
tài sản, chống rủi ro kinh tế và biến động chính trị. Những năm gần đây, giá
vàng liên tục biến đổi theo chiều hướng gia tăng, làm cho thị trường vàng
Việt Nam nói riêng, thị trường vàng Thế giới nói chung trở nên sôi nổi, và sự
biến động không ngừng của nó kéo theo những ảnh hưởng không nhỏ đến nền
kinh tế Việt Nam. Và Vàng trở thành một kênh đầu tư hẫp dẫn thu hút nhiều
nhà đầu tư với một số vốn khổng lồ. Thị trường vàng với rất nhiều vấn đề từ
vĩ mô đến vi mô của nó đã trở thành một mối quan tâm lớn, thu hút sự chú ý
của rất nhiều người. Xuất phát từ thực tế đó em quyết định chọn đề tài: “Thị
trường vàng Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển” làm đề tài cho
khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khoá luận là tìm hiểu thực trạng thị trường Việt
Nam những năm vừa qua, những yếu tố tác động đến thị trường vàng cũng
như những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế đất nước. Từ đó khoá luận cũng
đưa ra một số dự báo cũng như giải pháp nhằm phát triển thị trường vàng Việt
Nam trong những năm hội nhập.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: những vấn đề lý luận chung về thị trường vàng
Việt Nam.
7. 3
Phạm vi nghiên cứu do trình độ và thời gian có giới hạn nên khóa luận
chỉ nghiên cứu thực trạng phát triển thị trường vàng trong giai đoạn từ năm
2007 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và
hiện đại như: phương pháp logic, thu thập dữ liệu, so sánh, tổng hợp, thống kê
từ các bảng biểu, báo cáo thường niên của các cơ quan ban ngành và tổ chưc
quốc tế, phân tích kỹ thuật.
5. Nội dung khoá luận
Ngoài lời mở đầu kết luận mục lục và danh mục tham khảo, khoá luận
tốt nghiệp được chia làm ba chương:
Chƣơng I : Tổng quan về vàng và thị trƣờng vàng
Chƣơng II : Thực trạng thị trƣờng vàng Việt Nam
Chƣơng III : Giải pháp phát triển thị trƣờng vàng Việt Nam
Nội dung của khoá luận hướng tới khá rộng và phức tạp. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng và nỗ lực song do những hạn chế về tài liệu, thời gian và kinh
nghiệm nên không tránh khỏi các thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trường Đại
học Ngoại thương đã trang bị cho em những kiến thức quý báu trong thời gian
học tập tại trường. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn TS. Lê thị Thu Thuỷ,
người đã hết lòng hướng dẫn, tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình làm
khoá luận.
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2010
8. 4
CHƢƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƢỜNG VÀNG
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG
1.1. Các đặc tính của vàng
1.1.1. Tính chất hoá học
Vàng là một nguyên tố hoá học với ký hiệu Au ( L.aurum ) và số nguyên
tử là 79 trong nhóm I hệ thống tuần hoàn Mendeleep, khối lượng nguyên tử từ
197, 967. Hàm lượng trong vỏ trái đất chiếm 4,3 x 10 -7% khối lượng. Vàng
không bị ảnh hưởng về mặt hoá học bởi nhiệt, độ ẩm, ôxy và hầu hết chất ăn
mòn, vì vậy nó thích hợp để đúc tiền kim loại và trang sức.Các halogen có tác
dụng hoá học với vàng, còn nước cường toan thì hoà tan nó. Màu của vàng
rắn cũng như dung dịch keo từ vàng (có màu đậm) được tạo ra bởi tần số
plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy được, tạo ra ánh sáng
vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sang xanh khi hấp thụ.[21] Vàng nguyên thuỷ
có chứa khoảng 8 đến 10% bạc, nhưng thường nhiều hơn thế. Hợp kim tự
nhiên với thành phần bạc cao (hơn 20%) được gọi là electrum. Khi lượng bạc
tăng, màu trở nên trắng hơn và trọng lượng riêng giảm. Trạng thái ôxi hoá
thường gặp của vàng gồm +1 (vàng(I) hay hợp chất aurous) và + 3(vàng (III)
hay hợp chất auric), lon vàng trong dung dịch sẵn sàng được khử và kết tủa
thành vàng kim loại nếu thêm hầu như bất cứ kim loại nào khác làm tác nhân
khử. Kim loại thêm vào được ôxi hoá và hoà tan cho phép vàng có thể được
lấy khỏi dung dịch và được khôi phục ở dạng kết tủa rắn. Kim loại này có ở
dạn quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích.[22]
1.1.2. Tính chất vật lý
Vàng là nguyên tố kim loại có màu vàng khi thành khối, nhưng có thể có
màu đen, hồng ngọc hay tía khi được cắt nhuyễn. Nó là kim loại dễ uốn dát
9. 5
nhất được biết đến và nó còn có thể chiếu sang. Thực tế, 1g vàng có thể được
dập thành tấm 1m2, hoặc 1 ounce thành 300 feet2. Là kim loại mềm nên vàng
thường được kết hợp với các kim loại khác để làm cho nó cứng thêm. Vàng
có tính dẫn nhiệt và điện tốt, không bị tác động bởi không khí. Vì đặc điểm
này vàng được sử dụng làm dây vi mạch nối vòng trong các chất bán dẫn, hay
“bộ não” của máy tính. Vàng cũng được dùng làm chất bột dính để in thành
mạch điện trên nền gốm (ceramic), sản xuất ra bộ mạch in. Vàng tạo hợp kim
với nhiều kim loại khác; hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt
màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho màu trắng,
bismuth tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Vì vậy vàng được sử dụng để
làm các đồ trang sức và có thể kết hợp nhiều kim loại tạo ra màu sắc cho vàng
rất đẹp [23].
1.1.3. Tính thẩm mỹ
Vàng là một kim loại có tính thẩm mỹ cao. Màu của vàng rắn cũng như
của dung dịch keo từ vàng (có màu đậm, thường là tía) được tạo ra bởi tần số
plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy được, tạo ra ánh sáng
vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sáng xanh khi hấp thụ. Vàng tạo hợp kim với
nhiều kim loại khác, hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt màu
xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho màu trắng, bismuth
tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Với các tính thẩm mỹ trên vàng thích
hợp nhất để làm đồ trang sức. Đồ trang sức bằng vàng trở nên đa dạng hơn
khi được kết hợp với các kim loại khác. Và làm đồ trang sức cũng làm tăng
giá trị thẩm mỹ của vàng.
1.2. Ứng dụng của vàng
Với các đặc tính như trên của vàng, vàng được ứng dụng vào cuộc sống
với nhiều mục đích khác nhau.
10. 6
1.2.1. Làm đồ trang sức
Vàng là một trong những kim loại được yêu thích nhất để sản xuất đồ
trang sức. Đồ trang sức làm bằng vàng thường có: nhẫn, vòng cổ, vòng đeo
tay, lắc, hoa tai, cài áo…thậm chí vàng còn được sử dụng để trang trí vào các
vật dụng như bình hoa, bật lửa, bút máy…Đồ trang sức bằng vàng được chế
tạo theo các tiêu chuẩn sau: 9, 14, 18 và 24 cara. Vàng 18 cara nghĩa là 18
phần vàng ròng trong 24 phần vàng, tương đương 75% vàng ròng. Vàng 24
cara thì quá mềm nên khó có thể tạo ra trang sức hay dùng để đúc tiền. Vì thế
vàng trong trang sức là vàng đã được kết hợp với các kim loại khác như bạc,
đồng, v.v…không chỉ để tạo độ cứng mà còn tạo ra các màu sắc khác nhau,
tạo ra được nhiều kiểu dáng phong phú và đa dạng. Đồng là kim loại thường
được kết hợp với vàng tạo ra màu đỏ hơn. Vàng 18k kết hợp với 25% đồng
thường được dùng làm đồ giả cổ hoặc nữ trang, và cũng có thể làm hoa bằng
vàng có màu đỏ. Vàng 14k có màu đồng đỏ được sử dụng để làm huy hiệu
như làm huy hiệu cảnh sát hay trong quân đội. Vàng xanh được tạo ra bằng
cách trộn vàng và sắt, vàng màu đỏ tía là vàng trộn với nhôm. Các loại vàng
này dùng để làm nữ trang hoặc đồ trang trí.
11. 7
1.2.2. Là một loại kim loại thiết yếu
Với những tính chất hoá học và vất lý của vàng nêu trên nên vàng được
coi như một loại công nghiệp thiết yếu và bắt đầu nổi lên vào cuối thế kỷ 20.
Tính dẫn nhiệt dẫn nhiệt cao và đề kháng ôxy hoá, vàng được sử dụng để mạ
bề mặt các đầu nối điện, bảo đảm tiếp xúc tốt và trở kháng thấp.
Thêm vào đó vàng có thể làm thành sợi mỏng để làm chỉ trong ngành
thêu, tạo ra tranh thêu vàng quý hiếm.
Hơn thế nữa vàng còn được sử dụng để thực hiện chức năng quan trọng
trong máy tính, thiết bị thông tin liên lạc, đầu máy bay phản lực, tàu không
gian và nhiều sản phẩm khác nữa.
Vàng được dung trong nha khoa phục hồi, được biệt trong phục hồi răng
như thân răng và cầu răng giả.
Vàng keo là dung dịch đậm màu đang được nghiên cứu trong nhiều
phòng thí nghiệm y học sinh học. Nó cũng là dạng được dùng làm nước sơn
vàng lên đồ gốm trước khi nung.
Mỗi năm khoảng 10% sản lượng vàng được sử dụng cho các quy trình
công nghiệp
1.2.3. Là tiền loại tiền tệ thế giới chung duy nhất
Vàng là loại tiền tệ được các quốc gia đương nhiên thừa nhận làm
phương tiện thanh toán quốc tế, phương tiện lưu trữ quốc tế mà không cần
phải thừa nhận trong bất cứ Hiệp định ký kết nào giữa các quốc gia trên thế
giới. Hiện nay, ngoài vàng ra chưa có một đồng tiền nào có thể thay thế vàng
trong chức năng đồng tiền thế giới.
Khi vàng là tiền tệ thế giới có các đặc điểm như sau:
-Nhiều năm nay, vàng trở thành tiền tệ dự trữ của các quốc gia trong
thanh toán quốc tế
-Vàng không dùng để thanh toán hàng ngày của các giao dịch phát sinh
giữa các quốc gia
12. 8
-Không dùng vàng để thể hiện giá cả cũng như tính toán tổng giá trị hiệp
định hoặc hợp đồng
-Tiền giấy không được đổi ra vàng một cách tự do thông qua hàm lượng
vàng của tiền tệ.
-Vàng chỉ được sử dụng để các quốc gia trả nợ cho nhau khi mà không
tìm ra được các công cụ khác để trả nợ.
1.3. Đơn vị đo lƣờng và cách quy đổi của Vàng
Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, đơn vị đo lường được tính theo cây
(lượng hay lạng) hoặc nhỏ hơn là chỉ. Một cây vàng nặng 37,50 gram. Một
chỉ bằng 1/10 cây vàng. Còn trên thế giới, vàng thường được tính theo đơn vị
là ounce hay troy ounce. 1 ounce tương đương với 31,103476 gram.
Tuổi vàng được tính theo thang độ K (karat). Một Karat tương đương
1/24 vàng nguyên chất. Vàng 9999 tương đương với 24K. Khi người ta nói
tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng xấp xỉ 75%. Vàng
được sử dụng làm đồ trang sức còn được gọi là vàng tây có tuổi khoảng 18K.
- Thị trường vàng thế giới
*Đơn vị yết giá : USD/ounce
*1 ounce = 1 troy ounce = 0.83 lượng
*1 lượng = 1,20556 ounce
- Thị trường vàng trong nước
*Đơn vị yết giá VNĐ/lượng
*Công thức chuyển đổi giá vàng thế giới (TG) sang giá vàng trong
nước (TN)
TN = (TG + phí vận chuyển)* 120556*(1+thuếNK)*tỷ giá USD/VNĐ+
phí gia công
2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, vai trò và chức năng tiền tệ của vàng
không hề bị phai mờ, thậm chí vàng ngày càng có nhiều ứng dụng và đóng
13. 9
vai trò quan trọng hơn trong đời sống kinh tế của con người, trong đó một vai
trò quan trọng nhất của vàng là chức năng tiền tệ.
2.1. Vàng với vai trò là một loại tiền tệ
Vai trò quan trọng và thường thấy nhất của vàng gắn liền với chức năng
tiền tệ. Vàng được sử dụng làm dự trữ tại các ngân hàng trung ương. Tính đến
thời điểm năm 2004, các ngân hàng trung ương trên thế giới và các tổ chức tài
chính chính thức nắm giữ khoảng 19% tổng trữ lượng vàng trên mặt đất với
chức năng cất trữ. Tính cho đến nay, Hoa Kỳ là đất nước đứng đầu trong danh
mục các nước dự trữ vàng nhiều nhất thế giới, lên đến con số khoảng 8.133,5
tấn, theo sau đó là Đức, Italy, Nhật Bản Trung Quốc...song xét về khu vực thì
Châu Âu là khu vực cất trữ nhiều vàng nhất trên toàn thế giới.
Với chức năng tiền tệ, vàng không chỉ dung để cất trữ trong khi của các
ngân hang trung ương, vàng còn được sử dụng làm tài sản tiết kiệm truyền
thống và phổ biến ở nhiều quốc gia, nhất là các nước Á Đông. Vàng được sử
dụng làm tiết kiệm dưới dạng trang sức như dây chuyền, nhẫn, vòng, lắc hoặc
dạng thanh (cây) vàng. Theo như một số tài liệu thống kê thì vàng là thứ trang
sức rất phổ biến ở Ấn Độ còn ở Việt Nam người dân mua vàng với tâm lý tiết
kiệm và coi đây là một biện pháp an toàn nhằm bảo đảm giá trị tiền hoặc làm
của hồi môn cho con cháu.
Bên cạnh đó, trong vai trò là một loại tiền tệ thế giới, vàng hội tụ đầy đủ
các yếu tố cơ bản để thực hiện chức năng tiền tệ của mình đó là được cả thế
giới công nhận là tiền tệ, vàng có tính dễ nhận biết nhất trong lưu thông do
đặc tính màu sắc, tính dễ chia nhỏ nên các mệnh giá khác nhau để người bán
và người mua có thể trao đổi, tính lâu bền nên được sử dụng lâu dài qua thời
gian, vàng có tính dễ vẫn chuyển, và thêm vào đó vàng có tính khan hiếm nên
nó có giá trị. Vàng đáp ứng tất cả các yêu cầu trên và có thể nói rằng nó là
dạng vật chất duy nhất trên thế giới đáp ứng được. Lượng vàng mà con người
14. 10
có được không thay đổi đột biến trong nhiều thế kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ
khai thác được là khá nhỏ và dự tính được.
Ngoài vai trò để dự trữ và tiết kiệm vàng còn có vai trò to lớn trong sản
xuất công nghiệp để sản xuất thiết bị, công nghiệp sản xuất vũ khí cũng như
sản xuất đồng hồ.
2.2. Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ
2.2.1. Chế độ đồng bản vị
Trong chế độ phong kiến, bạc là kim loại tiền tệ chủ yếu. Ở giai đoạn
đầu chủ nghĩa tư bản, Nhà nước quy định dùng bạc làm kim loại tiền tệ. Khi
sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhất là những khoản giao dịch với
khối lượng hàng hoá có giá trị lớn ngày càng tăng khiến cho việc dùng bạc
làm vật ngang giá chung không còn thích hợp nữa. Vì giá trị của bạc rất nhỏ,
do vậy người ta phải tìm kim loại khác có giá trị cao hơn bạc để đưa vào lưu
thông. Kim loại đấy chỉ có thể là vàng. [1]
Vì vậy, vàng bạc luôn là kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn các
kim loại khác, bởi những đặc tính của chúng đã đáp ứng được nhiều nhất
những gì mà một đồng tiền hàng hoá cần có: sự khan hiếm, tính bền, có thể
chuyên chở, dễ chia nhỏ, và chất lượng được duy trì lâu bền
Sự chấp nhận vàng và bạc như tiền còn được củng cố từ một thực tế là
các loại kim loại này được thừa nhận rộng rãi là có giá trị sử dụng phi tiền tệ
trong các ngành công nghiệp và trang sức. Hơn nữa giá trị của vàng và bạc
được ổn định tương đối so với các hàng hoá khác, ngoài ra, chất lượng của
chúng có thể kiểm tra một cách chính xác và được các chuyên gia hay còn gọi
là thợ vàng chứng nhận.[8]
Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ đầu tiên được thừa nhận trong lịch
sử loài người. Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ mà pháp luật Nhà nước
quy định hai kim loại vàng và bạc đồng thời làm kim loại tiền tệ, hai loại tiền
vàng và tiền bạc được tự do đúc và có hiệu lực pháp lý thanh toán vô hạn
15. 11
Căn cứ vào cách quy định về mối quan hệ trao đổi giữa tiền đúc bằng
vàng và tiền đúc bằng bạc mà chia chế độ đồng bản vị ra làm hai loại cụ thể:
Chế độ bản vị song song và chế độ bản vị kép.
Chế độ bản vị song song là chế độ hai bản vị mà trong đó quy định tỷ lệ
trao đổi giữa tiền vàng và tiền bạc trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị thực
tế của lượng vàng và lượng bạc chứa trong hai đồng tiền đó quyết định. Ở chế
độ bản vị này, hàng hoá kim loại hoạt động trên cơ sở giá trị đây đủ các đồng
xu, tức giá trị tiền tệ của chúng cũng là giá trị kim loại của đồng xu. Vì vậy,
khi giá vàng thay đổi so với bạc thì sẽ làm cho tỷ lệ trao đổi giữa các đồng xu
vàng và bạc thay đổi theo. Mặc dù tiền xu được đúc mang theo nhãn hiệu
riêng của từng quốc gia làm theo bằng chứng bảo đảm về nội dung và chất
lượng kim loại, nhưng trong thực tế các quốc gia thường đúc những đồng xu
bằng hỗn hợp kim loại là vàng hay bạc hay với các kim loại khác có giá trị
thấp hơn. Các quốc gia ngày càng thường xuyên giảm tỷ trọng vàng bạc trong
các đồng xu, điều này dẫn đến các đồng xu mất dần giá trị lưu thông, cho nên
hành động này cũng giống như hành động phá giá trong thời hiện đại.
Khác với chế độ bản vị song song, chế độ bản vị kép là chế độ hai bản vị
mà trong đó quy định cụ thể giá trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc
bằng bạc. Ví dụ, ở nước Mỹ năm 1792 quy định tỷ giá này là 1/15. Thông
thường người ta gọi chế độ hai bản vị chủ yếu chỉ là chế độ bản vị kép này.
Chế độ bản vị bạc tồn tại cho tới năm 1834, khi Quốc hội Mỹ quyết định
tăng giá vàng từ $19,394/ounce len $20,76/ounce, trong khi đó bạc vẫn giữ
nguyên nhằm khôi phục lại chế độ đồng bản vị kim loại. Như vậy tỉ lệ bạc:
vàng là 16, trong khi thế giới vẫn là 15,5. Một lần nữa trong thực tế nước Mỹ
lại chỉ có chế độ bản vị kim loại vàng.
Năm 1879, Mỹ quyết định chuyển đổi trở lại USD ra vàng mà không
chuyển đổi ra bạc, đây là một bước quan trọng trong việc hình thành chế độ
16. 12
đơn bản vị vàng (bản vị vàng) ở Mỹ. Tuy nhiên chế độ này vẫn không được
chính thức phê chuẩn cho tới khi có Đạo luật bản vị vàng vào năm 1990.[8]
Chế độ đồng bản vị là một chế độ tiền tệ không ổn định bởi bản tính của
tiền tệ là độc chiếm, gạt bỏ cái khác. Việc pháp luật thừa nhận cả bạc và vàng
đều là kim loại tiền tệ là trái với bản tính đó của tiền tệ.
Trong chế độ bản vị song song do lưu thông tiền vàng và tiền bạc căn cứ
theo giá trị thực tế của kim loại tiền tệ chứa trong nó, cho nên giá cả hàng hoá
và dịch vụ trên thị trường tất nhiên được thể hiện bằng hai loại giá cả: giá cả
tính bằng tiền vàng và giá cả tính bằng tiền bạc. Hai loại này tất nhiên sẽ thay
đổi theo sự thay đổi tỷ giá giữa kim loại vàng và kim loại bạc hình thành tự
phát trên thị trường, vì vậy giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ bị hỗn loạn và dẫn
đến sự hỗn loạn của thị trường.
Trong chế độ bản vị kép, Nhà nước quy định tỷ giá cố định giữa tiền
vàng và tiền bạc để khắc phục tình trạng không ổn định của lưu thông hàng
hoá do chế độ bản vị song song gây ra, nhưng lại gây ra hiện tượng tiền xấu
đẩy tiền tốt ra khỏi lưu thông, điều đó làm cho chế độ tiền tệ bị hỗn loạn
nghiêm trọng.
Khi hai loại tiền có giá trị thực tế không bằng nhau mà giá trị danh nghĩa
của chúng được nhà nước quy định tách rời nhau khỏi giá trị thực tế của nó và
cùng lưu thông theo giá trị danh nghĩa đó thì loại tiền có giá trị thực tế cao hơn
tất nhiên dẫn dần sẽ bị rút khỏi lưu thông, còn loại tiền kém hơn sẽ được đưa vào
lưu thông do tràn ngập thị trường. Hiện tượng này được goi là quy luật Gresham.
Dưới tác dụng của quy luật này, thực tế trong chế độ hai đồng bản vị kép
chỉ còn một đồng tiền có giá trị thấp trong lưu thông. Đây là tiền đề cho sự ra
đời của chế độ một bản vị sau này.[1]
2.2.2. Chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị tiền vàng là chế độ trong đó tiền tệ được đúc bằng vàng
một cách tự do, tiền phụ và tiền tín dụng, tiền ngân hàng được đổi ra tiền vàng
17. 13
một cách tự do, vàng được tự do xuất nhập khẩu. Nhờ có chế độ tiền tệ như
vậy nên lạm phát tiền tệ khó biến thành hiện thực. Đây là một chế độ tiền tệ
ổn định nhất từ trước đến nay. [1]
Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị biến đổi theo thời gian,
dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va
chạm, khối lượng riêng lớn và vàng là một vật phẩm mà các nhà buôn lựa
chọn làm thước đo giá trị.
Trong chế độ bản vị vàng, vàng là kim loại duy nhất được sử dụng để
đúc tiền. Chế độ này phát triển theo ba giai đoạn khác nhau: chế độ bản vị
tiền vàng, chế độ bản vị vàng thỏi, chế độ bản vị hối đoái vàng.
Chế độ bản vị tiền vàng, đây là chế độ tiền tệ thông thoáng và ổn định
nhất trong lịch sử vì theo như quy định của chế độ này vàng được tự do đúc
thành tiền, các loại tiền phụ, giấy bạc ngân hàng cũng như tiền tín dụng được
tự do đổi thành vàng nếu muốn và bên cạnh đó pháp luật cũng cho phép tự do
xuất nhập khẩu vàng. Theo cách quy định này, vàng luôn được phản ánh
trung thực giá trị của mình, do đó sẽ khó có khả năng xảy ra hiện tượng
lạm phát.
Chế độ bản vị vàng có những quy tắc cơ bản sau:
Các quốc gia ấn định cố định giá trị đồng tiền mua của mình với vàng
và sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng tại mức giá quy định.
Việc xuất nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do hoạt động.
Ngân hàng trung ương luôn phải duy trì một số lượng vàng dự trữ trong
mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Số vàng dự trữ này cho phép
ngân hàng trung ương xử lý uyển chuyển việc chuyển đổi ra tiền và vàng mà
không gặp bất cứ một trở ngại nào, tiền được tự do chuyển đổi ra vàng không
hạn chế. Quy tắc bảo đảm bằng vàng buộc ngân hàng trung ương khi mở rộng
cung ứng tiền cho nền kinh tế phải tuân thủ kỷ luật “chỉ phát hành tiền khi có
18. 14
luồng vàng từ công chúng chảy vào Ngân hàng trung ương”. Kết quả là, khả
năng thay đổi cung ứng tiền chính là sự thay đổi lượng vàng có sẵn trong tay
những người cư trú.
Đây là chế độ tiền thông thoáng và ổn định nhất trong lịch sử, vì theo
như quy định, vàng luôn được phản ánh trung thực giá trị của mình, do đó sẽ
khó có khả năng xảy ra hiện tượng lạm phát.
Tuy nhiên nhược điểm của chế độ là là đồng tiền vàng vẫn là hàng hoá,
do đó với nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, việc sản xuất vàng không thể
theo kịp để đáp ứng. Thêm vào đó giá trị thực của đồng tiền trong lưu thông
càng ngày càng kém đi so với lượng giá trị mà nó đại diện.
Chế độ bản vị vàng thứ hai đó là chế độ bản vị vàng thỏi, người ta gọi
là chế độ bản vị vàng thỏi vì vàng không còn tồn tại dưới dạng tièn nữa mà
được đúc thành thỏi. Trong chế độ bản vị vàng thỏi, vàng không còn được tự
do đúc thành tiền để đưa vào lưu thông nữa, lúc này tiền trong lưu thông phải
được quy định chặt chẽ về hàm lượng vàng. Bên cạnh đó, các loại giấy bạc
ngân hàng không được đổi ra vàng một cách tự do mà phải đạt một tiêu chuẩn
nhất định do Nhà nước đề ra thì mới có thể đổi ra vàng. Hoạt động xuất nhập
khẩu vàng cũng bị kiểm soát chặt chẽ và có lúc bị cấm.
Cuối cùng là chế độ bản vị vàng hối đoái, chế độ vàng này được áp dụng
trong một quãng thời gian tương tự chế độ bản vị vàng thỏi. Cũng có những
quy định tương tự như chế độ bản vị vàng thỏi, tuy nhiên điểm khác biệt là
các loại tiền ngân hàng trong chế độ này sẽ không được chuyển ra vàng mà
chuyển ra ngoại tệ của nước thực hiện chế độ bản vị vàng thỏi. Việc chuyển
đối này cũng không được thực hiện tự do mà phải thực hiện với một số lượng
đủ lớn. [8]
19. 15
2.2.3. Chế độ lưu thông tiền giấy
Sau nhiều năm chế độ bản vị vàng được coi như là phương tiện để thanh
toán, cất trữ thì được thay thể bởi chế độ tiền giấy bởi người ta thấy rằng khi
lưu thông vàng gây khó khăn trong việc vận chuyển do nặng. Chế độ tiền giấy
ra đời, tiền giấy thực hiện chức năng của tiền tệ như dùng để trao đổi, thanh
toán, cất trữ, song tiền giấy gần như không có giá trị vì nó chỉ là loại tiền
mang dấu hiệu giá trị mà thôi. Tiền giấy được tất cả mọi người chấp nhận vì
nó được sản xuất bởi nhà nước và được nhà nước bảo đảm giá trị và bắt buộc
tất cả phải sử dụng nó là đồng tiền chung. Nhưng để tồn tại và được thừa nhận
chung thì tiền giấy cũng phải có lòng tin của người dân đối với chính nó. Khi
lòng tin của người dân không còn với tiền giấy thì người dân lại trở lại nắm
giữ vàng hoặc các vật dụng tài sản có giá trị khác như bất động sản. Mặc dù
tiền giấy được sử dụng để trao đổi thanh toán hàng ngày nhưng vàng vẫn
được sử dụng như một công cụ cất trữ có giá trị và tin cậy với hầu hết mọi
người dân.
Đặc điểm của chế độ tiền tệ ở xã hội phong kiến là việc đúc tiền thiếu
trọng lượng, tuổi tiền thấp nên đến thời đại tích luỹ nguyên thuỷ của chủ
nghĩa tư bản ở các nước Tây Âu và châu Mỹ tiền giấy đã ra đời, xuất hiện đầu
tiên ở châu Mỹ cuối thế kỷ 17, sang cuối thể kỷ 18 đã lan rộng rãi ở Pháp.
Tiền giấy là dấu hiệu của kim loại tiền tệ (vàng) được phát triển ra để thay thế
cho tiền kim loại đã từng tồn tại trong trao đổi. “Tiền giấy là đại biểu cho tiền
kim loại tiền tệ, biểu hiện cho giá trị hàng hoá, và tiến giấy trở thành dấu hiệu
của giá trị. Như vậy, tiền giấy chỉ là dầu hiệu của giá trị chíng nó đại biểu
cho số lượng vàng, những số lượng vàng này cũng như tất cả những số lượng
hàng hoá khác đều là số lượng giá trị” [2]
Tiền giấy đại biểu cho tiền vàng trong trao đổi, vì vậy lượng tiền giấy
phát hành đưa vào trao đổi phải do lượng tiền vàng cần thiết đáng lẽ tồn tại
20. 16
trong trao đổi quyết định. Do tiền giấy không đổi được ra vàng, nên lưu thông
tiền giấy khác với lưu thông tiền vàng: lưu thông tiền vàng do có tính co dãn
tương đối, nên lưu thông tiền tệ tự phát được điều hoà, ngược lại lưu thông
tiền giấy không có tính co giãn, nên lượng tiền giấy phát hành không thể thích
ứng với lượng tiền tệ cần thiết trong trao đổi được. [1]
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods : [3]
Bản chất của hệ thống tỷ giá cố định là tỷ giá của các đồng tiền được cố
định giá với đô la Mỹ. Trong đó đô la Mỹ, được cố định giá với vàng và được
tự do chuyển đổi ra vàng. Vàng và đô la Mỹ là phương tiện dự trữ chủ yếu,
ngoài ra các đồng tiền khác cũng có thể được dùng dự trữ nhưng rất hạn chế.
Sự hoạt động của hệ thống Bretton Woods:
Giai đoạn những năm 1950: Đây là thời kỳ thống trị tuyệt đối của đô la
Mỹ. Trong thời kỳ này, hệ thống tỷ giá hoạt động ổn định sau những biến
động (phá giá) của đồng tiền các quốc gia Châu Âu vào năm 1940. Thời kỳ
này đồng đô la Mỹ chiếm vị trí thống trị do Mỹ có nền kinh tế mạnh và đô la
Mỹ có thể tự do chuyển đổi ra vàng. Mặt khác, các quốc gia Châu Âu và Nhật
Bản bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên có nhu cầu lớn về máy móc, thiết bị
và hàng hoá để phục hồi nền kinh tế. Đặc trưng của giai đoạn này là sự thiếu hụt
đô la Mỹ. Lúc đầu đô la Mỹ được đáp ứng chủ yếu thông qua chu chuyển vốn
hình thức. Sau đó, gia tăng chu chuyển vốn tư nhân dưới dạng đầu tư trực tiếp.
Sự thâm hụt cán cân thanh toán chính thức tạo điều kiện cho các quốc
gia Châu Âu và Nhật Bản tái tạo dự trữ ngoại tệ bằng đô la Mỹ. Đồng thời,
nền kinh tế của các quốc gia Châu Âu phục hồi, thặng dư cán cân thanh toán
và dự trữ ngoại hối tăng lên cho phép các quốc gia Châu Âu áp dụng chính
sách tự do chuyển đổi đồng tiền của mình.
Như vậy, hệ thống Bretton Woods đã bắt đầu đi vào hoạt động theo đúng
dự định đã vạch ra khi thành lập năm 1944.
21. 17
Giai đoạn những năm 1960: Giai đoạn này lòng tin vào đô la Mỹ đã bắt
đầu lung lay khi cán cân thanh toán của Mỹ năm 1960-1970 thường xuyên
thâm hụt, trung bình là 3.5 tỷ USD, 1970 dự trữ vàng của Mỹ giảm xuống còn
11 tỷ USD, tài sản tính bằng đô la Mỹ do người nước ngoài nắm giữ tăng lên
nhanh chóng. Giá vàng trên thị trường tự do chịu áp lực tăng giá. Làn sóng
đầu cơ đối với vàng không ngừng gia tăng và mang màu sắc chính trị, như đối
với các quốc gia, ví dụ như Pháp không đồng tình với hệ thống cho phép Mỹ
mua tiềm năng sản xuất của các quốc gia khác bằng đô la Mỹ, không đảm bảo
đầy đủ bằng vàng. Pháp đòi chuyển một lượng dự trữ đô la Mỹ của mình ra
vàng . Mặt khác, sự hoài nghi về độ tin cậy đồng đô la Mỹ càng tăng cao khi
xuất hiện một số đồng tiền mạnh như Mác Đức, Gulden Hà Lan và Yên Nhật.
Các quốc gia cam kết không chuyển dự trữ đô la Mỹ ra vàng đồng thời cam
kết các quốc gia cùng tham gia can thiệp trên thị trường vàng để giữ giá vàng
ở mức ổn định là 35USD/ounce. Sự cam kết này được thực hiện bắt đầu năm
1962 và buộc phải kết thúc vào năm 1968 vì không đạt kết quả gì và phải tiêu
tốn mất khối lượng vàng là 3 tỷ USD.
Các quốc gia phát triển cũng ký kết "Thỏa thuận chung về vay mượn"
theo đó các Quốc gia cam kết sẽ dành cho IMF một nguồn tài chính bổ sung
cho mục đích các quốc gia thành viên vay tài trợ thâm hụt cán cân thanh toán.
Cuối 1960, cùng với sự suy giảm lòng tin vào đô la Mỹ , sự mất ổn định tỷ giá
của một số đồng tiền là dầu hiệu khủng hoảng của hệ thống Bretton Woods.
Năm 1971, cuộc khủng hoảng mới thực sự bắt đầu khi Mỹ thường xuyên
thâm hụt cán cân thanh toán, và lên đến con số tỷ lục là 30 tỷ USD.
15/8/1971 Tổng thống Mỹ Nixon đã tuyên bố dừng chuyển đổi dự trữ đô
la Mỹ ra vàng đồng nghĩa với thả nổi đồng đô la Mỹ và trên thực tế hệ thống
Bretton đã sụp đổ. Mỹ áp dụng mức thuế quan 10% đối với hàng hoá nhập
khẩu nhằm buộc các quốc gia khác phải nâng giá đồng tiền.
22. 18
Để cứu vãn sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods 10 quốc gia đã đưa ra
một số giải pháp:
+ Điều chỉnh lại tỷ giá của các đồng tiền, quan trọng nhất là phá giá đồng
đô la Mỹ. Giá vàng chính thức tăng 35 USD- 38 USD/ounce.
+ Mở rộng biên độ dao động từ 1%-2.25%.
+ Mỹ bãi bỏ thuế quan 10% đối với hàng nhập khẩu.
Những biện pháp này chỉ mang tính tạm thời nhằm giúp Mỹ lành mạnh
hoá nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính.
Mỹ đã không tận dụng cơ hội này. Thâm hụt Ngân sách vẫn tăng và
thâm hụt cán cân thanh toán vẫn không giảm. Do đó, các quốc gia châu âu đã
phải đối mặt với một lượng cung lớn trên thị trường ngoại hối và buộc các
quốc gia này phải mua vào để giữ mức tỷ giá của mình trong giới hạn giao
động. Tình trạng này không thể kéo dài khi đến tháng 1/1973 Thụy Sĩ thả nổi
đồng france, Mỹ phá giá đồng đô la 10%, Nhật thả nổi đồng yên ...Thực chất
Mỹ đã từ chối can thiệp để duy trì tỷ giá đô la Mỹ, còn các quốc gia châu âu
từ chối can thiệp một mình trên thị trường ngoại hối. Hệ thống Bretton Woods
sụp đổ, và thay vào đó là sự thay đổi của một số đồng tiền.
3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG
3.1. Khái niệm về thị trƣờng vàng
Trong số các kim loại quý hiếm, vàng là một kênh đầu tư phố biến nhất.
Các nhà đầu tư thường mua vàng như là một cách thức an toàn cũng như đối
phó với bất kỳ biến động của nền kinh tế, chính trị và xã hội hay rủi ro trong
thị trường tài chính. Những rủi ro ở đây có thể do đầu tư trong thị trường giá
xuống, nợ chính phủ, tài chính sụt giảm, lạm phát, chiến tranh hay bất ổn xã
hội. Đến nay, dường như chưa có một định nghĩa cụ thể về thị trường vàng,
song hầu hết mọi người đều hiểu rằng, thị trường vàng là nơi mà các nhà đầu
tư mua bán vàng, thường là mua trong thời điểm giá thấp sau đó bán đi với
23. 19
giá cao hơn để kiếm lời. Thị trường vàng cũng như hầu hết các thị trường
khác, cơ bản là sự trao đổi mua bán để kiếm lời, trong đó chủ thể là vàng.
Song thị trường vàng là một thị trường đầy rủi ro, thách thức với mỗi nhà đầu
tư, bên cạnh đó thị trường vàng cũng nằm trong sự kiểm soát của chính phủ,
chịu tác động từ phía chính phủ. Bản thân thị trường vàng cũng tạo nên những
ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Thị trường
vàng bao gồm các yếu tố như giá vàng, cung cầu vàng, các kênh đầu tư, các
công ty kinh doanh vàng cũng như khai thác vàng, phân tích kỹ thuật vàng,
chính sách của chính phủ v..v..
3.2. Các yếu tố tác động đến thị trƣờng vàng
Vàng được biết đến như một hàng hoá và cũng là của cải có giá trị cất
trữ. Bởi tính lâu bền cũng như giá trị của vàng, vàng dù là vàng miếng vàng
thỏi, trang sức vàng hay ngay cả vàng được đào lên từ mặt đất thì cũng đều có
giá trị. Lượng vàng trong mặt đất cũng có giới hạn, nó một thứ tài sản đến từ
tự nhiên, không do con người tạo ra. Bên cạnh đấy thì vàng cũng có thể huy
động từ người này sang người khác và từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Vàng là thứ hàng hoá hết sức nhạy cảm, vì vậy yếu tố cung, cầu của vàng
cũng như môi trường kinh tế hay chính trị pháp luật đều có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến thị trường vàng trong nước và quốc tế.
a. Cung vàng trên thị trường
Vàng là một thứ hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một thứ kim loại được khai
thác dưới lòng đất và được đào lên qua quá trình chế tác trở thành vàng thỏi,
vàng miếng hay vàng trang sức, vì vậy vàng có thể được huy động một cách
linh hoạt.
24. 20
Biểu đồ 1: Nguồn cung cấp vàng trung bình trong 5 năm
từ năm 2004-2008
vàng khai thác tự
nhiên, 60%vàng từ ngân hàng
trung ương bán, 12%
vàng tái chế, 28%
vàng khai thác tự
nhiên, 60%
vàng khai thác tự nhiên
vàng từ ngân hàng trung ương bán
vàng tái chế
Nguồn: Investing in Gold- World Gold Council
Nguồn cung cấp vàng trên thế giới chủ yếu từ 3 nguồn là vàng được khai
thác từ tự nhiên, vàng được tái chế, và một nguồn vàng nữa là từ ngân hàng
trung ương bán ra. Như biểu đồ trên ta cũng thấy rằng vàng không chỉ được
khai thác từ tự nhiên trong long đất mà còn có lượng vàng được tái chế từ các
kim loại được khai thác trước đó ví dụ như nhôm và chì. Thực tế cho thấy
nguồn cung cấp nguồn vàng thứ hai chiếm một tỷ trọng không nhỏ, nhìn vào
biểu đồ, trong vòng 5 năm từ năm 2004 đến năm 2008 vàng tái chế chiếm đến
28% trên tổng số nguồn cung vàng trên toàn thế giới. Vàng được cung cấp đa
số là từ tự nhiên và một phần khoảng 12% là được cung cấp bởi ngân hàng
trung ương.[19]
25. 21
Biểu đồ 2: Sản lƣợng vàng thế giới theo khu vực từ năm 1980 - 2007
Nguồn: Investing in Gold- World Gold Council
Hơn một thế kỷ nay, Nam Phi luôn là nước đứng đầu trong khai thác
vàng trong tổng số sản lượng vàng trên thế giới. Vì thế mọi biến động về cung
ở Nam Phi đều ảnh hưởng rất lớn đến thị trường vàng thế giới.
26. 22
b. Cầu vàng trên thị trường
Biểu đồ 3: Nhu cầu trung bình vàng trên thế giới 5 năm
từ năm 2004-2008
Trang sức, 68%
Công nghiệp,
14%
Đầu tư, 19%
Trang sức, 68%
ghiệp,
%
Đầu tư, 19%
Trang sức
Công nghiệp
Đầu tư
Nguồn: Investing in Gold- World Gold Council
Nhu cầu về vàng rộng khắp trên thế giới. Đông Á, Ấn độ, Trung đông
chiếm đến 70% nhu cầu vàng trên khắp thế giới năm 2008. 55% nhu cầu được
chia đều cho 5 nước gồm: Ấn độ, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ và Trung quốc. Nhu
cầu vàng hàng năm thường do ba nhu cầu chính gồm: nhu cầu dùng vàng để
làm đồ trang sức, cho công nghiệp và cho hoạt động đầu tư. Trong đó nhu cầu
dùng vàng để làm trang sức chiểm đến hơn hai phần ba lên đến 68% tương
đương 2,436 tấn trong suốt 5năm kể từ năm 2004. Trong 12 năm 2008 con số
giao dịch vàng để phục vụ cho nhu cầu trang sức lên đến 61 tỷ đô la Mỹ,
trang sức trở thành một trong những loại hàng hoá được tiêu dùng lớn nhất.
Mỹ là thị trường lớn nhất của vàng trang sức, trong đó Ấn độ là nước có số
lượng người sử dụng vàng nhiều nhất lên đến 24% tổng nhu cầu trong năm
27. 23
2008. Ở Ấn độ vàng được ưa chuộng bởi tính văn hoá truyền thống cũng như
linh thiêng chứ không phải theo xu hướng kinh tế.[24]
Nhu cầu vàng trong lĩnh vực đầu tư, nhu cầu về vàng để đầu tư càng
ngày trở nên phố biến, con số này càng ngày càng trở nên lớn hơn trong
những năm gần đây. Đầu tư thu hút nguồn vàng xấp xỉ 32 tỷ USD trong
năm 2008.
Ngành công nghiệp và y tế cũng chiếm 11% nhu cầu vàng (trung bình
hàng năm vượt qua con số 440 tấn từ năm 2004 đến 2008). Vàng ngày càng
được sử dụng nhiều trong ngành nhiệt và điện tử, sử dụng để làm vi mạch,
dây dẫn vì thế nên nhu cầu vàng trong công nghiệp ngày càng tăng.
Nguồn cung vàng trong tự nhiên thì có giới hạn mà nhu cầu sử dụng
vàng trong đời sống, công nghiệp, hay trở thành một kênh đầu tư trong nền
kinh tế càng ngày càng tăng. Điều đó chính là lý do dẫn đến những biến động
của thị trường vàng, sự tăng hay giảm của giá vàng cũng chịu ảnh hưởng bởi
một phần lớn từ nguồn cung và cầu vàng trên thế giới.[25]
c. Các yếu tố ảnh hưởng khác
Vàng là một hàng hoá đặc biệt, ngoài yếu tố cung cầu có tác động lớn
đến thị trường vàng thì môi trường kinh tế, chính trị và chính sách của nhà
nước cũng có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường nhạy cảm này.
Môi trường kinh tế là môt yếu tố quan trọng, nó ảnh hưởng đến mọi hàng
hoá chứ không riêng gì vàng. Vấn đề cơ sở hạ tầng, các nhà đầu tư cũng như
vấn đề quản lý tiền tệ là những yếu tố thiết yếu tạo nên một môi trường kinh
tế, trong đó việc điều hành kinh tế vĩ mô, kết nối các thị trường tiền tệ, chứng
khoán, bất động sản với thị trường vàng cần có sự điều tiết thống nhất. Những
biến động khó lường của tỷ giá, lãi suất và lạm phát cao và hoạt động tìm vốn
cũng là những vấn đề mà thị trường vàng phải đối mặt trong những năm gần
đây. Khi không có một môi trường kinh tế ổn định, nhà đầu tư cũng không
28. 24
yên tâm đầu tư vào thị trường vàng, khi đó lượng giao dịch trong thị trường
cũng sẽ giảm sút.
Để có một môi trường kinh tế ổn định, trong đó tập trung ở sự nhất quán
và hợp lý của những điều chỉnh về chính sách điều hành và can thiệp thị
trường, có hệ thống thông tin dự báo kịp thời và chính xác. Mọi chính sách
của nhà nước cũng như những thay đổi trong cơ cấu chính trị của đất nước để
có những tác động nhất định đến kinh tế đất nước nói chung và thị trường
vàng nói riêng. Chỉ cần những thay đổi nhỏ trong chính sách cũng tạo ra
những biến động lớn cho thị trường vàng. Ví dụ như chính sách cấm nhập
khẩu vàng từ nước ngoài, sẽ làm cho nguồn cung trở nên khan hiếm, và cung
cũng có thể không đáp ứng được nhu cầu vàng trong nước, khi đó có thể giá
vàng trong nước sẽ tăng cao hơn mặt bằng chung giá vàng trên thế giới. Nhà
đầu tư vàng sẽ yên tâm hơn nếu thị trường nằm trong sự quản lý của nhà
nước, mọi biến động của thị trường chịu sự tác động của nhà nước dựa trên
nhũng chính sách hợp lý và thị trường vàng hoạt động theo đúng pháp luật.
3.3. Một số thị trƣờng vàng phát triển trên thế giới
Hai trong số những trung tâm giao dịch vàng quan trọng và lớn nhất trên
thế giới là thị trường vàng London và New York [16]
Thị trường vàng London ( London bullion market) là một trong những
thị trường vàng lâu đời nhất trên thế giới và là thị trường lớn nhất trong giao
dịch vàng vật chất. Các thành viên của Hiệp hội thị trường vàng London
“London Bullion Market Association” (LBMA) thực hiện giao dịch vàng và
bạc trên thị trường dưới sự dám sát của ngân hàng Anh. Hầu hết những thành
viên đều là các ngân hàng quốc tế lớn, thương gia và những nhà chế tạo vàng.
Một ngày hai lần 5 thành viên của London Gold Pool gặp nhau lúc 10h30
sáng và 3h chiều để cùng nhau xác định mức giá cho thị trường, phương pháp
xác định giá này được gọi là Gold Fixing. 5 thành viên đầu tiên của LBMA là
29. 25
các nhà giao dịch vàng lớn nhất thời bấy giờ: Rothschild & Sons, Mocatta &
Goldsmid, Pixley & Abell, Samuel Montagu & Co. và Sharps Wilkins, 5
thành viên hiện nay là: Deutsche Bank, Socíeté Génerale, HSBC, Scotia
Mocatta, Barclays Capital. Hiện nay giá vàng được ấn định bằng đôla
Mỹ(USD), Bảng Anh (GBP) và Euro (EUR). Cho đến nay London vẫn là
trung tâm lớn nhất thế giới xét về khía cạnh giao dịch OTC, xếp sau đó là thị
trường New York, Zurich và Tokyo. Mặc dù các thị trường giao dịch vàng vật
chất có mặt khắp thế giới nhưng hầy hết các giao dịch buôn bán đều được
thanh toán qua London. [16]
Thị trường vàng lớn thứ hai thế giới sau thị trường vàng London là thị
trường vàng New York, sàn giao dịch New York mở cửa vào năm 1872, lúc
đầu nó chỉ là Sàn giao dịch bơ và pho mát New York (NYMEX). Nó được
thành lập bởi một nhóm nhà buôn, dần dần các hàng hoá giao dịch ở đây được
mở rộng ra. Sàn giao dịch này bắt đầu giao dịch các hợp đồng tương lai vào
ngày 31 tháng 12 năm 1974, vào ngày đầu tiên các công dân Mỹ được cho
phép sở hữu vàng sau thời kỳ cấm đoán kéo dài trên 40 năm. Năm 1994,
NYMEX được sát nhập với Sàn giao dịch hàng hoá COMEX. Các hợp đồng
vàng ở COMEX có khối lượng là 100 ounces vàng mỗi hợp đồng, và mỗi
ngày COMEX giao dịch khoảng 75509 hợp đồng vàng tương lai.
Bên cạnh hai thị trường vàng lớn như London và New York thì còn một
số các thị trường vàng lớn và quan trọng khác trên thế giới như Tokyo,
Hôngkông, Thượng Hải, Sydney, Singapore, Dubai và Zurich.[26]
30. 26
CHƢƠNG II:
THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM
1. BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1. Các bƣớc phát triển của thị trƣờng vàng Việt Nam
Trong lịch sử phát triển tiền tệ ở nước ta, theo sử sách ghi lại thì đồng
tiền đầu tiền không phải là vàng mà là đồng. Không ai biết chính xác người
Việt bắt đầu sử dụng vàng từ khi nào, chỉ biết rằng trong thời kỳ Hai Bà
Trưng khởi nghĩa thì có nhắc đến vàng như một thứ trang sức của phụ nữ ở
các gia đình vua chúa và có thế lực. Căn cứ vào những đồng tiền thu được khi
tiến hành khảo cổ, từ thời Bắc thuộc tiền đồng Trung Quốc đã được sử dụng ở
Việt Nam như tiền của nhà Hán. Bên cạnh đó, những đĩnh vàng, đĩnh bạc của
Trung Quốc cũng được lưu hành ở Việt Nam thời kỳ này.
Đến thời Nguyễn, sau khi lên ngôi vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền
ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua
sau này của nhà Nguyễn cũng tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền
kẽm. Song song với tiền đồng thì ở thời Nguyễn các loại thoi bạc, thoi vàng
và tiền bạc tiền càng cũng ra đời từ những khoảng năm 1820, cuối triều Gia
Long đầu triều Minh Mạng. Vàng được định giá gấp 17 lần bạc và mỗi lạng
bạc giá 2 quan 3 tiền đồng.
Đến thời kỳ Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, đơn vị
của cả Đông Dương là đồng đôi khi là bạc. Tiền tệ do chính quyến trong giai
đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền vàng của triều Nguyễn
vẫn được lưu hành bất hợp pháp ở các vùng nông thôn. Sau một số biện pháp
cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh
quy định đồng bạc Đông Dương có giá trị là 665 miligam vàng (độ tinh
31. 27
khiết 900 phần nghìn) từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang
chế độ bản vị vàng.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ ra đời năm 1945, ngay cuộc họp
đầu tiên của hội đồng chính phủ đã quyết định tổ chức tuần lễ vàng được tiến
hành trong cả nước. Và tuần lễ vàng đã trở thành kỳ tích trong những ngày
đầu độc lập của nước Việt Nam dân chủ, chỉ trong vòng bảy ngày đồng bào
cả nước mà chủ yếu là các gia đình giàu có hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370kg
vàng. Quy theo giá vàng khi ấy thì số tiền này lên tới 2.293kg vàng. Điều đó
cho thấy, từ những năm 40 của thế kỷ, người dân Việt Nam đã tích trữ vàng
và khi cần huy động cũng sẵn sàng
Những năm sau đó, thị trường vàng Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc sôi động hơn rất nhiều, nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát chặt
chẽ của nhà nước từ việc khai thác cũng như mua bán vàng. Thời gian này
nhà nước đang độc quyền mua bán vàng và việc thực hiện mua bán vàng từ
nước ngoài do các công ty mua bán vàng mà nhà nước cho phép. Thị trường
đa dạng các chủ thể tham gia, ngoài các công ty đã chiếm tỷ trọng lớn, và có
khả năng chi phối như Công ty vàng bạc đá quý SJC, PNJ, SACOM, ACB,
SCB … còn có sự tham gia của nhiều ngân hàng thương mại cũng như hàng
ngàn tiệm vàng lớn nhỏ trên thị trường cùng mạng lưới các cá nhân tích trữ
vàng ở khắp các miền trên cả nước. Thị trường vàng được các chủ thể tiếp
cận với các mục đích có thể giống cũng có thể khác nhau từ tích trữ, kinh
doanh, để sản xuất, để thanh toán, để đầu tư sinh lời ngắn hạn hay thậm chí có
thể là nhu cầu trang sức làm đẹp…
Năm 1987 nhà nước ban hành Quyết định số 76/HĐBT ngày 13 tháng 5
của Hội đồng Bộ trưởng quy định về thăm dò, khai thác, chế biến và mua bán
vàng, đá quý từ long đất[27]
32. 28
Giá bán buôn công nghiệp 1 kg vàng cám 100% do xí nghiệp thuộc Bộ
Cơ Khí và luyện kim được Uỷ ban Vật giá nhà nước duyệt là 11.500.000
đồng. Giám đốc Ngân hang Nhà nước sẽ công bố giá mua giá bán lẻ kinh
doanh vàng bạc tại địa phương cả cá nhân và tập thể để đảm bảo cho Công ty
kinh doanh vàng bạc địa phương có thể mua bán và kinh doanh có lãi, cũng
như việc quản lý giá cả thị trường được tốt hơn.
Theo quy định trên giá vàng sẽ được Ngân hàng nhà nước điều chỉnh
theo các biến động của thị trường. Và gía các đá quý và trang sức khác như
bạc cũng được xác định theo giá vàng từng ngày. Tháng 6 năm 1989 thì Nhà
nước cho phép các đơn vị kinh tế tập thể, hộ kinh doanh cá thể thoả mãn các
điều kiện do nhà nước để ra như có số vốn tối thiểu, ký quỹ bằng hiện kim ở
Ngân hàng nhà nước, chuyên môn về kỹ thuật, có cửa hàng và có giấy phép
kinh doanh được kinh doanh vàng, song trong thời kỳ này chính sách vẫn
đang thắt chặt nên các đơn vị này không được buôn bán vàng khối, vàng thỏi,
vàng lá và mua bán với nước ngoài.
Sau khi kinh tế mở cửa, nhà nước đã có những bước nới lỏng cho kinh
doanh vàng, vì thế thị trường vàng Việt Nam được đà tiến lên. Đến tháng 9
năm 1993 thì các doanh nghiệp kinh doanh vàng được phép mua bán vàng
khối, vàng thỏi, vàng cục, vàng lá, vàng gốc, vàng tư trang được chế tác và
gia công. Ngày 09 tháng 12 năm 1999, theo quy định của nhà nước thì các
doanh nghiệp kinh doanh vàng có giấy phép của Ngân hàng nhà nước được
nhập khẩu vàng dưới dạng khối thỏi hạt miếng. Cùng với đó Bộ Tài chính đã
giảm thuế nhập khẩu vàng, vàng miếng từ 3% xuống 1%, vàng nguyên liệu từ
1% xuống 0.5%[5]. Và đến năm 2006, thuế nhập khẩu vàng các loại được
giảm xuống đồng đều là 0.5%.
Đến những năm gần đây, thị trường vàng Việt Nam có những bước phát
triển mới, năm 2006 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định
33. 29
cho phép các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp kinh doanh vàng được
tham gia hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài(số
03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 )[12]Quyết định trên được ban hành
nhằm điều chỉnh hoạt động kinh doanh vàng thông qua tài khoản vàng tại
nước ngoài dưới dạng các giao dịch theo thông lệ quốc tế của các tổ chức tín
dụng được phép hoạt động ngoại hối có hoạt động kinh doanh vàng và các
doanh nghiệp kinh doanh vàng [14]
Áp dụng mô hình như sàn giao dịch Chứng khoán ngày 25-5-2007 Ngân
hàng Á châu (ACB) khai trương Sàn giao dịch vàng Sài gòn tại 29 Lý thường
Kiệt quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Mình. Đây là Sàn giao dịch vàng đầu
tiên ở nước ta mở ra một kênh đầu tư vàng tập trung và có tổ chức.[28]
Song hoạt động của sàn vàng còn tiềm ẩn nhiều bất ổn cũng như chưa có
những biện pháp quản lý chặt chẽ nên ngày 6/1, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước đã ký ban hành Thông tư số 01/2010/TT-NHNN bãi bỏ Quyết định số
03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/1/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở
nước ngoài và Quyết định số 11/2007/QĐ-NHNN ngày 15/3/2007 về sửa đổi,
bổ sung quy định về hoạt động này, từ đó chấm dứt các hoạt động kinh doanh
vàng trên tài khoản của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được cấp phép
trước đó.[15][29]
Vào tháng 6 năm 2007, kho ngoại quan vàng đầu tiên của Việt ANm
chính thức được đưa vào sử dụng. Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC)
được sự hỗ trợ của Công ty dịch vụ tiếp vận toàn cầu Brink’s đã khai trương
Kho ngoại quan vàng tại TPHCM, nằm tại khu vực kho hàng của sân bay Tân
Sơn Nhất. Sự ra đời của kho ngoại quan vàng đánh dấu một bước phát triển mới
của thị trường vàng Việt Nam, hướng tới hội nhập với quốc tế sâu rộng hơn. [30]
Cho đến thời điểm năm 2009. thì SJC có thị phần chi phối gần 90% thị
trường vàng Việt Nam sở hữu thương hiệu mạnh nhất trong ngành với cơ sở
34. 30
hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực mạnh. Ngày 9-2-2010 lần đầu tiên miếng
vàng 10 lượng được sản xuất trong nước được đưa ra thị trường bởi công ty
SJC, miếng vàng ra đời rất tiện lợi cho những người mua và trữ vàng số lượng
lớn. Bên cạnh SJC thì còn có khoảng 10 doanh nghiệp có quy mô lớn cùng
với 3000 doanh nghiệp kinh doanh vàng vừa và nhỏ. Kinh doanh vàng là
ngành nghề có điều kiện và phải được phép của Ngân hàng nhà nước, trước
thời điểm tháng 1/2010 một số ngân hàng cũng được phép mở sàn vàng, kinh
doanh vàng trên tài khoản, song có do có nhiều vấn đề nảy sinh trong việc
quản lý nên đến tháng 3/2010 các sàn vàng chính thức bị đóng cửa.
Song dưới con mắt đánh giá của ông Albert Cheng, Tổng giám đốc Hội
đồng vàng Thế giới – khu vực châu Á, so với các nước trong khu vực thị
trường vàng Việt Nam đang có tốc độ phát triển nhanh nhất. Tuy nhiên để thị
trường vàng của chúng ta có thể đuổi kịp các thị trường vàng phát triển trong
khu vực, cần đạt đến tiêu chí một thị trường mở để kết nối với các giao dịch
của thị trường vàng thế giới.[31]
1.2. Thực trạng về tình hình hoạt động thị trường vàng giai đoạn 2007-2009
Qua một quá trình phát triển lâu dài, thị trường Việt Nam hiện nay đã có
những bước tiến vượt bậc so với cách đây vài chục năm. Xu hướng mở thể
hiện rõ nét qua tính đa dạng về chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường.
Ngoài các công ty chiếm tỷ trọng lớn, có khả năng chi phối giá như công ty
Vàng bạc đá quý SJC, PNJ, SACOM, ACB, SCB…còn có sự góp mặt cảu
nhiều Ngân hàng thương mại, các tiệm vàng lớn nhỏ trên cả nước cùng mạng
lưới nhà đầu tư cá nhân khắp mọi miền. Các chủ thể tiếp cận thị trường với
nhiều mục đích khác nhau có thể là kinh doanh, tích trữ, để sản xuất, để thanh
toán, hay chỉ đơn giản là nhu cầu trang sức làm đẹp…Và có thể nhận thấy,
nhu cầu về giao dịch vàng tại Việt Nam đang có xu hường ngày một cao, sự
phát triển của thị trường vàng Việt Nam cũng vì thế mà ngày càng đi lên.
35. 31
* Cung vàng trên thị trường trong nước
Nguồn cung vàng chủ yếu trong nước là do nhập khẩu, Việt Nam là quốc
gia nhập khẩu tới 95% nhu cầu vàng của mình. Theo thống kê của công ty
Vàng bạc đá quý SJC, kể từ khi ra đời thương hiệu vàng miếng năm 1988 cho
đến thời điểm giữa năm 2008 thì đã có 11triệu lượng vàng miếng được đưa ra
thị trường, cứ 1 triệu lượng vàng miếng SJC tương đương với 37,5 tấn vàng.
Như vậy số vàng miếng SJC đã vào thị trường tương đương 412,5 tấn, tính
theo giá vàng thế giới tháng 4 năm 2008 là khoảng 12,3tỷ USD.
Ngoài ra còn một lượng lớn vàng nhập khẩu để chế tác nữ trang. Việt
Nam trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu vàng.
Điều này góp phần không nhỏ vào thâm hụt cán cân thương mại của đất nước,
đối phó loại với tình hình, giữa tháng 5 năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã
ngừng cấp giấy phép nhập khẩu vàng nhằm kiềm chế lạm phát, điều chỉnh
kinh tế vĩ mô. Cho đến thời điểm ngừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị nhập
khẩu vàng cho năm 2008 là 1,7 tỷ USD tương đương 45 tấn vàng và bằng
57% sản lượng vàng tiêu thụ năm 2007.Việc ngừng nhập khẩu vàng là việc
phải làm nhưng “liều thuốc” này cũng đã để lại một số tác dụng phụ, trong đó
đáng chú ý là góp phần “đẩy” giá vàng trong nước càng xa với thế giới.
Ngưng nhập khẩu vàng đồng nghĩa với nguồn cung vàng bị bó hẹp lại, vì vậy
làm cung nhỏ hơn cầu tất yếu dẫn đến việc đẩy giá vàng tăng lên và tạo ra
những diễn biến phức tạp trong năm 2008.
Song đến cuối năm 2009, do có những biến động bất lợi tạo ra sự biến
động lớn trên thị trường vàng, đẩy giá vàng lên trên 29triệu đồng/ lượng,
nguồn cung vàng là một trong những nguyên nhân gây ra sự biến động này.
Để bình ổn giá vàng Chính phủ đã có những biện pháp ổn định thị trường
vàng trong nước, trong đó đáng chủ ý, là việc Thống đôc Ngân hàng Nhà
nước Nguyễn Văn Giàu đã cho phép nhập khẩu vàng sau 1,5 năm ngừng nhập
36. 32
khẩu. Nhờ đó thị trường vàng phần nào ổn định do cung vàng có thể đáp ứng
đủ nhu cầu vàng trong nhân dân.
* Cầu vàng trên thị trường trong nước
Nhu cầu cất trữ vàng trong nước đã xuất hiện từ xa xưa và những năm
gần đây cầu vàng càng ngày càng lớn do nhu cầu vàng đầu tư trong nước
ngày càng tăng. Sau sự biến động lớn của giá vàng năm 2006, người dân đổ
xô đi mua vàng. Vàng trở thành một xu hướng mới của giới đầu tư, năm 2007
là một năm đầy biến động của thị trường vàng trong nước, nhu cầu về vàng tăng
mạnh và đột ngột, sản lượng tiêu thụ được trong nước năm đó đạt 75 tấn, trong
những ngày cao điểm thị trường vàng đã tiêu thụ được 2 tấn vàng 1 ngày.
Tháng 9 năm 2007, đánh dấu một biến động lớn trên thị trường vàng
Việt Nam khi mà các thông tin liên quan về thị trường tài chính Mỹ bị phanh
phui, lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sắp lan toả toàn cầu. Và
trong thời điểm đó dễ nhận thấy được tính chất an toàn cũng như bảo toàn tài
sản, vàng đã trở thành kênh đầu tư an toàn nhất trong thời điểm bất ổn do lạm
phát tăng cao và đồng đô la mất giá. Trong ba kênh tiết kiệm, Việt Nam đồng,
đô la Mỹ và vàng thì vàng trở nên an toàn và được ưa thích hơn bao giờ hết.
Tháng 11, khi giá vàng đang tăng cao nhu cầu mua vàng đầu cơ tích trữ tại Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh vẫn tăng cao. Những năm gần đây, qua sự biến động
của thị trường vàng cho thấy, nhu cầu vàng của người dân tỷ lệ thuận với giá
vàng, khi mà giá vàng tăng cao, nhu cầu vàng trong nước cũng tăng cao, do
thiếu sự hiểu biết về thị trường, người dân đua nhau mua vàng để đầu cơ. Đến
cuối năm 2009, giá vàng đột ngột tăng lên trên 29triệu đồng/ lượng, người
dân đổ xô đi mua vàng, khiến cho thị trường chao đảo, nhiều chuyên gia cho
rằng đó là hiện tượng bong bong vàng, do nhà đầu tư nhận định sai thị trường
cũng như việc người dân đi mua vàng theo dây chuyền khiếp cho nhu cầu
vàng tăng cao.
37. 33
* Giá vàng trong nước
Từ giữa năm 2006 thị trường vàng Việt Nam đã có những biến động lớn
do giá vàng đột ngột tăng mạnh vào giữa tháng 6, lần đầu tiên giá vàng vượt
ngưỡng 1,4 triệu đồng/chỉ. Từ đó vàng trở thành một xu hướng mới của giới
đầu tư, năm 2007 chứng kiến nhiều biến động của giá vàng, song mức giá đầu
năm 2007 lại diễn ra khá khiêm tốn, mức giá trên dưới 1,3 triệu đồng/chỉ.
Tháng 11 năm 2007 giá vàng bất ngờ tăng cao do nhu cầu mua vàng đầu cơ
tích trữ ở các thành phố lớn tăng cao do lo ngại khủng hoảng kinh tế, giá vàng
thị trường trong nước thời điểm này bán ra là 1.650.000 đồng/chỉ, mua vào
1.640.000 đồng/chỉ. Giá vàng tính đến hết năm 2007 đã tăng 30% so với thời
điểm cuối năm 2006.
Sang năm 2008, giá vàng trong nước biến động theo sự thăng trầm của
nền kinh tế thế giới, diễm biến giá vàng trong nước đã trải qua hai đợt sóng
lớn vào tháng 3 và tháng 7 khi vượt mức 19 triệu đồng/lượng , sau đó giảm
mạnh vào cuối năm. Theo dữ liệu từ Ngân hàng ACB, giá vàng SJC trong
nước đạt mức cao kỷ lục là 19.35 triệu đồng/lượng và thấp nhất 16.10 triệu
đồng/lượng. Tính bình quân giá vàng năm 2008 xoay quanh mức 17.64 triệu
đồng/ lượng. Nhìn vào biểu đồ ta cũng thấy rõ được sự thay đổi mạnh mẽ giá
vàng tháng 3 và tháng 7 năm 2008
38. 34
Biểu đồ 4: Giá vàng 10 tháng đầu năm 2008
Nguồn: Công ty vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu- Ngày 15/10/2008
39. 35
Trong năm 2008, đã có lúc giá vàng trong nước không theo sát giá vàng
thế giới, điều đó cho thấy thị trường vàng Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc
hoạt động và đáp ứng theo nhu cầu, chưa có sự liên kết được với các thị
trường thế giới.
Năm 2009 là năm có nhiều kỷ lục nhất về sự biến động của vàng chính
vì thế rất nhiều nhà đầu tư đã phải trả giá đắt cho sự dự đoán sai xu hướng của
giá vàng. Giá vàng đã có lúc biến động mạnh từ 24 triệu đồng/lượng lên đến
trên 29 triệu đồng/lượng, làm không ít nhà đầu tư thua lỗ hàng tỷ đồng. Ngày
11/11/2009 giá vàng tăng cao đột ngột có lúc lên đến 29.5 triệu đồng/lượng,
giá vàng trong nước lúc bấy giờ so với giá vàng thế giới chênh lệch trên 3
triệu đồng/ lượng, biết rằng giá vàng chếnh lêch cao nhưng các nhà đầu tư
vẫn tiếp tục mua vào.
Biểu đồ 5: Giá vàng trong nƣớc so với giá vàng thế giới ngày 11/11/2009
Nguồn: www.24h.com.vn/news/detail/52/26...ews%3D10
40. 36
* Hoạt động của sàn vàng và giá trị giao dịch
Các phiên giao dịch đầu năm 2007 của thị trường vàng diễn ra tương đối
khiêm tốn, lượng khách đến mua vàng tại các công ty vàng bạc đá quý không
mấy nhộn nhịp và hầu hết là khách mua vàng vào.
Ngày 25-5-2007, Ngân hang Á châu ( ACB) khai trường sàn giao dịch
vàng đầu tiên tại Sài Gòn, đây là sàn giao dịch vàng đầu tiên ở nước ta, mở ra
một kênh đầu tư vàng tập trung và có tổ chức. Để mua bán tại sàn này, nhà
đầu tư chỉ cần ký quỹ 10% giá trị giao dịch, 90% vốn sẽ được ACB cũng với
tư cách là thành viên của sàn sẽ cho vay, giúp nhà đầu tư kinh doanh cả chiều
mua và chiều bán. nhà đầu tư không chỉ có thể mua vàng về để đầu cơ giá lên
mà còn có thể bán vàng để đầu tư giá xuống.
Vào tháng 11 năm 2007, thời điểm giá vàng tăng cao khối lượng giao
dịch vàng lên tới 27.700 lượng vàng tại Sàn giao dịch vàng Sài Gòn và lên tới
20.000 lượng vàng tại công ty Vàng bạc đá quý SJC. Vàng đã trở thành kênh
đầu tư mới thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư .
Sang đến năm 2008, năm đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của các sàn
giao dịch vàng, tính đến thới điểm cuối năm 2008 đã có hơn 10 sàn giao dịch
vàng đã được đi vào hoạt động. Việc ra đời các sàn vàng cùng với cơn sốt giá
trong năm đã khiến một lượng tiền lớn chảy từ chứng khoán sang. Tuy nhiên,
sự khốc liệt của loại hình này cũng chứng kiến không ít nhà đầu tư chịu thiệt
thòi do bị áp đặt các quy định bất lợi. Năm đó thị trường cũng chứng kiến sự
đời của rất nhiều sàn vàng bất hợp pháp. Hơn nữa đó cũng là thời điểm nở rộ
việc kinh doanh vàng qua tài khoản qua mạng bất hợp pháp. Các công ty ra
đời dưới cái danh trung tâm tư vấn, dù đã có rất nhiều người phải trả giá đắt
khi tham gia vào loại hình đầu tư mạo hiểm này song các nhà đầu tư khác vẫn
cứ lao vào như “ thiêu thân”. Tham gia thị trường này nhà đầu tư không mất
công đên sàn giao dịch mà cũng không phỉa viết phiếu đặt lệnh mua bán
41. 37
thông qua nhân viên nhập lệnh mà tự đặt lệnh mua bán vàng trực tuyến ở nhà.
Thực chất đây là hình thức kinh doanh theo kiểu trò chơi đánh bạc bằng máy
tính trực tuyến hên xui.
Do giá vàng trên sàn gắn với giá vàng thế giới, nên có thời điểm giá vàng
trên sàn giao dịch lại thấp hơn giá vàng vật chất bên ngoài đã giúp cho nhiều
nhà đầu tư kiếm được chênh lệch từ việc mua và rút vàng đem ra ngoài bán.
Điều này khiến các sàn giao dịch liên tục thay đổi hạn mức rút vàng gây
nhiều tranh cãi. Chỉ đến khi áp dụng mức phí rút vàng là không đủ dự trữ.
Năm 2009 là một năm sóng gió nhất trên thị trường tài chính, quả bom
về khủng hoảng kinh tế đã nổ và lan nhanh sang các thị trường tài chính trên
toàn thế giời. Nếu xét vàng là một loại hàng hoá thì trong thời kỳ suy thoái
kinh tế, chắc chắn mặt hang này cũng bị sụt giảm, nhưng từ quan điểm vàng
được coi là nơi trú ẩn an toàn của đồng vốn, kênh đầu tư an toàn nhất trong
giai đoạn kinh tế bất ổn thì thị trường này không ảm đạm – theo Phó chủ tịch
Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam ông Huỳnh Trung Khánh - Tạp chí
Doanh nhân ngày 02/09/2009 [13]
Sức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng cũng được chứng tỏ bởi nhà đầu tư
chỉ cần có 10 triệu đồng là có thể thành nhà đầu tư vàng, chính yếu tố này đã
lôi kéo không ít người dân tham gia, mà trong số họ không ít người không có
kiến thức về thị trường vàng nên họ có tâm lý bầy đàn mua cùng mua bán
cùng bán tạo ra hiện tượng bong bóng trên thị trường.
Cuối năm 2009, sau một thời gian dài thị trường vàng sôi sục vì giá vàng
không ngừng tăng và “ sân chơi” sàn vàng, ngày 30/12/2009, Thủ tướng
chính phủ cho ý kiến chỉ đạo tại văn bản 369/ TB-VPCP ban hành chậm nhất
90 ngày kể từ ngày thông báo mọi hoạt động kinh doanh sàn giao dịch vàng
và kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước (bãi bỏ Quyết định 3/2006/QĐ-
NHNN ngày 18/02/2006) phải chấm dứt hoạt động (trước ngày 30/03/2010).
42. 38
Còn đối với hoạt động kinh doanh vàng là đồ trang sức vẫn được cấp phép
tiến hành bình thường song Ngân hàng nhà nước và UBND cấp tỉnh phải có
sự tổ chức và hướng dẫn cụ thế. Tính đến cuối năm 2009, trên cả nước đã có
khoảng 20 sàn vàng được tổ chức theo hình thức góp vốn và liên kết giữa các
tổ chức, cá nhân trong đó đa số là có sự tham gia của các ngân hàng thương
mại và công ty chứng khoán.
Thị trường Việt Nam những năm vừa qua đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, thu hút được lượng lớn vốn trong dân và doanh nghiệp. Do vậy,
bên cạnh việc phát triển các kênh đầu tư khác như Thị trường chứng khoán,
Thị trường bất động sản, Thị trường ngoại hối…. thì việc xây dựng và phát
triển thị trường vàng cũng là một mắt xích quan trọng trong việc phát triển
kinh tế đất nước cũng như huy động vốn trong xã hội.
1.3. Phân tích những nguyên nhân gây biến động đến thị trƣờng vàng
Từ năm 2007 đến này, thị trường vàng Việt Nam đã có nhiều biến động
do các yêú tố bên trong và bên ngoài. Trước hết yếu tố tác động lớn nhất đến
thị trường vàng Việt Nam nói riêng mà thị trường vàng thế giới nói chung đó
là cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới trong thời gian qua. Trong
tháng 9 năm 2007, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã có dấu hiệu bùng
phát và lan rộng trên toàn thế giới, đồng đô la giảm xuống mức thấp nhất
trong 15 năm trong khi đó giá vàng tăng mức kỷ lục trong 27năm. Song trong
thời điểm đó giá vàng ở Việt Nam vẫn chưa tăng giảm theo đúng nhịp độ của
giá thế giới. Chỉ đến tháng 11 khi mà thông tin về cuộc khủng hoảng đang lan
rộng khắp toàn cầu, giá vàng vào thời điểm đó lên mức xấp xỉ 1,7triệu
đồng/lượng, nhận định được sự bất ôn của thị trường, cùng lúc đó thị trường
chứng khoán cũng như bất động sản việt Nam rớt giá, vàng trở thành một
kênh tiết kiệm hoàn hảo nhất. Người dân đổ xô đi mua vàng theo những mục
đích khác nhau từ tiết kiệm đến đầu tư trong thời buổi mà chứng khoán sụt
giảm, bất động sản đóng băng, giá cả thị trường leo thang.
43. 39
Trong bốn tháng đầu năm 2008, lượng vàng nhập khẩu lên đến bằng
75% lượng vàng nhập khẩu năm 2007, dẫn đến tình trạng nhập siêu nên Ngân
Hàng nhà nước đã có lệnh ngừng nhập vàng để kiềm chế lạm phát, song việc
cấm nhập vàng lại gây ra một số tác động nhất định đến thị trường vàng.
Trong đó đáng chú ý nhất là góp phần đẩy giá vàng trong nước ngày càng xa
giá vàng thế giới. Khi nhà nước cấm nhập khẩu vàng việc sản xuất và kinh
doanh của các doanh nghiệp gia công liên quan đến vàng cũng như các công
ty kinh doanh vàng bạc sẽ bị ảnh hưởng, gây biến động đến thị trường, hơn
thế nữa còn tạo tâm lý cho người dân, nhu cầu về vàng tăng cao trong khi
cung thì lại bị hạn chế. Đến tháng 11 năm 2009, một lần nữa giá vàng lại lên
đến mức đỉnh điểm, có những thời điểm vàng lên trên 29triệu đồng/lượng, cả
thị trường hoảng loạn, người dân tranh nhau xếp hàng dài đi mua vàng.
Nguồn hàng thì khan hiếm nhưng người dân vẫn cứ tăng mua, tạo ra áp lực
tăng giá. Hơn nữa, một số người vay vàng ngân hàng, đến kỳ trả nợ, dù giá
vàng cao cũng phải mua vào để trả nợ. Thêm vào đó, một số nhà đầu tư đang
kỳ vọng giá tiếp tục tăng cao nên đua nhau đánh lên, mua vàng với lượng
lớn” đó là lời giải thích của ông phó trưởng phòng kinh doanh vàng SJC cho
hiện tượng giá vàng lên mức kỷ lục. Và có lẽ nguyên nhân lớn nhất dẫn đến
giá vàng leo thang vậy là do tính dây chuyền, khi thấy vàng lên cao, người
dân đổ xô đi mua, khi nhu cầu vàng ở mức cao mà nguồn cung làm cho giá
vàng mỗi ngày một tăng giá. Sau đó để làm nguội tình hình đang diễn ra trên
thị trường ngày 11/11/2009 Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam
Nguyễn Văn Giàu tuyên bố sẽ có 5-6 doanh nghiệp được nhập vàng với khối
lượng không hạn chế. Sau gần 1 năm rưỡi cho ngừng nhập vàng tự do, nhà
nước ra quyết định cho một số doanh nghiệp kinh doanh vàng nhập không
hạn chế, khi cung được nới ra ngay lập tức giá vàng trong buổi chiều cùng
ngày hạ nhiệt xuống 1,2 triệu đồng mỗi lượng.
44. 40
Một yếu tố cũng tác động nhiều đến thị trường vàng Việt Nam những
năm vừa qua đó là sự ra đời của Sàn giao dịch vàng Việt Nam, sàn vàng được
áp dụng mô hình như sàn giao dịch chứng khoán, và các nhà đầu tư có thể đến
giao dịch thông qua các thành viên trên sàn theo phương thức khớp lệnh liên
tục. Nó tạo ra một sân chơi mới cho người dân, và cũng tạo nên một phong
trào sàn vàng không được như sàn chứng khoán song phần nào cũng thu hút
được sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư. Những người quan tâm đến vàng
giờ không chỉ mua vàng để tích trữ mà mua đi bán lại, mua khi giá hạ và bán
khi giá lên để tạo ra lợi nhuận. Song hoạt động không được lâu, do chưa có cơ
sở pháp lý, không tạo ra gía trị gia tăng, độ rủi ro cao và thâm hụt vốn lớn, vì
vậy theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý của Nhà nước đối
với việc kinh doanh vàng, tại văn bản 369/TB-VPCP, theo đó việc kinh doanh
vàng trên những sàn vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước
phải chấm dứt hoạt động trước ngày 30/03/2010. Có lệnh đóng cửa các sàn
vàng, các nhà đầu tư chuyển hướng sang kênh đầu tư khác, còn các sàn vàng
lại chuyển hướng sang kinh doanh vàng vật chất. Song từ khi có lệnh đến hết
tháng 3 các sàn vàng phải đóng cửa và sau đợt tăng giá kỷ lục lên trên 29 triệu
đồng/lượng, thị trường chưa có biến động nào lớn trong tháng đầu năm 2010.
1.4. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thị trƣờng vàng Việt Nam
1.4.1. Chính sách nhà nước
Các chính sách của nhà nước liên quan đến kinh doanh vàng ảnh hưởng
mạnh mẽ đến thị trường vàng Việt Nam, trong đó gồm các pháp lệnh, thông
tư, nghị định của Ngân Hàng nhà nước, của Thủ tướng chính phủ. Việc kinh
doanh vàng hiện nay ở nước ta được điều chỉnh theo Nghị định số
64/2003/NĐ-CP ngày 11/06/2003 của chính phủ sử đổi bổ sung từ nghị định
số 174/199/NĐ-CP. [7]Song Nghị định này chỉ quản lý một số hoạt động về
vàng có liên quan tới chính sách tiền tệ như: xuất, nhập khẩu vàng nguyên
45. 41
liệu, sản xuất vàng miếng. Các hoạt động kinh doanh vàng khác như mua bán
vàng trang sức mỹ nghệ, vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình
thường giống như các loại hàng hóa khác. Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu
kinh doanh vàng chỉ cần thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh
doanh theo Luật doanh nghiệp, Luật thương mại. Sở kế hoạch và đầu tư thực
hiện cấp phép, kiểm tra, kiểm soát hoạt động trên thị trường do Bộ Công
thương chịu trách nhiệm…Tuy nghị định này chưa thật đầy đủ và chặt chẽ
xong phần nào cũng cần thiết và có những tác động nhất định đến thị trường
vàng Việt Nam. Việc cho phép hay ra lệnh ngừng nhập vàng của Ngân hàng
nhà nước vào những tháng đầu năm 2008 hay cuối năm 2009 cũng có những
tác động to lớn đến thị trường vàng, trong đó cụ thể là đợt mở cửa cho phép
một số doanh nghiệp kinh doanh vàng được phép nhập khẩu vàng với số
lượng không giới hạn ngay lập tức đã hạ cơn sốt thèm vàng của thị trường
xuống 1,2 triệu đồng/lượng trong một buổi chiều.
Năm 2006, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định cho
phép các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp kinh doanh vàng được tham
gia vào hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài và một năm
sau, năm 2007 Sàn giao dịch vàng Sài gòn thuộc ngân hàng Á Châu ra đời .
Về việc cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài và tài khoản
trong nước giúp cho các đơn vị kinh doanh vàng có thể lựa chọn mức giá khi
xuất, nhập khẩu vàng. Song đây cũng là hoạt động có mức rủi ro rất cao khi
giá vàng thế giới có những biến động mạnh, lên xuống thất thường với biên
độ lớn. Đồng thời chính các đơn vị kinh doanh vàng trên tài khoản này cũng
thành lập các sàn giao dịch vàng trong nước mà thực chất là mua bán vàng
trên tài khoản trong nước gây ra nhiều biến động trên thị trường thời gian vừa
qua. Theo Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước hoạt động kinh doanh sàn vàng
hay còn gọi là kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước loại hình kinh
46. 42
doanh chênh lệch giá tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả nhà đầu tư và chính các đơn
vị kinh doanh vàng. Việc chưa có những quy định rõ ràng của Nhà nước về
việc kinh doanh này nên trong thời gian qua đã xảy ra không ít những vụ
tranh chấp khiếu kiện giữa nhà đầu tư và đơn vị tổ chức sàn, đồng thời việc
hoạt động của sàn vàng do chưa có cơ sở pháp lý cũng gây ra nhiều bất ổn
cho không chỉ thị trường vàng mà con cho cả nền kinh tế. Với thực tế trên,
Thủ tướng chính phủ đã giao Ngân hàng nhà nước bãi bỏ quy định về việc
kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài theo Quyết định 03/2006/QĐ-
NHNN ngày 18/01/2006, và theo đó Thủ tướng chính phủ cũng đã yêu cầu
không tổ chức và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước
dưới mọi hình thức. Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày có thông báo (đến
30/03/2010) mọi hoạt động liên quan đến sàn giao dịch vàng và kinh doanh
vàng trên tài khoản phải chấm dứt hoạt động. Việc cho phép 90 ngày để chấm
dứt hoạt động của các sàn vàng nhằm cho phép nhà đầu tư có đủ thời gian để
hoàn tất trạng thái vàng đang nắm giữ trên tài khoản.
Như vậy chúng ta cũng thấy được, dù chưa có những cơ sở pháp lý thật
chặt chẽ song các chính sách cũng như những thay đổi quy định của Ngân
hàng Nhà nước trong việc quản lý kinh doanh vàng, đầu tư vàng, nhập khẩu
vàng cũng phần nào tác động đến hoạt động của thị trường vàng Việt Nam.
1.4.2. Biến động thị trường vàng thế giới
* Tổng quan về thị trường vàng năm 2007-2009
Thị trường vàng thế giới là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ
đến thị trường vàng Việt Nam mặc dù thị trường vàng Việt Nam kết nối chưa
thật tốt với vàng thế giới, song sự tăng giảm giá vàng hàng ngày hay những
tình hình tinh kế chính trị xảy ra hàng ngày cũng ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp
đến thị trường vàng Việt Nam. Những năm qua thị trường vàng thế giới cũng
trải qua những biến động không nhỏ.Trong năm 2007, giá vàng thị trường thế
47. 43
giới đã có lúc lên tới mức kỷ lục nhưng cũng kết thúc năm bằng một con số
dưới mong đợi.[20] Theo thống kê xu thế của Hội đồng Vàng thế giới WGC,
lượng cầu về kim loại quý năm 2007 cao hơn 4% so với năm 2006 và đạt
3.547 tấn. Năm 2007, Trung quốc đã vượt Mỹ và trở thành thị trường vàng
bán lẻ đồ trang sức bằng vàng lớn thứ hai trên thế giới sau Ấn Độ với mức
cầu về đồ trang sức vàng đạt 302 tấn vượt qua mốc 300 tấn lần đầu tiên năm
1997. Tuy nhiên giá vàng cao và bất ổn đã gây ảnh hưởng lớn trong quý thứ
IV, lượng cầu giảm 17% so với cùng kỳ năm trước. Xu hướng giảm cầu vàng
này ảnh hưởng từ thị trường lớn nhất thế giới là Ấn độ, nơi mà nhu cầu vàng
giảm xuống 64% so với cùng kỳ năm trước sau khi đã tăng đến 40% trong ba
quý đầu năm. Nước Mỹ cũng bị ảnh hưởng xấu bởi nền kinh tế phát triển
chậm chạp, mức cầu giảm 14%. Ngược lại trong lĩnh vực đầu tư, những tháng
cuối năm 2007 lại chứng kiên những kỷ lục về vàng mua vào đạt 8tỷ đô la
mức cao nhất tính trong quý những năm trước đó. Việc mua vào được thế
hiện mạnh ở khu vực gồm các giao dịch vàng trả tiền ngay, thay đổi trong hợp
đồng tương lai được đảm bảo bằng cổ phần và các giao dịch phái sinh khác.
Đầu tư bán lẻ dưới dạng các dạng thỏi và tiền vàng tăng 2% năm 2007. Năm
2007 cũng là năm nguồn cung cấp vàng vẫn hạn hẹp, giảm 3% xét về số
lượng tấn so với năm trước, nguồn cung từ khu vực chính thức tăng do số
lượng bán ra theo Hiệp định của Ngân hàng trung ương tăng lên, song nguồn
cung đó lại phải bù cho lượng gia tăng các công ty phòng hộ giá vàng nguồn
cung vàng phế liệu giảm[18][34]
Sang đến năm 2008 là một năm đầy biến động với những thăng trầm của
nền kinh tế thế giới và thị trường vàng cũng nằm trong vòng xoáy đó. Nếu lấy
thị trường vàng thế giới làm thước đo, năm 2008 có thể chia thành hai nửa đối
lâp. Ở nửa thứ nhất vàng được coi là một kênh an toàn nhất trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế của các nhà đầu tư, cảnh lạm phát leo thang, sự trượt giá
48. 44
của đồng đô la và sự đổ vỡ của các tổ chức tài chính. Ở nửa thứ hai, kim loại
quý này lại được xem là kênh đầu tư phải bán ra đầu tiên để huy động tiền
mặt trong bối cảnh thế giới rơi vào tình trạng thắt chặt tín dụng, đồng đô la
lấy lại ưu thế, nỗi lo giảm phát và sự suy thoái đồng loạt của các nền kinh tế
lớn. Tính trung bình cả năm 2008 vàng tăng them 175,33 USD lên mức 871
USD/oz, trong năm đó vàng là hàng hoá duy nhất tăng giá trong khi thị
trường chứng khoán và nhiều loại hang hoá khác giảm một nửa giá trị. Mức
tăng trong năm 2008 khá khiêm tốn nhưng do liên tục biến động mạnh và có
lúc chạm mức kỷ lục 1011USD/oz vào ngày 17/3 do nhà đầu tư đổ xô vào
kênh đầu tư an toàn sau vụ sụp đổ của Bear Steans, kể từ đó vàng hạ dần
Biểu đồ 6: Diễn biến giá vàng từ lúc thời điểm khủng hoảng
kinh tế đến cuối năm 2008
Nguồn: Global Insight_ World Gold Council
Tuy nhiên đến giữa tháng 11 thì vàng lại có xu hướng tăng trở lại do
những nguyên nhân do thị trường tiền tệ thắt chặt nhiều nhà đầu tư lo sợ viễn
cảnh lạm phát và đồng đô la có dấu hiệu mất giá khiến cho nhu cầu vàng tăng.