1. i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
------------------------------------------------------------------------------------
PHẠM TRUNG THỦY
TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG ĐẾN SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN VÙNG
ĐỆM
VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO KHU VỰC THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp
Mã số: 60-31-10
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.Đỗ Anh Tài
2. ii
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Tác động của dự án duy trì và phát bền vững đến sinh kế
của người dân vùng đệm vườn quốc gia Tam Đảo khu vực Thái Nguyên”
được thực hiện từ tháng 6/2007 đến tháng 8/2009. Luận văn sử dụng những
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Các thông tin này đã được chỉ rõ nguồn
gốc, đa số thông tin thu thập từ điều tra thực tế ở địa phương, số liệu đã được
tổng hợp và xử lý trên các phần mềm thống kê SPSS 15, R.9.1.
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào tại
Việt Nam.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và mọi thông tin trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
3. iii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu,
Phòng Đào tạo, Khoa Sau Đại học, cùng các thầy, cô giáo trong trường Đại
học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi
điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Đặc biệt xin chân thành cảm ơn TS.Đỗ Anh Tài đã trực tiếp hướng dẫn,
chỉ bảo tận tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu, giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn TS.Joachim Krug thuộc viện nghiên cứu rừng
thế giới, đại học Hamburg - Đức đã đã tổ chức lớp huấn luyện về các phương
pháp đánh giá chỉ số (Indicators) trong đánh giá sinh kế tại trường Đại học
Kinh tế & QTKD Thái Nguyên tháng 5/2009.
Tôi xin cám ơn Anna Rosa Stier - Học viên cao học thuộc Đại học Marie
Curie - Pháp đã hướng dẫn tôi ứng dụng phần mềm R trong phân tích, kiểm
định các chỉ tiêu để đánh giá sinh kế.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, lãnh đạo Huyện uỷ, UBND huyện
Đại Từ - Tỉnh Thái Nguyên, trạm Khuyến nông, phòng Nông nghiệp&PTNT,
phòng Thống kê, Phòng lao động thương binh xã hội, Phòng tài nguyên và
môi trường, cán bộ và nhân dân các xã Cát Nê, Văn Yên và xã Ký Phú đã tạo
mọi điều kiện giúp đỡ khi điều tra thực địa giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn cơ quan, gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, đặc biệt là người vợ thân yêu đã luôn sát cánh, động viên, giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2009
Tác giả luận văn
4. iv
Phạm Trung Thủy
MỤC LỤC
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục các chữ viết tắt vii
Danh mục các bảng, biểu viii
Danh mục biểu đồ, sơ đồ ix
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VQG Vườn Quốc gia
GTZ Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức
UBND Ủy ban nhân dân
PTNT Phát triển nông thôn
CHLB Công hoà liên bang
SPSS Statistical Package For Social Sciences
R Recreational Mathematics
MIS Hệ thống thông tin môi trường
SME Doanh nghiệp vừa và nhỏ
5. v
PIC Trung tâm thông tin công cộng
PSFE Chương trình rừng quốc gia
UTOs tổ chức hợp tác kỹ thuật
WCS Hiệp hội bảo vệ thú rừng
WWF Quỹ thế giới bảo vệ các loài thú hoang dã
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu 2.1: Nghề nghiệp của chủ hộ trong mẫu điều tra.........................................lv
Biểu 2.2: Nghề nghiệp của vợ/chồng chủ hộ.......................................................lvii
Biểu 2.3: Nghề nghiệp của các thành viên khác trong hộ.................................lviii
Biểu 2.4: Các nguồn thu hàng năm của hai nhóm hộ ........................................lxx
Biểu 2.5: Sự tham gia và các nguồn thu trung bình năm 2008 ......................lxxii
Biểu 2.6: Doanh thu và chi phí bình quân năm 2008 từ rừng .......................lxxiv
Biểu 2.7: Đánh giá mức độ quan trọng của rừng đối với cuộc sống............lxxxiv
6. vi
Biểu 2.8: Đánh giá của người dân về sự thay đổi môi trường......................lxxxvi
Biểu 2.9: Sự khác biệt về cơ cấu kinh tế giữa hai nhóm hộ........................lxxxviii
DANH MỤC SƠ ĐỒ
DANH MỤC HỘP
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày nay, vấn đề môi trường ngày càng trở thành tâm điểm và thu hút
được sự quan tâm của tất cả mọi thành phần trong xã hội vì nó ảnh hưởng trực
tiếp hàng ngày đến cuộc sống của vạn vật trên trái đất. Trái đất của chúng ta
đang nóng dần lên hàng ngày, hàng giờ bởi chính các tác động xấu của con
người đến môi trường tự nhiên như việc chặt phá, khai thác rừng trái phép,
nước thải của các nhà máy chế biến không qua xử lý theo đúng tiêu chuẩn cho
phép, khí thải của nền sản xuất công nghiệp trên toàn thế giới... Môi trường
xấu đã tác động tiêu cực lại chính cuộc sống của chính chúng ta như: Ô nhiễm
môi trường nước, không khí, dịch bệnh, lũ lụt, hạn hán... Ở Việt Nam, Chính
phủ và người dân đã cùng nhận thức được tầm quan trọng phải bảo vệ môi
7. vii
trường sống cho chính bản thân chúng ta và gìn giữ cho các thế hệ mai sau.
Cùng với sự trợ giúp của các tổ chức nước ngoài về kinh nghiệm, phương
pháp kỹ thuật và tài chính, chính phủ Việt Nam và các ban ngành có liên quan
đã hợp sức cùng với người dân vùng đệm triển khai các dự án tại khu vực
vùng đệm nhằm phát triển kinh tế cho người dân vùng đệm, nâng cao đời
sống kinh tế - văn hoá - xã hội, duy trì và bảo tồn thiên nhiên, cải thiện môi
trường sống tại khu vực vùng đệm, dần dần thay đổi sinh kế của người dân
trong khu vực vùng đệm để cuộc sống của họ ngày càng giảm bớt sự phụ
thuộc vào việc khai thác tài nguyên rừng tự nhiên phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống hàng ngày, nhờ đó mà gián tiếp duy trì và bảo vệ các khu bảo tồn thiên
nhiên quốc gia.
Vườn Quốc gia (VQG) Tam Đảo được thành lập theo quyết định số 136/
TTG ngày 06/03/1996 của Thủ tướng Chính phủ, nằm cách Hà Nội khoảng
70 km về phía Bắc. Với tổng diện tích 34.995 ha và 15.515 ha vùng đệm. Đây
là một trong những rừng Quốc gia lớn nhất ở Việt Nam và là vùng tự nhiên
cuối cùng ở sát Hà Nội chưa bị chuyển thành đất sử dụng cho nông nghiệp.
VQG Tam Đảo cũng được biết đến với hệ sinh thái rất phong phú và đa dạng
cả về số lượng và chủng loại động thực vật. Song việc khai thác tràn lan rừng
quốc gia trong thời gian qua và công tác quản lý chưa hiệu quả đã làm xói
mòn đa dạng sinh học và suy kiệt các nguồn lực rừng quốc gia, đặc biệt ở
tầng thực vật thấp. Có khoảng trên 200 nghìn người dân đang sinh sống trong
khu vực vùng đệm VQG Tam Đảo. Phần lớn người dân ở đây tạo thu nhập từ
hoạt động nông nghiệp trong khi đó vẫn sử dụng tài nguyên từ VQG Tam
Đảo như một nguồn cung cấp thực phẩm, chất đốt, cây thuốc, nước uống,
nước cho sản xuất nông nghiệp và là nơi chăn thả gia súc. Trước tình hình đó,
dự án kéo dài trong 6 năm (bắt đầu từ năm 2003 đến 2009) về Quản lý VQG
Tam Đảo và vùng đệm đã được thiết lập giữa Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức
8. viii
GTZ, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, và ba tỉnh nằm trong vùng
đệm bao gồm tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Dự án Quản lý
VQG và vùng đệm Tam Đảo hướng tới phát triển phương pháp quản lý hòa
nhập và hợp tác cho VQG Tam Đảo và người dân vùng đệm cũng như giải
quyết các vấn đề chính về bảo tồn môi trường thiên nhiên. Dự án nhằm mục
tiêu hỗ trợ và phát triển các sáng kiến, phương kế sinh nhai khác nhau cũng
như các hoạt động giáo dục và nâng cao ý thức trong cộng đồng dân cư khu
vực vùng đệm, cùng với các mục tiêu xoá đói, giảm nghèo. Dự án quản lý và
bảo vệ VQG Tam Đảo mang tính bền vững.
Thông qua tìm hiểu, phân tích các tác động của dự án GTZ đang triển
khai tại vùng đệm VQG Tam Đảo khu vực Thái Nguyên nhằm đánh giá ảnh
hưởng từ các hoạt động của dự án đến sinh kế đối với người dân vùng đệm.
Từ việc so sánh sự khác biệt trong cơ cấu thu nhập, mức độ phụ thuộc vào
việc khai thác tài nguyên rừng trong sinh kế, nhận thức về tầm quan trọng của
rừng đến đời sống hiện tại của hộ và các thế hệ con cháu tương lai... giữa hai
nhóm hộ có và không tham gia dự án nhằm phát hiện các yếu tố tích cực đem
lại hiệu quả kinh tế cho các hộ tham gia dự án, ngày càng giảm bớt và dần
loại bỏ sự phụ thuộc vào việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên từ rừng để sinh
sống như: Khai thác gỗ, thu lượm củi đốt, săn bắn các loại động vật hoang dã,
chăn thả gia súc, khai thác quặng, đất đá, lấy măng... là hết sức cấp bách và
cần thiết để bảo vệ sự đang dạng sinh học tự nhiên vốn có của VQG Tam
Đảo. Với mục tiêu duy trì và phát triển bền vững VQG Đảo nên việc xem xét
đến hiệu quả của dự án GTZ triển khai tại khu vực vùng đệm là điều kiện tiên
quyết. Chính vì lý do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài : “Tác động của dự
án duy trì và phát triển bền vững đến sinh kế của người dân vùng đệm
vườn quốc gia Tam Đảo khu vực Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
9. ix
Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá được sự tác động từ các
hoạt động dự án trong việc phát triển sinh kế cho người dân vùng đệm VQG
Tam Đảo khu vực Thái Nguyên.
Mục tiêu cụ thể
• Đánh giá thu nhập giữa hai nhóm hộ
• So sánh cơ cấu thu nhập giữa hai nhóm hộ
• Sự tham gia và các nguồn doanh thu
• Sử dụng tài nguyên rừng phân theo nhóm hộ
• Nhận thức về các hoạt động gây ô nhiễm
• Sự thay đổi thu nhập của hộ theo đánh giá của người dân
• Sự chuyển dịch kinh tế giữa hai nhóm hộ
• Đánh giá tác động các nguồn lực tại địa bàn nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
• Các hộ dân vùng đệm VQG Tam Đảo khu vực Thái Nguyên.
• Các nguồn lực tại khu vực vùng đệm của dự án.
• Các hoạt động sản xuất, kinh doanh của hai nhóm hộ nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu trên phạm vi 03 xã là: Xã Cát Nê, xã Văn
Yên và xã Ký Phú thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
Về thời gian: Nghiên cứu từ ngày 01/06/2008 đến ngày 30/08/2009
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá tác động trong thay đổi sinh kế của
người dân vùng đệm VQG Tam Đảo khu vực Thái Nguyên thông qua các
10. x
hoạt động hỗ trợ của dự án. Xem xét khả năng duy trì và phát triển các nguồn
lực: Nguồn lực tự nhiên, nguồn lực về con người, nguồn lực về xã hội, nguồn
lực về vật chất, nguồn lực tài chính của các hộ gia đình trên địa bàn nghiên
cứu. Từ việc nghiên cứu đó đề xuất các giải pháp để sử dụng và phát triển bền
vững các nguồn lực nói trên.
Giới thiệu phương pháp luận mới trong đánh giá sinh kế thông qua các
chỉ số (Indicators). Phần nghiên cứu này tác giả tham khảo thông qua các
chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu và phát triển rừng thế giới.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn được
chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng triển khai dự án GTZ tại khu vực nghiên cứu
Chương 3: Giải pháp chủ yếu nhằm duy trì và phát triển bền vững các nguồn
lực tại vùng đệm Vườn Quốc gia Tam Đảo khu vực Thái Nguyên.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở khoa học về phát triển bền vững
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Năm 1992: Tại Rio de Janeiro, Brasil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị
thượng đỉnh về Trái đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát
triển của Liên hiệp quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống
nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự
phát triển bền vững có tên Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21). Với sự
tham gia của đại diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số các tổ chức phi
chính phủ, hội nghị đã đưa ra bản Tuyên ngôn Rio về môi trường và phát triển
11. xi
cũng như thông qua một số văn kiện như hiệp định về sự đa dạng sinh học, bộ
khung hiệp định về sự biến đổi khí hậu, quản lý, bảo tồn rừng tự nhiên.
Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững nhóm
họp tại Johannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những
việc đã làm trong suốt 10 năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và
Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu
được ưu tiên. Những mục tiêu này bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những
sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm
gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị
cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên quan tới sức khỏe
và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia hội nghị cũng cam kết
phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi quốc gia trước năm 2005.
Việt Nam cũng đã cam kết và bắt tay vào hành động với Dự án VIE/01/021
"Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam" bắt
đầu vào tháng 11/2001 và kết thúc vào tháng 12/2005 nhằm tạo tiền đề cho
việc thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam.
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nảy sinh từ sau cuộc khủng
hoảng môi trường, do đó cho đến nay chưa có một định nghĩa nào đầy đủ và
thống nhất. Sau đây là một số định nghĩa của Khoa học Môi trường về phát
triển bền vững:
Theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (World Commission
and Environment and Development, WCED) thì “phát triển bền vững là sự
phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của
các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”.
Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích
kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của
những lợi ích tương tự trong tương lai [1].
12. xii
Định nghĩa này bao gồm hai nội dung then chốt: Các nhu cầu của con
người và những giới hạn đối với khả năng của môi trường đáp ứng các nhu
cầu hiện tại và tương lai của con người.
Phát triển bền vững là mô hình phát triển trên cơ sở ứng dụng hợp lý và
tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con
người thế hệ hiện nay mà không làm hại cho thế hệ mai sau [2].
Phát triển bền vững là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế làm giảm sự khai
thác tài nguyên cho phát triển kinh tế, sự suy thoái môi trường trong tương lai
và làm giảm sự đói nghèo.
Phát triển bền vững bao gồm sự thay đổi công nghệ hiện đại, công nghệ
sạch, công nghệ có hiệu quả hơn nhằm tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên hoặc
từ sản phẩm kinh tế - xã hội.
Muốn vậy, phải giải quyết các mâu thuẫn như sản xuất - nhu cầu - tài
nguyên thiên nhiên và phân phối, vốn đầu tư, cũng như công nghệ tiên tiến
cho sản xuất.
Các nước trên thế giới đều có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên; điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, đưa đến hiện tượng có nước
giàu và nước nghèo, nước công nghiệp phát triển và nước nông nghiệp. Do
đó, cần xem xét bốn vấn đề chính đó là: con người, kinh tế, môi trường và
công nghệ, qua đó phân tích phát triển bền vững và có đạt được mục tiêu
phát triển bền vững.
Về kinh tế, phát triển bền vững bao hàm việc cải thiện giáo dục, chăm lo
sức khoẻ cho phụ nữ và trẻ em, chăm lo sức khoẻ cho cộng đồng, tạo ra sự
công bằng về quyền sử dụng ruộng đất, đồng thời xóa dần sự cách biệt về thu
nhập cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Về con người, để đảm bảo phát triển bền vững cần thiết nâng cao trình
độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho người dân, nhờ vậy người dân sẽ tích cực
13. xiii
tham gia bảo vệ môi trường cho sự phát triển bền vững. Muốn vậy phải đào
tạo một đội ngũ các nhà giáo đủ về số lượng, cũng như các thầy thuốc, các kỹ
thuật viên, các chuyên gia, các nhà khoa học trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội.
Về môi trường, phát triển bền vững đòi hỏi phải sử dụng bền vững tài
nguyên như đất trồng, nguồn nước, khoáng sản… đồng thời, phải chọn lựa kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng, cũng như mở rộng sản
xuất đáp ứng nhu cầu của dân số tăng nhanh.
Phát triển bền vững đòi hỏi không làm thoái hoá các ao hồ, sông ngòi,
các hoạt động uy hiếp đời sống sinh vật hoang dã, không lạm dụng hoá chất
bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, không gây nhiễm độc nguồn nước, không
khí và lương thực.
Về công nghệ, phát triển bền vững là giảm thiểu tiêu thụ năng lượng và
sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất, áp dụng có hiệu quả
các loại hình công nghệ sạch trong sản xuất. Trong sản xuất công nghiệp cần
đạt mục tiêu ít chất thải hoặc chất gây ô nhiễm môi trường, tái sử dụng các
chất thải, ngăn ngừa các chất khí thải công nghiệp làm suy giảm tầng ozon
bảo vệ trái đất.
Phát triển bền vững và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá -
môi trường. Mỗi mục tiêu phát triển có vị trí riêng của nó, song nó được gắn
với mục tiêu khác. Sự hoà nhập hài hoà hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối
ưu cho cả nhu cầu hiện tại và tương lai vì xã hội loài người.
Phát triển bền vững theo Brundtland
Năm 1984: Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã ủy nhiệm cho bà Gro Harlem
Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm chủ tịch Ủy
ban Môi trường và Phát triển Thế giới (World Commission on Environment
and Development-WCED), nay còn được biết đến với tên Ủy ban Brundtland.
14. xiv
Tới nay, ủy ban này đã được ghi nhận có những công hiến rất giá trị cho việc
đẩy mạnh sự phát triển bền vững.
Theo Ủy ban Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển thoả
mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào
nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự
đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của
con người, động vật và thực vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm
này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố
sinh thái mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình
đẳng giữa những nước giàu, nghèo và giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao
hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải
phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững.
Theo ý kiến tác giả sẽ thống nhất khái niệm về phát triển bền vững theo khái
niệm của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (World Commission and
Environment and Development, WCED): “Phát triển bền vững là sự phát triển
đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ
tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”.
Xu hướng phát triển bền vững
“Phát triển bền vững” qua một số nghiên cứu ở Việt Nam.
Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào khoảng
cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở Việt Nam khá muộn
nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ.
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu
nhanh. Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể
đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như "Tiến tới môi
trường bền vững” (1995) của Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại học
15. xv
Tổng hợp Hà Nội [3]. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm
phát triển bền vững theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi đồng
thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn,
bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây
dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I”
(2003) do Viện Môi trường và phát triển bền vững, Hội Liên hiệp các Hội
Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành [4].
Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí phát triển bền vững của Brundtland và
kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ, Đức, Pháp... các tác giả đã đưa
ra các tiêu chí cụ thể về phát triển bền vững đối với một quốc gia là bền vững
kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường, đồng thời cũng đề xuất một
số phương án lựa chọn bộ tiêu chí phát triển bền vững cho Việt Nam. "Quản
lý môi trường cho sự phát triển bền vững (2000) do Lưu Đức Hải và cộng sự
tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi
trường cho phát triển bền vững [5]. Công trình này đã xác định phát triển bền
vững qua các tiêu chí: Bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn
hoá, đã tổng hợp từ nhiều mô hình phát triển bền vững như mô hình 3 vòng
tròn kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990), mô
hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế,
sản xuất, xã hội của WCED (1987), mô hình liên kết hệ thống kinh tế, xã hội,
sinh thái của Villen (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi
trường của ngân hàng thế giới (World Bank).
Chủ đề này cũng được bàn luận sôi nổi trong giới khoa học xã hội với
các công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp" (1997)
của Phạm Xuân Nam [6]. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo
thể hiện quan điểm phát triển bền vững: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế,
16. xvi
bảo vệ môi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, và cuối cùng là dự
báo quốc tế về phát triển.
1.1.2. Khái niệm về sinh kế
Theo Trung tâm nuôi trồng Thuỷ sản Châu Á Thái Bình Dương
(NACA): Một sinh kế bao gồm năng lực tiềm tàng, tài sản (cửa hàng, nguồn
tài nguyên, đất đai, đường xá..) và các hoạt động cần có để kiếm sống [7].
Kết quả của sinh kế là những thay đổi có lợi cho đời sống kinh tế - xã
hội của cộng đồng. Nhờ các chiến lược sinh kế mang lại cụ thể là thu nhập
cao hơn, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, cuộc sống ổn định hơn, giảm
rủi ro, đảm bảo tốt hơn an toàn lương thực và sử dụng bền vững hơn nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
Sinh kế bền vững: Một sinh kế được xem là bền vững khi nó phải phát
huy được tiềm năng của con người để từ đó sản xuất và duy trì phương tiện
kiếm sống của họ. Nó phải có khả năng đương đầu và vượt qua áp lực cũng
như các thay đổi bất ngờ.
Sinh kế bền vững không được khai thác hoặc gây bất lợi cho môi trường
hoặc cho các sinh kế khác ở hiện tại và tương lai. Trên thực tế thì nó nên thúc
đẩy sự hoà hợp giữa chúng và mang lại những điều tốt đẹp cho các thế hệ
tương lai.
Sinh kế bền vững, nếu theo nghĩa này phải hội tụ đủ những nguyến tắc
sau: Lấy con người làm trung tâm, dễ tiếp cận, có sự tham gia của người dân,
xây dựng dựa trên sức mạnh con người và đối phó với các khả năng dễ bị tổn
thương, tổng thể, thực hiện ở nhiều cấp, trong mối quan hệ với đối tác, bền
vững và năng động.
1.1.3. Khái niệm về vùng đệm
Tại Điều 8 - Quyết định số 08/2001/QĐ - TTG ngày 11/01/2001 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng
17. xvii
phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên quy định ghi rõ: "Vùng đệm là vùng
rừng, đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm sát ranh giới với các Vườn quốc gia
và khu bảo tồn thiên nhiên; có tác dụng ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm
phạm khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích
hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ khu rừng đặc dụng; hạn chế di
dân từ bên ngoài vào vùng đệm; cấm săn bắn, bẫy bắt các loài động vật hoang
dã và chặt phá các loài thực vật là đối tượng bảo vệ. Diện tích của vùng đệm
không tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng; dự án đầu tư xây dựng và
phát triển vùng đệm được phê duyệt cùng với dự án đầu tư của khu rừng đặc
dụng. Chủ đầu tư dự án vùng đệm có trách nhiệm phối hợp với UBND các
cấp và các cơ quan, đơn vị, các tổ chức kinh tế - xã hội ở trên địa bàn của
vùng đệm, đặc biệt là với ban quản lý khu rừng đặc dụng để xây dựng các
phương án sản xuất lâm - nông - ngư nghiệp, định canh định cư trên cơ sở có
sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương, trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt và tổ chức thực hiện để ổn định, nâng cao đời sống của người dân [8].
Như vậy, vùng đệm phải được xác định trên cơ sở theo ranh giới của các
xã nằm ngay bên ngoài khu bảo tồn, những lâm trường quốc doanh tiếp giáp
với khu bảo tồn nên đưa vào trong vùng đệm vì những hoạt động của các lâm
trường này có ảnh hưởng đến công tác bảo tồn của cả vùng đệm và khu bảo
tồn. Trong những trường hợp như thế, ranh giới vùng đệm không nhất thiết
cách đều một khoảng và chạy song song với ranh giới các khu bảo tồn.
Xem xét các vùng đệm đã có hiện nay tại các VQG và khu bảo tồn
chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng việc thành lập các vùng đệm không theo một
khuôn khổ thống nhất. Dù vùng đệm của khu bảo tồn được tạo ra theo hình
thức nào, hay khi thành lập khu bảo tồn không nói đến vùng đệm, thì những
công việc hàng ngày xảy ra, do dân cư sinh sống xung quanh khu bảo tồn, tạo
sức ép nặng nề lên khu bảo tồn, đã buộc các ban quản lý VQG và khu bảo tồn
18. xviii
phải có những hoạt động liên quan đến việc ổn định cuộc sống của dân cư ở
đây, giáo dục, khuyến khích họ bảo vệ thiên nhiên, giải quyết những mâu
thuẫn xảy ra giữa khu bảo tồn và dân, giảm sức ép của dân lên khu bảo tồn
v.v... Đó là những công việc quan trọng mà ban quản lý khu bảo tồn nào cũng
phải thường xuyên lo lắng, và không thể bỏ qua được. Các công việc đó thực
chất là một trong những công việc quan trọng của việc quản lý vùng đệm.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra liên quan đến vùng đệm, Việt Nam đã
tổ chức 3 hội thảo về vùng đệm. Hội thảo tháng 3/1999 tại Hà Nội có tác giả
đã đưa ra định nghĩa vùng đệm của khu bảo tồn Việt Nam như sau: "Vùng
đệm là những vùng được xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc không có rừng,
nằm ngoài ranh giới của khu bảo tồn và được quản lý để nâng cao việc bảo
tồn của khu bảo tồn và của chính vùng đệm, đồng thời mang lại lợi ích cho
nhân dân sống quanh khu bảo tồn”. Điều này có thể thực hiện được bằng cách
áp dụng các hoạt động phát triển cụ thể, đặc biệt góp phần vào việc nâng cao
đời sống kinh tế - xã hội của các cư dân sống trong vùng đệm". Vùng đệm
chịu sự quản lý của chính quyền địa phương và các đơn vị kinh tế khác nằm
trong vùng đệm [9].
Định nghĩa trên đã nói rõ chức năng của vùng đệm là: Góp phần vào việc
bảo vệ khu bảo tồn mà nó bao quanh; nâng cao các giá trị bảo tồn của chính
bản thân vùng đệm; và tạo điều kiện mang lại cho những người sinh sống
trong vùng đệm những lợi ích từ vùng đệm và từ khu bảo tồn.
Vùng đệm của VQG Tam Đảo được xác định nằm trên địa bàn của 27 xã
và thị trấn thuộc 6 huyện và 3 tỉnh, cụ thể là:
Tỉnh Vĩnh Phúc: Bao gồm các xã Hồ Sơn, Hợp Châu, Minh Quang, Đại
Đình, Tam Quan thuộc huyện Tam Đảo và thị trấn Tam Đảo; xã Trung Mỹ
thuộc huyện Bình Xuyên; và xã Ngọc Thanh thuộc huyện Mê Linh.
19. xix
Tỉnh Thái Nguyên: Bao gồm các xã Quân Chu, Cát Nê, Ký Phú, Văn
Yên, Hoàng Nông, Phú Xuyên, La Bằng, Mỹ Yên, Khôi Kỳ, Yên Lãng và thị
trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ; xã Phúc Thuận và Thành Công thuộc
huyện Phổ Yên.
Tỉnh Tuyên Quang: Bao gồm các xã Ninh Lai, Thiện Kế, Hợp Hoà,
Kháng Nhật, và Hợp Thành thuộc huyện Sơn Dương.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đôi nét tóm tắt về tổ chức GTZ.
Tổ chức GTZ (German Agency for Technical Cooperation or Deutsche
Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit) là một tổ chức thuộc chính phủ
Đức hoạt động trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Nhiệm vụ của GTZ là góp
phần tác động tích cực vào sự phát triển về mặt chính sách, kinh tế, sinh thái
và xã hội của 130 nước đối tác trên khắp thế giới, cải thiện điều kiện sống về
kinh tế, văn hoá xã hội, môi trường và triển vọng lâu dài của người dân ở các
nước đó.
Các hoạt động của GTZ được tài trợ bởi chính Bộ hợp tác Kinh tế phát
triển Đức (BMZ). Ngoài ra, GTZ thực hiện sứ mệnh của mình dưới sự ủy
nhiệm của các Bộ khác của Đức. Chính phủ của các nước đối tác và các tổ
chức quốc tế như Uỷ ban châu Âu (European Commission), Liên Hợp Quốc
(United Nations), Ngân hàng thế giới (World Bank) cũng như các tổ chức cá
nhân khác.
Tổ chức GTZ đã có mặt ở Việt Nam vào năm 1993 và hiện đang hỗ trợ
Chính phủ Việt Nam trong việc triển khai hơn 30 chương trình dự án trong
nhiều lĩnh vực khác nhau. Hiện tại, hoạt động của tổ chức hợp tác kỹ thuật
GTZ tại Việt Nam tập chung vào ba lĩnh vực chính đó là: Phát triển kinh tế
bền vững, Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Chăm sóc sức khoẻ và lĩnh vực đan
xen giảm nghèo [10].
1.2.2. Một số hoạt động của tổ chức GTZ trên thế giới
20. xx
Tại Indonesia: Dự án cung cấp nước sạch cho nông thôn tại Nusa Tenggara
Timur and Nusa Tenggara Barat. Dự án thực hiện từ tháng 7/2002 đến tháng
12/2008 [22].
Nội dung của dự án:
Rất nhiều các khu vực nông thôn của các tỉnh miền Đông và miền Tây
của tỉnh Nusa Tenggara Timur và Nusa Tenggara Barat của Indonesia chưa
được cung cấp nước sạch. Hiện tượng thiếu nước trầm trọng trong 8 tháng
mùa khô thường xuyên sảy ra, gần như không có quá trình xử lý nước thải và
điều kiện vệ sinh yếu kém đã làm tăng nhanh số người bị mắc bệnh tật, làm
ảnh hưởng đến sự phát triển chung của khu vực.
Mục tiêu của dự án:
Người dân địa phương tổ chức tự cung cấp hệ thống nước sạch độc lập
dựa trên cơ sở có thể thực hiện được. Chính quyền địa phương thực hiện theo
sự thành công về tổ chức và quản lý theo chiến lược, kế hoạch và phổ biến
cách làm của họ cho những địa phương khác.
Thực hiện: Dự án được tài trợ bởi ngân hàng phát triển KfW. KfW có
trách nhiệm xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch trong khi đó GTZ liên kết
với các thành viên địa phương trở thành người đứng ra quản lý, xác nhận sự
cải thiện về hệ thống cung cấp nước tại địa phương. Huấn luyện cách đo
lường và cung cấp thông tin về cung cấp nước tại địa phương là cơ sở cho họ
quản lý hệ thống cung cấp nước cả trên phương diện khoa học và tài chính và
thực hiện nó một cách độc lập. Trong trường hợp này, họ trở nên tốt hơn khi
nắm được tình hình về thực tế cải thiện vệ sinh và sự bảo tồn các tài nguyên.
Dự án cũng chuẩn bị cho lãnh đạo địa phương đối với luật để quản lý việc
cung cấp nước một cách chính xác và phương pháp để bảo tồn tài nguyên.
Kết quả đạt được:
Đến tháng 10/2005, trên mỗi huyện đã có 10 đơn vị quản lý và 40 tổ
chức sử dụng nước tuân thủ theo luật của từng cấp tại địa phương. Đơn giản
21. xxi
việc cung cấp nước chính xác theo kế hoạch và được xây dựng với sự tham
gia của người dân. Người sử dụng nước máy có thể quản lý tài chính và chi
phí độc lập. Trung bình mỗi ngày lượng nước cung cấp tăng tới 40
lít/người/ngày. Người dân tham gia cho biết tốt hơn về tầm quan trọng của
việc vệ sinh cá nhân khi dùng nước. Những người trong nhóm sử dụng nước
thường xuyên thảo luận về bảo tồn tài nguyên trong các cuộc họp và thực thi
giảm ô nhiễm đến nguồn tài nguyên nước.
Tại Thái Lan
Dự án GTZ tập trung Quản lý hệ thống thông tin để hạn chế ô nhiễm
Công nghiệp. Dự án thực hiện từ tháng 6/2005 đến tháng 5/2007.
Nội dung:
Các cơ quan của chính phủ thiếu những thông tin chính xác về ảnh hưởng đối
với môi trường bởi quá trình công nghiệp hoá và đó chính là cơ hội lớn để cải
thiện trong năng lực quản lý khí thải công nghiệp.
Mục tiêu:
Đến khi kết thúc dự án, các cơ quan của chính phủ đưa ra chính sách và
thước đo và được thực hiện theo các bước sau:
Cơ sở dữ liêụ về môi trường công nghiệp (Không khí, nước, rác thải..)
đối với khu vực đã lựa chọn là phải được ứng dụng thực tế.
Nhu cầu về việc ứng dụng hệ thống quản lý thông tin cho các khu vực
được lựa chọn của các công ty vừa và nhỏ để nâng cao hiệu quả sinh thái.
Phương thức tiếp cận:
Tất cả các hoạt động của dự án nhằm giới thiệu hệ thống thông tin hiện
đại như cơ sở cho việc ra quyết định tốt hơn tại các nhóm mục tiêu khác nhau.
Nhiệm vụ đầu tiên là thực thi một hệ thống thông tin về môi trường tại
Cục công nghiệp để theo theo dõi, phân tích và quản lý có hiệu quả khí thải
công nghiệp. Hệ thống sẽ dựa trên cơ sở dữ liệu lấy từ các báo cáo và từ chính
22. xxii
các nhà máy. Gần đây, các dữ liệu này được báo cáo và xử lý theo định dạng
tương tự (trên giấy). Kết quả là việc giới thiệu Hệ thống thông tin môi trường
(MIS) ban đầu lại tập trung vào việc nâng cao hiệu quả của các cải cách có
liên quan và của các quy trình xét duyệt. Hơn thế nữa việc này còn giúp cho
Cục công nghiệp có thể kiểm tra độ tin cậy của các dữ liệu được báo cáo một
cách liên tục và kiểm soát, phân tích sự phát triển của các vấn đề môi trường
công nghiệp theo từng lĩnh vực và khu vực. Các dữ liệu về ô nhiễm công
nghiệp sẽ cung cấp một cách cơ bản cần thiết cho việc hoạch định chính sách
phát triển công nghiệp. Theo quan điểm của lĩnh vực công nghiệp, hệ thống sẽ
nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng cung cấp từ Cục công nghiệp.
Nhiệm vụ thứ hai tập trung vào việc thực hiện về hệ thống thông tin môi
trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) đã lựa chọn. Đối với tất cả
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Lan, hệ thống thông tin môi trường là
một công cụ hoàn toàn mới. Có rất ít công ty có kinh nghiệm về hệ thống
thông tin môi trường. Hệ thống của hộ tập trung chính vào các vấn đề về tài
chính, như là sự chiếm lĩnh về nguồn vật chất.
Nhiệm vụ chính thứ ba: Các hệ thống của nước này tập trung chủ yếu
vào các vấn đề liên quan đến kế toán, như việc mua các vật liệu thô và buôn
bán. Hệ thống quản lý thông tin được dự án phát triển và thúc đẩy sẽ chú
trọng vào phân tích dòng nguyên liệu và cung cấp những thông tin có giá trị
cho những nhà hoạch định, nhằm cải thiện tính hiệu quả kinh tế và tính cạnh
tranh của các công ty. Yếu tố sau sẽ là mấu chốt để khuyến khích các doanh
nghiệp vừa và nhỏ triển khai và sử dụng hiệu quả những hệ thống như vậy.
Mặc dù ban đầu chỉ có vài công ty trong các phân ngành được lựa chọn sẽ
giới thiệu MIS, nhưng các công ty khác chắc chắn sẽ theo sau. Nhiệm vụ
chính thứ ba nêu lên thực tại rằng cho đến nay, hầu như không có dịch vụ tư
vấn sở tại liên quan đến MIS nào cho các SME Thái Lan. Những dịch vụ này
23. xxiii
sẽ rất quan trọng nhằm đảm bảo tính bền vững của kết quả thứ 2, vì các SME
sẽ cần nhiều hỗ trợ hơn trong việc triển khai và sử dụng đầy đủ những hệ
thống này. Do vậy, dự án sẽ triển khai một chương trình đào tạo và đánh giá
cho những tư vấn viên địa phương và khuyến khích họ hỗ trợ quá trình triển
khai MIS trong 2 phần ngành được lựa chọn. Có thể giả định rằng các tư vấn
viên địa phương sẽ muốn tham gia. Hơn nữa, các tư vấn viên sẽ muốn mở
rộng dịch vụ của họ tới các ngành công nghiệp khác[23].
Tại Trung Quốc
Nội dung:
Trong những năm qua Chính phủ Trung Quốc đã giành nhiều công sức
nhằm cải thiện an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều nỗ lực,
những vấn đề rất nghiêm trọng vẫn còn có nhiều tồn tại trong ngành nông
nghiệp, chăn nuôi và thuỷ sản, đặc biệt là về lĩnh vực sản xuất thức ăn cho thị
trường Trung Quốc. Không biết phải làm thế nào cũng như phải tuân theo
công nghệ nào thì mới đạt được tiêu chuẩn quốc tế. Việc tích trữ, bảo quản và
hệ thống phân phối không được phát triển. Các vấn đề nhiễm khuẩn và nhiễm
độc thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu và nhiễm một số kim loại nặng cho
thấy kết quả là những thất bại, những rủi ro sức khoẻ đáng quan tâm đối với
người tiêu dùng và dẫn tới sự bài trừ những sản phẩm thức ăn có nguồn gốc
từ Trung Quốc trên nhiều thị trường thế giới.
Mục đích:
Dự án nhằm mục đích cải thiện chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cách tiếp cận:
Trong những năm qua, một số nghiên cứu đáng chú ý đã được thực hiện
một cách kỹ lưỡng đó là cần phải thiết lập một điều gì đó đáng phải làm nhằm
24. xxiv
đảm bảo an toàn thực phẩm. Dự án nhằm mục đích đưa ra những luận chứng
còn hạn chế để tìm ra các giải pháp có thể đạt được.
Nhà nước nên phác thảo và thực thi một hệ thống quản lý để đảm bảo
rằng các xí nghiệp tự có trách nhiệm với sản phẩm của mình. Như vậy, hệ
thống thông thường bao gồm những yếu tố sau:
Đánh giá rủi ro để xác định xem có bao nhiêu người bị ảnh hưởng và
mức độ nghiêm trọng nếu một công ty bán ra các sản phẩm bị nhiễm độc.
Dựa vào đánh giá rủi ro này, một hệ thống quản lý rủi ro sẽ được thiết kế
và triển khai. Điều này có thể cũng đòi hỏi sự điều chỉnh một số quy tắc hành
chính nhất định. Một phần là sự giám sát theo hoạch định của các sản phẩm
của các doanh nghiệp.
Một bộ phận không thể thiếu của hệ thống quản lý rủi ro là hệ thống
khẩn cấp cho phép việc nhận dạng và xóa bỏ tất cả các sản phẩm bị nhiễm
độc khỏi hệ thống phân phối ngay khi mẫu xét nghiệm cho thấy có gây nguy
hại tới sức khỏe cộng đồng.
Dự án GTZ sẽ tập trung và các sản phẩm được lựa chọn (hoa quả, rau và
thịt lợn) của 3 hạt của tỉnh Hebei và sẽ xem xét toàn bộ chuỗi từ sản xuất ban
đầu đến tiêu thụ. Thời gian triển khai dự án từ tháng 3 năm 2006 đến tháng 4
năm 2010 [24].
Tại Camaroon: Dự án quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên
Nội dung: Mặc dù Cameroon với nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có rất
triển vọng cho việc phát triển kinh tế và giảm đói nghèo. Nhưng cho đến nay,
tiềm năng này vẫn chưa được khai thác hiệu quả và đang trong tình trạng suy
giảm chất lượng.
Rất nhiều chương trình và chiến lược đưa ra nhằm sử dụng các nguồn tài
nguyên hiệu quả hơn đều không thành công. Nguyên nhân là do mâu thuẫn về
25. xxv
quyền lợi, và hơn thế là thiếu cân đối và phối hợp hài hoà giữa các chương
trình này.
Hiện nay, chính phủ Cameroon đang thực thi chương trình Rừng quốc
gia (PSFE) nhằm đạt được tiến triển ở những khu vực nhất định.
Mục tiêu:
Cộng đồng và các công ty tư nhân có thể quản lý tài nguyên hiệu quả và
đảm bảo đa dạng sinh học.
Mâu thuẫn giữa việc phát triển địa phương và quốc gia với việc bảo vệ
tài nguyên được giải quyết trong phạm vi chương trình bằng việc đưa ra các
giải pháp phù hợp.
Người dân trong khu vực rừng cần bảo vệ khai thác nguồn tài nguyên
này một cách hợp lý.
Phương thức tiếp cận:
GTZ ưu tiên việc phối hợp và hài hoà các nhân tố ở các quốc gia liên
quan tới chương trình PSFE tương ứng với hành động của họ. Hơn nữa, thông
qua việc liên kết chặt chẽ với Hiệp hội bảo vệ rừng Châu Phi (COMIFAC),
chương trình này được tổ chức theo hướng siêu quốc gia trong khu vực.
Trong nội dung chương trình, GTZ hiện nay tập trung mũi nhọn vào việc thực
hiện chiến dịch toàn Châu Âu có tên là “Thi hành luật bảo vệ rừng, cai quản
và thương mại’ tại Cameroon.
Một hoạt động có tính quyết định nữa trong chương trình là truyền đạt
các cách thức để thúc đẩy việc quản lý tài nguyên thiên nhiên và tuân thủ các
quy định, luật lệ cũng như nâng cao nhận thức của người dân. Bộ lâm nghiệp
sẽ được tư vấn phương pháp để cập nhật tiến độ dự án.
Ở khu vực phía Tây Nam và Tây Đông của Cameroon, GTZ phối hợp
cùng các cơ quan chức năng, Quỹ thế giới bảo vệ các loài thú hoang dã
(WWF) và Hiệp hội bảo vệ thú rừng (WCS) để xây dựng một tổ chức hợp tác
26. xxvi
kỹ thuật (UTOs). Đây là thiết bị quy hoạch không gian, được thiết kế nhằm
hài hoà giữa việc phát triển kinh tế và bảo vệ sinh thái ở những khu vực này.
Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại:
Nhờ sự hỗ trợ của dự án GTZ, một chiến lược quốc gia có tính nhất quán
cao với kế hoạch trung hạn và các mục tiêu rõ ràng đang được triển khai.
Quá trình phối hợp giữa các cơ quan chức năng về lâm nghiệp và các bộ
phận khác đã mang lại những tiến bộ đáng kể trong quy hoạch không gian cho
những khu vực riêng biệt dựa trên các nhân tố địa lý, sinh thái và phát triển
kinh tế. Kế hoạch quản lý ở hai khu vực này cũng đang được triển khai.
Người dân địa phương nhận được rất nhiều sự hỗ trợ trực tiếp như việc
giúp đỡ một tổ chức phi chính phủ để phát triển các dịch vụ du lịch sinh thái,
nhờ đó mà số lượng khách du lịch đến khu vực này tăng lên gấp đôi trong
vòng ba năm. Các làng bản ở khu vực phía Tây Nam hiện nay đã có thể sử
dụng hợp lý tài nguyên thô từ loài tre “Prunus africana” - một nguyên liệu rất
cần thiết cho ngành công nghiệp dược phẩm, phù hợp với kế hoạch quản lý và
khả năng khai thác.
Những định hướng phát triển làng bản với sự trợ giúp của dự án GTZ sẽ
giúp người dân địa phương sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên và các nguồn hỗ
trợ tài chính của quốc gia cũng như quốc tế.
Thời gian thực hiện dự án từ tháng 10/2003 đến 9/2015 [25].
1.2.3. Một số hoạt động của GTZ triển khai tại Việt Nam.
a. Dự án Phát triển nông thôn Đắk Lắk
Từ năm 2003, Dự án Phát triển nông thôn Đắk Lắk đẩy mạnh sự tham
gia của đồng bào dân tộc thiểu số nông thôn vào tiến trình phát triển kinh tế
của tỉnh. Mục tiêu là giới thiệu phương pháp lập kế hoạch phát triển chung
dựa theo nhu cầu để phân phối nguồn lực. Sự quan tâm đến nhu cầu và bối
cảnh văn hóa - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số là điểm mấu chốt trong
27. xxvii
việc điều chỉnh khung pháp lý để phát triển nông thôn và quản lý tài nguyên
thiên nhiên.
Dự án hỗ trợ giới thiệu mô hình quản lý rừng cộng đồng có sự tham gia
trong giao đất, điều tra rừng và lập kế hoạch quản lý rừng. Đồng thời, hỗ trợ
các cơ quan liên quan xây dựng và thí điểm các thủ tục hành chính và tài
chính cần thiết để thể chế hóa thủ tục và nhân rộng toàn tỉnh. Cùng với các cơ
quan khuyến nông thuộc Sở Nông nghiệp&PTNT và với sự tham gia của
nông dân là dân tộc thiểu số. Dự án đã triển khai thí điểm và phổ biến các mô
hình canh tác đất dốc và chăn nuôi gia súc phù hợp. Đồng thời giới thiệu các
phương pháp khuyến nông có sự tham gia và hỗ trợ người dân tiếp cận các
nguồn tín dụng quy mô nhỏ. Để tạo cơ hội tăng thu nhập thêm cho người dân.
Dự án cũng tập trung vào nâng cao năng lực và tập huấn cho các cán bộ ở các
cơ quan và tổ chức xã hội các cấp trong tỉnh. Các quy trình, hướng dẫn mới
hoặc được thông qua và các mô hình đã được thí điểm ở 4 xã mục tiêu của dự
án ở huyện Lak và Ea H’Leo. Phân bổ tài chính công cho các buôn người dân
tộc thiểu số ở 2 huyện mục tiêu vùng dự án (Lak và Ea H'Leo) tăng từ 23 tỉ
đồng (tương đương khoảng 1,15 triệu Euro vào năm 2005) lên 35 tỉ đồng
(tương đương 1,75 triệu Euro) [11].
b. Tại Đắc Nông
Ngày 16/4/08 tại Hà Nội, ông Đỗ Thế Nhữ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh
Đắk Nông đã ký văn bản thoả thuận thực hiện Dự án Bảo vệ Môi trường và
Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên tỉnh Đắk Nông với Bộ Hợp
tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức, do Tiến sĩ Guenter Riethmacher,
Giám đốc Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức tại Việt Nam (GTZ) đại diện.
* Mục tiêu của Dự án:
Cải thiện sự tham gia của người dân nghèo ở nông thôn, đặc biệt là
người dân tộc thiểu số vào công cuộc phát triển kinh tế của tỉnh Đắc Nông.
Hướng đi của dự án sẽ tập trung vào việc cải thiện nông nghiệp vùng cao, đưa
28. xxviii
vào áp dụng các mô hình nông lâm kết hợp, chú trọng phương pháp quản lý
rừng dựa vào cộng đồng… để các hộ dân và người dân tộc thiểu số cùng thực
hiện. Phương pháp này cũng sẽ được nhân rộng trên toàn tỉnh. Không chỉ góp
phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng như
Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia, dự án còn giúp xây dựng các
phương pháp và cách tiếp cận mới để thực hiện ở cấp Trung ương và tỉnh.
Tổng số tiền viện trợ không hoàn lại là 2 triệu Euro [12].
c. Tại Hòa Bình:
* Nội dung dự án:
• Nâng cao năng lực trong quản lý và lập kế hoạch phát triển rừng cho
cán bộ lâm nghiệp cấp huyện, xã để có đủ trình độ tư vấn hướng dẫn
cho các chủ rừng tư nhân và cộng đồng thực hiện được các hoạt động
theo yêu cầu của dự án.
• Xây dựng mô hình điểm về sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên
nhiên và thiết lập các hoạt động về quản lý bền vững diện tích rừng hiện
có tại thôn bản của 04 huyện của mỗi tỉnh (ít nhất mỗi huyện 01 mô
hình được thực hiện có hiệu quả).
• Nâng cao năng lực phát triển thể chế và tổ chức trong quản lý lâm
nghiệp cấp tỉnh, huyện và xã.
* Mục tiêu chính cần đạt là:
• Nâng cao năng lực cho hệ thống các đối tác của dự án.
• Cải thiện năng lực tổ chức và phát triển thể chế về quản lý rừng tại
cấp tỉnh, huyện và xã trong vùng dự án.
• Phát triển mô hình thí điểm về sử dụng bền vững tài nguyên thiên
nhiên và thiết lập các hoạt động bền vững diện tích rừng hiện có
tại hai tỉnh Hoà Bình - Sơn La. Tổng tiền viện trợ không hoàn lại
là 2 triệu Euro.
29. xxix
Thời gian thực hiện dự án: Từ 5/2007 - 5/2010 [13].
d. Quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng
Dự án hỗ trợ Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng và Chi cục kiểm lâm thông
qua việc phát triển các mô hình đồng quản lý các vùng ven biển bền vững,
quản lý rừng ngập mặn thích ứng với sự biến đổi khí hậu, cũng như xây dựng
một khuôn khổ chính sách điều tiết. Chương trình sẽ được hỗ trợ thông qua
xây dựng các đề án tài trợ bền vững cho các dịch vụ môi trường, cung cấp bởi
các vùng đất ngập nước ven biển.
Để bảo vệ và quản lý vành đai rừng ngập mặn hiệu quả, dự án sẽ áp
dụng Phương pháp Hệ Sinh Thái, một chiến lược để quản lý tổng hợp đất,
nước và nguồn tài nguyên sinh vật để bảo tồn và sử dụng bền vững một cách
hợp lý.
* Mục tiêu dự án
Mục tiêu tổng thể của dự án là đảm bảo cho những người nghèo được
hưởng lợi cả về kinh tế và sinh thái từ việc quản lý và sử dụng các vùng ven
biển bền vững. Mục tiêu của giai đoạn đầu (2007-2010) là hỗ trợ việc cùng
quản lý vùng ven biển giữa những người sử dụng nguồn tài nguyên (người
dân địa phương, những người nuôi tôm) và chính quyền địa phương.
Các nhóm đối tượng của dự án là những người dân địa phương sử dụng
nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng ven biển. Nhóm này bao gồm những
người không có đất canh tác, phụ thuộc vào việc thu gom các nguồn tài
nguyên chẳng hạn như cua, các loài động vật thân mềm, cá và mật ong để
sinh sống cũng như những người nuôi tôm, phụ thuộc vào nguồn nước ven
biển không bị ô nhiễm [14].
đ. Bảo tồn và Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực
VQG Phong Nha-Kẻ Bàng.
30. xxx
Bằng các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật, tổ chức hội thảo, và hỗ trợ tài chính,
dự án hoạt động nhằm tăng cường cơ chế lập kế hoạch cấp huyện và xã theo
đường hướng sử dụng các phương pháp thân thiện với môi trường và quản lý
bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhằm thúc đẩy sinh kế cho vùng đệm
của vườn quốc gia, dự án hỗ trợ việc lập kế hoạch của địa phương và các cơ
quan thực hiện việc lập “kế hoạch phát triển bền vững kinh tế vùng đệm”.
Mục tiêu tổng thể của kế hoạch là phác thảo các cơ hội sinh kế thay thế mang
tính bền vững và thân thiện với môi trường, giảm sự phụ thuộc của người dân
trong vùng vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của vườn quốc gia.
Thêm vào đó, dự án còn xây dựng “Quy hoạch phát triển du lịch” cho
vùng dự án. Nâng cao năng lực quản lý và nhận thức môi trường trong khu
vực Phong Nha Kẻ Bàng, từ đó xây dựng và phát triển một ngành du lịch
mang tính môi trường bền vững, đem lại lợi ích trực tiếp cải thiện sinh kế của
người dân địa phương.
Ngoài ra, dự án GTZ hỗ trợ ban quản lý vườn quốc gia tăng cường các
biện pháp bảo vệ, hỗ trợ không chỉ việc bảo vệ vườn mà còn tái sinh và bảo
tồn các loài động thực vật đang bị đe dọa.
Thời gian hoạt động của dự án là 8 năm, chia làm 3 giai đoạn, 2 giai
đoạn đầu thực hiện trong 3 năm và giai đoạn cuối trong 2 năm. Giai đoạn 1
của dự án tính từ 10/2007 đến 10/2010 [15].
e. Kết hợp Bảo tồn và Phát triển Khu Dự trữ Sinh quyển tỉnh Kiên Giang
Dự án sẽ tập trung triển khai hoạt động tại ba trọng điểm của Khu Dự trữ
Sinh quyển tỉnh Kiên Giang mà đã được UNESCO công nhận năm 2006, gồm
Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Vườn Quốc gia Phú Quốc và khu vực rừng
phòng hộ ven biển thuộc Kiên Lương và Hòn Chông.
Mục tiêu của Dự án là quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên
của tỉnh Kiên Giang và cải thiện quản lý các khu rừng phòng hộ. Giai đoạn
31. xxxi
đầu của Dự án sẽ đặt trong tâm vào quản lý hiệu quả các khu rừng phòng hộ
và rừng ven biển.
Một số khảo sát ban đầu sẽ được thực hiện để điều tra động thực vật
trong vùng lõi các vườn quốc gia và các khu rừng phòng hộ ven biển. Đây sẽ
là cơ sở để giám sát tác động của Dự án cũng như việc triển khai các chiến
dịch nâng cao nhận thức. Các nhóm đối tượng của Dự án gồm người dân
nghèo sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc rừng phòng hộ ven biển,
đất ngập nước và các khu bảo vệ cũng như cán bộ trực thuộc các vườn quốc
gia, các sở, ban, ngành liên quan của tỉnh và huyện.
Tham gia Dự án còn có người dân, cán bộ khuyến nông, cán bộ địa
phương và các cơ quan đoàn thể. Dự án sẽ giải quyết vấn đề xóa đói giảm
nghèo thông qua các cơ hội cải thiện và đa dạng sinh kế, đặc biệt cho người
dân các dân tộc thiểu số như người Khmer và phụ nữ.
Đầu ra của Dự án gồm:
• Đa dạng sinh học động, thực vật được đánh giá tại các điểm nóng.
• Các chiến lược quản lý sử dụng đất cho Khu Dự trữ sinh quyển được
hoàn thiện.
• Năng lực và kiến thức kỹ thuật cho các cơ hội tạo thu nhập, gồm cả kiến
thức thị trường được cải thiện.
• Nâng cao nhận thức về môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên.
• Xây dựng được các kế hoạch bảo tồn đa dạng sinh học trong Khu Dự
trữ Sinh quyển.
• Xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật quản lý nước tại Vườn Quốc gia U
Minh Thượng.
• Xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy rừng cho
Vườn Quốc gia U Minh Thượng và Phú Quốc.
• Năng lực lập kế hoạch, thiết kế và quản lý dự án được cải thiện [16].
32. xxxii
1.2.4. Thực trạng vùng đệm VQG Tam Đảo khu vực Thái Nguyên
Hoạt động hợp tác trên nằm trong khuôn khổ giai đoạn 2 của dự án Phát
triển rừng Quốc gia Tam Đảo và vùng đệm (gồm ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên
Quang, Thái Nguyên) do GTZ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn thực hiện từ năm 2006 đến 2009.
Giai đoạn 1 của dự án được thực hiện trong giai đoạn 2003-2006, phía
Đức đã tài trợ 1,79 triệu euro, được thực hiện tại 26 làng thuộc 8 huyện của 3
tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang với mục tiêu phát triển bền
vững, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ thiên nhiên môi trường.
Giai đoạn 2: Ngày 4/7/07 tại Hà Nội, trước sự chứng kiến của đại diện
các cơ quan ban ngành, ông Guenter Riemacher - Giám đốc văn phòng đại
diện Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) tại Hà Nội và TS.Lê Văn Minh -
Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký
kết Bản thỏa thuận thực hiện dự án Quản lý vườn quốc gia Tam Đảo và vùng
đệm - giai đoạn 2 từ tháng 10/2006 - 9/2009.
Theo đó, giai đoạn này của Dự án sẽ tập trung vào 3 nội dung chính như:
Tiếp tục hoàn thiện, phổ biến các khái niệm và phương pháp luận về lập kế
hoạch sử dụng tài nguyên bền vững vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của
địa phương và kế hoạch ngành; Nâng cao đời sống người dân thông qua việc
giới thiệu các kỹ thuật bảo tồn tài nguyên thiên nhiên gắn với lợi ích kinh tế
trong sản xuất nông lâm nghiệp và chăn nuôi; Xây dựng hệ thống giám sát và
đánh giá đối với tác động từ các biện pháp bảo tồn tự nhiên ở VQG Tam Đảo.
CHLB Đức viện trợ không hoàn lại 2 triệu euro cho dự án Quản lý VQG
Tam Đảo và vùng đệm - giai đoạn 2 [17].
1.3. Phương pháp nghiên cứu và đánh giá
1.3.1. Các vấn đề mà đề tài cần giải quyết
33. xxxiii
Mục tiêu của dự án bảo vệ VQG Tam Đảo là nhằm cải thiện điều kiện
sống cho các hộ gia đình đang sinh sống tại vùng đệm VQG Tam Đảo khu
vực Thái Nguyên thông qua cải thiện thu nhập, việc làm... Xem xét yếu tố thu
nhập, các nguồn thu nhập... của hai nhóm hộ có và không tham gia dự án làm
cơ sở cho việc đánh giá tác động dự án. Để có những căn cứ đánh giá tác
động của dự án đến sinh kế người dân vùng đệm VQG Tam Đảo khu vực
Thái Nguyên thì các vấn đề mà tác giả cần tập chung giả quyết là:
1. Dự án tác động đến sinh kế của người dân trong khu vực vùng đệm như
thế nào?
2. Thu nhập của nhóm hộ tham gia dự án có gì khác biệt với nhóm hộ
không tham gia dự án?
3. Nhận thức của các hộ dân tham gia dự án và không tham gia dự án về
vấn đề trồng và bảo vệ rừng có được cải thiện hay không?
4. Đánh giá của người dân tham gia dự án và không tham gia dự án về ô
nhiễm môi trường tại khu vực vùng đệm.
5. Người dân có ủng hộ, tham gia nhiệt tình vào dự án hay không?
6. Các hoạt động hỗ trợ về cơ sở hạ tầng nông thôn có tác động như thế
nào đến sinh kế của người dân vùng đệm.
7. Khả năng tạo thu nhập mới của người dân sau khi tham gia dự án tại địa
phương.
8. Đánh giá rủi ro trong phương thức sinh sống mới sau khi khai dự án rút
khỏi địa phương.
9. Rừng tự nhiên thực tế đã được bảo vệ bởi cộng đồng địa phương hay
chưa?
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu
1.3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
34. xxxiv
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Phương pháp này được sử dụng để
thu thập các thông tin nhằm hệ thống hoá và tóm tắt về cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn có liên quan đến đề tài này. Ngoài ra tác giả còn thu thập số liệu thứ
cấp tại phòng Nông nghiệp & PTNT, phòng Tài nguyên và môi trường, phòng
thống kê và các phòng ban khác ở huyện Đại Từ, Ban quản lý vườn Quốc gia
Tam Đảo để sử dụng trong phân tích... Nguồn gốc của các tài liệu này đều
được chú thích rõ ràng sau mỗi biểu số liệu.
Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp: Chọn mẫu điều tra trong khu vực
nghiên cứu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Phỏng vấn trực tiếp chủ
hộ bằng các câu hỏi đã được chuẩn bị trước và in sẵn. Thu thập các thông tin sơ
cấp tại các hộ nông dân trên địa bàn vùng đệm thuộc Vườn Quốc gia Tam Đảo
theo 02 nhóm: Nhóm hộ dân tham gia dự án (150 mẫu) và nhóm hộ không
tham gia dự án (48 mẫu điều tra) thuộc 6 xã của huyện Đại Từ làm đối chứng.
* Mục tiêu chọn mẫu điều tra
Mục tiêu của hoạt động điều tra thực địa nhằm thu thập đầy đủ, toàn diện
và chính xác các thông tin về đời sống sinh hoạt, các hoạt động sản xuất -
kinh doanh, tư tưởng, ý thức của các hộ trong việc trồng và bảo vệ rừng thuộc
địa bàn nghiên cứu để từ đó có thể chỉ ra những tác động, thay đổi do các hoạt
động dự án mang lại.
* Cơ sở chọn mẫu điều tra
Ba xã được lựa chọn để điều tra là các xã Cát Nê, Văn Yên và Ký Phú
thuộc vùng đệm VQG Tam Đảo khu vực huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
Đây là 03 mà xã dự án GTZ đang triển khai các hoạt động hỗ trợ nên tác giả
đã lựa chọn để tìm ra sự khác biệt giữa hai nhóm hộ tham gia và không tham
gia dự án. Hơn nữa, việc lựa chọn 3 xã gần nhau để tránh hiện tượng sai khác
về địa lý. Mặt khác các nguồn lực kinh tế, xã hội, con người...ở các xã là
tương đồng nhau nên có ý nghĩa trong việc đánh giá kết quả dự án.
35. xxxv
Số liệu điều tra sơ cấp được tác giả thu thập trên thực địa thông qua các
phương pháp sau:
* Phương pháp phỏng vấn cấu trúc:
Để thu thập số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã
điều tra các hộ sản xuất nông nghiệp bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp
một thành viên hiểu biết về nông nghiệp của gia đình. Điều này đảm bảo
lượng thông tin có tính đại diện và chính xác. Chúng tôi phỏng vấn thử 10 hộ
theo bộ mẫu câu hỏi đã được soạn thảo trước. Sau đó xem xét bổ sung phần
còn thiếu và loại bỏ phần không phù hợp trong bảng câu hỏi. Câu hỏi được
soạn thảo bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Nội dung các câu hỏi
phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thiết kế theo các nhóm thông tin sau:
1. Nhóm thông tin về xác định hộ gia đình.
2. Nhóm thông tin về các đặc điểm nhân khẩu của hộ.
3. Nhóm thông tin về các nguồn lực tự nhiên của hộ.
4. Nhóm thông tin về các nguồn thu nhập của hộ.
5. Nhóm thông tin về hiện trạng sử dụng các nguồn lực tự nhiên từ rừng
quốc gia, rừng trồng của hộ.
6. Nhóm thông tin đánh giá tác động của các hoạt động hiện nay đến sinh
kế của người dân.
7. Nhóm thông tin về các hoạt động hỗ trợ của dự án.
* Phương pháp quan sát trực tiếp
Đây là phương pháp rất sinh động và thực tế. Tác giả có thêm các thông
tin tại địa bàn nghiên cứu trong quá trình đi điều tra phỏng vấn hộ thông qua
ghi chép, chụp ảnh lại một cách cụ thể, thực tế, phong phú và khách quan.
1.3.2.2. Phương pháp xử lý thông tin
36. xxxvi
Thông tin và các số liệu sau khi thu thập được sẽ được tác giả cập nhật
và tính toán tùy theo mục đích nghiên cứu, phân tích của đề tài trên chương
trình Excel 2007 của Microsoft.
Sử dụng phần mềm xử lý thống kê xã hội SPSS 15.0 (Statistical
Package For Social Sciences) để xử lý thống kê và xem xét mối tương quan
giữa các chỉ tiêu nghiên cứu đồng thời kiểm định các giả thiết thống kê định
lượng, định tính trong mô hình phân tích.
Ngoài ra tác giả con sử dụng thêm phần mềm xử lý số liệu thống kê R
(Recreational mathematics version 2.9.1) để đánh giá sinh kế thông qua kiểm
định đối với 5 tiêu chỉ tiêu nguồn lực giữa hai nhóm hộ có và không tham gia dự
án.
1.3.2.3. Phương pháp phân tích đánh giá
Phương pháp thống kê mô tả: Là phương pháp nghiên cứu các hiện
tượng kinh tế xã hội vào việc mô tả sự biến động cũng như xu hướng phát
triển của hiện tượng kinh tế xã hội thông qua số liệu thu thập được. Phương
pháp này được dùng để tính, đánh giá các kết quả nghiên cứu từ các phiếu
điều tra hộ.
Phương pháp phân tích so sánh: Xử lý số liệu tính toán ra các chỉ tiêu số
tương đối nhằm chỉ rõ nguyên nhân biến động của hiện tượng nghiên cứu.
Phương pháp này dùng để so sánh sự sự khác nhau về thu nhập từ các ngành
nghề khác nhau, cơ cấu thu nhập... giữa các hộ tham gia dự án và không tham
gia dự án.
Phương pháp phân tổ thống kê: Mục tiêu của việc phân tổ trong nghiên
cứu là làm cho sự đồng nhất trong cùng một nhóm và sự khác biệt giữa các
nhóm tăng lên. Tác giải đã phân tổ các hộ điều tra theo tiêu chí: Có tham gia
dự án và không tham gia dự án để tiến hành phân tích đánh giá xem có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với các chỉ tiêu nghiên cứu giữa hai nhóm
37. xxxvii
hộ như: Đất đai, thu nhập bình quân, tuổi bình quân của chủ hộ... Ngoài ra,
tác giả còn phân tổ số liệu theo các tiêu chí định tính: Trình độ văn hoá, có và
không tham gia dự án, đánh giá mức độ các hoạt động gây ô nhiễm tại địa
phương... của chủ hộ để phân tích đánh giá các yếu tố theo đa chiều [18].
Phương pháp dự báo: Dự báo xu thế biến động của các hiện tượng kinh
tế xã hội cho tương lai. Đó là dự báo về thu nhập từ rừng, thu nhập từ trồng
chè... giữa hai nhóm hộ.
1.3.2.4 Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Phối hợp và tham gia ý kiến của các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong
lĩnh vực duy trì và phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên để xây dựng
phương pháp và tổ chức điều tra đạt kết quả cao. Cụ thể là đã thảo luận cùng
với Tiến sỹ Joachim Krug - Viện nghiên cứu rừng quốc tế có trụ sở tại Đức để
kế thừa phương pháp đánh giá sinh kế, so sánh các chỉ tiêu nguồn lực giữa hai
nhóm hộ thông qua các chỉ số (Indicators) phục vụ cho nghiên cứu của đề tài.
1.4. Một số công cụ sử dụng trong nghiên cứu
Sử dụng các chỉ số (Indicators) để đánh giá, so sánh sự biến động của
đối tượng nghiên cứu trong cùng một khu vực giữa và trong cùng một thời
điểm giữa hai nhóm hộ tham gia dự án và không tham gia dự án.
Sử dụng phần mềm SPSS 15 và phần mềm R để xử lý số liệu thống kê,
tính toán các chỉ tiêu như: Giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, phương sai... và
để kiểm định các chỉ tiêu phân tích định tính và định lượng trong đề tài
nghiên cứu.
1.5. Hệ thống chỉ tiêu phân tích đánh giá
a) Đánh giá về thu nhập
Tính toán thu nhập năm 2008 của các hộ thuộc nhóm tham gia dự án và
nhóm không tham gia dự án từ các nguồn khác nhau:
• Nông nghiệp: Thu nhập từ các hoạt động trồng trọt bao gồm: Lúa, chè,
38. xxxviii
hoa màu và thu nhập từ các hoạt động chăn nuôi như: Gia súc, gia cầm.
• Ngành nghề tự do: Thợ xây, thợ hàn, làm thuê...
• Thu nhập từ nghề làm công ăn lương: Công nhân, giáo viên, công chức
nhà nước...
• Thu nhập từ rừng: Gỗ, củi đốt, các lâm sản ngoài gỗ như nấm, măng,
tre, cây luồng, cây thuốc nam, hoa phong lan, cây cảnh...vv.
Thông qua việc nghiên cứu các nguồn thu nhập giữa hai nhóm hộ có và
không tham gia dự án, tác giả phân tích để thấy được sự khác biệt trong
cơ cấu thu nhập của hai nhóm hộ với cùng điều kiện nguồn lực như
nhau. Từ đó thấy được sự tác động của dự án đối với sinh kế của người
dân với mục tiêu chính là phát triển kinh tế hộ gia đình kết hợp với việc
nâng cao nhận thức bảo vệ và phát triển rừng, dần loại bỏ sự phụ thuộc
vào việc khai thác các tài nguyên rừng phục vụ cho cuộc sống hàng
ngày.
b) Phân tích sự thay đổi trong sinh kế của nhóm hộ tham gia dự án và
không tham gia dự án.
- Sự thay đổi về cơ cấu nghề nghiệp của nhóm hộ tham gia dự án so với
nhóm không tham gia dự án.
- Những ảnh hưởng của dự án đến nhóm hộ tham gia dự án và phản ứng
tích cực của nhóm hộ không tham gia dự án trong phát triển kinh tế.
- Khác biệt về thu nhập từ rừng trong cơ cấu tổng thu nhập của 2 nhóm
hộ có và không tham gia dự án.
c) Đánh giá nhận thức của người dân về bảo vệ rừng
- Hiểu biết và nhận thức về việc cần thiết phải bảo vệ tài nguyên rừng
đối với việc giữ vững và tăng lên về số lượng, chất lượng của nguồn nước
giữa hai nhóm hộ tham gia dự án và không tham gia dự án.
39. xxxix
- Hiểu biết và nhận thức về việc cần thiết phải bảo vệ tài nguyên rừng
đối với việc chống xói mòn tài nguyên đất đai giữa hai nhóm hộ tham gia dự
án và không tham gia dự án.
- Nhận thức về môi trường và ô nhiễm môi trường khu vực “vùng đệm”
mà hộ đang sinh sống.
- Hiểu biết và nhận thức về việc cần thiết phải bảo vệ tài nguyên rừng
đối với cuộc sống hiện tại và cho các thế hệ con cháu mai sau.
d) Hệ thống chỉ tiêu xem xét tác động của dự án đến sinh kế của nhóm
hộ tham gia dự án.
1) Nguồn lực tự nhiên: Đất, nước, không khí, rừng, khoáng sản, …
2) Nguồn lực con người:
- Kiến thức, kỹ năng trong quản lý và sản xuất, sức khỏe, khả năng lao
động, số lượng lao động của hộ...
- Khả năng hiểu biết và áp dụng các kiến thức sau tập huấn vào trong sản
xuất của nhóm hộ tham gia dự án.
- Khả năng tạo thu nhập mới từ việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật sau tập huấn vào sản xuất nông, lâm nghiệp của nhóm tham gia dự
án.
3) Nguồn lực xã hội:
- Sự tôn trọng các quy định về mối quan hệ trong làng xã, các mạng lưới
và tổ chức xã hội, các đoàn thể như hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu
chiến binh, đoàn thanh niên...
- Khả năng nhân rộng của dự án: Dự án có được người khác đến học tập
và làm theo? Có phù hợp để áp dụng cho các địa phương khác không?
40. xl
4) Nguồn lực vật chất: Nhà cửa, tài sản, các vườn cây lâu năm, đường xá,
trường học, bệnh viện…
5) Nguồn lực tài chính: Thu nhập và tiết kiệm, sự tiếp cận các nguồn vốn như
Ngân hàng nông nghiệp và PTNT, ngân hàng chính sách xã hội... trợ giúp vốn
vay cho phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua sắm các trang
thiết bị máy móc, công nghệ...
41. xli
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI DỰ ÁN TẠI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.1. Điều kiện tự nhiên
Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Huyện Đại Từ có
diện tích tự nhiên là 57.790 ha. Huyện có 31 đơn vị hành chính trực thuộc bao
gồm hai thị trấn Đại Từ, thị trấn Quân Chu và 29 xã. Dân số thống kê đến
cuối năm 2008 là 42.307 hộ và 177.322 người. Các thành phần dân tộc đang
sinh sống trên địa bàn huyện gồm: chủ yếu là người dân tộc Kinh, ngoài ra
còn có các dân tộc anh em khác là Tày, Dao, Nùng, Sán Dìu, Sán Chí... cùng
làm ăn sinh sống.
2.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Đại Từ có tọa độ địa lý: 21º30’ đến 21º50’ độ vĩ Bắc, 105º32’
đến 105º42’ độ kinh Đông.
• Phía Đông giáp với huyện Phú Lương và TP. Thái Nguyên
• Phía Tây giáp với tỉnh Tuyên Quang và Vĩnh Phúc
• Phía Bắc giáp với huyện Định Hoá
• Phía Nam giáp với huyện Phổ Yên.
2.1.2. Đặc điểm địa hình
Đại Từ là huyện có địa hình tương đối phức tạp thể hiện đặc trưng của
vùng trung du miền núi phía Bắc. Địa hình của huyện có thể chia làm 03 vùng
khác nhau như sau:
- Vùng 1: Là vùng địa hình của dãy Tam Đảo, có cao trình từ 300 trở lên
- Vùng 2: Là vùng của dãy núi thấp có cao trình từ 100m đến 300m.
- Vùng 3: Là vùng thung lũng song song với dãy Tam Đảo.
42. xlii
Tổng diện tích của huyện được phân theo độ cao và độ dốc được thể hiện
ở bảng 2.1
Bảng 2.1: Phân loại đất theo độ cao và theo độ dốc
Độ cao Diện tích Tỷ lệ Độ dốc Diện tích
STT Tỷ lệ (%)
(m) (ha) (%) (o) (ha)
1 > 300m 10.580 18% >15 35.947 62%
2 100 - 300 22.087 38% 8-15 6.343 11%
3 < 100m 25.123 44% <8 15.500 27%
Tổng 57.790 100% 57.790 100%
Nguồn: Phòng tài nguyên môi trường Huyện Đại Từ - Thái Nguyên năm 2008
Thổ nhưỡng: Trên địa bàn huyện được hình thành từ 4 nhóm đất chính
và được trình bày dưới bảng 2.2 sau đây:
Bảng 2.2: Các nhóm đất chính của huyện
Diện tích
STT Loại đất Tỷ lệ (%)
(ha)
1 Đất xám mùn trên núi 16.400 28,37%
2 Đất Felarit phát triển trên đất đỏ biến chất 15.107 26,14%
3 Đất Felarit phát triển trên đất phù sa cổ 13.036 22,55%
4 Đất Gley phát triển trên đất phù sa cổ 13.247 22,94%
Tổng cộng 57.790 100%
Nguồn: Phòng tài nguyên môi trường huyện Đại Từ - Thái Nguyên năm 2008
Qua số liệu của bảng 2.2 ta nhận thấy huyện Đại Từ có 4 loại đất chính
và được phân bổ nhiều nhất là nhóm đất Felarit phát triển trên hai loại đất đó
là đất đỏ biến chất và đất phù sa cổ. Đất Felarit có tổng diện tích là 28.143 ha
và chiếm 48,69%. Xếp thứ hai là đất xám mùn trên núi có diện tích là 16.400
ha chiếm 28,37%. Còn lại là đất Gley phát triển trên nền đất phù sa cổ có diện
tích 13.247 ha và chiếm 22,94%.
43. xliii
2.1.3. Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ năm 2008
Căn cứ vào mục đích sử dụng mà chúng ta có thể phân chia diện tích đất
đai của huyện Đại Từ như sau:
Bảng 2.3: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ năm 2008
STT Mục đích sử dụng Số lượng Tỷ lệ (%)
Tổng diện tích tự nhiên 57.790 100,00%
1. Đất nông - lâm nghiệp 44.832,22 77,58%
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 16.743,4 39,17%
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 8.217,72 49,08%
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 8.525,68 50,92%
1.2 Đất lâm nghiệp 27.269,72 60,83%
1.2.1 Đất rừng sản xuất 13.992,47 51,31%
1.2.2 Đất rừng phòng hộ 1.681,42 6,17%
1.2.3 Đất rừng đặc dụng 11.595,83 42,52%
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 819,1 1,83%
2. Đất phi nông nghiệp 8.725,66 15,09%
2.1 Đất ở 2.766,94 31,71%
2.2 Đất chuyên dụng 2.777,83 31,84%
2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 9,08 0,10%
2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 159,14 1,82%
2.5 Đất sông suối và mặt nước chuyên 2995,8 34,33%
dung
2.6 Đất phi nông nghiệp khác 16,87 0,19%
3. Đất chưa sử dụng 4.232,12 7,43%
Nguồn: Phòng tài nguyên môi trường Huyện Đại Từ - Thái Nguyên năm 2008
Trong tổng diện tích 57.790 ha đất tự nhiên của huyện thì có đến 77,58%
là diện tích đất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp của huyện Đại Từ
theo thống kê đến cuối năm 2008 là 44.832,22 ha và trong đó diện tích đất
trồng lúa chiếm 49,08%. Qua các thông số trên ta nhận thấy cây lúa vẫn là
cây chủ đạo để phát triển kinh tế của huyện.
44. xliv
Đất lâm nghiệp của huyện là 27.269,72 ha được chia ra các loại: Đất
rừng sản xuất là 13.992,47 ha, đất rừng phòng hộ là 1.681,42 ha và đất rừng
đặc dụng là 11.595,83 ha. So với năm 2007 ta thấy chỉ có diện tích đất rừng
đặc dụng là giữ nguyên được diện tích, còn lại cả hai diện tích rừng sản xuất
và diện tích rừng phòng hộ là bị giảm về số lượng. So với năm 2007, diện tích
đất rừng sản xuất giảm 244,55 ha và diện tích đất rừng phòng hộ giảm 505,71
ha. Đây là thực trạng đáng báo động để các cấp lãnh đạo huyện phải lưu tâm.
Có thể nói thông qua hiện trạng sử dụng đất ta thấy việc phát triển kinh
tế của huyện vẫn phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó
diện tích đất dành cho lâm nghiệp chiếm tỷ lệ nhiều nhất là do đặc điểm địa
hình của huyện tạo nên. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp của huyện bởi rừng là nơi dự trữ và cung cấp phần lớn nước cho các
hoạt động sản xuất nông nghiệp của toàn huyện và của bà con các dân tộc
Tày, Sán Chí trên các khu vực có địa hình khá cao mà hệ thống thủy lợi
không thể cung cấp được nước cho kịp thời vụ.
2.1.4. Khí hậu, thời tiết, thuỷ văn
Khí hậu chia làm 2 mùa rất rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10,
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
• Nhiệt độ trung bình năm: 23ºC
• Nhiệt độ cao nhất trung bình năm: 29ºC
• Nhiệt độ thấp nhất trung bình năm: 16ºC
• Lượng mưa trung bình năm: 1.870mm/năm
• Độ ẩm không khí trung bình: 78 - 90 (%)
• Lượng nước bốc hơi trung bình 980mm/năm
Hệ thống thủy văn: Đại Từ có điều kiện thuỷ văn rất thuận lợi: Có Sông
Công chảy qua huyện với tổng chiều dài 24 km, Hồ Núi Cốc liền kề có diện
tích tự nhiên 25 km2. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có các con suối nằm
45. xlv
trên địa bàn các xã như: La Bằng, Quân Chu, Cát Nê, Phục Linh, Ký Phú,
Văn Yên, Mỹ Yên, Hoàng Nông cung cấp và điều phối nước tưới, tiêu và
nước sinh hoạt cho người dân.
Có thể nói huyện Đại Từ có điều kiện về đất đai, khí hậu và nguồn nước
rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp với hai loại cây trồng
chính là cây lúa và cây chè. Huyện có diện tích rừng bao phủ trên 61% vừa có
chức năng điều hoà khí hậu, cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt đồng
thời mở ra tiềm năng phát triển kinh tế khi huyện đã và đang giao đất, giao
rừng cho người dân địa phương quản lý.
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.2.1. Tình hình dân số và lao động
Dân số toàn huyện và cơ cấu dân số được trình bày ở bảng 2.4 dưới đây:
Bảng 2.4: Dân số và lao động của huyện Đại Từ
Tiêu chí Đơn vị Số lượng Cơ cấu (%)
1. Tổng dân số Người 172.322 100
Dân số trong độ tuổi lao động Người 91.650 53,19
* Tổng số lao động nam Người 87.473 50,76
* Tổng số lao động nữ Người 84.849 49,24
2. Tổng số hộ Hộ 42.307 100
2.1 Số hộ giàu Hộ 2.016 4,76
2.2 Số hộ khá Hộ 12.984 30,69
2.3 Số hộ trung bình Hộ 24.722 58,45
2.4 Số hộ nghèo Hộ 2.585 6,11
Nguồn : Phòng thống kê huyện Đại Từ năm 2008
Với lực lượng lao động trong độ tuổi rất đông đảo, là một nguồn lực
quan trọng để thực hiện các quá trình của sản xuất kinh doanh, lượng lượng
lao động trong độ tuổi này sẽ làm thay đổi toàn cục về kinh tế của huyện
trong thời gian tới.
46. xlvi
Có đến trên 58% số hộ dân trong huyện ở mức sống trung bình. Cả
huyện có 6,11% số hộ nghèo. Số hộ giàu chỉ chiếm 4,76%. Thực trạng này
cần được nhìn nhận và có biện pháp cải thiện đó là phấn đấu giảm tối đa số hộ
nghèo, tăng số hộ có mức sống khá, giàu.
2.2.2. Tình hình phát triển xã hội
a) Giáo dục
Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu cơ bản về giáo dục của huyện Đại Từ
Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng
1.Giáo dục mầm non
+Số trường mầm non Trường 33
+ Số học sinh Cháu 5.537
+ Số giáo viên Cô 317
2. Giáo dục phổ thông
A - Tiểu học
+ Số trường Trường 35
+ Học sinh H/sinh 11.705
+ Số giáo viên GV 737
B - Trung học cơ sở
+ Trường Trường 30
+ Học sinh H/sinh 13.162
+ Số giáo viên GV 872
C -Trung học phổ thông
+ Trường Trường 3
+ Học sinh H/sinh 6.024
+ Số giáo viên GV 191
Số trường đạt chuẩn quốc gia 18
Mầm non Trường 1
Tiểu học Trường 16
Trung học cơ sở Trường 1
Nguồn: Phòng thống kê huyện Đại Từ - 2008
Có thể đánh giá lãnh đạo huyện Đại Từ rất chú trọng công tác đầu tư cho
giáo dục. Tuy còn gặp nhiều khó khăn về đầu tư cho giáo dục, các cấp chính
quyền huyện cùng với người dân đã rất nỗ lực hết sức để đáp ứng cơ sở vật