SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  31
Ca dao
THAN THÂN
Bốn bề công nợ eo sèo
Chỉ vì một nỗi tôi nghèo mà thôi
Tôi làm tôi chẳng có chơi
Nghèo đâu nghèo mãi, trời ơi hỡi trời!
Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò to , nước lớn mẹ mang con về
Mang về đến gốc bồ đề
Xoay trở hết nghề mẹ bán con đi
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồngtiếng khóc nỉ non
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Oâng ơi!Oâng vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
Con quan thì lại làm quan
Con nhà kẻ khó đốt than cả ngày
Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn theo sau
Giàu từ trong trứng gìu ra
Khó từ ngã ba, ngã bảy khó về
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy tay không trở về
Trời sao trời ở chẳng cân
Kẻ ăn không hết người lần không ra
Người thì mớ bảy mớ ba
Người thì áo rách như là áo tơi
CHÂM BIẾM

1
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Oám lăn ốm lóc, cho sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sư sầu
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây
Bươm bướm mà đậu cành hồng
Đã yêu con chị lại bồng con em
Con ơi! Nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan
Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng không còn
Sư đi chùa mốc sân rêu
Mõ khuya ai gõ , chuông chiều ai khua
Vinh hoa là cái trò đùa
Đã tu không trót, lại mua trò cười
Thầy cúng ngồi cạnh giường thờ
Mồm thì lẩm bẩm, tay sờ đĩa xôi
Tiền buộc dải yếm bo bo
Trao cho thầy bói đâm lo vào mình
Tử vi xem số cho người
Số thầy thì để cho ruồi nó bâu
Vua Lê ba mươi sáu tàn vàng
Thấy gái đi đàng ngó ngó nom nom
Cô nào óng ả son son
Vua đóng cũi hòm, đem trẩy về kinh
CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG
Ăn được ngủ được là tiên
Không ăn không ngủ mất tiến thêm lo
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sàng
2
Ai ơi chớ vội cười nhau
Cây nào mà chẳng có sâu chạm cành
Ai ơi chớ vội cười nhau
Cười người hôm trước, hôm sau người cười
Ai ơi cứ ở cho lành
Tu nhân tích đức để dành về sau
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bề mới nên
Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Tay đâu mà bịt miệng người thế gian
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
Chim khôn tránh bẫy tránh giò
Người khôn tránh kẻ hồ đồ mới khôn
Chớ thấy sóng cả mà lo
Sóng cả mặc sóng chèo cho có chừng
Dã tràng se cát biển Đông
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì

Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn
Giàu đâu những kẻ ngủ trưa
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày
Giàu người ta chẳng có tham
Khó thì ta liệu ta làm ta ăn

3
Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen
Hoa thơm ai dễ bỏ rơi
Người khôn ai nỡ nặng lời với ai
Khi giàu chẳng có đỡ ai
Đến khi hoạn nạn chẳng ai đỡ mình
Khôn ngoan chẳng lọ là nhiều
Người khôn mới nói nửa điều đã khôn
Khó mà biết lẽ biết lời
Biết ăn, biết ở hơn người giàu sang
Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời
Lòng ta ta đã chắc rồi
Dù ai giục đứng giục ngồi chớ nao
Mật ngọt càng tổ chết ruồi
Những nơi cay đắng là nơi thật thà
Muốn no thì phải chăm làm
Một hạt thóc vàng, chín hạt mồ hôi
Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy

Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo
Nghèo tiền nghèo bạc chẳng lo là nghèo
Người gian thì sợ người ngay
Người ngay chẳng sợ đường cày khúc khuyu
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng

4
Non cao ai đắp mà cao
Sông sâu do bởi ai đào mà sâu?
Nói chín thì nên làm mười
Nói mười làm chín kẻ cười người chê
Nói lời thì giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay
Ra vời mới biết nông sâu
Ở trong lạch hói biết đâu mà dò
Sông sâu nước chảy đá mòn
Của kia ăn hết nghĩa còn ghi xương
Sự đời nghĩ cũng nực cười
Một con cá lội mấy người thả câu
Thà rằng ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời
Thương ai củ ấu cũng tròn
Không thương quả bồ hòn cũng vuông
Thương ai thương cả đường đi
Ghét ai ghét cả tông ti họ hàng
Thức lâu mới biết đêm dài
Ở lâu mới biết là người có nhân

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người
Trăm năm ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim
Trăm năm ba đá thi mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Dầu ai đem bạc đổi chi mặc ai
5
Vàng thì thử lửa thử than
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời
LAO ĐỘNG VÀ NGHỀ NGHIỆP
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà chấm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm mai
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Dẻo thơ một hạt đắng cay muôn phần
Con tằm nó nằm ăn lá dâu
Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò
Con trai tát nước, nàng dâu đi mò
Cha chài, mẹ lưới, con câu
Đói thì ăn ráy ăn khoai
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng
Những người đi biển làm nghề
Thấy dòng nước nóng thì về đừng đi
Sóng lừng, bụng biển ầm ì
Bão mưa ta tránh chớ hề ra khơi
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa
Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn

6
Trên trời có ông sao Thần
Bốn mùa chỉ lối cho dân ăn làm
Sang xuân Thần cuối lom khom
Là mùa trồng đậu dân làng biết chăng ?
Bước sang tháng chin rõ trăng
Lưng Thần hơi đứng là đang gặt mùa
LỊCH SỬ VÀ ĐẤT NƯỚC
Ai lên Biên Thượng, Lam Sơn
Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh
Ai về Bình Định mà nghe
Nói về chàng Lía, hát vè Quảng Nam
Ai về Hậu Lộc, Phú Điền
Nhớ đây Bà Triệu trận tiền xung phong
Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đương còn đây
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Ai về Thọ Lão hát chèo
Có thương lấy phận nàng Kiều thì thong
Bắc Cạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh
Cầu Quan vui lắm ai ơi
Trên thì chợ họp, dưới bơi thuyền rồng
Chiều chiều én liện truông Mây
Cảm thong chú Lía bị vây trong thành

7
Dịu dàng nết đất An Dương
Xưa nay là chốn văn chương nổi tài
Dù ai buồn đâu, bán đâu
Mồng mười tháng chín chọi trâu thì về

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Cương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Khôn ngoan qua cửa sông La
Dễ ai có cánh đi qua Luỹ Thầy
Lạy trời cho cả gió lên
Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành
Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu trở về Hội Gióng
Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm
Đức Thọ gạo trắng nước trắng
Ai về Đức Thọ thong dong con người
Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi
Cơm trắng đầy nồi, trẻ chẳng cho ăn
Ngó qua bên canh Tô Châu
Thấy em gánh trên đầu giắt trâm
Nhất cao là núi Tản Viên
Nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vừng
8
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
Nhong nhong ngựa ông lại về
Cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn
Sa Nam trên chợ dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dụng binh
Sông Lam một dải nông sờ
Nhớ người quân tử bơ vơ nổi chìm
Sông Thao nước đục người đen
Ai lên phố Eûn cũng quên đường về
Vĩnh Long có cặp rồng vàng
Nhất Bùi Hữu Nghĩa nhì Phan Tuấn Thần
Vườn ai trồng trúc trồng tre
Ở giữa trồng chè, hai bên đào ao
Aáy nhà một đấng anh hào
Họ Phan, làng Thái, đồng bào kính yêu
Xứ Nam nhất chợ Bằng Vồi
Xứ Bắc: Vân Khánh, xứ Đoài: Hương Canh

9
Tục ngữ là những câu nói nhân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu,
hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự
nhiên, lao động, sản xuất, xã hội) được nhân dân vận dụng vào đời
sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đây là một thể loại văn
học dân gian.
CÁC HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN
Cần xuống muống lên
Cây chọn mất lá cá chọn mất cây
Cha chết không lo bằng đỏ lò tây bắc.
Chắc rễ bền cây
Chữ tốt xem tay,ngựa hay xem xoáy
Chớp đông nhay nháy ,gà gáy thì mưa
Chớp thừng chớp chão ,chẳng bão thì mưa.
Chuồng gà hướng đông,cái lông chẳng còn
Cóc nghiền răng đang nắng thì mưa
Đông chết se hè chết lụt
Được mùa nhãn hận nước lên
Eách kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước
Eùn bay thấp mưa ngập cầu ao;én bay cao mưa rào lại tạnh
Kiến dạo tổ trời mưa
Lá tre trôi lộc,mùa rét xộc đến
Mây thành vừa hanh vưà giá
Mây xanh thì nắng mây trắng thì mưa
Mặt trời có quầng thì hạn,mặt trăng có tán thì mưa
Mống cao gió táp mống áp mưa rào
Mống dài trời lụt mông cụt trời mưa
Một ngôi sao một ao nước
Mỡ gà thời gió mỡ chó thời mưa
Nắng chóng trưa mưa chóng tối
Nắng tháng ba chó già lè lưỡi
Nước chảy đá mòn
Qua giêng hết năm qua rằm hết tháng
Ráng vàng thời nắng ,ráng nắg thời mưa
Sấm kêu,rêu mọc
Thâm đông trống bác hễ nực thì mưa
Thâm đông, hồng tây,dựng mây,ai ơi ở lại ba ngày hãy đi
Tháng bảy nước chảy qua bờ
Tháng chín mưa rơi tháng mười mưa cữ
Tháng hè đóng bè làm phúc
Tháng mười động gia tháng ba động rạm
Tháng mườico sấm ,cấy trên nấm cũng được ăn
Tháng tám gió mây tưới đồng
Tháng bảy như gảy cần trám,tháng tám nắng ram ù trái bưởi
10
Trống tháng bảy chẳn hội thì chay ,tháng sáu heo may chẳng mưa thì bão
Trời đương nắng cỏ gà trắng thì mưa
Vàng mây thời gió,đỏ mây thời mưa
KINH NGHIÊM LAO ĐỘNG
Ao sâu tốt cá
Bắt lợn tóm giò bắt bò tóm mũi
Buộc trâu đâu nát rào nấy
Cây chọn mất lá ,cá chọn mất vảy
Cấy thưa hơn bừa kĩ
Cao bờ thì tát gầu dai ; gầu sòng chỉ tát được nơi thấp bờ
Chữ tốt xem tay ,ngựa hay xem khoáy
Chuồng gà hướng đông , cái lông chẳng còn
Con trâu la øsự nghiệp
Dao thử trầu héo ,kéo thử lúa xô
Dao thử trầu héo kéo thử lụa xô
Được mùa nhãn ,hạn nước lên
Gió heo mây mía bay lên ngọn
Hòn dất nỏ bằng giỏ phân
Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa
Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc
Làm ruộng tháng năm coi chăm tháng mười
Lo trẻ mùa hè không bằng lo bò què tháng sáu
Lúa chín hoa ngâu đi đâu chẳng gặt
Lúa mùa thì cấy cho sâu,lúa chiêm thì gảy cành dâu mới vừa
Lúa tháng bảy vợ chồng rẫy nhau
Một lươt cỏ thêm giỏ thóc
Muốn ăn lúa tháng năm trông trăng ràm tháng tám
Muốn giàu nuôi trâu cái muốn lun bại nuôi bồ câu
Nắng sớm thì đi trồng cà , mưa sớm ở nhà phơi thóc
Nắng tốt dưa ,mưa tốt lúa
Nước cả,cá to
Ruộng không phân như thân không cổ
Sao rua đứng trốc , lúalốc được ăn
Tằm đỏ cổ thì vỗ dâu vào
Tháng chin ăn rươi ,tháng mười ăn ruốc
Tháng giêng trồng củ từ ,tháng tư trồng củ lạ
Tháng giêng trồng trúc , tháng lục trồng tiêu
Tháng tám mạ già ,tháng ba mạ thóc
Tháng tám mưa trai , tháng hai mưa thóc
Tháng tám tre non làm nhà , tháng năm tre già làm lúa
Thiếu tháng tư khó nuôi tằm ,thiếu tháng năm khó làm ruộng
11
Tre già là bà gỗ lim
Trồng khoai đất lạ ,gieo mạ đất quen

CON NGƯỜI & ĐỜI SỐNG
Ăn cá nhả xương ,ăn đường nuốt chậm
Ăn cơm lừa thóc , ăn cóc bỏ gan
Ăn có chỗ, đỗ có nơi
Ăn hết nhiều , ở hết bao nhiêu
Ăn lấy chắc , mặc lấy bền
Ăn sau là đầu cất dọn
Ăn vóc ,học hay
Cau già khéo bổ thì non , nạ dòng trang điềm lai còn như xưa
Cho ùtreo, mèo đậy
Chọn bạn mà chơi , chọn nơi mà ở
Cơm chín tới , cải ngồng non , gái một con , gà gại ổ
Cơm và cháo húp
Có an cư mới lạc nghiệp
Có cà là nhà có phúc
Có thực mới vực được đạo
Của đời ông , ăn không cũng hết
Đất lành chim đậu
Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ
Đưa đũa ghét năm , đưa tăm ghét đời
Kén cá chọn canh
Làm cố được , ăn không cố được
Lúa tốt xem biên
Miệng ăn núi lở
Một bát cơm rang bằng sàng cơm thổi
Một con so lo bằng mười con dạ
Một người nhà bằng ba người mượn
Mua cá thì phải xem mang ,người khôn xem lấy hai hàng tóc mai
Nghĩa tử là nghĩa tận
Người đi không bực bằng người chực mâm cơm
Nhất ngon là đầu cá gáy ,nhất thơm là cháy cơm nếp
Nhà gỗ xoan , quan ông nghè
No cơm ấm cật giậm giật mọi nơi
No dạ đã thèm
Sinh dữ, tử lành
Sống thì chả cho ăn , chết thì làm văn tế ruồi
Tay làm hàm nhai , tay quai miệng trễ
Thực túc binh cường
12
Trẻ muối cà , già muối dưa
Trời đánh còn tránh miếng ăn
Vợ hiền hòa , nhà hướng nam
GIA ĐÌNH
Anh em trong nhà đóng cửa dạy nhau
Anh ngủ em thức anh chực em nằm
Anh thuận em hòa là nhà có phúc
Bà con vì tổ vì tiên , không phải vì tiền vì gạo
Cây có cội , nước có nguồn
Cắt dây bầu dây bí , ai nở cắt dây chị dây em
Cá chuối đắm đuối vì con
Cha anh hùng con hảo hán
Cha mẹ giàu con có , cha mẹ khó con không
Cha mẹ sinh con trời sinh tính
Cha sinh mẹ dưỡng
Chim có tổ , người có tông
Chị ngã em nâng
Công cha nghĩa mẹ
Con chẳng chê cha mẹ khó , chó chẳng chê chủ nghèo
Con có cha mẹ đẻ , không ai ở chô nẻ mà lên
Con có cha như nhà có nóc
Con dại cái mang
Con hư tại mẹ , cháu hư tại bà
Con hơn cha là nhà có phúc
Có chuối non mới biết lòng cha mẹ
Dì ruột thương cháu như con rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông
Đời cha ăn mặn , đời con khát nước
Hùm dữ chẳng nở ăn thịt con
Mài mực ru con , mài son đánh giặc
Máu chảy ruột mềm
Một giọt máu đào hơn ao nước lã
Nhất con , nhì cháu , thứ sáu người dưng
Nhất mẹ , nhì cha , thứ ba bà ngoại
Nhất mẹ nhì con
***
1. Có khó mới có miếng ăn.
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
2. Hay ăn thì lăn vào bếp
3. Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
4. Có bụng ăn, có bụng lo.
13
5. Của như kho không lo cũng hết.
6. Miệng ăn núi lở.
7. Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn.
8. Của làm ăn no, của cho ăn thèm.
9. Khỏi nhà ra thất nghiệp.
10. Tháng tám đói qua, tháng ba đói chết.
1. Chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở.
2. Vợ hiền hòa, nhà hướng nam.
3. Làm ruộng thì ra, làm nhà thì tốn.
4. Đất lành chim đậu.
5. Ăn lấy chắc, mặc lấy bền.
6. Tiền lĩnh quần chị, tiền chỉ quần em.
7. Cau già khéo bổ thì ngon
Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa.
8. Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.
9. Đường ở cửa miệng.
10. Mưa tránh chỗ trắng, nắng tránh chỗ đen.
1. Tốt mốc ngon tương.
2. Mua cá thì phải xem mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai.
3. Rượu cổ be, chè đầy ấm.
4. Trẻ muối cà, già muối dưa.
5. Sợ người ở phải, hãi người cho ăn.
6. Chó treo, mèo đậy.
7. Ăn tùy nơi, chơi tùy chỗ.
8. Có an cư mới lạc nghiệp.
9. Hay ở, dở đi.
10. Ăn hết nhiều, ở hết bao nhiêu.
1. Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè.
2. Mùa hè cá sông, mùa đông cá bè.
3. Chim, thu, nụ, dé.
4. Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê.
5. Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm.
6. Ếch tháng ba, gà tháng bảy.
7. Cơm và, cháo húp.
8. Ăn cơn có canh, tu hành có vãi.
9. Vụng sá vụng sịt lắm thịt cũng ngon.
10. Cần tái, cải nhừ.
. Người sống về gạo, cá bạo về nước.
2. Có thực mới vực được đạo.
14
3.
4.
5.
6.
7.

Mẻ không ăn cũng chết.
Một miếng khi đói bằng một gói khi no.
Ăn một miếng, tiếng một đời.
Ghen vợ ghen chồng không bằng ghen ăn.
Đói thì thèm thịt thèm xôi
Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường.
8. Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà gại ổ.
9. Lợn giò, bò bắp.
10. Vịt già, gà tơ.
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Một tiền gà, ba tiền thóc.
Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn.
Làm ruộng ba năm không bằng chăm tằm một lứa.
Làm ruộng ăn cơm nằm, chăm tằm ăn cơm đứng.
Tằm đói một bữa bằng người đói nửa năm.
Một nong tằm là năm nong kén
Một nong kén là chín nén tơ.
7. Tháng ba dâu trốn, tháng bốn dâu về.
8. Ao sâu tốt cá
Nước cả cá to.
9. Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn ruốc.
1. Chuối sau, cau trước.
2. Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa.
3. Nắng sớm thì đi trồng cà
Mưa sớm ở nhà phơi thóc.
4. Gió heo may mía bay lên ngọn.
5. Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ
Tua rua bằng mặt cất bát cơm chăm.
6. Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả.
7. Chắc rễ bền cây.
8. Cây chạm lá, cá chạm vây.
9. Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu.
Nắng đan đó, mưa gió đan gầu.
10. Con trâu là đầu cơ nghiệp.
1. Lúa mùa thì cấy cho sâu
Lúa chiêm thì gẩy cành dâu mới vừa.
2. Một lượt cỏ thêm giỏ thóc.
3. Nhất nước, nhì phân, tam cần tứ giống.
4. Hòn đất nỏ bằng giỏ phân.
5. Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân.
6. Tốt quá hóa lốp.
15
7. Xanh nhà hơn già đồng.
8. Ruộng cao trồng mầu, ruộng sâu cấy chiêm.
9. Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen.
10. Bốc mả kiêng ngày trùng tang
Trồng khoai lang kiêng ngày gió bấc.
1. Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ.
2. Thiếu tháng tám mất hoa ngư.
Thiếu tháng tư mất hoa cốc.
3. Mồng tám tháng tám không mưa
Bỏ cả cầy bừa mà nhổ lúa đi.
4. Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa mạ.
5. Gió đông là chồng lúa chiêm
Gió bấc là duyên lúa mùa.
6. Chiêm xấp tới, mùa đợi nhau.
7. Lúa chiêm đứng nép đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.
8. Đói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng.
9. Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa.
10. Mạ chiêm ba tháng không già
Mạ mùa tháng rưỡi ắt là không non.
1. Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước
2. Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.
3. Mưa tháng ba hoa đất.
4. Mưa tháng tư hư đất.
5. Tấc đất, tấc vàng.
6. Năm trước được cau, năm sau được lúa.
7. Được mùa lúa, úa mùa cau
Được mùa cau, đau mùa lúa
8. Được mùa quéo, héo mùa chiêm.
9. Tỏ trăng mười bốn được tằm.
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm.
10. Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu.
1. Gió thổi là chổi trời.
2. Nước chảy đá mòn.
3. Trăm rác lấy nác làm sạch.
16
4. Rắn già rắn lột, người già người chột.
5. Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng.
6. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng.
7. Ngày tháng mười chưa cười đã tối
8. Đông chết se, hè chết lụt.
9. Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm
10. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét
nàng Bân.
11. Tháng ba bà già chết rét.
12. Tháng bảy mưa gãy cành tràm.
13. Tháng tám nắng rám trái bưởi.
14. Tháng bảy ngâu ra, mồng ba ngâu vào.
15. Sáng mưa, trưa tạnh.
16. Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.
17. Sáng bể chớ mừng, tối rừng chớ lo.
18. Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa.
19. Mống đông vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật.
20. Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa.
21. Gió bấc hiu hiu sếu kêu thì rét.
22. Chớp đông nháy nháy, gà gáy thì mưa.
23. Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
24. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
25. Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
26. Tháng bảy kiến đàn, đại ngàn hồng thủy.
27. Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
28. Én bay thấp mưa ngập cầu ao.
29. Én bay cao mưa rào lại tạnh.
30. Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa.

A - Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai

17
B - Ba người đánh một, không chột cũng
què.
C - Cá vàng bụng bọ
D - Dạ sâu hơn bể, bụng kín hơn buồng
Đ - Đa hư bất như thiểu thực
E - Em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là
chị em
G - Gà ăn hơn công ăn
H - Há miệng mắc quai
I - Ít chắt chiu, hơn nhiều vung phí
K - Kẻ cả ngả mặt lên
L - Lá lành đùm lá rách
M - Ma ăn mày Bụt, Bụt chẳng thèm ăn mày
ma
N - Nạ dòng lấy được trai tơ, đêm nằm mê
mẩn như mơ được vàng
O - Oan hồn, hồn hiện
P - Phá lá cây thì dễ, phá chồi cây lặc lè
chẳng xong
Q - Quá mù ra mưa
R - Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ
S - Sa chân bước xuống ruộng đưa, dẫu
ngay cho chết cũng ngờ rằng gian
T - Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn
V - Vạ ở miệng mà ra, bệnh qua miệng mà
vào
X- Xa chùa vắng trống, gần chùa inh tai

18
Y - Yêu ai (hoặc nhau) yêu cả đường đi,
ghét ai (hoặc nhau) ghét cả tông chi họ
hàng.
Top

Ca dao
Châm biếm

Ai ơi đừng lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Bà già đã tám mươi tư
Ngồi trông cửa sổ gởi thư lấy chồng
Bà già đi chợ cầu Bông
Hỏi thăm thầy bói lấy chồng lợi chăng
Thầy bói xem quẻ nói rằng
Lợi thi có lợi nhưng răng không còn
Ba năm ở với người đần
Chẳng bằng một lúc ghé gần người khôn
Bắc thang lên hỏi ông trời
Có tiền cho gái có đòi được chăng ?
Cá tươi xem lấy đôi mang
Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai
Tóc mai sợi vắn sợi dài
Có đâu mặt rỗ đá mài không trơn
Cánh hồng bay bổng trời thu
Thương con chim gáy cúc cu trong lồng
Cau già dao bén thì ngon
Người già trang điểm phấn son cũng già
19

Cau non khéo bửa cũng dầy
ống nước, nhớ nguồn.
Con người có tổ, có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Con chim có tổ, con người có tông.
Con chim tìm tổ, con người tìm tông.
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây,
Ăn gạo, nhớ kẻ đâm xay giần sàng.
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây,
Ăn khoai, nhớ kẻ cho dây mà trồng.
Ăn cây nào, vào cây ấy.
Ăn cây nào, rào cây ấy.
Ăn của Bụt, thắp hương thờ Bụt.
Ăn oản, thời phải thờ Phật.
Ăn oản, phải giữ lấy chùa.
Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật.
Ta về, ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Cáo chết ba năm, còn quay đầu về núi.
1.2- Đạo làm con
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, mới là chân tu.

20
Nâng niu bú mớm đêm ngày,
Công cha, nghĩa mẹ, coi tày bể non.
Có nuôi con, mới biết lòng cha mẹ.
Lên non, mới biết non cao,
Nuôi con, mới biết công lao mẫu từ.
Con mẹ thương mẹ lắm thay,
Chín tháng mười ngày, mang nặng đẻ đau.
Liệu mà thờ mẹ kính cha,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Có cha, có mẹ, thì hơn,
Không cha, không mẹ, như đờn đứt giây.
Trách ai được cá quên nơm,
Được chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm mớm, lưỡi lừa cá xương.
Vẳng nghe tiếng vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng, mà nuôi mẹ già.
Mẹ cha như chuối chín cây,
Sao đấy chẳng liệu, cho đây liệu cùng.
Cha mẹ ở tấm lều tranh,
Sớm thăm, tối viếng, mới đành dạ con.
Mẹ cha như nước như mây,
Làm con phải ở cho tày lòng son.
Con có làm ra của vạn tiền trăm,
Con ơi, hãy nhớ lúc con nằm trong nôi.
Trâu dê chết để tế ruồi,
Sao bằng lúc sống, ngọt bùi là hơn.
21
Lúc sống, thời chẳng cho ăn,
Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi.
Sống thì chẳng cho ăn nào,
Chết thì cúng giỗ, mâm cao cỗ đầy.
Dạy con, con nhớ lấy lời,
Trọng cha, kính mẹ, suốt đời chớ quên.
Con giữ cha, gà giữ ổ.
Dâu hiền hơn gái, rể hiền hơn trai.
Trai mà chi, gái mà chi,
Cốt sao có nghĩa, có nghì là hơn.
Con ở đâu, cha mẹ đấy,
Cháu con ở đâu, tổ tiên ở đấy.
Trẻ đeo hoa, già đeo tật.
Già sinh tật, đất sinh cỏ.
Lụ khụ, như ông cụ bảy mươi.
Bảy mươi chưa đui, chưa què, chớ khoe là giỏi.
Một già, một trẻ như nhau.
Kính lão, đắc thọ.
Thương già, già để tuổi cho.
Cá không ăn muối, cá ươn,
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
Cha mẹ là biển là trời,
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.
Nói con, con chẳng nghe lời,
Con nghe ông huyểnh, ông hoảng, hết đời nhà con.
22
Cha mẹ đánh cửa trước, vào cửa sau. (1)
Một mẹ, nuôi được mười con,
Mười con, không nuôi được một mẹ.
Con bà, có thương bà đâu,
Để cho chàng rể, nàng dâu thương cùng.
Cha mẹ nuôi con, bằng trời bằng bể,
Con nuôi cha mẹ, con kể từng ngày.
Mẹ nuôi con, biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ, kể tháng kể ngày.
Mẹ già hết gạo treo niêu,
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.
Mẹ lá rau, lá má,
Con đầy rá, đầy mâm.
Mẹ sớm chiều, ngược xuôi tất tưởi,
Con đẫy ngày, đám dưới đám trên.
Cơm cha thời ngon, cơm con thời đắng.
Bình phong khảm ốc xà cừ,
Vợ hư thời bỏ, chớ từ mẹ cha.
Bất hiếu chi tử? (2)
Bên cha cũng kính , bên mẹ cũng vái.
Mẹ chồng nàng dâu,
Chủ nhà, người ở, khen nhau bao giờ.
Thật thà, cũng thể lái trâu,
Yêu nhau, cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Mẹ chồng dữ, mẹ chồng chết,
Nàng dâu có nết, nàng dâu chừa.
23
Chồng dữ, thời em mới rầu,
Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.
Chưa làm dâu, đã hay đâu làm mẹ chồng.
Tứ thân phụ mẫu.
Thông gia, là bà con.
Thông gia, hai nhà như một.
Sống vì mồ vì mả,
Không ai vì cả bát cơm.
Mồ mả làm cho người ta khá.
Giữ như giữ mả tổ.
Sống Tết, chết Giỗ.
Trưởng bại, hại ông vải.
Trưởng nam bại, ông vải vong.
Con cháu mà dại, thời hại cha ông.
Con hơn cha, là nhà có phúc.
Con khôn, nở mặt mẹ cha.
Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ.
Làm anh, làm ả, phải ngả mặt lên.
Một người làm nên, cả họ được cậy,
Một người làm bậy, cả họ mất nhờ.
Một người làm xấu, cả bậu mang dơ.
Một người làm quan,
Thời sang cả họ.
24
Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó.
Tột cùng Thiện, không gì hơn hiếu,
Tột cùng Ác, không gì hơn bất hiếu.
Kính cha, tấm lụa tấm là,
Trọng cha, đồng quà tấm bánh.
Sáng thăm, tối viếng. Cơm nặng áo dày.
Sáng cơm, trưa cháo, chiều trà,
Chăm cha, chăm mẹ, tuổi già xa xăm. (3)
Trẻ cậy cha, già cậy con,
Trẻ thì dưỡng cây, già thì cây dưỡng.
Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con.
Xin người hiếu tử gắng khuyên,
Kịp thời nuôi nấng, cho tuyền đạo con,
Kẻo khi sông cạn đá mòn,
Thơ ca ngâm đọc, có còn thấy chi.
Công cha như núi Thái Sơn, (4)
Nghĩa mẹ như nước, trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu, mới là Đạo con.
Ngày nào em bé cỏn con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này.
Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy,
Nghĩ sao cho bõ, những ngày ước ao.
Thờ cha kính mẹ hết lòng,
Ấy là chữ Hiếu, dạy trong luân thường
Thảo thơm, sau trước nhịn nhường,
Nhường anh nhường chị, lẫn nhường người trên.
Ghi lòng tạc dạ chớ quên,
Con em phải giữ, lấy nền con em.
Ba năm bú mớm con thơ,
25
Kể công cha mẹ, biết cơ ngần nào.
Dạy rằng chín chữ cù lao, (5)
Bể sâu không ví, trời cao không bì.
bạn vàng lại gặp bạn vàng
Long, lân, quy, phụng một đoàn tứ linh
Trống làng nào làng ấy đánh
Thánh làng nào làng ấy thờ
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Nói chín thì nên làm mười
Nói mười làm chín kẻ cười người chê
Lúc khó thì chẳng ai nhìn
Đến khi đổ trạng chín nghìn anh em
Con ơi chớ lấy vợ giàu
Cơm ăn chê hẫm cá kho bầu chê tanh
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Chớ thấy áo rách mà cười
Những giống gà nòi lông nó lơ thơ
Áo dài chớ tưởng là sang
Bời không áo ngắn phải mang áo dài
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng
Đánh giặc mà đánh tay không
Thà về xó bếp dương cung bắn mèo
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác
Đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư
Thức lâu mới biết đem dài
Ở lâu mới biết lòng người có nhân
Chó đâu có sủa chổ không
Chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày
Tưởng đâu đá nát thì thôi
Hay đâu đa nát nung vôi lại nồng
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Người khôn ai nỡ nặng lời
Một lời nhè nhẹ hãy còn đắng cay
Chim khôn thì khôn cả lông
Khôn cả cái lồng người xách cũng khôn
26
Sá chi một nải chuối xanh
Dăm bảy người cầm cho mủ dính tay
Trăng lên nhu nhú đầu non
Số em là số sớm con muộn chồng
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Cá không ăn câu chê rằng cá dại
Cá cắn câu rồi bảo tại tham ăn
Lươn ngắn lại chê trạch dài
Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm
Ai ơi đã quyết thì hành
Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây
Ai ơi đã quyết thì hành
Đã đan thì lận tròn vành mới thôi
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Năm canh thì ngủ lấy ba
Hai canh lo lấy việc nhà làm ăn
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng
Đấng anh hùng đừng oán mới hay
Đắc thời đắc đế thì khôn
Sa cơ rồng cũng như giun khác nào
Sa cơ mới phải lụy tào
Nhưng so tài đức thì ta kém gì
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Người khôn đón trước rào sau
Để cho người dại biết đâu mà dò
Khác nào quạ mượn lông công
Ngoài thì xinh đẹp trong thì xấu xa
Khôn như tiên không tiền cũng dại
Đẻ con chẳng dạy chẳng răn
Thà rằng nuôi lơn mà ăn lấy lòng
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Uốn cây từ thủa còn non
Dạy con từ thủa con còn ngây thơ
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu
Đi đâu mà bỏ mẹ già
Gối nghiêng ai sửa chén trà ai nâng
Cơm cha áo mẹ ăn chơi
Ăn bát cơm người đổ bát mồ hôi
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Cái nết đánh chết cái đẹp
Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
27
Ao này để rửa chân tay
Chớ rửa lông mày chết ca người ta
Còn cha gót đỏ như son
Mất cha gót son xuống bùn
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâumà chữa con người lẳng lơ
Trong nhà đã có vàng mười
Lăm le còn muốn của người nhân sâm
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ
Mới tơ thì mặc mối tơ
Dù cho trăm mối, mối anh vẫn chờ
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
tre non đủ lá đan sàng nên chưa
Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá nên chăng hỡi chàng
Gừng già gừng rụi gừng cay
Anh hùng càng cực càng dài nghĩa quân
Những người thắt đáy lưng ong
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Có trăng tình phụ lòng đèn
Ba mươi mùng một đi tìm lấy trăng
Nước trong còn ở nguồn sanh
Trà thơm có đợi chén sành hay không
Em ngồi cành trúc em tựa cành mai
Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng
Cá tươi thì xem lấy mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Chuông chùa ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng làm riêng
Con cóc nằm góc bờ ao
Lăm le lại muốn nuốt ao trên trời
Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu
Đén khi hùm tỉnh đầu lâu không còn
Càng thắm thì lại mau phai
Thoang thoảng hoa nhài thì lại thơm lâu
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Có cây mới có dây leo
Có cột có kèo mới có đòn tay
28
Người khôn nói ra nửa lời
Để cho người dại nửa mừng nửa lo
Cá không ưa muối cá ươn
Con không nghe mẹ con hư đủ đường
Ai mà phụ nghĩa quên công
Dù đeo trăm gánh hoa hồng chẳng thơm
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Có chí thì nên
Có công mài sắt có ngày nên kim
Đi một ngày đàng học một sàng khôn
Tiên học lễ hậu học văn
Đói cho sạch rách cho thơm
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Không thầy đố mày làm nên
Gần mực thì đen gần đèn thì sáng
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Khuyên chồng đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót đèn mờ thiếp khêu
Một mai bảng hổ nêu danh
Lọng xanh đi trước, võng điều theo sau
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Bởi anh chăm việc canh nông
Cho nên anh có bồ trong bịch ngoài
Siêng nhặt chặt bị
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu
Giàu đâu những kẻ ngủ trưa
Sang đâu những kẻ sau sưa tối ngày
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
29
Đàn ông nông nổi như một giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu
Ra đi mẹ có dặn dò
Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua
Mẹ già ở túp lều tranh
Sáng thăm tối viếng mới là đạo con
Mùng một thì ở nhà cha
Mùng hai nhà vợ mùng ba nhà thầy
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Uống nước nhớ nguồn
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Đứng mát gốc cây nhớ ơn người trồng
Qua sông nhớ đò
Qua đò nhớ ơn người chèo lái
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Tốt danh hơn lành áo
Người không học như ngọc không mài
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Chồng em áo rách em thương
chồng người áo gấm xông hương mặc người
Tháng ba u ám thì mưa
Thàng tám u ám thì nắng
Chớp đông nhay nháy gà gáy thì mưa
Trăng quầng thì hạn trăng tán thì mưa
Mống bên đông vồng bên tây chẳng mưa dây cũng bảo dật
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa
Khéo ăn thì no khéo co thì ấm
Đi một ngày đàng học một sàng khôn
Xấu đều hơn tốt lõi
30
Theo voi ăn bã mía
Người thanh tiếng nói cũng thanh
Những người thô tục nói điều phàm phu
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Đất có lề quê có thói
Không ưa thì dưa có dòi
Ăn lúc đói, nói lúc say
Nhà không chủ như tủ không khóa
Ăn bát cơm dẻo nớ nẻo đường đi
Dao thử trầu héo, kéo thử lụa sô
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Làm phúc quá tay ăn mày không kịp
Hay ăn miếng ngon, chồng con trả người
Ở hiền gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho
Rượu ngon bất luận ve sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may

31

Contenu connexe

En vedette

Thanh ngu viet_anh
Thanh ngu viet_anhThanh ngu viet_anh
Thanh ngu viet_anhJulia Crack
 
Ca dao tuc ngu
Ca dao tuc nguCa dao tuc ngu
Ca dao tuc nguitimtest
 
Chinese proverb (tieng viet) 2.ppt
Chinese proverb (tieng viet) 2.pptChinese proverb (tieng viet) 2.ppt
Chinese proverb (tieng viet) 2.pptngocthepk
 
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)longvanhien
 
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnhChẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnhHuong Vo
 
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnhChẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnhHuong Vo
 
Ss Ca Dao MiềN Nam
Ss Ca Dao MiềN NamSs Ca Dao MiềN Nam
Ss Ca Dao MiềN Nammaidang
 
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sốngCẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sốngViệt Nam
 
Sách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là Vàng
Sách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là VàngSách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là Vàng
Sách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là VàngViệt Nam
 
Vo gia dinh
Vo gia dinhVo gia dinh
Vo gia dinhcohtran
 
1 english proverbs - 2
1   english proverbs - 2 1   english proverbs - 2
1 english proverbs - 2 maicanhtinh
 
Marketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt nam
Marketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt namMarketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt nam
Marketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt namNham Ngo
 
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong MediaMột số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Mediatranbinhkb
 
Ca dao miền nam (tt)
Ca dao miền nam (tt)Ca dao miền nam (tt)
Ca dao miền nam (tt)Kelsi Luist
 

En vedette (20)

Ca dao về tình yêu đôi lứa
Ca dao về tình yêu đôi lứaCa dao về tình yêu đôi lứa
Ca dao về tình yêu đôi lứa
 
Thanh ngu viet_anh
Thanh ngu viet_anhThanh ngu viet_anh
Thanh ngu viet_anh
 
Ca dao tuc ngu
Ca dao tuc nguCa dao tuc ngu
Ca dao tuc ngu
 
Chinese proverb (tieng viet) 2.ppt
Chinese proverb (tieng viet) 2.pptChinese proverb (tieng viet) 2.ppt
Chinese proverb (tieng viet) 2.ppt
 
Adam
AdamAdam
Adam
 
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
 
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnhChẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnh
 
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnhChẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnh
 
Ss Ca Dao MiềN Nam
Ss Ca Dao MiềN NamSs Ca Dao MiềN Nam
Ss Ca Dao MiềN Nam
 
Hoa ca dao
Hoa ca daoHoa ca dao
Hoa ca dao
 
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sốngCẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
 
Sách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là Vàng
Sách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là VàngSách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là Vàng
Sách Thuốc Gia Truyền - Sức Khỏe Là Vàng
 
Ca dao viet nam
Ca dao viet namCa dao viet nam
Ca dao viet nam
 
Vo gia dinh
Vo gia dinhVo gia dinh
Vo gia dinh
 
Ctcg01
Ctcg01Ctcg01
Ctcg01
 
1 english proverbs - 2
1   english proverbs - 2 1   english proverbs - 2
1 english proverbs - 2
 
Ca dao trào phúng
Ca dao trào phúngCa dao trào phúng
Ca dao trào phúng
 
Marketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt nam
Marketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt namMarketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt nam
Marketing trong con mắt của nhiều doanh nghiệp việt nam
 
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong MediaMột số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
 
Ca dao miền nam (tt)
Ca dao miền nam (tt)Ca dao miền nam (tt)
Ca dao miền nam (tt)
 

Similaire à Cadao tucnguf (20)

Tuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị Tỉnh
Tuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị TỉnhTuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị Tỉnh
Tuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị Tỉnh
 
Truyện Trinh Thử
Truyện Trinh ThửTruyện Trinh Thử
Truyện Trinh Thử
 
Ký Ức Thời Gian
Ký Ức Thời GianKý Ức Thời Gian
Ký Ức Thời Gian
 
đườNg đời
đườNg đờiđườNg đời
đườNg đời
 
Tát nước gầu đôi
Tát nước gầu đôiTát nước gầu đôi
Tát nước gầu đôi
 
Nặng tình
Nặng tìnhNặng tình
Nặng tình
 
Một thời hương cốm
Một thời hương cốmMột thời hương cốm
Một thời hương cốm
 
Gió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quêGió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quê
 
Gió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quêGió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quê
 
Thương cha
Thương chaThương cha
Thương cha
 
Tình quê
Tình quêTình quê
Tình quê
 
Tập thơ " Mái ấm gia đình "
Tập thơ " Mái ấm gia đình "Tập thơ " Mái ấm gia đình "
Tập thơ " Mái ấm gia đình "
 
Về Vinh
Về VinhVề Vinh
Về Vinh
 
Tìm về quê mẹ
Tìm về quê mẹTìm về quê mẹ
Tìm về quê mẹ
 
Thu Cha Gui Con (td)
Thu Cha Gui Con (td)Thu Cha Gui Con (td)
Thu Cha Gui Con (td)
 
Vudactrungky
VudactrungkyVudactrungky
Vudactrungky
 
Tình nghĩa làng quê
Tình nghĩa làng quêTình nghĩa làng quê
Tình nghĩa làng quê
 
Một thoáng vùng quê
Một thoáng vùng quêMột thoáng vùng quê
Một thoáng vùng quê
 
đêM trăng
đêM trăngđêM trăng
đêM trăng
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 

Cadao tucnguf

  • 1. Ca dao THAN THÂN Bốn bề công nợ eo sèo Chỉ vì một nỗi tôi nghèo mà thôi Tôi làm tôi chẳng có chơi Nghèo đâu nghèo mãi, trời ơi hỡi trời! Bồng bồng mẹ bế con sang Đò to , nước lớn mẹ mang con về Mang về đến gốc bồ đề Xoay trở hết nghề mẹ bán con đi Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồngtiếng khóc nỉ non Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Oâng ơi!Oâng vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lòng cò con Con quan thì lại làm quan Con nhà kẻ khó đốt than cả ngày Gánh cực mà đổ lên non Còng lưng mà chạy cực còn theo sau Giàu từ trong trứng gìu ra Khó từ ngã ba, ngã bảy khó về Người ta đi cấy lấy công Tôi nay đi cấy tay không trở về Trời sao trời ở chẳng cân Kẻ ăn không hết người lần không ra Người thì mớ bảy mớ ba Người thì áo rách như là áo tơi CHÂM BIẾM 1
  • 2. Ba cô đội gạo lên chùa Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư Sư về sư ốm tương tư Oám lăn ốm lóc, cho sư trọc đầu Ai làm cho dạ sư sầu Cho ruột sư héo như bầu đứt dây Bươm bướm mà đậu cành hồng Đã yêu con chị lại bồng con em Con ơi! Nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan Hòn đất mà biết nói năng Thì thầy địa lý hàm răng không còn Sư đi chùa mốc sân rêu Mõ khuya ai gõ , chuông chiều ai khua Vinh hoa là cái trò đùa Đã tu không trót, lại mua trò cười Thầy cúng ngồi cạnh giường thờ Mồm thì lẩm bẩm, tay sờ đĩa xôi Tiền buộc dải yếm bo bo Trao cho thầy bói đâm lo vào mình Tử vi xem số cho người Số thầy thì để cho ruồi nó bâu Vua Lê ba mươi sáu tàn vàng Thấy gái đi đàng ngó ngó nom nom Cô nào óng ả son son Vua đóng cũi hòm, đem trẩy về kinh CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG Ăn được ngủ được là tiên Không ăn không ngủ mất tiến thêm lo Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sàng 2
  • 3. Ai ơi chớ vội cười nhau Cây nào mà chẳng có sâu chạm cành Ai ơi chớ vội cười nhau Cười người hôm trước, hôm sau người cười Ai ơi cứ ở cho lành Tu nhân tích đức để dành về sau Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn Bạn bè là nghĩa tương tri Sao cho sau trước một bề mới nên Chỉ đâu mà buộc ngang trời Tay đâu mà bịt miệng người thế gian Chim khôn kêu tiếng rảnh rang Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe Chim khôn tránh bẫy tránh giò Người khôn tránh kẻ hồ đồ mới khôn Chớ thấy sóng cả mà lo Sóng cả mặc sóng chèo cho có chừng Dã tràng se cát biển Đông Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn Giàu đâu những kẻ ngủ trưa Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày Giàu người ta chẳng có tham Khó thì ta liệu ta làm ta ăn 3
  • 4. Hoa sen mọc bãi cát lầm Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen Hoa thơm ai dễ bỏ rơi Người khôn ai nỡ nặng lời với ai Khi giàu chẳng có đỡ ai Đến khi hoạn nạn chẳng ai đỡ mình Khôn ngoan chẳng lọ là nhiều Người khôn mới nói nửa điều đã khôn Khó mà biết lẽ biết lời Biết ăn, biết ở hơn người giàu sang Kim vàng ai nỡ uốn câu Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời Lòng ta ta đã chắc rồi Dù ai giục đứng giục ngồi chớ nao Mật ngọt càng tổ chết ruồi Những nơi cay đắng là nơi thật thà Muốn no thì phải chăm làm Một hạt thóc vàng, chín hạt mồ hôi Muốn sang thì bắc cầu Kiều Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo Nghèo tiền nghèo bạc chẳng lo là nghèo Người gian thì sợ người ngay Người ngay chẳng sợ đường cày khúc khuyu Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng 4
  • 5. Non cao ai đắp mà cao Sông sâu do bởi ai đào mà sâu? Nói chín thì nên làm mười Nói mười làm chín kẻ cười người chê Nói lời thì giữ lấy lời Đừng như con bướm đậu rồi lại bay Ra vời mới biết nông sâu Ở trong lạch hói biết đâu mà dò Sông sâu nước chảy đá mòn Của kia ăn hết nghĩa còn ghi xương Sự đời nghĩ cũng nực cười Một con cá lội mấy người thả câu Thà rằng ăn bát cơm rau Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời Thương ai củ ấu cũng tròn Không thương quả bồ hòn cũng vuông Thương ai thương cả đường đi Ghét ai ghét cả tông ti họ hàng Thức lâu mới biết đêm dài Ở lâu mới biết là người có nhân Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người Trăm năm ai chớ bỏ ai Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim Trăm năm ba đá thi mòn Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ Trăm năm lòng gắn dạ ghi Dầu ai đem bạc đổi chi mặc ai 5
  • 6. Vàng thì thử lửa thử than Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời LAO ĐỘNG VÀ NGHỀ NGHIỆP Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà chấm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm mai Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi, bưng bát cơm đầy Dẻo thơ một hạt đắng cay muôn phần Con tằm nó nằm ăn lá dâu Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò Con trai tát nước, nàng dâu đi mò Cha chài, mẹ lưới, con câu Đói thì ăn ráy ăn khoai Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng Những người đi biển làm nghề Thấy dòng nước nóng thì về đừng đi Sóng lừng, bụng biển ầm ì Bão mưa ta tránh chớ hề ra khơi Rủ nhau đi cấy đi cày Bây khó nhọc có ngày phong lưu Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa Trâu ơi, ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta Cấy vốn nghiệp nông gia Ta đây trâu đấy, ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn 6
  • 7. Trên trời có ông sao Thần Bốn mùa chỉ lối cho dân ăn làm Sang xuân Thần cuối lom khom Là mùa trồng đậu dân làng biết chăng ? Bước sang tháng chin rõ trăng Lưng Thần hơi đứng là đang gặt mùa LỊCH SỬ VÀ ĐẤT NƯỚC Ai lên Biên Thượng, Lam Sơn Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh Ai về Bình Định mà nghe Nói về chàng Lía, hát vè Quảng Nam Ai về Hậu Lộc, Phú Điền Nhớ đây Bà Triệu trận tiền xung phong Ai về Hà Tĩnh thì về Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn Ai về đến huyện Đông Anh Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương Cổ Loa hình ốc khác thường Trải bao năm tháng nẻo đương còn đây Ai về Phú Thọ cùng ta Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba Ai về Thọ Lão hát chèo Có thương lấy phận nàng Kiều thì thong Bắc Cạn có suối đãi vàng Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh Cầu Quan vui lắm ai ơi Trên thì chợ họp, dưới bơi thuyền rồng Chiều chiều én liện truông Mây Cảm thong chú Lía bị vây trong thành 7
  • 8. Dịu dàng nết đất An Dương Xưa nay là chốn văn chương nổi tài Dù ai buồn đâu, bán đâu Mồng mười tháng chín chọi trâu thì về Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Cương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ Khôn ngoan qua cửa sông La Dễ ai có cánh đi qua Luỹ Thầy Lạy trời cho cả gió lên Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu Mồng chín đâu đâu trở về Hội Gióng Đồng Đăng có phố Kì Lừa Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh Ai lên xứ Lạng cùng anh Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em Tay cầm bầu rượu nắm nem Mảng vui quên hết lời em dặn dò Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm Đức Thọ gạo trắng nước trắng Ai về Đức Thọ thong dong con người Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi Cơm trắng đầy nồi, trẻ chẳng cho ăn Ngó qua bên canh Tô Châu Thấy em gánh trên đầu giắt trâm Nhất cao là núi Tản Viên Nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vừng 8
  • 9. Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về Nhong nhong ngựa ông lại về Cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn Sa Nam trên chợ dưới đò Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dụng binh Sông Lam một dải nông sờ Nhớ người quân tử bơ vơ nổi chìm Sông Thao nước đục người đen Ai lên phố Eûn cũng quên đường về Vĩnh Long có cặp rồng vàng Nhất Bùi Hữu Nghĩa nhì Phan Tuấn Thần Vườn ai trồng trúc trồng tre Ở giữa trồng chè, hai bên đào ao Aáy nhà một đấng anh hào Họ Phan, làng Thái, đồng bào kính yêu Xứ Nam nhất chợ Bằng Vồi Xứ Bắc: Vân Khánh, xứ Đoài: Hương Canh 9
  • 10. Tục ngữ là những câu nói nhân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động, sản xuất, xã hội) được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đây là một thể loại văn học dân gian. CÁC HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN Cần xuống muống lên Cây chọn mất lá cá chọn mất cây Cha chết không lo bằng đỏ lò tây bắc. Chắc rễ bền cây Chữ tốt xem tay,ngựa hay xem xoáy Chớp đông nhay nháy ,gà gáy thì mưa Chớp thừng chớp chão ,chẳng bão thì mưa. Chuồng gà hướng đông,cái lông chẳng còn Cóc nghiền răng đang nắng thì mưa Đông chết se hè chết lụt Được mùa nhãn hận nước lên Eách kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước Eùn bay thấp mưa ngập cầu ao;én bay cao mưa rào lại tạnh Kiến dạo tổ trời mưa Lá tre trôi lộc,mùa rét xộc đến Mây thành vừa hanh vưà giá Mây xanh thì nắng mây trắng thì mưa Mặt trời có quầng thì hạn,mặt trăng có tán thì mưa Mống cao gió táp mống áp mưa rào Mống dài trời lụt mông cụt trời mưa Một ngôi sao một ao nước Mỡ gà thời gió mỡ chó thời mưa Nắng chóng trưa mưa chóng tối Nắng tháng ba chó già lè lưỡi Nước chảy đá mòn Qua giêng hết năm qua rằm hết tháng Ráng vàng thời nắng ,ráng nắg thời mưa Sấm kêu,rêu mọc Thâm đông trống bác hễ nực thì mưa Thâm đông, hồng tây,dựng mây,ai ơi ở lại ba ngày hãy đi Tháng bảy nước chảy qua bờ Tháng chín mưa rơi tháng mười mưa cữ Tháng hè đóng bè làm phúc Tháng mười động gia tháng ba động rạm Tháng mườico sấm ,cấy trên nấm cũng được ăn Tháng tám gió mây tưới đồng Tháng bảy như gảy cần trám,tháng tám nắng ram ù trái bưởi 10
  • 11. Trống tháng bảy chẳn hội thì chay ,tháng sáu heo may chẳng mưa thì bão Trời đương nắng cỏ gà trắng thì mưa Vàng mây thời gió,đỏ mây thời mưa KINH NGHIÊM LAO ĐỘNG Ao sâu tốt cá Bắt lợn tóm giò bắt bò tóm mũi Buộc trâu đâu nát rào nấy Cây chọn mất lá ,cá chọn mất vảy Cấy thưa hơn bừa kĩ Cao bờ thì tát gầu dai ; gầu sòng chỉ tát được nơi thấp bờ Chữ tốt xem tay ,ngựa hay xem khoáy Chuồng gà hướng đông , cái lông chẳng còn Con trâu la øsự nghiệp Dao thử trầu héo ,kéo thử lúa xô Dao thử trầu héo kéo thử lụa xô Được mùa nhãn ,hạn nước lên Gió heo mây mía bay lên ngọn Hòn dất nỏ bằng giỏ phân Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc Làm ruộng tháng năm coi chăm tháng mười Lo trẻ mùa hè không bằng lo bò què tháng sáu Lúa chín hoa ngâu đi đâu chẳng gặt Lúa mùa thì cấy cho sâu,lúa chiêm thì gảy cành dâu mới vừa Lúa tháng bảy vợ chồng rẫy nhau Một lươt cỏ thêm giỏ thóc Muốn ăn lúa tháng năm trông trăng ràm tháng tám Muốn giàu nuôi trâu cái muốn lun bại nuôi bồ câu Nắng sớm thì đi trồng cà , mưa sớm ở nhà phơi thóc Nắng tốt dưa ,mưa tốt lúa Nước cả,cá to Ruộng không phân như thân không cổ Sao rua đứng trốc , lúalốc được ăn Tằm đỏ cổ thì vỗ dâu vào Tháng chin ăn rươi ,tháng mười ăn ruốc Tháng giêng trồng củ từ ,tháng tư trồng củ lạ Tháng giêng trồng trúc , tháng lục trồng tiêu Tháng tám mạ già ,tháng ba mạ thóc Tháng tám mưa trai , tháng hai mưa thóc Tháng tám tre non làm nhà , tháng năm tre già làm lúa Thiếu tháng tư khó nuôi tằm ,thiếu tháng năm khó làm ruộng 11
  • 12. Tre già là bà gỗ lim Trồng khoai đất lạ ,gieo mạ đất quen CON NGƯỜI & ĐỜI SỐNG Ăn cá nhả xương ,ăn đường nuốt chậm Ăn cơm lừa thóc , ăn cóc bỏ gan Ăn có chỗ, đỗ có nơi Ăn hết nhiều , ở hết bao nhiêu Ăn lấy chắc , mặc lấy bền Ăn sau là đầu cất dọn Ăn vóc ,học hay Cau già khéo bổ thì non , nạ dòng trang điềm lai còn như xưa Cho ùtreo, mèo đậy Chọn bạn mà chơi , chọn nơi mà ở Cơm chín tới , cải ngồng non , gái một con , gà gại ổ Cơm và cháo húp Có an cư mới lạc nghiệp Có cà là nhà có phúc Có thực mới vực được đạo Của đời ông , ăn không cũng hết Đất lành chim đậu Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ Đưa đũa ghét năm , đưa tăm ghét đời Kén cá chọn canh Làm cố được , ăn không cố được Lúa tốt xem biên Miệng ăn núi lở Một bát cơm rang bằng sàng cơm thổi Một con so lo bằng mười con dạ Một người nhà bằng ba người mượn Mua cá thì phải xem mang ,người khôn xem lấy hai hàng tóc mai Nghĩa tử là nghĩa tận Người đi không bực bằng người chực mâm cơm Nhất ngon là đầu cá gáy ,nhất thơm là cháy cơm nếp Nhà gỗ xoan , quan ông nghè No cơm ấm cật giậm giật mọi nơi No dạ đã thèm Sinh dữ, tử lành Sống thì chả cho ăn , chết thì làm văn tế ruồi Tay làm hàm nhai , tay quai miệng trễ Thực túc binh cường 12
  • 13. Trẻ muối cà , già muối dưa Trời đánh còn tránh miếng ăn Vợ hiền hòa , nhà hướng nam GIA ĐÌNH Anh em trong nhà đóng cửa dạy nhau Anh ngủ em thức anh chực em nằm Anh thuận em hòa là nhà có phúc Bà con vì tổ vì tiên , không phải vì tiền vì gạo Cây có cội , nước có nguồn Cắt dây bầu dây bí , ai nở cắt dây chị dây em Cá chuối đắm đuối vì con Cha anh hùng con hảo hán Cha mẹ giàu con có , cha mẹ khó con không Cha mẹ sinh con trời sinh tính Cha sinh mẹ dưỡng Chim có tổ , người có tông Chị ngã em nâng Công cha nghĩa mẹ Con chẳng chê cha mẹ khó , chó chẳng chê chủ nghèo Con có cha mẹ đẻ , không ai ở chô nẻ mà lên Con có cha như nhà có nóc Con dại cái mang Con hư tại mẹ , cháu hư tại bà Con hơn cha là nhà có phúc Có chuối non mới biết lòng cha mẹ Dì ruột thương cháu như con rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông Đời cha ăn mặn , đời con khát nước Hùm dữ chẳng nở ăn thịt con Mài mực ru con , mài son đánh giặc Máu chảy ruột mềm Một giọt máu đào hơn ao nước lã Nhất con , nhì cháu , thứ sáu người dưng Nhất mẹ , nhì cha , thứ ba bà ngoại Nhất mẹ nhì con *** 1. Có khó mới có miếng ăn. Không dưng ai dễ mang phần đến cho. 2. Hay ăn thì lăn vào bếp 3. Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. 4. Có bụng ăn, có bụng lo. 13
  • 14. 5. Của như kho không lo cũng hết. 6. Miệng ăn núi lở. 7. Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn. 8. Của làm ăn no, của cho ăn thèm. 9. Khỏi nhà ra thất nghiệp. 10. Tháng tám đói qua, tháng ba đói chết. 1. Chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở. 2. Vợ hiền hòa, nhà hướng nam. 3. Làm ruộng thì ra, làm nhà thì tốn. 4. Đất lành chim đậu. 5. Ăn lấy chắc, mặc lấy bền. 6. Tiền lĩnh quần chị, tiền chỉ quần em. 7. Cau già khéo bổ thì ngon Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa. 8. Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ. 9. Đường ở cửa miệng. 10. Mưa tránh chỗ trắng, nắng tránh chỗ đen. 1. Tốt mốc ngon tương. 2. Mua cá thì phải xem mang Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai. 3. Rượu cổ be, chè đầy ấm. 4. Trẻ muối cà, già muối dưa. 5. Sợ người ở phải, hãi người cho ăn. 6. Chó treo, mèo đậy. 7. Ăn tùy nơi, chơi tùy chỗ. 8. Có an cư mới lạc nghiệp. 9. Hay ở, dở đi. 10. Ăn hết nhiều, ở hết bao nhiêu. 1. Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè. 2. Mùa hè cá sông, mùa đông cá bè. 3. Chim, thu, nụ, dé. 4. Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê. 5. Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm. 6. Ếch tháng ba, gà tháng bảy. 7. Cơm và, cháo húp. 8. Ăn cơn có canh, tu hành có vãi. 9. Vụng sá vụng sịt lắm thịt cũng ngon. 10. Cần tái, cải nhừ. . Người sống về gạo, cá bạo về nước. 2. Có thực mới vực được đạo. 14
  • 15. 3. 4. 5. 6. 7. Mẻ không ăn cũng chết. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Ăn một miếng, tiếng một đời. Ghen vợ ghen chồng không bằng ghen ăn. Đói thì thèm thịt thèm xôi Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường. 8. Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà gại ổ. 9. Lợn giò, bò bắp. 10. Vịt già, gà tơ. 1. 2. 3. 4. 5. 6. Một tiền gà, ba tiền thóc. Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn. Làm ruộng ba năm không bằng chăm tằm một lứa. Làm ruộng ăn cơm nằm, chăm tằm ăn cơm đứng. Tằm đói một bữa bằng người đói nửa năm. Một nong tằm là năm nong kén Một nong kén là chín nén tơ. 7. Tháng ba dâu trốn, tháng bốn dâu về. 8. Ao sâu tốt cá Nước cả cá to. 9. Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn ruốc. 1. Chuối sau, cau trước. 2. Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa. 3. Nắng sớm thì đi trồng cà Mưa sớm ở nhà phơi thóc. 4. Gió heo may mía bay lên ngọn. 5. Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ Tua rua bằng mặt cất bát cơm chăm. 6. Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả. 7. Chắc rễ bền cây. 8. Cây chạm lá, cá chạm vây. 9. Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu. Nắng đan đó, mưa gió đan gầu. 10. Con trâu là đầu cơ nghiệp. 1. Lúa mùa thì cấy cho sâu Lúa chiêm thì gẩy cành dâu mới vừa. 2. Một lượt cỏ thêm giỏ thóc. 3. Nhất nước, nhì phân, tam cần tứ giống. 4. Hòn đất nỏ bằng giỏ phân. 5. Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân. 6. Tốt quá hóa lốp. 15
  • 16. 7. Xanh nhà hơn già đồng. 8. Ruộng cao trồng mầu, ruộng sâu cấy chiêm. 9. Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen. 10. Bốc mả kiêng ngày trùng tang Trồng khoai lang kiêng ngày gió bấc. 1. Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ. 2. Thiếu tháng tám mất hoa ngư. Thiếu tháng tư mất hoa cốc. 3. Mồng tám tháng tám không mưa Bỏ cả cầy bừa mà nhổ lúa đi. 4. Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa mạ. 5. Gió đông là chồng lúa chiêm Gió bấc là duyên lúa mùa. 6. Chiêm xấp tới, mùa đợi nhau. 7. Lúa chiêm đứng nép đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên. 8. Đói thì ăn ráy, ăn khoai Chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng. 9. Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa. 10. Mạ chiêm ba tháng không già Mạ mùa tháng rưỡi ắt là không non. 1. Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước 2. Nắng chóng trưa, mưa chóng tối. 3. Mưa tháng ba hoa đất. 4. Mưa tháng tư hư đất. 5. Tấc đất, tấc vàng. 6. Năm trước được cau, năm sau được lúa. 7. Được mùa lúa, úa mùa cau Được mùa cau, đau mùa lúa 8. Được mùa quéo, héo mùa chiêm. 9. Tỏ trăng mười bốn được tằm. Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm. 10. Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu. 1. Gió thổi là chổi trời. 2. Nước chảy đá mòn. 3. Trăm rác lấy nác làm sạch. 16
  • 17. 4. Rắn già rắn lột, người già người chột. 5. Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng. 6. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng. 7. Ngày tháng mười chưa cười đã tối 8. Đông chết se, hè chết lụt. 9. Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm 10. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân. 11. Tháng ba bà già chết rét. 12. Tháng bảy mưa gãy cành tràm. 13. Tháng tám nắng rám trái bưởi. 14. Tháng bảy ngâu ra, mồng ba ngâu vào. 15. Sáng mưa, trưa tạnh. 16. Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi. 17. Sáng bể chớ mừng, tối rừng chớ lo. 18. Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa. 19. Mống đông vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật. 20. Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa. 21. Gió bấc hiu hiu sếu kêu thì rét. 22. Chớp đông nháy nháy, gà gáy thì mưa. 23. Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa. 24. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa. 25. Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa. 26. Tháng bảy kiến đàn, đại ngàn hồng thủy. 27. Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão. 28. Én bay thấp mưa ngập cầu ao. 29. Én bay cao mưa rào lại tạnh. 30. Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa. A - Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai 17
  • 18. B - Ba người đánh một, không chột cũng què. C - Cá vàng bụng bọ D - Dạ sâu hơn bể, bụng kín hơn buồng Đ - Đa hư bất như thiểu thực E - Em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em G - Gà ăn hơn công ăn H - Há miệng mắc quai I - Ít chắt chiu, hơn nhiều vung phí K - Kẻ cả ngả mặt lên L - Lá lành đùm lá rách M - Ma ăn mày Bụt, Bụt chẳng thèm ăn mày ma N - Nạ dòng lấy được trai tơ, đêm nằm mê mẩn như mơ được vàng O - Oan hồn, hồn hiện P - Phá lá cây thì dễ, phá chồi cây lặc lè chẳng xong Q - Quá mù ra mưa R - Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ S - Sa chân bước xuống ruộng đưa, dẫu ngay cho chết cũng ngờ rằng gian T - Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn V - Vạ ở miệng mà ra, bệnh qua miệng mà vào X- Xa chùa vắng trống, gần chùa inh tai 18
  • 19. Y - Yêu ai (hoặc nhau) yêu cả đường đi, ghét ai (hoặc nhau) ghét cả tông chi họ hàng. Top Ca dao Châm biếm Ai ơi đừng lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm Bà già đã tám mươi tư Ngồi trông cửa sổ gởi thư lấy chồng Bà già đi chợ cầu Bông Hỏi thăm thầy bói lấy chồng lợi chăng Thầy bói xem quẻ nói rằng Lợi thi có lợi nhưng răng không còn Ba năm ở với người đần Chẳng bằng một lúc ghé gần người khôn Bắc thang lên hỏi ông trời Có tiền cho gái có đòi được chăng ? Cá tươi xem lấy đôi mang Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai Tóc mai sợi vắn sợi dài Có đâu mặt rỗ đá mài không trơn Cánh hồng bay bổng trời thu Thương con chim gáy cúc cu trong lồng Cau già dao bén thì ngon Người già trang điểm phấn son cũng già 19 Cau non khéo bửa cũng dầy
  • 20. ống nước, nhớ nguồn. Con người có tổ, có tông, Như cây có cội, như sông có nguồn. Con chim có tổ, con người có tông. Con chim tìm tổ, con người tìm tông. Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây, Ăn gạo, nhớ kẻ đâm xay giần sàng. Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây, Ăn khoai, nhớ kẻ cho dây mà trồng. Ăn cây nào, vào cây ấy. Ăn cây nào, rào cây ấy. Ăn của Bụt, thắp hương thờ Bụt. Ăn oản, thời phải thờ Phật. Ăn oản, phải giữ lấy chùa. Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật. Ta về, ta tắm ao ta, Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn. Cáo chết ba năm, còn quay đầu về núi. 1.2- Đạo làm con Thứ nhất thì tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ, mới là chân tu. 20
  • 21. Nâng niu bú mớm đêm ngày, Công cha, nghĩa mẹ, coi tày bể non. Có nuôi con, mới biết lòng cha mẹ. Lên non, mới biết non cao, Nuôi con, mới biết công lao mẫu từ. Con mẹ thương mẹ lắm thay, Chín tháng mười ngày, mang nặng đẻ đau. Liệu mà thờ mẹ kính cha, Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười. Có cha, có mẹ, thì hơn, Không cha, không mẹ, như đờn đứt giây. Trách ai được cá quên nơm, Được chim bẻ ná, quên ơn sinh thành. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Miệng nhai cơm mớm, lưỡi lừa cá xương. Vẳng nghe tiếng vịt kêu chiều, Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau. Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi, Giã gạo cho trắng, mà nuôi mẹ già. Mẹ cha như chuối chín cây, Sao đấy chẳng liệu, cho đây liệu cùng. Cha mẹ ở tấm lều tranh, Sớm thăm, tối viếng, mới đành dạ con. Mẹ cha như nước như mây, Làm con phải ở cho tày lòng son. Con có làm ra của vạn tiền trăm, Con ơi, hãy nhớ lúc con nằm trong nôi. Trâu dê chết để tế ruồi, Sao bằng lúc sống, ngọt bùi là hơn. 21
  • 22. Lúc sống, thời chẳng cho ăn, Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi. Sống thì chẳng cho ăn nào, Chết thì cúng giỗ, mâm cao cỗ đầy. Dạy con, con nhớ lấy lời, Trọng cha, kính mẹ, suốt đời chớ quên. Con giữ cha, gà giữ ổ. Dâu hiền hơn gái, rể hiền hơn trai. Trai mà chi, gái mà chi, Cốt sao có nghĩa, có nghì là hơn. Con ở đâu, cha mẹ đấy, Cháu con ở đâu, tổ tiên ở đấy. Trẻ đeo hoa, già đeo tật. Già sinh tật, đất sinh cỏ. Lụ khụ, như ông cụ bảy mươi. Bảy mươi chưa đui, chưa què, chớ khoe là giỏi. Một già, một trẻ như nhau. Kính lão, đắc thọ. Thương già, già để tuổi cho. Cá không ăn muối, cá ươn, Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư. Cha mẹ là biển là trời, Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha. Nói con, con chẳng nghe lời, Con nghe ông huyểnh, ông hoảng, hết đời nhà con. 22
  • 23. Cha mẹ đánh cửa trước, vào cửa sau. (1) Một mẹ, nuôi được mười con, Mười con, không nuôi được một mẹ. Con bà, có thương bà đâu, Để cho chàng rể, nàng dâu thương cùng. Cha mẹ nuôi con, bằng trời bằng bể, Con nuôi cha mẹ, con kể từng ngày. Mẹ nuôi con, biển hồ lai láng, Con nuôi mẹ, kể tháng kể ngày. Mẹ già hết gạo treo niêu, Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai. Mẹ lá rau, lá má, Con đầy rá, đầy mâm. Mẹ sớm chiều, ngược xuôi tất tưởi, Con đẫy ngày, đám dưới đám trên. Cơm cha thời ngon, cơm con thời đắng. Bình phong khảm ốc xà cừ, Vợ hư thời bỏ, chớ từ mẹ cha. Bất hiếu chi tử? (2) Bên cha cũng kính , bên mẹ cũng vái. Mẹ chồng nàng dâu, Chủ nhà, người ở, khen nhau bao giờ. Thật thà, cũng thể lái trâu, Yêu nhau, cũng thể nàng dâu mẹ chồng. Mẹ chồng dữ, mẹ chồng chết, Nàng dâu có nết, nàng dâu chừa. 23
  • 24. Chồng dữ, thời em mới rầu, Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng. Chưa làm dâu, đã hay đâu làm mẹ chồng. Tứ thân phụ mẫu. Thông gia, là bà con. Thông gia, hai nhà như một. Sống vì mồ vì mả, Không ai vì cả bát cơm. Mồ mả làm cho người ta khá. Giữ như giữ mả tổ. Sống Tết, chết Giỗ. Trưởng bại, hại ông vải. Trưởng nam bại, ông vải vong. Con cháu mà dại, thời hại cha ông. Con hơn cha, là nhà có phúc. Con khôn, nở mặt mẹ cha. Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ. Làm anh, làm ả, phải ngả mặt lên. Một người làm nên, cả họ được cậy, Một người làm bậy, cả họ mất nhờ. Một người làm xấu, cả bậu mang dơ. Một người làm quan, Thời sang cả họ. 24
  • 25. Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó. Tột cùng Thiện, không gì hơn hiếu, Tột cùng Ác, không gì hơn bất hiếu. Kính cha, tấm lụa tấm là, Trọng cha, đồng quà tấm bánh. Sáng thăm, tối viếng. Cơm nặng áo dày. Sáng cơm, trưa cháo, chiều trà, Chăm cha, chăm mẹ, tuổi già xa xăm. (3) Trẻ cậy cha, già cậy con, Trẻ thì dưỡng cây, già thì cây dưỡng. Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha, Lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con. Xin người hiếu tử gắng khuyên, Kịp thời nuôi nấng, cho tuyền đạo con, Kẻo khi sông cạn đá mòn, Thơ ca ngâm đọc, có còn thấy chi. Công cha như núi Thái Sơn, (4) Nghĩa mẹ như nước, trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ, kính cha, Cho tròn chữ Hiếu, mới là Đạo con. Ngày nào em bé cỏn con, Bây giờ em đã lớn khôn thế này. Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy, Nghĩ sao cho bõ, những ngày ước ao. Thờ cha kính mẹ hết lòng, Ấy là chữ Hiếu, dạy trong luân thường Thảo thơm, sau trước nhịn nhường, Nhường anh nhường chị, lẫn nhường người trên. Ghi lòng tạc dạ chớ quên, Con em phải giữ, lấy nền con em. Ba năm bú mớm con thơ, 25
  • 26. Kể công cha mẹ, biết cơ ngần nào. Dạy rằng chín chữ cù lao, (5) Bể sâu không ví, trời cao không bì. bạn vàng lại gặp bạn vàng Long, lân, quy, phụng một đoàn tứ linh Trống làng nào làng ấy đánh Thánh làng nào làng ấy thờ Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Rượu nhạt uống lắm cũng say Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm Nói chín thì nên làm mười Nói mười làm chín kẻ cười người chê Lúc khó thì chẳng ai nhìn Đến khi đổ trạng chín nghìn anh em Con ơi chớ lấy vợ giàu Cơm ăn chê hẫm cá kho bầu chê tanh CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Chớ thấy áo rách mà cười Những giống gà nòi lông nó lơ thơ Áo dài chớ tưởng là sang Bời không áo ngắn phải mang áo dài Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng Đánh giặc mà đánh tay không Thà về xó bếp dương cung bắn mèo CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác Đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư Thức lâu mới biết đem dài Ở lâu mới biết lòng người có nhân Chó đâu có sủa chổ không Chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày Tưởng đâu đá nát thì thôi Hay đâu đa nát nung vôi lại nồng CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Người khôn ai nỡ nặng lời Một lời nhè nhẹ hãy còn đắng cay Chim khôn thì khôn cả lông Khôn cả cái lồng người xách cũng khôn 26
  • 27. Sá chi một nải chuối xanh Dăm bảy người cầm cho mủ dính tay Trăng lên nhu nhú đầu non Số em là số sớm con muộn chồng CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Cá không ăn câu chê rằng cá dại Cá cắn câu rồi bảo tại tham ăn Lươn ngắn lại chê trạch dài Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm Ai ơi đã quyết thì hành Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây Ai ơi đã quyết thì hành Đã đan thì lận tròn vành mới thôi CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Năm canh thì ngủ lấy ba Hai canh lo lấy việc nhà làm ăn Đấng trượng phu đừng thù mới đáng Đấng anh hùng đừng oán mới hay Đắc thời đắc đế thì khôn Sa cơ rồng cũng như giun khác nào Sa cơ mới phải lụy tào Nhưng so tài đức thì ta kém gì CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Người khôn đón trước rào sau Để cho người dại biết đâu mà dò Khác nào quạ mượn lông công Ngoài thì xinh đẹp trong thì xấu xa Khôn như tiên không tiền cũng dại Đẻ con chẳng dạy chẳng răn Thà rằng nuôi lơn mà ăn lấy lòng CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Uốn cây từ thủa còn non Dạy con từ thủa con còn ngây thơ Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu Đi đâu mà bỏ mẹ già Gối nghiêng ai sửa chén trà ai nâng Cơm cha áo mẹ ăn chơi Ăn bát cơm người đổ bát mồ hôi CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Cái nết đánh chết cái đẹp Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ Vô duyên đối diện bất tương phùng 27
  • 28. Ao này để rửa chân tay Chớ rửa lông mày chết ca người ta Còn cha gót đỏ như son Mất cha gót son xuống bùn CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Chỉ đâu mà buộc ngang trời Thuốc đâumà chữa con người lẳng lơ Trong nhà đã có vàng mười Lăm le còn muốn của người nhân sâm Sáng trăng trải chiếu hai hàng Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ Mới tơ thì mặc mối tơ Dù cho trăm mối, mối anh vẫn chờ CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng tre non đủ lá đan sàng nên chưa Đan sàng thiếp cũng xin vâng Tre vừa đủ lá nên chăng hỡi chàng Gừng già gừng rụi gừng cay Anh hùng càng cực càng dài nghĩa quân Những người thắt đáy lưng ong Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Có trăng tình phụ lòng đèn Ba mươi mùng một đi tìm lấy trăng Nước trong còn ở nguồn sanh Trà thơm có đợi chén sành hay không Em ngồi cành trúc em tựa cành mai Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng Cá tươi thì xem lấy mang Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Chuông chùa ai đánh thì thùng Của chung ai khéo vẫy vùng làm riêng Con cóc nằm góc bờ ao Lăm le lại muốn nuốt ao trên trời Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu Đén khi hùm tỉnh đầu lâu không còn Càng thắm thì lại mau phai Thoang thoảng hoa nhài thì lại thơm lâu CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Có cây mới có dây leo Có cột có kèo mới có đòn tay 28
  • 29. Người khôn nói ra nửa lời Để cho người dại nửa mừng nửa lo Cá không ưa muối cá ươn Con không nghe mẹ con hư đủ đường Ai mà phụ nghĩa quên công Dù đeo trăm gánh hoa hồng chẳng thơm CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Có chí thì nên Có công mài sắt có ngày nên kim Đi một ngày đàng học một sàng khôn Tiên học lễ hậu học văn Đói cho sạch rách cho thơm Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Không thầy đố mày làm nên Gần mực thì đen gần đèn thì sáng Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Khuyên chồng đọc sách ngâm thơ Dầu hao thiếp rót đèn mờ thiếp khêu Một mai bảng hổ nêu danh Lọng xanh đi trước, võng điều theo sau Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Bởi anh chăm việc canh nông Cho nên anh có bồ trong bịch ngoài Siêng nhặt chặt bị Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu Giàu đâu những kẻ ngủ trưa Sang đâu những kẻ sau sưa tối ngày Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM 29
  • 30. Đàn ông nông nổi như một giếng khơi Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu Ra đi mẹ có dặn dò Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua Mẹ già ở túp lều tranh Sáng thăm tối viếng mới là đạo con Mùng một thì ở nhà cha Mùng hai nhà vợ mùng ba nhà thầy Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Uống nước nhớ nguồn Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Đứng mát gốc cây nhớ ơn người trồng Qua sông nhớ đò Qua đò nhớ ơn người chèo lái Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần Tốt danh hơn lành áo Người không học như ngọc không mài Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Chồng em áo rách em thương chồng người áo gấm xông hương mặc người Tháng ba u ám thì mưa Thàng tám u ám thì nắng Chớp đông nhay nháy gà gáy thì mưa Trăng quầng thì hạn trăng tán thì mưa Mống bên đông vồng bên tây chẳng mưa dây cũng bảo dật Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa Khéo ăn thì no khéo co thì ấm Đi một ngày đàng học một sàng khôn Xấu đều hơn tốt lõi 30
  • 31. Theo voi ăn bã mía Người thanh tiếng nói cũng thanh Những người thô tục nói điều phàm phu Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Đất có lề quê có thói Không ưa thì dưa có dòi Ăn lúc đói, nói lúc say Nhà không chủ như tủ không khóa Ăn bát cơm dẻo nớ nẻo đường đi Dao thử trầu héo, kéo thử lụa sô Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM Làm phúc quá tay ăn mày không kịp Hay ăn miếng ngon, chồng con trả người Ở hiền gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho Rượu ngon bất luận ve sành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may 31