1. NHÀ MẠC VỚI BA THỜI KỲ LỊCH SỬ
VÀ MƯỜI HAI ĐỜI VUA
GS.TSKH Phan Đăng Nhật
Phần thứ nhất
MỞ ĐẦU
Đại Việt sử ký toàn thư khẳng định, nhà Mạc “trước sau gồm 67
năm” và 6 đời vua : “Trở lên, kỷ này phụ chép họ Mạc tiếm ngôi, bắt đầu
từ năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, đặt niên hiệu là
Minh Đức năm thứ nhất; truyền 5 đời, đến năm Nhâm Thìn (1592), Hồng
Ninh năm thứ 3. Mạc Mậu Hợp bị bắt. Lại tiếp từ năm Quý Tỵ (1593),
Hùng Lễ công tự xưng Khang Hựu năm thứ nhất, cho đến lúc mất, trước
sau gồm 67 năm. Lời sấm nói: Họ Mạc được năm Hợi, mất nước năm
Hợi. Xem Đăng Dung cướp ngôi năm Đinh Hợi, đến Mậu Hợp mất nước
năm Quý Hợi, quả có ứng nghiệm”1
Nhận định trên đây ảnh hưởng nặng nề việc đánh giá nhà Mạc
mấy trăm năm nay qua nhiều mặt như: viết sử,, làm chèo, viết kịch, tiểu
thuyết,….kể cả kiến trúc, thờ phụng,... Thiết tưởng, cho đến nay, dưới ánh
sáng của đường lối đổi mới, cần phải bàn lại, trên cơ sở cập nhật về tư liệu
nhà Mạc, để được công minh, khách quan.
Phần thứ hai
BA THỜI KỲ LỊCH SỬ VÀ MƯỜI HAI ĐỜI VUACỦA NHÀ MẠC
Tôi đã nói riêng thời kỳ Thăng Long, chưa nói
tới thời kỳ Cao Bằng và thời kỳ hậu Cao
Bằng….Như vậy là đến năm 2011, nhận thức về
nhà Mạc được tiếp nối đến thời kỳ Cao Bằng và
đến hội thảo năm 2012 này, chúng ta đã đi vào
thời kỳ thứ ba mà có người đã đưa ra một khaí
niệm mới là hậu Cao Bằng. (GS.VS.Phan Huy
Lê).
Tại hội thảo khoa học “Nhà Mạc và hậu duệ trên đất Vĩnh Phúc”,
ngày 21-9 năm 2012, GS.VS Phan Huy Lê tổng kết 41 bản báo cáo, trước
1
Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học xa hội, tập III. H, 1998 ,tr.179-180.
1
2. 350 người dự, đã xác nhận nhà Mạc có ba thời kỳ lịch sử: thời kỳ Thăng
Long, thời kỳ Cao Bằng và thời kỳ hậu Cao Bằng.
Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu ba thời kỳ lịch sử nói trên.
Trong từng thời kỳ xin phép nói rõ các đời vua hoặc thủ lĩnh, các sự kiện
lớn, đóng góp đối với lịch sử, phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược của
nhà Mạc.
*
Nhà Mạc/ vương triều Mạc bắt đầu từ thái tổ Mạc Đăng Dung lên
ngôi năm 1527, kết thúc thời kỳ Cao Bằng năm 1683, 156 năm giữ ngôi
vua với 12 đời ; sau đó còn tiếp tục chiến đấu để phục Mạc cho đến khi
thủ lĩnh Hoàng Công Chất qua đời năm 1769, cộng tất cả 242 năm.
I.Thời kỳ Thăng Long-Dương Kinh (65 năm, 1527-1592)
I.1.Niên biểu thời kỳ Thăng Long
Họ tên Niên hiệu Thời gian tại vị
Miếu hiệu Thụy hiệu
1. Thái Tổ
Nhân Minh Cao Hoàng Đế Mạc Đăng Dung Minh Đức 1527-1529
2.TháiTông
Khâm Triết Văn Hoàng Đế Mạc Đăng Doanh 1530-1540
Đại Chính
3.Hiển Tông
Hiển Hoàng Đế Mạc Phúc Hải Quảng Hòa 1541-1546
Vĩnh Định
4.Tuyên Tông Mạc Phúc
Duệ Hoàng Đế Cảnh Lịch 1548-1554 1547-1564
Nguyên
Quang Bảo 1555- 1564
5.MụcTông Thuần Phúc 1565-1568
Sùng Khang 1568-1578
Tĩnh Hoàng Đế
Anh Tổ Diên Thành 1578-1585
Mạc Mậu Hợp 1565-1592
Đoan Thái 1585-1588
Hưng Trị 1588-1591
Hồng Ninh 1591-1592
6. Cảnh Tông
Mạc Toàn Vũ Anh 1592
Thành Hoàng Đế
7. Mẫn Tông Bảo Định 1592-1593
Trinh Hoàng Đế Mạc Kính Chỉ 1592-1593
Khang Hựu 1593
8. (Đại
1593-1621
I.2.Thái tổ Mạc Đăng Dung thực hiện nhiệm vụ lịch sử trong đại là lật
đổ một vương triều suy đốn, thay vào đó một triều vua có nhiều tiến
bộ so với đương thời.
1.Tình trạng khủng hoảng chưa từng có
Từ thời Lê Uy Mục trở đi, triều đình phong kiến nhà Lê khủng hoảng
cung đình trầm trọng, cơ sở sâu xa của khủng hoảng này là phong kiến
2
3. nhà Lê nặng tư tưởng bảo thủ lạc hậu về chính trị, tư tưởng kinh tế, văn
hoá đối lập với xu hướng mới của lịch sử. Và biểu hiện rõ rệt nặng nề của
nó là các vua từ Lê Uy Mục trở đi sống quá xa hoa truỵ lạc, không để tâm
đến việc nước. Ví dụ như Lê Uy Mục vừa lên ngôi đã giết ngay những
người trước không suy tôn mình làm vua, kể cả tổ mẫu, bà nội của Lê Uy
Mục là Tháí hoàng Thái hậu Trường Lạc, vợ vua Lê Thánh Tông, mẹ vua
Lê Hiến Tông. Bản chất Uy Mục hung ác lại phản trắc, say đắm tửu sắc.
Đêm nào cũng cùng cung nhân hoan lạc rồi đến khi say thì giết đi. Phó sứ
nhà Minh là Hứa Thiên Tích thấy tướng vua có đề câu thơ:
An Nam tứ bách vận vưu trường,
Thiên ý như hà giáng quỷ vương?
Nghĩa là Vận nước An Nam còn dài bốn trăm năm, ý trời sao lại sinh
vua quỷ sứ”i
Lê Tương Dực, nổi lên giết Uy Mục và hoàng hâu, tự lập làm vua,
tàn ác xấu xa, chơi bời xa xỉ không kém vua trước. Ông cho đóng thuyền
bắt cung nữ cởi truồng bơi thuyền ở Hồ Tây “cùng vua vui chơi, lấy làm
vui thích lắm”. Vua còn tư thông với cung nữ tiền triều. Sử gọi ông là vua
lợn.
Trong một thời gian ngắn mà 4 vua bị giết (Uy Mục, Tương Dực,
Quang Trị, Chiêu Tông ); hai lần thế lực chống đối lập ra vua mới.
Trong tình hình đó lịch sử rất cần một người có tài đức và ân uy đứng
ra sắp xếp lại đất nước. Mạc Đăng Dung đã được thử thách và được lựa
chọn.
2.Thái độ chờ đợi của Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung dẫu có công lớn bảo vệ nhà vua, dẹp loạn trong
ngoài triều đình rất được trọng dụng, mà vẫn một mực phục dịch triều Lê,
mong dựng lại triều chính, nhưng vẫn không được.
Theo K.W.Tailor và J. K. Whitmore, Mạc Đăng Dung đã hết sức cố
gắng phục hưng nhà Lê theo “kiểu mẫu Hồng Đức” : “ Mạc Đăng Dung
đã kết thúc thời kỳ hỗn loạn, bắt đầu sau Hiến Tông và lập lại hình thức
cai trị của Thánh Tông, đó là kiểu mẫu Hồng Đức,…Vấn đề Mạc Đăng
Dung đặt ra là làm thế nào kế thừa được cả cơ chế và con người. Mục đích
của sự phục hưng thời Tương Dực đế là như vậy, và mục đích đó đã đạt
được, nhưng do Mạc Đăng Dung, mà không phải nhà Lê thực hiện. Phục
hưng ở đây là thực thi một sự cai quản, không phải gia đình, cũng không
phải triều đại (phong kiến).
Trong những năm này chúng ta chứng kiến sự phát triển của cái gọi
là chuẩn mực quan điểm lịch sử của nhà Mạc (PĐN in đậm)”2
Nhưng rốt cuộc Mạc Đăng Dung không dựng lại được nhà Lê, không
những thế, vua (Lê Chiêu Tông) còn cùng một số quần thần bỏ lên Sơn
Tây mưu chống lại. Cho đến cuối cùng, sau 16 năm chờ đợi (1511-1527),
Mạc Đăng Dung mới nhận chiếu nhường ngôi của vua Lê Cung Hoàng.
2
K. W. Tailor và John K. Whitmore: Tiểu luận về quá khứ của Việt Nam, Trường Đaị
học Cornell, USA, 1995, tr. 123.
3
4. Lên ngôi mới được ba năm, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là
Mạc Đăng Doanh.
I.3. Thái tổ Mạc Đăng Dung đẩy lùi cuộc xâm lược của 22 vạn quân
Minh, tránh cho đất nước khỏi thảm họa chiến tranh năm 1540.
1.Mưu đồ của phong kiến nhà Lê
Phong kiến nhà Lê đã nhiều lần liên tục cho người đi cầu cứu Minh
đem quân sang đánh ta. Với danh nghĩa là đánh Mạc, nhà Minh sẽ thừa cơ
tàn sát tiêu diệt luôn cả nước Việt. Đây là một mục đích truyền đời của
phong kiến Trung Quốc. Nhà Lê thừa biết điều này, nhưng vì quyền lợi
ích kỷ của vương quyền, vẫn cứ ra sức van nài nhà Minh. “Nhà Mạc muốn
tránh nguy hiểm trong cuộc đụng độ với nhà Minh. Tuy nhiên, nguy cơ
chiến tranh ngày càng bị thúc bách, một phần bởi những mưu đồ thù địch
của một số bề tôi trung thành với nhà Lê”4
Rất nhiều lần phái đoàn vua Lê hoặc bề tôi cũ của nhà Lê đi sang
Bắc Quốc để tố cáo nhà Mac, kích động chiến tranh của nhà Minh. Riêng
năm 1537 liên tiếp có 3 lần (kể cả trường hợp Vũ Văn Uyên):
- “Năm 1529, Trịnh Ngung, bề tôi cũ của nhà Lê đã yết kiến triều
Minh để tố cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng Dung”5
-“Ngay sau khi trung hưng triều Lê, năm 1533, Trịnh Duy Liêu liền
được cử đi Bắc Quốc để tiếp tục tố cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng
Dung” 6
-“Ngày 3 tháng 2 năm Gia Tĩnh thứ 16 (13-3-1537 ), cháu dòng
đích của vua An Nam tên là Lê Ninh (Trang Tông) sai người trong nước
là bọn Trịnh Duy Liêu gồm 10 người đến kinh đô ….xin hưng binh hỏi tội
để cứu nguy nạn nước”7
-“Tháng 6 năm 1537, phái bộ của Trịnh Duy Liêu do triều đình Lê
phái sang Yên Kinh”.8
-“Ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 (9-10-1537). Trước đó
người Giao Chỉ Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng… Văn Uyên có
10.000 quân, đợi thiên binh xuống phía Nam, sai cháu là Vũ Tử Lăng
đóng tại cửa ải Thạch Lang để nhập theo”9
Tóm lại, âm mưu của nhà Lê và cựu thần là muốn cầu viện nhà
Minh dai dẳng và kiên quyết. Hơn nữa, không những chỉ van xin, mà còn
ra sức tạo điều kiện vật chất, cụ thể để quân Minh nhanh chóng và thuận
lợi kéo quân sang ta.
2. Vận mệnh của đất nước nghìn cân treo sợi tóc
2.1.Ý chí quyết xâm lược của nhà Minh:
Vua Minh Thế Tông cử Thượng thư Mao Bá Ôn đi chinh thảo.
Trước khi Mao Bá Ôn đi đánh cướp nước ta, vua Minh tặng một bài thơ,
đầy khí chất hách dịch. Ông coi Mao Bá Ôn là kỳ lân, dân ta là kiến cỏ,
đồng thời khẳng định nhất định thắng, hẹn trở về vua đích thân cởi áo bào
cho Mao.
Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn
4
5. Hang sâu kiến cỏ trốn đàng nào?
Thái bình khi chiếu đòi về nước
Trẫm cởi giùm ông chiếc chiến bào3
2.2.Huy động quân đội và dân binh:
“Tháng 7 năm Gia Tĩnh 19, Hàm Ninh hầu Cừu Loan và thượng thư
bộ binh Mao Bá Ôn đến Lưỡng Quảng và Vân Nam để kiểm tra việc
chuẩn bị hậu cần, cùng đội ngũ quân lính dự định cho cuộc chinh phạt
phương Nam. Cừu Loan đã chuẩn bị kế hoạch tác chiến như sau: “Chia
chính binh ra làm ba đội tiễu binh, từ Quảng Tây đi các xứ Bằng Tường,
Long châu và Tư Minh... Kể cả chính binh và kỳ binh là 22 vạn người”
(Cương mục,, tập 2, tr.114).
2.3.Các ý kiến khác nhau phía nhà Minh về việc đánh “An
Nam” 10
Theo sách Minh Thực Lục từ tháng 11 năm 1536 có 10 sự kiện của
nhà Minh liên quan đến vấn đề “chinh phạt An Nam”:
-sự kiện ngày 16-11-1936,
-sự kiện ngày 7-12-1536,
-ngày 12-1-1537,
-ngày 13-3-1537,
-ngày 20-3-1937,
-ngày 21-5-1937,
-ngày 16-6-1937,
-ngày 4-7-1937,
-ngày 8-9-1-1539,
-ngày 20-10 -1540. Chúng tôi đã thống kê và tóm tắt các sự kiện
4ii
trên , qua bảng thống kê “Các ý kiến khác nhau phía nhà Minh về việc
đánh An Nam”. Trong thống kê ghi rõ các mục:
-ngày tháng nghị hội của triều đình,
-luận bàn của triều thần,
-phán quyết của hoàng đế Minh thế Tông
Qua thống kê, rút ra các nhận xét sau:
1.Việc “chinh phạt An Nam” là quyết tâm sắt đá của triều đình
Minh, mà Minh Thế Tông là đại diện. Do đó khi một số người đưa ra lẽ
phải trái bàn bạc, có người ngăn cản, nhưng nếu trái ý, đều bị vua Minh
gạt đi và xử phạt.
2.Quyết tâm xâm lược được tăng cường thêm sau khi quần thần nhà
Lê liên tục xin cầu viện.
3
Phạm Văn Sơn: Mạc Đăng Dung, trong sách Việt sử tân biên, quyển số 3, Sài Gòn, 1959, tr.
18-45.
4
Đề nghị xem bài của Phan Đăng Nhật: Thái tổ Mạc Đăng Dung đã tránh cho đất
nước khỏi thảm hoạ xâm lăng,đẩy lùi cuộc chiến tranh của nhà Minh năm 1540, Tạp
chí Xưa và Nay số tháng 8 năm 2011 và Thông tin khoa học và công nghệ Nghệ An số
3 năm 2011.
5
6. 3.Trong khi cân nhắc, bọn Minh sợ nhất là lực lượng quân sự trong
nước, do Mạc Đăng Dung đứng đầu. Họ đã nghe danh tài năng quân sự
của vua Mạc và đội ngũ tướng lĩnh của ông. Các trường hợp Phan Trân,
Từ Cửu Cao, Hoàng Oản và đặc biệt Cừu Loan, tìm mọi cách trốn tránh
việc đi “An Nam”là tiêu biểu cho tinh thần lo sợ của tướng lĩnh Minh.
(Cừu Loan là phó tổng chỉ huy, đã bày mưu để trút việc đi đánh cho Liễu
Tuần, còn y thì được triệu về kinh). Chắc hẳn số lượng những người như
thế này trong thực tế không ít. Biết rõ điều đó, nên Mạc Đăng Dung luôn
luôn quan tâm tăng cường lực lượng chiến đấu đối phó với giặc, và cũng
tìm cách lộ ra điều này để cho địch biết.
4.Qua diễn biến phức tạp của tình hình trên đây, chúng ta thấy rõ:
Một mặt, quyết tâm xâm lược của triều Minh rất cao; mặt khác họ cũng lo
sợ sức chiến đấu của chúng ta dưới sự chỉ huy của Mạc Đăng Dung. Vậy,
khẳng định “nhà Minh rõ ràng không dám xâm phạm đến nước ta”11
là vô căn cứ.
3. Chiến lược của Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung thực hiện một chiến lược vừa đánh vừa hoà
-Chuẩn bị đánh: “Lê triều thông sử cũng cho biết Mạc Đăng Doanh
đã tu sửa trại, sách, luyện tập thuỷ quân; trưng cầu hết thảy những cựu
thần lão tướng để cùng bàn việc nước”. iii Phục chức cho Thái bảo tĩnh
quốc công Vũ Hộ, cử làm tả đô đốc Đông quân Chưởng phụ sự.
“Thù vực chu tư lục còn cho biết triều đình nhà Minh còn tranh cãi
về việc đánh hay không đánh khá gay go. Khi Mao Bá Ôn đến Nam Ninh
đã thấy quân dân Việt chuẩn bị chống lại quyết liệt, lấy thuốc độc, bã đậu
(?)12 bỏ vào suối nước, đào hố chôn cọc tre để ngựa sa hố, lại phao ngôn
sẽ theo đường biển tập kích Quảng Đông. Như vậy chứng tỏ khi ấy nhà
Mạc chuẩn bị sẵn sàng hai kế sách chiến và hoà” 13
-Lập nhiều đồn luỹ ở biên giới mà trong “Vãng giao chỉ đồ”, in ở
An Nam đồ chí, nhà Minh gọi là “tặc doanh”.
- Cho người làm nhiệm vụ tình báo “dò la bám sát các hoạt động
quân sự của nhà Minh, như trường hợp tri châu Nguyễn Cảnh, năm 1537,
được nhà Mạc bí mật phái sang đất Minh để thu thập tin tức bị thổ quan
của Vân Nam giữ lại”14
4.Cách lựa chọn tài tình của Mạc Đăng Dung
Một số người buộc Mạc Đăng Dung về “tội” đầu hàng và dâng đất.
Hãy căn cứ vào tư liệu lịch sử chính xác để xem xét hai sự kiện này
Thực chất việc thần phục, dâng đất
Ngô Đăng Lợi viết: “Qua ghi chép của Nghiêm Tông Giản, thì Mạc
Đăng Dung cùng đoàn tuỳ tùng không được mặc phẩm phục, cổ đeo dây
lụa tượng trưng cho sự đầu hàng đến lậy và cúi đầu (ngũ bái, tam khấu
đầu) trước long đình che lọng vàng, tượng trưng cho hoàng đế nhà Minh,
chứ không phải quỳ lạy viên tướng nhà Minh” 15 Cũng không phải cởi trần
tự trói.
6
7. -Dâng đất khống:
* “Bốn động biên giới đã bị nhà Minh lấy lại từ trước, thành chuyện
đã rồi đối với nhà Mạc. Mạc Đăng Dung thực sự không hề mắc tội phản
quốc/dâng đất, mà trái lại đã góp một phần quan trọng trong việc ổn định
tình hình chính trị-xã hội trong nước, cũng như tái lập quan hệ bang giao
với nhà Minh.”16 Còn Lê-Trịnh mãi đến 1597 mới được nhà Minh xét
công nhận .
*Trong biểu tâu nhà Minh, Mạc Đăng Dung cũng viết đúng như
trên, và nêu cụ thể lời của tri châu châu Khâm, Lâm Hy Nguyên, như một
nhân chứng sống, chắc chắn đó là sự thật:“ Mới đây thần nghe Tri châu
châu Khâm tỉnh Quảng Đông, Lâm Hy Nguyên, xưng rằng, các động
Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích, Chiêm
Lãng là đất cũ của châu Khâm; nếu đúng như vậy, thần xin vâng
lời”17
Nếu đối chiếu các điều kiện thần phục, trong tình hình đối nội đối
ngoại quá gay gắt và phức tạp như đã trình bày trên, thì việc thần phục của
vua Mạc chỉ mất một số hư danh mà được nhiều thắng lợi thực tế, trong
đó quan trọng là tránh được một cuộc chiến tranh thảm khốc, bao gồm lực
lượng của quân Minh bên ngoài ép vào và quân Lê- Trịnh từ trong đánh
ra.
5.Nguyên nhân thắng lợi của chiến lược nhà Mạc
Nhờ đâu mà đập tan được âm mưu nhà Lê cầu xin Minh, đẩy lùi
được quyết tâm xâm lược sắt đá của nhà Minh?
-Trước hết là ý chí của nhà Mạc, bằng mọi giá không cho giặc đặt
chân vào đất nước ta, như Mạc Ngọc Liễn là Đô uý thái phó Đà Quốc
công, đồng thời là phò mã, khi lâm chung có di chúc lại: “....Lại chớ nên
mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó
cũng là tội lớn không gì nặng bằng” 18 Mạc Ngọc Liễn không phát ngôn ý
kiến cá nhân mà tuyên bố tư tưởng lớn của nhà Mạc. Đinh Khắc Thuân
nhận định đúng như vậy: “Lời trăng trối này của Mạc Ngọc Liễn cũng
chính là ý nguyện của nhà Mạc nhằm tránh một cuộc chiến tranh với
ngoại bang.”19
Thứ hai, là chủ trương vô cùng sáng suốt của Thái tổ Mạc Đăng
Dung, chiến hoà kết hợp, hoà nhưng sẵn sàng chiến đấu. “Đầu hàng giả,
chiến đấu thật”. Trong hoà không hại gì cho đất nước, chỉ dâng đất khống.
Thứ ba, Mạc Thái Tổ cũng dùng cả đấu tranh chính trị, đưa Trạng
nguyên Giáp Hải đi, để biểu lộ ý chí quyết tâm bảo về đất nước qua viêc
hoạ thơ. Có người nói bài thơ đã đuổi được giặc. Không thật đúng. Bài thơ
là một bộ phận của cuôc đấu tranh toàn diện, có vai trò nhất định trong
cuộc đấu tranh này.
Tóm lại, Thái Tổ Mạc Đăng Dung đã lựa chọn một phương thức
đấu tranh tổng hợp rất thông minh, vừa làm cho địch đủ ngại ngần, lo sợ,
vừa đủ cho Thiên triều giữ được thể diện. Ông lại đặt quyền lợi tối cao
của đất nước lên trên sỹ diện cá nhân. Nhờ vậy mà đẩy lùi được 22 vạn
quân Minh, mà không tốn một mũi tên, không mất một giọt máu.
7
8. Có thể nói, Thái tổ Mạc Đăng Dung và nhà Mạc đã đấu tranh vô
cùng thông minh, năng động, nhờ đó cứu đất nước khỏi một cuộc xâm
lăng tàn hại. Sự kiện này không nhiều trong lịch sử nước nhà.
I.4.Phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược: đem lại đời sống ấm
no cho nhân dân
Trong suốt thời gian định đô ở Thăng Long (1527-1593), nhà Mạc có
nhiều đóng góp đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc. Nhà Mạc có
nhiều chính sách để đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh
tế-xã hội đầu thế kỷ XVI.
1. Nhà Mạc cố gắng xây dựng một nền kinh tế phát triển nhiều
mặt.
Nhà Mạc được thiết lập trong hoàn cảnh kinh tế xã hội khủng hoảng
trầm trọng. Bởi vậy nhiệm vụ trọng tâm của nhà Mạc là phải nhanh chóng
khôi phục và phát triển kinh tế để ổn định đời sống của nhân dân.
Nông nghiệp
Nhà Mạc tiến hành khuyến khích phát triển nông nghiệp ở mỗi địa
phương là quan Khuyến nông sứ và Hà đê sứ( cũng như các triều
trước). Cùng với sự góp sức của nhân dân, dưới sự chỉ đạo của nhà
nước, nhiều đê điều đã được đắp và tu sửa trong thời kỳ này, cho đến
nay “đê nhà Mạc” (đê Chân Kim - Kiến Thụy, Hải Phòng), đê Kinh
Điền - An Lão, Hải Phòng, đê Hà Nam - Yên Hưng, Quảng Ninh) vẫn
tồn tại trong tâm thức dân gian và còn để lại vết dấu. Đặc biệt, nhiều
vùng còn đào các con kênh để thông nước tưới tiêu đồng ruộng tiêu
biểu như kênh Núi Voi (An Lão), kênh Cái Giếng (Vĩnh Bảo)… Nhờ
đó mà hoạt động sản xuất nông nghiệp khá phát triển. Không những
vậy nhà Mạc còn tiến hành cho khai khẩn đất hoang để tăng thêm diện
tích sản xuất. Trong tâm thức của nhân dân còn ghi nhớ: “sông đào
nhà Mạc 99 khúc cho dân no ấm”.
Thủ công nghiệp.
Thủ công nghiệp thời Mạc rất phát triển. Từ thành thị đến nông
thôn, hoạt động sản xuất thủ công nghiệp khá tấp nập, hình thành các làng
nghề, các phường thợ có chuyên môn, hoạt động hiệu quả. Thợ thủ công
đã mang tính chuyên nghiệp, thoát khỏi sự bó buộc của đồng ruộng, mức
độ trao đổi sản phẩm trong nước và với nước ngoài cũng sôi động hơn,
mang tính hàng hóa chứ không mang tính tự túc như trước… Những sản
phẩm thủ công nghiệp không chỉ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của
nhân dân mà còn phục vụ cho hoạt động tín ngưỡng, trong đó có nhiều tác
phẩm đạt đến trình độ cao về nghệ thuật. Nhiều làng nghề thủ công nổi
tiếng như: Chu Đậu, Bát Tràng… chuyên sản xuất gốm; làng chạm khắc
đá Kính Chủ…
Nội ngoại thương.
8
9. Nếu như thời Lê sơ “trọng nông ức thương” thì thời Mạc thương
nghiệp rất phát triển. Nhiều chợ đã được nhà nước mở để thuận tiện cho
nhân dân trong hoạt động buôn bán như chợ Cầu Nguyễn ở Thái Bình,
chợ An Quý (Hải Phòng), chợ Tứ Kỳ (Hải Dương), chợ Phù Lưu (Gia
Lâm-Hà Nội)…Trong dân gian còn lưu truyền câu ca “Thứ nhất kinh kỳ,
thứ nhì Hạ Hôm (An Quý)”…
Hàng hoá thủ công nghiệp thời Mạc theo các thuyền buôn nước
ngoài đi ra 28 nước trên thế giới. Đặc biệt gốm Chu Đậu nổi tiếng trong
và ngoài nước. Chiếc tàu đắm ở Cù Lao Chàm khi trục vớt thấy có 24.000
hiện vật thì phần lớn là gốm Chu Đậu. Hiện nay ở Bảo tàng Istamboul
(Thổ Nhĩ Kỳ) còn lưu giữ hiện vật gốm Chu Đậu của nước ta.
Nhà Mạc đã xây dựng một nền kinh tế phát triển nhiều mặt, rất
“trọng nông” mà không hề “ức thương”, phát triển cả nội ngoại thương,
đúng như GS Tràn Quốc Vượng đã nhận định: “Sau khi lên ngôi, Mạc
Đăng Dung đã chấm dứt thời kỳ “ức thương”, mở rộng giao thương với
nước ngoài. Ông đề cao hoạt động thương mại, và thực sự đã có nhiều
chính sách mới mẻ. Minh chứng cụ thể là đồ gốm sứ trở thành mặt hàng
được nhiều nước mua. Hiện nay, đồ gốm sừ thời Mạc có mặt ở bảo tàng
nhiều nước: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,…và con tàu đắm ở Cù lao
Chàm mới được tìm thấy có rất nhiều đồ gốm sứ thời này. Điều đáng nói
là các sản phẩm gốm sứ thời Mạc đều có khắc tên người làm, địa chỉ
xưởng sản xuất và nơi cung tiến. Tôi cho rằng, nếu nhà Mạc tiếp tục tồn
tại và phát triển, Việt Nam có thể đã có một cuộc cải cách giống như thời
Minh Trị của Nhật Bản, nhưng từ rất sớm. Dương Kinh là sự thể hiện tư
tưởng hướng ngoại của nhà Mạc”5.
*
Chính sách kinh tế của nhà Mạc đã đem lại đời sống ấm no, an lạc
cho nhân dân. Mặc dù quan điểm đối nghịch nhưng các sử gia nhà Lê vẫn
phải thừa nhận về cảnh thái bình thời Mạc “Mạc có lệnh cấm các xứ trong
ngoài người ta không được cầm giáo mác và binh khí hoành hành ở
đường sá, ai trái thì cho pháp ty bắt. Từ đó những người đi buôn bán chỉ
đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm
cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ
mỗi tháng một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liền được mùa, nhân dân bốn
trấn đều được yên ổn”6.
Về nội dung này, sách Toàn thư ghi như trên và thêm một số chi
tiết: “Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm
không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi
5
Trần Quốc Vượng: Bài trả lời phỏng vấn do Hiền Thảo thực hiện và đăng trên báo
Sài Gòn giải phóng ngày6-11-2004, tr.2.
6
Lê Quý Đôn: Lê triều thông sử, tiếp dẫn theo Đinh công Vỹ, sách Nhà Mạc và dòng
họ Mạc trong lịch sử, Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng, H, 1996, tr.363
9
10. tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà
mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng
ngoài không đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên”7
Phan Huy Chú nhân nói về vua Mạc Đăng Doanh, cũng ca ngợi
tình hình xã hội và đời sống của nhân dân đương thời : “Mạc Đăng Doanh
tính tình khoan hậu. Ông giữ pháp độ, cấm hà khắc tàn bạo, ít việc tạp
dịch, nhẹ thuế khoá. Bấy giờ được mùa, nhà no người đủ, trong nước gọi
thời ấy là trị bình”8
Một sự kiện lịch sử được các nhà sử học đồng thanh nhắc lại nhiều
lần, chứng tỏ rằng đó là một sự thật hiển nhiên, gây ấn tượng sâu sắc và
hiếm có trong xã hội phong kiến nước ta. Đây là công lao của nhà Mạc, là
một nét đẹp đặc biệt, không thể không nhấn mạnh.
2.Một số chính sách xã hội
Để có tình hình ấm no, an lạc trên đây, ngoài một số chính sách
kinh tế như đã nêu trên, nhà Mạc còn thực thi một số chính sách xã hội.
1.Vận động một số nhà hữu sản, nhất là hoàng thân quốc thích có
hằng tâm đem ruộng sẵn có hoặc mua ruộng cúng vào chùa. Theo thống
kê của Vũ Duy Mền thì tổng cộng trong 18 trường hợp có 254 mẫu 8 sào
ruộng cúng vào chùa9. Thống kê này chưa đầy đủ, tuy nhiên cũng có thể
làm căn cứ để chúng ta nhận xét như sau:
- “Việc cúng tiền ruộng vào chùa thịnh hành từ thời Lý- Trần,
sang thời Mạc được mở rộng hơn”10.
-Số người thuộc hoàng thân nhà Mạc có vai trò quan trọng trong
việc này. Có thể kể các vị sau đây (10/18 trường hợp):
.Thái hòang Thái hậu họ Vũ;
.Thái hoàng thái hậu (không ghi họ, 4 trường hợp, cộng 31 mẫu)
Nếu coi đây cũng là Thái hoàng thái hậu họ Vũ thì tổng cộng là 36 mẫu;
.Con gái thứ 2 Thái uý Tây quốc công Mạc Ngọc Ý;
.Thọ Phương Thái trưởng công chúa;
.Chính phi công chúa, (7 mẫu );
.Phan Trị, tước An Thọ Bá, ( 8 mẫu) ;
.Lê Văn Uyên, tước Trường Thọ Bá.
.Trường hợp đặc biệt Thái hoàng thái hậu Vũ thị Ngọc Toản11
Tương truyền Bà là chính hậu của Thái tổ Mạc Đăng Dung , đã có
công lớn là lấy tiền riêng mua 25 mẫu 8 sào 2 thước cúng dâng Tam bảo
chùa làng Hoà Liễu (xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng) ;
7
Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học xã hội, 1998, tr.115.
8
Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, tập1, NXB Sử học,1961, tr.180.
9
Vũ Duy Mền: Một số vấn đề về làng xã dưới thời Mạc trong sách Vương triều Mạc,
NXB Khoa học xã hội, H, 1996, tr. 138-142.
10
Vũ Duy Mền: sách vừa dẫn, tr.136.
11
Theo Chu Xuân Giao, tư liệu chính xác cho biết tên bà là Vũ Thị Ngọc
10
11. đồng thời vận động hoàng thân quốc thích đóng góp thêm, tổng số ruộng
lên tới 47 mẫu 3 sào, goi là ruộng nhà Thánh (Thánh điền). Số ruộng trên
được dùng làm ba khoản chính:
-Khoản thứ nhất. Cấp cho việc cúng tế ở đền và chùa làng
-Khoản thứ hai. Cấp cho dân đinh, thượng hạ. Khi dân số ít thì chia
đến tuổi 15, khi dân số tăng thì chia đến tuổi 18, mỗi người một sào, cày
cấy thu hoạch, không phải nộp thuế. Chia theo cách bốc thăm công khai,
già nhận trước, trẻ nhận sau, cứ 3 năm chia lại một lần.
-Khoản thứ ba. Cho đấu thầu cấy lấy thóc lập quỹ hội Thiện/nghĩa
thương, khi đói khó cấp đỡ người nghèo, cô nhân, quả phụ, bảo dưỡng lát
gạch đường làng. Đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 quỹ làng còn 3
tấn thóc, ủng hộ kháng chiến, số thóc cho người nghèo vay không thu lại
nữa.12
Cùng với việc cấp ruộng cho dân làng, THTH là người công đức để
xây dựng chùa với 6000 lá vàng, cùng không biết bao nhiệu tiền bạc cho
trên 15 ngôi chùa ở khu vực Dương Kinh và phụ cận như:
-Chùa Linh Cảm (Tiên Sơn, Bắc Ninh) 1557,
-chùa Bà Đanh (Kiến Thuỵ, Hải Phòng) 1563,
-chùa Thiên Hựu (Nam Sách, Hải Dương) 1571,
-chùa Minh Phúc (Tiên Lãng, Hải Phòng) 1572,
-chùa Sùng Ân (Phù Cừ, Hưng Yên) 1574,
-chùa Phổ Chiếu (Kiến Thuỵ, Hải Phòng) 1579,
-chùa Thánh Thọ (Bình giang, Hải Dương) 1579,
-chùa Minh Quang (Gia Lộc, Hải Dương) 1579,
-chùa Hoa Tân (An Lão, Hải Phòng) 1582,
-chùa Linh Sơn ( An Lão, Hải Phòng) 1583,
-chùa Báo Ân (Phù Cừ, Hưng Yên)1584,
-chùa Sùng Quang (Vĩnh Bảo, Hải Phòng)1578,
-chùa Trúc Am (Kiến thuỵ, Hải Phòng) 1589,
-chùa Hà Lâu (Tiên Lãng, Hải Phòng )1589….13
-và chùa làng Hoà Liễu, có tên Thiên Phúc Tự xây dựng năm 1562.
Bà cũng là người “bày cho” dân lễ minh thệ, để chống trộm cắp,
tham nhũng.
Đúng như PGS Đinh Khắc Thuân đã nhận định: “Bà Thái hoàng
thái hậu họ Vũ quả là một người đã dốc toàn tâm toàn ý cho công cuộc
trung hưng chùa Phật thời kỳ này. Bà từng được dân gian tôn xưng là
12
Cụ Phạm Đăng Khoa biên soạn: Tóm tắt nội dung di tích đền- chùa Hoà Liễu, Tài
liệu không xuất bản, tr.34-35.
Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, NXB Khoa học xã hội,
13
H, 2001, tr.232.
11
12. “mẫu nghi thiên hạ, là vị Phật sống trên trần gian ” 14 … “Bà Thái hoàng
thái hậu họ Vũ xem như một biểu tượng của người phúc thiện, đáng
được muôn đời ghi nhớ”15
2. Lập các hội Thiện để tổ chức phong trào làm việc thiện “Các bia
dựng trong các chùa, miếu cho biết hội Thiện khá phát triển . Từ các
vương hầu tôn thất, quan lại tại vị hoặc hưu quan đến thường dân các làng
xã đều đua nhau làm việc thiện…Nhìn chung hội Thiện thời Mạc biểu
hiện nhiều mặt tích cực hơn mặt hạn chế”16
Tóm lại, chính sách xã hội lớn của nhà Mạc gồm:
-Vận động các tư gia lấy tiền riêng mua ruộng cấp cho dân đinh cày
cấy, thu hoa lợi, không phải nộp thuế,
-Một số ruộng cho cày cấy thu hoa lợi và lập hội Thiện để cứu đói
cho những người quan quả cô đơn,
-Xây dựng rất nhiều chùa để hoằng dương Phật pháp, giáo dục lòng
nhân từ bác ái, ngay thẳng thật thà .
Có người nói, có phong trào làm điều Thiện, xây dựng chùa là do
“chiến tranh tàn khốc kéo dài, thiên tai thường xẩy ra, khiến cho dân cùng
khốn, mất niềm tin, đến cửa Phật từ bi mong che chở hoặc cầu xin điều
thiện”. Có thể chưa hẳn như vậy. Trong thời kỳ cận hiện đại vừa qua,
chúng ta cũng chiến tranh kéo dài mấy chục năm, thế nhưng người ta
không làm chùa mà ra sức phá chùa chiền miếu mạo, từ đường, san đào
mồ mả tổ tiên; cũng không làm điều thiện mà điều ác đầy rẫy. Thử hỏi tại
sao?
Bài này không có nhiệm vụ giải đáp vấn đề trên, mà chỉ bàn đến
nhà Mạc và nêu thực tế ở thời Mạc là những người có quyền hành, uy
vọng đương thời thực sự có thiện tâm, có người suốt đời dốc lòng làm
điều thiện. Hành vi cao đẹp của họ,( không phải chỉ một vài người), đã có
sức giáo dục mạnh mẽ, lôi cuốn xã hội. Nhờ đó mà cùng với các chính
sách khác, đã tạo nên an ninh xã hội cao : “người đi đường không nhặt
của rơi, cửa ngoài không đóng, …trâu bò thả chăn không phải đem về,…
có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình”
I.5. Nhà Mạc xây dựng một đời sống tinh thần với tư tưởng cởi
mở, thông thoáng về tôn giáo tín ngưỡng, tôn trọng văn hoá của nhân
dân 17
Người đời thường nói “Mạc thị sùng Nho” nhưng vương triều Mạc
không độc tôn Nho giáo. Dưới thời Mạc văn hoá dân gian được phục hồi
14
“Kim Thái hoàng thái hậu dĩ thiên mẫu vi phật trung trần”. Văn bia chùa Quang
Minh (Gia Lộc, Hải Dương ) năm 1579. Bia 151. Chú thích theo Đinh Khắc Thuân,
sách đã dẫn, tr, 233.
15
Đinh Khắc Thuân, sách đã dẫn, tr.233.
16
Vũ Duy Mền, sách đã dẫn, tr. 136-137.
17
12
13. và phát triển. Trần Lâm Biền nhấn mạnh: “Chỉ tới khi nhà Mạc lật đổ
được nhà 18Lê sơ, lúc đó đã mục ruỗng cùng cực (có thể nói là một cuộc
cách mạng), với những chính sách tự do hơn rất nhiều, đã như tạo nên
một sự bùng nổ tạo đà cho “văn hoá dân gian” phát triển”. Ông cũng
khẳng định thêm: “Mỹ thuật Mạc như khởi đầu cho một trang sử mới để
tạo nên sự “náo nức” tới đỉnh cao ở cuối thế kỷ XVII với “nghệ thuật đình
làng”19.
Các tôn giáo như Phật, Lão được khôi phục và phát triển. Dưới thời
Mạc một số chùa đã được trùng tu hoặc xây mới như: chùa Phổ Minh
(Nam Định) có mộ và tượng của công chúa Mạc Ngọc Lâm, chùa Bối Khê
(Hà Nội), chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)… Theo thống kê của Nguyễn
Du Chi trong sách Mỹ thuật thời Mạc, qua khảo sát điền dã và qua tư liệu
bia ký thì hiện nay còn dấu tích của 142 chùa, 2 cầu, 12 đình làng, 7 quán
đạo, 8 miếu, 3 chợ, 2 bến đò…
Đình là nơi họp mặt quan viên, hào mục, dân làng và thờ cúng thần
linh, thế mà ở đình Tây Đằng tràn ngập hình ảnh các sinh hoạt đời thường
của thường dân: cảnh nam nữ tình tự, cảnh đi thuyền, làm xiếc, săn bắn
khỉ, gánh con,...
Tóm lại VHDG thời Mạc được phát triển về số lượng và bừng lên
về thẩm mỹ. Trong lúc đó, thời Lê sơ nền văn hoá này thường bị cấm
đoán.
Đến thời Lê, các tập tục dân gian phải chịu sự phán xét khắc nghiệt
của vua quan dưới cái nhìn Nho giáo. Đàn chay, hát xướng, chơi đùa và
trò tap kỹ bị cấm. Lê Thánh Tông lệnh cho bộ lễ: “Khi có việc tang không
được bày đặt ăn uống, tiết Trung Nguyên không được lập đàn chay, không
được hát xướng, chơi đùa và bày trò tạp kỹ”20. Hát chèo và dân ca bị gọi là
dâm nhạc, đối lập với nhã nhạc.
“Ra lệnh cấm chỉ con em nhà thế gia và dân chúng không được nuôi
những vật làm trò như gà chọi, khỉ làm trò, bồ câu thả, chim sơn hô-sơn
ca, cá vàng,…”21
I.6. Nhà Mạc chăm lo bồi dưỡng đào tạo nhân tài.
Trong suốt thời gian tồn tại ở Thăng Long (1527-1593), nhà Mạc
luôn luôn chăm lo bồi dưỡng nhân tài. Nguyễn Hữu Tâm nhấn mạnh “Từ
khi giành vương quyền (1527) đến khi phải rút khỏi Thăng Long (1592)
triều Mạc không lúc nào sao nhãng việc giáo dục khoa cử. Cho đến năm
1592 quân Mạc thua to, bỏ kinh đô, nhưng hè năm đó Mạc Mậu Hợp vẫn
tổ chức được kỳ thi tiến sĩ cuối cùng tại hành doanh Bồ Đề” (20). Ở Thăng
18
Xin xem thêm bài Phan Đăng Nhật: Đặc điểm văn hoá dân gian thời Mạc trong bối
cảnh lịch sử -xã hội đương thời, Tạp chí văn hóa dân gian.só 5-2010
19
Trần Lâm Biền: Kỷ yếu hội thảo khoa hộc”Vương triều Mạc trong lịch sử Việt
Nam”,Trung tam bảo tồn khu di tichd Cổ Loa, 2010, tr.269.
20
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB Giáo dục, H, 1998, tr.1012.
21
Đại Việt sử ký toàn thư, sdd, tr.363.
13
14. Long, chưa kể ở Cao Bằng, nhà Mạc tổ chức được 22 khoa thi lấy đỗ 485
tiến sĩ và 13 trạng nguyên. Trong số những nhà khoa bảng do nhà Mạc
tuyển chọn chúng ta có thể kể đến: Trạng nguyên Nguyễn Thiến, Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Dương Văn
An… Đặc biệt khoa thi Hội năm Ất Sửu (1565) đời Mạc Mậu Hợp, một
tiến sĩ được vương triều Mạc chọn tuyển bằng một bài phú Nôm ở kỳ thi
đệ tứ một sự kiện hiếm có trong lịch sử thi cử của nước ta, đó là tiến sĩ
Nguyễn Văn Huy(21). Nhận xét về tác dụng của giáo dục khoa cử thời Mạc,
nhà sử học Phan Huy Chú nói: “Nhà Mạc bận chiến tranh mà vẫn không
bỏ thi cử, vì thế được nhiều người tài giỏi giúp việc chống đối với nhà Lê,
kéo dài đến hơn 60 năm. Ấy cũng là công hiệu của khoa cử đó”(22).
II.Thời kỳ Cao Bằng ( 91 năm, 1592-1683)
Bằng các nguồn tư liệu mới của
Trung Quốc mà chúng ta cũng
hiểu thêm được vương triều Mạc
thời kỳ Cao Bằng và bổ sung
thêm phổ hệ nhà Mạc ở Cao
Bằng ba vì vua cuối cùng, trong
đó có Mạc Kính Diệu (tức Mạc
Kính Vũ) rồi đến Mạc Nguyên
Thanh, cuối cùng là Mạc Kính
Quang. (GS.VS.Phan Huy Lê)
I.1.Đại cương về thời kỳ Cao Bằng
Ơ Cao Bằng22, nhà Mạc xây dựng vương triều ở khu đồng bằng
Hoà An. Ơ đây họ xây dựng hai căn cứ chính. Kinh đô Nà Lử và vương
phủ Cao Bình. Nà Lử là nơi hiểm yếu hơn, nơi vua ở. Vương phủ Cao
Binh là nơi ở của hoàng hậu, công chúa, cung tần, gia đình các đại thần có
vườn thượng Uyển, đền Giao (nơi tế lễ), Hồ Nhi (hồ trẻ con), Đào viên
(vườn hoa). Các đồi được đặt tên là đồi Long, đồi Ly, đồi Quy,... có
trường thi và đền thờ đức thánh Khổng tử ở Bản Thảnh.
Sơ qua như vậy đủ biết nhà Mạc chủ trương xây dựng một triều
đình riêng, với tư thế đàng hoàng và nhắm hướng dài lâu. Các vua nhà
Mạc luôn giữ vững truyền thống của tiên đế, thực hiện chính sách đối
Tài liệu của phần viết về nhà Mạc ở Cao Bằng, chủ yếu dựa vào các sách:
22
-Mạc Đường: Góp phần đổi mới quan điểm đánh giá vương triều Mac, NXB
Trẻ, S, 2005.
-Tìm hiểu nhà Mạc ở Cao Bằng, của Đại tá Nguyễn Thiên Tứ, bản thảo, chưa
xuất bản. Nhân đây xin cám ơn tác giả.
14
15. ngoại vừa bảo đảm chủ quyền quốc gia, “ không mời người Minh vào
trong nước ta”, vừa tranh thủ sự ủng hộ của người nước ngoài. Vào cuối
thế kỷ 17, tình hình Trung Quốc phức tạp. Lý Tự Thành nổi lên chiếm
Bắc Kinh, nhà Minh lùi xuống phía Nam, gọi là Nam Minh, rồi nhà Thanh
lên. Trong tình hình đó, nhà Mạc vẫn giữ vững chủ quyền mà điều hòa
được mối quan hệ với Trung Quốc.
Ở Cao Bằng, nhà Mạc lại tiếp tục sự nghiệp đào tạo nhân tài, theo
Tăng Bá Hoành, ở đây, nhà Mạc tổ chức thêm 12 kỳ thi 23, cộng cả ở
Thăng Long là 34 kỳ,chú ý đào tạo cả người Tày như : tiến sỹ Bế Văn
Phụng, (Tày, năm 1595), tiến sỹ Nông Quỳnh Văn (Tày, 1598). Đặc biệt
có nữ tiến sỹ duy nhất trong chế độ phong kiến, bà Nguyễn Thị Duệ
(Kinh),
Nhà Mạc chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa diện, theo
nguyên tắc “trọng nông, trọng công, trọng nội ngoại thương” như chính
sách của mình khi ở Thăng Long.
Cây lương thực không những phát triển ở vùng đồng bằng mà còn
phát triển hầu hết ở vùng sâu xa, vùng cao, núi đá, vùng sình lầy ven sông.
mở mang thuỷ lợi, làm mương máng và guồng nước, đắp nhiều phai lấy
nước, nhân dân gọi là “phai vua”. Nhà Mạc đã cùng dân khai phá những
cánh đồng lúa nước ở Hoà An, Trùng Khánh, Nguyên Bình, Quảng Hoà,
Thạch An, Tràng Định, Văn Lãng. Sau khi thất bại, nhà Mạc còn để lại
một diện tích đáng kể ở Cao Bằng là 1330 mẫu 14 thước24
Ơ Cao Bằng nhà Mạc vẫn tiếp tục khuyến khích sự phát triển sở
hữu tư nhân về ruộng đất như khi ở Thăng Long: “Khuyến khích sự phát
triển của sở hữu tư nhân về ruộng đất là chính sách khôn khéo của chúa
Nguyễn ở phía Nam và nhà Mạc và con cháu nhà Mạc sau khi chạy lên
Cao Bằng”25
Nghề gạch, ngói, gốm sứ, đất nung được phát triển,... Gạch vồ nhà
Mạc được dân gọi là “gạch vua”. Nghề đúc đồng, đúc gang phát triển, lò
rèn thủ công được mở ra khắp nơi.
Có những phát minh đối với thời bấy giờ là “kỹ thuật hiện đại”. như
máy ép mía bằng sưc nước, máy nghiền gạo cũng bằng sức nước. Các
máy này là kết quả du nhập kỹ thuật từ Trung Quốc sang. (Máy nghiền
gạo còn mang tên Trung Quốc, “sủi ngàn” = “thuỷ nghiên”)
23
Tăng Bá Hoành: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:nhà văn hóa lớn thế kỷ 16, Tạp
chí xưa và nay, số tháng 8 năm 2011, tr.14.
24
Đỗ Đức Hùng: Một vài nét về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
dươi thời Mạc, trong sách Hội đồng lịch sử Hải Phòng: Nhà Mạc và dòng họ Mạc
trong lịch sử, H, 1996, tr,326.
25
Đỗ Đức Hùng: Một vài nét về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
dươi thời Mạc, trong sách Hội đồng lịch sử Hải Phòng: Nhà Mạc và dòng họ Mạc
trong lịch sử, H, 1996, tr,336.
15
16. Về văn hoá, các vua Mạc, một mặt chuyển giao tinh hoa văn hoá
miền xuôi bao gồm cả Nho giáo, Phật giáo cho nhân dân, mặt khác phát
huy văn hoá các dân tộc ở điạ phương chủ yếu là VHDG. Sự nghiệp phát
huy văn hoá dân tộc, dựa chủ yếu vào các nhà trí thức địa phương tiêu
biểu là Tư thiên quản nhạc Bế Văn Phụng và Nông Quỳnh Văn.
Các ông đã sáng tác nên những tác phẩm VHDG nổi tiếng có thể
đó là: Lượn Hồng nhan tứ quý, Giáo nam, giáo nữ,Lượn Bioc lạ-Lương
Quân, Lượn Nam Kim-thị Đan,... Hai ông đã đưa đàn tính vào đệm cho
hát then, sáng tác ra hai điệu Lưu thuỷ (tàng nậm) và Cao sơn (tàng bốc).
Nhà Mạc tổ chức nhiều hội hè cho dân vui chơi. Có thể trong số đó
có lễ thượng điền, vua xuống đồng cầm cày xới đất làm mùa lúa đầu xuân.
Sau lễ này phổ biến rộng thành lễ lồng tồng của người Tày vào sau Tết
nguyên đán, do một lão nông địa phương cầm cày xới đất.
Các vua nhà Mạc cho giảm nhẹ sưu thuế, bớt hình phạt, xử nặng tội
bọn tham quan nhũng nhiễu, khiến cho đất Cao Bằng, Lạng Sơn trở thành
một địa bàn rộng lớn đầu tiên của khối đại đoàn kết dân tộc giữa người
Kinh và các dân tộc thiểu sổ trong lịch sử nước ta (Mạc Đường).
II.2.Niên biểu chính quyền nhà Mạc tại Cao Bằng do Ngưu
Quân Khải xây dựng.26
Mạc Kính Cung 1593-1621 Niên hiệu Càn Thống
Mạc Kính Khoan 1621-1625 Niên hiệu Long Thái
1625-1638 Thái úy Thông Quốc công
Mạc Kính Vũ 1638-166127 Niên hiệu Thuận Đức
(Mạc KínhDiệu)
Mạc Nguyên Thanh 1661-1681 Niên hiệu Vĩnh Xương
(Mạc Kính Thụy)
Mạc Kính Quang 1681-1683
II.3.Vua Mạc Kính Cung, mở đầu thời kỳ Cao Bằng với vị thế
của một vương triều chính thống.
Ở phần Đại cương về nhà Mạc ở cao Bằng, chúng tôi đã viết, nhà
Mạc có kế hoạch xây dựng Cao Bằng thành một kinh đô với các công
trình của thủ đô quốc gia.
Phần này chúng tôi chỉ chứng minh bổ sung cho chủ trương trên
của nhà Mạc là đúc chuông, đúc tiền và tổ chức thi.
1. Chuông Đà Quận, thời vua Mạc Kính Cung, đúc năm 1611
26
Ngưu Quân Khải: Bước đầu nghiên cứu về nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng,
Kỷ yếu hội thảo khoa học Nhà Mạc và hậu duệ trên đất Vĩnh Phúc, tr.74.
27
Cuộc đời của vua Mạc Kính Vũ có nhiều điều bí ẩn, Riêng thời điểm Ngài không
xuất hiện nữa, (chưa hẳn đã băng hà) còn cần xét thêm ý kiến của hội thảo”Nhà Mạc
và hậu duệ trên đất Vĩnh Phúc” rằng, Ngài bí mật về Vĩnh Phúc, đóng vai nhà sư ở
chùa Diệm Xuân để tâp trung lực lượng mưu sự nghiệp phục Mạc.
16
17. (Về chuông Đà Quận, chúng tôi viết lại tóm tắt theo tài liệu của
Cung Văn Lược và Chu Quang Trứ).
Hai quả chuông chùa Đà Quận vào loại những chuông lớn ở nước ta. Quả
chuông to: cao 1,75 m, miệng rộng 1,07m. Quả chuông nhỏ: cao 1m55, miệng
rộng 0m95. Cả hai đều đúc bằng hợp kim đồng, lâu ngày đã ngả sang màu
gang. Quả chuông to ở bồ lao treo bị cưa mất một chân rồng. Quả chuông nhỏ
ở thân thủng một lỗ
Nhìn chung dáng dấp chuông và trang trí chuông mang chất điêu khắc nối
khối, chân chất, thoáng đãng, mộc mạc. Hình khối và đường nét đều rõ ràng.
Do vậy, vừa thoáng nhìn, chúng tôi đã có thể liên hệ với lịch sử và cảm nhận cả
hai quả chuông này đều thể hiện nhiều khả năng đặc điểm là những di vật của
hậu kỳ thời Mạc.
Về văn tự ngay đến tên chuông, mà thông thường vẫn thấy được đúc
bằng đại tự nổi cao, thì ở cả hai chuông đều không có. Thoạt nhìn, mặt chuông
không thấy Minh văn, nhưng quan sát kỹ sẽ thấy mặt quả chuông nhỏ có khắc
chữ vuông ở tất cả các ô. Trong đó, những ô thuộc nửa trên đã mờ gần hết
chữ, những ô thuộc nửa dưới còn rõ hơn. Ở đó có khắc phần đầu của bài văn
đã đọc được hầu hết các chữ vuông là chữ Hán.
Tạm dịch “Văn khắc chuông chùa Viên Minh. Lời tán rằng: Trời mở Nam
Việt, Đất lập Cao Bằng. Ở giữa bản Phủ, Vững đất thành Vua. Thạch Châu kiên
[cố?], Đà Quận đất thiêng. Non xanh nước biếc, sông Mãng uốn quanh. Cổ
danh thắng tích, Chùa gọi Viên Minh. Chế đồng đục đá. Sống cùng trời trăng,
chuông treo lầu gác. Chuông đặt trong sảnh. Gió thổi vang vang, tiếng ngọc
rung rinh, chuông động vầng nguyệt, Mỗ động gió âm. Đền Thần đối diện, Cung
điện chênh vênh, Giờ giấc sớm tối, Tiếng chuông u huyền. Thế tình biến đổi,
người vật nảy sinh. Nhân do [?] [?], ra sức sửa trị. Giúp thánh chúa Mạc, Tôi
hiền phù vận. Chuông đồng bia đá, Chùa Phật lớn lao. Đón thợ dựng xây, Giữ
mãi hình Phật. Đúng hạn hoàn thành, Hội chủ báo công. Lòng thành trọn vẹn.
Gần xa biết tiếng. Âm công rạng tỏ, Dương báo vẻ vang!”
Rõ ràng tác giả bài minh rất tự hào với mảnh đất Cao Bằng của nước Nam
Việt, nơi đây cảnh thú thanh lịch, có chùa Viên Minh, đền thần và cung điện lầu
cao gác đẹp, có chuông chùa hàng ngày đánh lên vang động không trung. Tác
giả cũng đề cao nhà Mạc hội tụ được nhân tài. Như vậy, rất có thể chuông chùa
Viên Minh được đúc khi nhà Mạc đang chiếm giữ Cao Bằng và đóng đô ngay tại
đây.
Ở một ô khác trên chuông có ghi tên người hưng công. Phần nhiều tên bị
mờ, song còn rõ hơn cả là dòng tên một người vợ là Phạm Thị Ngọc Yến, tức
phải thuộc vào dòng dõi quyền quý.
Kiểm tra lại dự đoán niên đại ở trên, chúng tôi tìm được trong sách Đại
Nam Nhất thống chí, mục Chùa quán thuộc tỉnh Cao Bằng (Tập IV, tr.404, bản
dịch, Nxb. KHXH, 1971) có ghi: “Chùa Minh Viên: ở xã Xuân Lĩnh huyện Thạch
An, nay trong chùa có một quả chuông, khắc chữ Kiền thống thập cửu niên
Tân Hợi chú”. Và “Chùa Đông Lân”: ở xã Vu Thủy huyện Thạch Lâm Tương
truyền chùa này cùng chùa Minh Viên đều do nhà Mạc dựng”.
Chúng tôi nghĩ rằng: chùa Minh Viêng trong đoạn trích trên rất có thể là
chùa Viên Minh ở Đà Quận mà chúng tôi đã được mục kích và tìm hiểu. Và nếu
như vậy, thì quả chuông chùa Viên Minh với bài minh, chẳng những sẽ có niên
17
18. đại tương đối vào thời Mạc mà còn có niên đại tuyệt đối là năm Kiền Thống 19,
tức năm 1611.
2.Tiền “ Thái Bình thánh bảo” và“An Pháp nguyên bảo”
“Đời vua Mạc Kính Cung (1593-1625) thì tiền ở bảo tàng Vĩnh
Phúc có 2 loại là Thái Bình thánh bảo và An pháp nguyên bảo.
-Tiền Thái Bình thánh bảo, mặt tiền đúc nổi 4 chữ Hán Thái Bình
thánh bảo đọc chéo, kiểu chữ chân phương, rõ nét, lưng tiền để trơn,
đường kính khoảng 22mm.
-Tiền An pháp nguyên bảo, Mặt tiền đúc nổi 4 chữ Hán An Pháp
nguyên bảo, đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. kiểu chữ chân phương
rõ nét, lưng tiền để trơn, đường kính khoảng 21mm”28
3.Thi cử thời vua Mạc Kính Cung với bà Nguyễn Thị Duệ.
Nhà Mạc lên Cao Bằng đã quan tâm đào tạo cả người thiểu số và
người Kinh. Hai trí thức ngừơi Tày nổi tiếng được thi đỗ là Bế Văn Phủng
và Nông Quỳnh Văn. Đặc biệt vua Mạc Kính Cung lấy đỗ tiến sỹ một
người phụ nữ cải trang đi thi là Nguyễn Thị Duệ. Đó là nữ tiến sỹ duy
nhất đỗ dưới thời phong kiến.
II.4.Vua Mạc Kính Vũ, một tài năng quân sự, chính trị và ngoại
giao, đã đóng góp lớn cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược của nhà
Mạc.
1.Ngài chiến đấu chống phong kiến Lê-Trịnh quyết liệt
Ngài là con của Quang Tổ Nguyên hoàng đế Mạc Kính
Khoan. Khi thân phụ băng hà, Ngài tỏ thái độ và hành động chống
đối phong kiến Lê-Trịnh rõ rệt, lên ngôi vua, xưng niên hiệu Thuận
Đức, không báo tang cho nhà Lê và không nộp cống.
“Mùa xuân, tháng giêng,(1938), Mạc Kính Khoan, tước
Thông quốc công ở Cao Bằng mất. Con (là) Mạc Kính Vũ lại làm
phản, tiếm đặt niên hiệu là Thuận Đức.”29
Được tin, nhà Lê- Trịnh tức giận khẩn trương cất quân đi
đánh. Việc lên ngôi xẩy ra tháng giêng thì tháng 3 chúa Trịnh Tráng
trực tiếp dẫn đại quân đi Cao Bằng “chinh phạt”. Kết quả là thất
bại, một tướng (quận Hạ) bị quân Mạc bắt, một tướng ( quận
Lâm)bỏ chạy, bị chúa Trịnh trị tội, giết.
Từ bấy trở đi chúa Trịnh nhiều lần cất quân đi “ chinh phạt”
đều không thành công. Cho đến 1655 Mạc Kính Vũ chuẩn bị đầy
28
Nguyễn Thị Thúy Hằng: Một số hiện vật tiêu biểu của thời Mạc ở bảo tàng tỉnh
Vĩnh Phúc. Tạp chí văn hóa, thể thao và du lịch Vĩnh Phúc, số 4 tháng 9 năm 2012.
tr. 35.
29
Đại Việt sử ký toàn thư (Viện khoa học xã hội), tập III, NXB Khoa học xã hội, H.
1998, tr.236.
18
19. đủ một cuộc phản công mạnh mẽ phối hợp với chúa Nguyễn ở
Đảng Trong ra, “mật ước” cùng đánh chiếm Thăng Long.
Sau đây là bảng kê các trận đánh chính của chúa Trịnh:
BẢN KÊ CÁC TRẬN ĐÁNH CHÍNH CỦA CHÚA TRỊNH
Thời gian Tướng chỉ huy Mục đích Kết quả và hậu
quả
Th 3 (1638) Trịnh Tráng Trừng trị Mạc Kính Quận Hạ bị Mạc bắt,
Vũ quân Lâm sợ bỏ chạy
bị Trịnh giết
Th12 (1638) Trịnh Tráng, Diệt Mạc Kính Vũ Không kết quả, 10
NguyễnDanh Thế, Bật ngày rút về
quận công,…
Th10 (1639) Trịnh Tráng hẹn các Tiêu diệt Mạc Kính Các thổ châu không ai
thổ châu TQ cùng tiến Vũ đến chỗ hẹn. Trịnh
đánh diệt Mạc. Trịnh Tráng chờ 2 tháng, thất
Tráng kéo đại quân đi vọng, kéo quân về
không
Th10(1666) Thông quận công Hà Tấn công Mạc Kính Hà Sỹ Tứ bị Mạc bắt
SỹTứ Vũ
Năm 1666 Thái phó Lý quận Trả đũa Mạc Kính Mạc giết Hà Sỹ Tứ,
công Trịnh Đống và… Vũ và cứu Hà Sỹ Tứ Trịnh đốt chỗ ở của
Kính Vũ rồi về.
Trên đây chỉ ghi tóm tắt .Riêng cuộc xuất quân của Trịnh Tráng
tháng 10 năm 1639, xin cụ thể hơn như sau:
“Đặc biệt, để chuẩn bị chu đáo cho trận đánh lớn quyết tiêu diệt
bằng được nhà Mạc [ “Mạc Kính Vũ và Mạc Kính Mân”], trước khi lên
đường, từ tháng 6, phía Lê Trịnh trao đổi rất nhiều thư từ cho thổ ti và
tướng lĩnh nhà Minh ở vùng biên giới Việt - Trung hẹn hội quân ở
Thượng Lang và Hạ Lang vào hạ tuần tháng 10 .
“Chúa Trịnh Tráng lại viết thư gửi tới các viên tri châu châu Hạ
Phiên, thuộc Quảng Tây, họ Hứa; tri ty sứ ty Hồ Nhuận; tri châu châu
Hướng Vũ, họ Hoàng; tri châu châu An Ninh, họ Lý; tri châu châu Quy
Thuận họ Sầm; hẹn hò cùng đem quân tới đánh diệt Kính Vũ. Quan ở các
châu ấy đều có thư nhận lời”30
Tuy nhiên, quân các châu nhà Minh tất cả đều không đến, chúa
Trịnh Tráng thất vọng chờ 2 tháng rồi rút quân về. Điều này chứng tỏ tín
nhiệm của vua Mạc Kính Vũ đối với các châu hơn hẳn so với chúa Trịnh.
“Chúa tổng thống lĩnh đại quân định ngày 10 tháng 10 tiến phát.
Quân đóng ở thành Lạng Sơn, đợi viên hầu mệnh về báo tin. …..Các
Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, NXB Trẻ-NXB Hồng Bàng, H,
30
2012, tr.277.
19
20. quân châu nhà Minh đều sai hẹn không đến. (PĐN in đậm) Nhân đó
Chúa bèn đem quân đến đóng ở địa giới Bắc Nẫm….Tháng 12 rút quân
về”31
NHẬN XÉT
Trên đây mới là bản kê một số trận đánh chinh, và là bản kê nên
mới ghi được một vài nét rất sơ sài. Tuy nhiên qua đó cũng có thể rút ra
được những nét cơ bản sau đây:
-Nhiều lần Trịnh Tráng đích thân cầm quân, chứng tỏ nhà
Trịnh quyết dốc hết lực lượng, kể cả huy động các thổ châu Trung
Quốc nhằm diệt cho được Mạc Kính Vũ.
-Tuy nhiên mục đích của nhà Trịnh không những không thực
hiện được mà nhiều lần hao binh tổn tướng.
-Nhiều lần Mạc Kính Vũ không xuất hiện và đối đầu vì Ngài
có chiến lược tránh bị tiêu hao và dấu kín lực lượng phục vụ cho
cuộc tổng tấn công về thăng Long sau đây:
2.Đánh chiếm thành Lạng Sơn, chờ chúa Nguyễn ra để cùng
giải phóng kinh đô
Tóm lại trong suốt thời gian dài, Minh Tông Khai hoàng đế
Mạc Kính Vũ cầm quyền ở Cao Bằng, chúa Trịnh bao phen hao
binh tổn tướng mà không hề đẩy lùi được nhà Mạc. Hơn nữa, trong
thời gian đó, vua Mạc Kính Vũ đã chuẩn bị đầy đủ lực lượng
chiếm Lạng Sơn, đánh đuổi “một vạn hùng binh” nhà Trịnh chạy
dài, đóng giữ Lạng Sơn, chờ hợp sức với chúa Nguyễn với dự định
“đánh phá kinh đô bắt sống cha con Thanh vương”. Thanh thế thật
lẫy lừng.
“Thuận Đức vương, tức Mạc Kính Hoàn = Mạc Kính
Diệu, nhà Mạc ở Cao Bằng đã sai tám viên đại tướng đem
quân tiến đánh Trung đô. Khi tướng Mạc đến Đoàn Thành
(Lạng Sơn) thì Thanh vương Trịnh Tráng sai thái bảo Khê
quận công Trịnh Trượng, Hộ khoa đô cấp sự trung Hưng Tạo
tử cầm đầu mười hai viên quận công đem một vạn hùng binh
tiến đánh Cao Bằng. Quân của Khê quận công bị quân Cao
Bằng đánh gấp. Quận Khê thua to phải chạy về sông Thương.
Quân Cao Bằng đóng giữ ở Đoàn Thành, đợi quân nam tiến
ra, thì kéo thẳng xuống đánh phá kinh đô bắt sống cha con
Thanh vương, Tây Định hiến nạp cho Nam chúa để làm vật
tiến kiến” [Nguyễn Khoa Chiêm 1997 : 320].”32 Chuyển dẫn
theo Chu Xuân Giao.
31
Lê quý Đôn: Đại Việt thông sử, Tài liệu vừa dẫn, tr.287.
32
Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng,…,Tài liệu đã dẫn, tr.23.
20
21. Sự kiện lịch sử quan trọng trên đây, không thấy chính
sử Lê-Trịnh nhắc đến. Vậy cụ thể là như thế nào?
“Lúc bấy giờ, cuối năm Ất Mùi (1655), Nguyễn Hữu
Dật (cùng với Nguyễn Hữu Tiến, là hai tướng chủ chốt ở
Đàng Trong), muốn được ngoại ứng để chia lực lượng quân
Trịnh, bèn khiến bọn Văn Tường và Hoàng Sinh đem mật thư
lẻn đến các trấn Bắc Hà để chiêu dụ hào kiệt, hẹn cùng nổi
lên. Ở Cao Bằng thì Mạc Kính Hoàn/Vũ, ở Hải Dương thì tên
Phấn (không rõ họ, bấy giờ gọi là quận công), ở Sơn Tây thì
Phạm Hữu Lễ, đều vâng mệnh, nói rằng: hễ quân chúa qua
sông Lam thì phát binh hưởng ứng. Hải Dương thì không nộp
tô thuế để cho tuyệt lương, Cao Bằng thì tiến chiếm Đoàn
Thành (nay là tỉnh lỵ Lạng Sơn) để chia thế lực. Sơn Tây thì
nguyện làm nội ứng để cướp lấy thành”33
Tuy nhiên, kế hoạch này không thành hiện thực. Lý do
là, đến tháng 4 năm 1657, Trịnh Tráng chết, chúa Nguyễn
Phúc Tần đã tới Hà Tĩnh ( xã Vân Cát, huyện Thạch Hà),
nhưng vì “không nỡ đánh người có tang”, bèn cử người đến
viếng Trịnh Tráng rồi dẫn quân hồi loan.
Sau này, vào tháng 9 năm 1659, Trịnh Tạc lên thay
Trịnh Tráng, biết Phạm Hữu Lễ mưu phản đã bắt, xét hỏi và
giết đi. Nhóm Nguyễn Hữu Dật hay tin, vô cùng thương tiếc,
lập đàn để tế ( !)34
Vì “không đánh người có tang” mà chúa Nguyễn đơn
phương bội ước, đã gây tai hại nặng nề cho các bên cùng mật
ước. Riêng vua Mạc Kính Vũ sau khi đã hoàn thành xuất sắc
phần nhiệm của mình thì bị chặn đứng lại vì chủ trương nguy
hiểm “không đánh người có tang.”.
3.Về ngoại giao, Mạc Kính Vũ không theo Ngô Tam Quế như
lời vu khống của phong kiến Lê-Trịnh, mà nhất quán trước sau, hợp
tác với nhà Thanh (trước cả Lê-Trịnh) để thực hiện mục tiêu chiến
lược của mình.
Nhiều nhà nghiên cứu phê phán nhà Mạc-vua Mạc Kính Vũ đã theo
đuổi một chính sách ngoại giao không nhất quán, khi thì theo Ngô Tam
Quế chống Thanh, khi thì theo nhà Thanh.
Thực ra không phải như vậy, vua Mạc Kính Vũ không đi
theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh.
Sau đây là sự kiện cụ thể:
33
Đại Nam thực lục, tập I, tiền biên,NXB Sử học, 1962, tr.90-91.
34
Lý do đơn phương thay đổi mật ước cũng coi như bội ước vì “không đánh người có
tang”, có vẻ yếu ớt, ngoài ra còn có lý do sâu xa hơn . Xin tạm gác lại, chưa bàn đến
vấn đề này.
21
22. 1.Đi trước Lê-Trịnh trong việc thiết lập ngoại giao với
nhà Thanh và được phong An nam đô thống sứ
“Vào năm 1659 (Thuận Trị 16, Kỉ Hợi): Lúc này nhà Thanh gần như đã làm
chủ được phương nam, nhà Nam Minh suy yếu cực độ. Trong sách Quốc triều nhu
viễn kí biên soạn đời Thanh, có ghi: vào năm đó “An Nam nhập cống 安南入貢”. “An
Nam” ở đây có thể xác định rõ là Mạc Kính Diệu, vì tiếp theo, Quốc triều nhu viễn kí
có diễn giải rằng, năm đó, đại quân nhà Thanh tiến đánh Vân Nam, Mạc Kính Diệu
đến nạp khoản và dâng cống vật, phía nhà Thanh ban chiếu phong cho Mạc Kính Diệu
làm An Nam đô thống sứ [Vương Chi Xuân 1968 : 66-68.”35
“Sự kiện này diễn ra vào ngày 21 tháng 6 năm 1659, khi Tín Quận vương và
Hồng Thừa Trù là hai trọng thần của nhà Thanh đang tham gia vây hãm Vân Nam.
Cho nên có thể hiểu “đại quân nhà Thanh tiến đánh Vân Nam” trong khi “đại quân nhà
Thanh tiến đánh Vân Nam, Mạc Kính Diệu đến nạp khoản và dâng cống vật cho quân,
phía nhà Thanh ban chiếu phong cho Mạc Kính Diệu làm An Nam đô thống sứ” ở
trường hợp 2 (sách Quốc triều nhu viễn kí) là đại quân có sự tham gia của Tín Quận
vương và Hồng Thừa Trù. Họ đang ở Vân Nam.”36
“Như vậy, có thể hiểu, trong cùng một năm 1659, vào mùa hè,
chính xác là ngày 21 tháng 6, Mạc Kính Diệu cử sứ giả đến ngoại giao
với nhà Thanh tại Vân Nam. Và sau đó, đến cuối năm, Mạc Kính Diệu lại
cử sứ giả đến ngoại giao với nhà Thanh tại vùng Lưỡng Quảng.”37
“Bản thân nhà Thanh sau này cũng công nhận Mạc Kính Diệu đã đi
trước trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Thanh. Trong một
sắc dụ cho vua Lê vào năm 1668 (Khang Hi 7), hoàng đế nhà Thanh đã
viết rằng: “Mạc Nguyên Thanh đưa đồ cống tới xin qui thuận trước, trẫm
đã trao cho chức Đô thống sứ; nhà người sau đó mới tới cống xin qui
thuận, trẫm đã phong làm vương”[ Thanh thực lục bản A-II-1 : 356-1].
“Quốc triều nhu viễn ký”có diễn giải rằng, năm đó, đại quân nhà
Thanh tiến đánh Vân Nam, Mạc Kính Diệu đến nạp khoản và dâng cống
vật cho quân Thanh, phía nhà Thanh ban chiếu phong cho Mạc Kính Diệu
làm An Nam đô thống sứ [Vương Chi Xuân 1968 : 66-68. “38
“Vào ngày 29 tháng 9 âm lịch năm 1659, đoàn sứ giả của Mạc Kính
Diệu cử đến gồm 28 người và 4 chiếc thuyền, đi theo đường thủy đến Thái
Bình (thuộc tỉnh Quảng Tây). Sau đó, được dẫn đến Nam Ninh (thủ phủ
của tỉnh Quảng Tây).”39
“Chúng tôi cho rằng, nhà Mạc ở Cao Bằng không quá coi trọng
quan điểm của Nho giáo đối với tính chính thống của nhà Nam Minh hay
35
Chu xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng,…Tài liệu đã dẫn, tr. 28.
36
Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng…Tài liệu đã dẫn, tr. 30.
37
Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng…Tài liệu đã dẫn, tr. 31
38
Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng,,,,, Tài liệu vừa dẫn, tr.28.
39
Chu Xuân Giao: Ba đời vua Mạc cuối cùng…, Tài liệu vừa dẫn, tr.32.
22
23. tính “man di” của nhà Mãn Thanh, mà đã biết đoán định thời cuộc, đi
trước nhà Lê trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mãn Thanh.
Trước khi mở hướng ngoại giao theo đường Lưỡng Quảng của Lí Thế
Phụng lúc đó, Mạc Kính Diệu đã cử sứ đến Vân Nam”40.
4.Một biểu tượng đẹp và lâu bền về tình hữu nghị với nhân dân
Trung Quốc: tòa tam bảo Đại Phật tự, Quảng Châu
Qua tư liệu của Trung Quốc, chúng ta được biết một cách khá chi
tiết về tình hình quyên trợ việc xây dựng chùa Đại Phật vào đầu thập niên
1660 của Bình Nam vương Thượng Khả Hi và cách thức mà hai bên (Bình
Nam vương và An Nam vương) gặp nhau lúc đó, Có thể tóm tắt các điểm
chính yếu như sau:
a.Hai bên gặp nhau vào tháng 5 năm thuận Trị 18 (1661);
b.An Nam vương có tên Mạc Kính Diệu (tức Mạc Kính Vũ), được
nhà Thanh phong Quy hóa tướng quân và con Ngài là Mạc Nguyên
Thanh được phong An Nam đô thống sứ;
c.Vào thời gian đó, vua Mạc Kính Vũ cùng Mạc Nguyên thanh lên
kinh để triều kiến vua Thanh, tiện đường ghé thăm các nơi ở vùng Quảng
Châu-Quảng Đông, nên gặp Bính Nam vương,
d.Bình Nam vương đã mở tiệc ở lầu Củng Bắc để thết đãi An Nam
vương, nhân đó mà mời các nhà sư đến kêu gọi công đức, trong dịp này
An Nam vương (vua Mạc Kính Vũ) công bố cung tiến gỗ để làm chùa;
e.Gỗ mà vua Mạc Kính Vũ cung tiến có tên là gỗ Nam, là gỗ quý
hiếm, có chất lượng cao đặc biệt, cao tới 10m và đường kính 2m. Vua
Mạc Kính Vũ đã cho chuyển một số lớn gỗ này tới Quảng Châu;
f.Số gỗ Nam đã được dùng làm cột cái và xà ngang xà dọc, tạo nên
khung nhà cho tòa Tam Bảo;
g.Đặc biệt, trải qua phong hóa và binh hỏa của hơn 300 năm, nhưng
đến ngày hôm nay, tòa Tam Bảo với kết cấu bằng gỗ Nam do vua Mạc
Kính Vũ cung tiến, vẫn còn gần như nguyên vẹn là một niềm tự hào của
chùa Đại Phật, mà họ thường ca ngợi do An Nam vương cung tiến. Đó
cũng là điều đặc biệt thú vị của khách thập phương khi tham quan chùa.
(Chu Xuân Giao)41
.Photo Chu Xuân Giao
40
Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng …. Hội thảo “Nhà Mạc và họ Mạc ở vùng
đất Vĩnh Phúc” (2012)
41
Chu Xuân Giao: Đi tìm dấu ấn cha con Mạc Kính Diệu ở Quảng Châu, (báo cáo hội
thảo Vĩnh Phúc, quý III, năm 2012) tr.15.
23
24. Tóm lại
Một số nhà khoa học đã kết tội oan cho vua Mạc Kính Diệu/Vũ là
gió chiều nào theo chiều ấy, theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh. Trái
lại, Ngài đã tiên đoán được vai trò lịch sử nhà Thanh, trước cả Lê-Trịnh
và sớm quy phục Thanh, không theo Ngô Tam Quế. Hơn nữa, lại xây
dựng được ân tình đối với một số nhân vật quan trọng như tổng đốc
Lưỡng quảng Lý Thế Phụng và Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ, mà
biểu tượng đẹp còn giữ được đến ngày nay là chùa Đại Phật tự.
Bên cạnh tài năng quân sự và ý chí chống phong kiến Lê-Trịnh, như
đã trình bày ở phần I, đến đây chúng ta lại tài năng chính trị-ngoại giao
của vua Mạc Kính Vũ. Nhưng ở đâu ra luận điệu xuyên tạc, nói trắng
thành đen, không thành có, như đã nêu trên?
Tất cả đều xuất phát từ âm mưu vu khống của Lê-Trịnh để nhằm
dùng nhà Thanh diệt nhà Mạc
“Đến khi Ngô Tam Quế làm phản ở Vân Nam, Mạc Kính Vũ theo
đế hiệu tiếm ngụy của Ngô Tam Quế và giúp binh lương” (10)
“Đến khi Ngô Tam quế làm phản ở Vân Nam, Kính Vũ theo đế hiệu
tiếm ngụy của Ngô Tam Quế và giúp binh lương…Trước khi đánh Mạc,
hãy đưa thư cho Lại Thập Lý, tướng quân nhà Thanh kể rõ tội trạng
của Kính Vũ (theo Ngô Tam Quế)42 (P.Đ.N.in đậm)
“Thần lo lắng giữ lòng trung, không dám theo giặc. Nhưng trong
nước lại có tên nghịch thần là Mạc Nguyên Thanh bội ơn theo giặc, bí
mật giao kết với Ngô Tam Quế (P.Đ,N,in đậm), đưa một vạn binh mã
ngầm vào Cao Bằng, âm mưu đánh úp” (103)
Ba tư liệu đã dẫn cho thấy Lê-Trịnh đã dùng sự bịa đặt tâu với nhà
Thanh để dùng Thanh diệt Mạc
Thực tế là “ Mạc Nguyên Thanh không hề câu kết với Ngô Tam
Quế, mà người câu kết với Ngô Tam quế lại chính là Lê-Trịnh” (62.CXG)
5.Góp phần xây dựng Cao Bằng
Nhà Mạc ở Cao Bằng vẫn kế tục tư tưởng và chính sách vốn có, ở
hoàn cảnh mới, trong một thời gian dài là 91 năm (1592-1683)
Sau khi thất bại ở Thăng Long, vương triều Mạc rút lên Cao Bằng đã có
nhiều chính sách để phát triển kinh tế xã hội nơi đây (Xin xem mục Đại
cương về thời kỳ Cao Bằng). Hiện nay chưa có điều kiện để phân biệt
công lao của từng vì vua ở Cao Bằng, nhưng chắc rằng hoàng đế Mạc
Kính Diệu/Vũ có vai trò khá quan trọng.
6.Giải đáp ban đầu về những ngày cuối cùng của hoàng đế Mạc
Kính Vũ.
Một số nhà khoa học đã nêu vấn đề: sau khi thất thủ Cao Bình
(1677), các tài liệu lịch sử đều viết Ngài còn sống, đi Long Châu, sau đó
42
Khâm định Việt sử thông giám cương mục,tập 2, NXB Giáo dục, tr.340.
24
25. không biết đi đâu (Thái Kế Toại). Hoặc là sớm hơn thế, năm 1661, ở
Trung Quốc, sau cuộc gặp gỡ Thượng Khả Hỷ, Ngài đột ngột không xuất
hiện (Chu Xuân Giao)
Tập hợp nhiều ý kiến thuộc nhiều góc độ, với phương pháp nghiên
cứu tổng hợp liên ngành, chúng tôi có thể đề xuất giải đáp ban đầu rằng:
sau khi đột ngột không xuất hiện, hoàng đế Mạc Kính Vũ đã bí mật
về Vĩnh Phúc để mưu tiếp tục sự nghiệp và viên tịch tại đây. Mong các
vị tiếp tục sưu tầm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong tình hình tư liệu hiện nay,
nhận định trên là gần với chân lý nhất
7. Kết luận về hoàng đế Mạc Kính Vũ
Hoàng đế Mạc Kính Vũ, trọn cuộc mình, với một ý chí sắt đá, một
tài năng và trí thông minh sáng tạo tuyệt vời đã vượt qua muôn vàn gian
nguy để thực hiện cho kỳ được mục tiêu chiến lược của các bậc tiên đế.
Ngài đã kiên quyết thực hiện ý chí chống phong kiến Lê-Trịnh thối nát và
giành nhiều thắng lợi trong sự nghiệp này.
Về ngoại giao, Ngài đã sáng suốt sớm nhận thức được vai trò lịch
sử của nhà Thanh và không hề đi theo Ngô Tam Quế như sự vu khống của
Lê-Trịnh. Hơn nữa đã xây dựng được uy tín với triều đình Thanh, với các
bậc lãnh đạo có quyền uy và kể cả thủ lĩnh các quận huyện.
Đặc biệt, Ngài đã thiết lập được mối quan hệ hữu nghị thân thiết với
nhân dân Trung quốc mà biểu tượng văn hóa đẹp còn lưu lại đến ngày nay
là tòa tam bảo Đại Phật Tự, Quảng Châu.
II.5.Hai đời vua cuối ở Cao Bằng: Mạc Nguyên Thanh và Mạc
Kính Quang.
1.Vua Mạc Nguyên Thanh
Vua Mạc Nguyên Thanh là con của vua Mạc Kính Vũ. Năm 1661,
Ngài đã đi theo cha sang Trung Quốc đi Bắc Kinh và có dừng lại ở Quảng
Châu và có cùng cha gặp Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ. Ngài cũng
cùng dự cuộc đón tiếp của Thượng Khả Hỷ ở lầu Củng Bắc, nơi đây
Thượng tương quân đã “ mở tiệc ở lầu Củng Bắc để thết đãi cha con An
Nam vương, nhân đó mà mời các nhà sư đến kêu gọi công đức” 43 (đã ghi
ở phần trên)
Tháng 12 năm 1661, nhà Thanh đã phong cho Mạc Nguyên Thanh
làm An Nam đô thống sứ, đồng thời cũng năm này Ngài lên ngôi vua lấy
niên hiệu Vĩnh Xương.
“Lúc đó ở Trung Quốc, triều Thanh lên thay triều Minh. Tháng 6
năm 1661, triều Thanh phong cho ngưới cai quản Cao Bằng là Mạc
Kính Diệu chức Quy hóa tướng quân (P.Đ.N. in đậm). Mạc Kính Diệu
chính là Mạc Kính Vũ trong sách sử của An Nam. Tháng 12 năm 1661
43
Chu Xuân Giao: Ba vị vua Mạc cuối cùng qua sử liệu Trung Quốc (1638-1683), Hội
thảo nhà Mạc và hậu duệ ở vùng đất Vĩnh Phúc, năm 2012, tr.190.
25
26. triều Thanh phong cho con Mạc Kính Diệu là Mạc nguyên thanh làm
An Nam đô thống sứ”44 (P.Đ.N. in đậm)
“Nhà Thanh sách phong cho nhà Mạc ở Cao Bằng, phong cho Mạc
Kính Diệu (Mạc Kính Vũ) làm Quy hóa tướng quân và sau đó không lâu
phong Mạc Nguyên Thanh làm An Nam đô thống sứ”45
2. Vua Mạc Kính Quang
Vua Mạc Kính Quang là em của Mạc Nguyên Thanh. Sau khi anh
trai mất Ngài lên kế vị được nhà Thanh phong An Nam đô thống sứ.
Năm 1682, nhà Thanh cho giải 300 người phía Mạc trở về Việt
Nam giao cho Lê- Trịnh, trong số đó có Mạc Kính Quang. Đến Lạng Sơn,
100 người bị giết, Mạc Kính Quang uống thuốc độc tự sát (1683).
Ngưu Quân Khải viết: “Sau này sách sử Trung quốc gọi Mạc Kính
Quang là An Nam đô thống sứ. Năm 1682, triều Thanh giao cho tuần phủ
Quảng Tây đưa nhóm tôn thất họ Mạc đang ở Trung Quốc (trong đó có
Mạc Kính Quang), đang ở trên đất Trung quốc về An Nam. Năm 1683,
Mạc Kính Quang uống thuốc độc tự sát.”46
III. Thời kỳ hậu Cao Bằng ( 86 năm: 1683-1769)
Sau khi vua Mạc Kính Quang mất, triều Mạc chấm dứt. Tuy nhiên
tinh thần chiến đấu của nhà Mạc vẫn chưa dứt. Có ít nhất 7 thủ lĩnh (trong
5 phong trào) nổi dậy dưới ngọn cờ “phục Mạc”: (phần tiếp đây ghi tóm
tắt theo Ngưu Quân Khải)47
-Năm 1692, Hán Đường công Mạc Kính Trữ và đô đốc là Đinh
Công Đĩnh nổi lên ở Long Châu, Quảng Tây.
-Năm 1715, người chân Cao Bằng, là Uyên Hợp, tự xưng là hậu
duệ nhà Mạc dấy binh.
-Năm 1740, tại Mãnh Tuyền thuộc Cao Bằng, có người tên là Mạc
Tam, tự xưng là hậu duệ nhà Mạc, vào đóng quân ở chùa Đống Lân, sau
quân Lê tấn công chùa này, đánh bại Mạc Tam.
-Năm 1741, cả vùng Bảo Lạc thuộc Cao Bằng, có hậu duệ nhà Mạc
dấy binh. Người cầm đầu là Mạc Khang Vũ và Mạc Bảo. Năm 1745-1746
Mạc Khang Vũ đánh chiếm các vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên
Quảng, Thất Nguyên.
44
Ngưu Quân Khải Khải (Phó Giáo sư, Phó Viện trưởng viện nghiên cứu Đông Nam á
thuộc Đại học Trung Sơn, Quảng Châu, Trung Quốc): “Bước đầu nghiên cứu về nhà
Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng” trong sách Nhà Mạc và hậu duệ trên đất Vĩnh
Phúc, tr.70-72.
45
Ngưu Quân Khải : “Bước đầu nghiên cứu về nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng”
trong sách Nhà Mạc và hậu duệ trên đất Vĩnh Phúc, tr.75
46
Ngưu Quân Khải: “Bước đầu nghiên cứu về nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng”
trong sách Nhà Mạc và hậu duệ trên đất Vĩnh Phúc, tr.73.
47
Ngưu Quân Khải: “Bước đầu nghiên cứu về nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng”
trong sách Nhà Mạc và hậu duệ trên đất Vĩnh Phúc, tr.78-80.
26
27. Sau Mạc Khang Vũ bị giết, Mạc Bảo giữ Bảo Lạc ít lâu cũng bị
thua.
Người đề xuất việc xác định có một thời kỳ lịch sử của nhà Mạc sau
1683: thời kỳ hậu Cao Bằng là PGS Ngưu Quân Khải. Đề nghị trên được
trình bày ở hội thảo khoa học “Nhà Mạc và hậu duệ trên đất vĩnh Phúc”,
được hội thảo chấp thuận và GS. VS Phan Huy Lê tổng kết. Tôi đồng ý
với PGS Ngưu và nói rõ thêm.
Sở dĩ hậu Cao Bằng được coi là một thời kỳ lịch sử vì có nhiều sự
kiện , diễn ra kéo dài trong hàng thế kỷ, thuộc nhiều địa bàn . Các sự kiện
trên cùng có một tính chất chung là kế tục đấu tranh thực hiện mục tiêu
chiến lược của nhà Mạc với một ý chí bền vững, đã được các bậc tiền bối
của họ Mạc thực hiện từ hai thời kỳ trước: thời kỳ Thăng Long và thời kỳ
Cao Bằng.
Trong số này, Hoàng Mạc Công Chất (1739-1769) với cuộc chiến
đấu 30 năm của ông là một điển hình.
Sau thời kỳ Cao Bằng, họ Mạc không còn danh hiệu vương triều
nữa, nhưng ý chí và quyết tâm chiến lược “bảo vệ đất nước, đánh đổ triều
đại Lê-Trịnh, xây dựng xã hội mới tiến bộ. ấm no” vẫn được duy trì và
phấn đấu thực hiện. Đó là sự nghiệp của thủ lĩnh Hoàng Công Chất.
1.Thủ lĩnh Hoàng Công Chất48
1.1.Hoàng Công Chất trong bối cảnh chung
Thế kỷ 18 là thế kỷ khởi nghĩa nông dân. Trong khoảng thời gian từ
năm 1737 đến 1741 nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra các miền ngày nay là
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú
Thọ, Bắc Ninh, Hải Dương, Thanh Hoá, Nghệ An, Nam Định. Trong các
nghĩa quân nói trên thì chúa Trịnh sợ nhất Hoàng Công Chất và Nguyễn
Hữu Cầu.
Hoàng Công Chất là một trong những thủ lĩnh kiệt xuất ở vùng Sơn
Nam, nổi lên từ năm 1739. Sau một thời gian dài hoạt động ở miền đồng
bằng, ông vào hoạt động ở miền thượng du Thanh Hoá, Thượng Lào, và
đóng căn cứ ở Điên Biên.
Sau đây là sự nghiệp của cụ về các mặt: đánh giặc bảo vệ biên
cương, giải phóng nhân dân; chống quân Trịnh, giành lại vương quyền;
đoàn kết dân tộc, chăm lo đời sống nhân dân; kế tục truyền thống xây
thành.
1.2.Công cuộc bảo vệ biên cương, đánh đuổi giặc Phẻ và giải
phóng nhân dân
48
Tài liệu dùng trong phần này chủ yếu là :
-Đặng Nghiêm Vạn-Cầm Trọng: Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời
kỳ ở Tây Bắc, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 75
- Tứ Bình thực lục, Đinh Khắc Thuân,chủ biên dịch.
27
28. Đến thế kỷ 18, an ninh của miền Tây Bắc bị uy hiếp nghiêm trọng,
phần do âm mưu bành trướng thế lực của các chúa phong kiến Lào, phần
do phong kiến Vân Nam và các đám giặc từ Trung Quốc tràn xuống. Ở
Điện Biên, giặc Phẻ từ mạn Thượng Lào và Vân Nam chiếm đất rồi tràn
ra cướp phá. Cầm đầu giặc là Phạ chẩu Tin Tòng. Giặc đi đến đâu chém
giết đốt phá đến đó, nhân dân tan tác bỏ bản mường chạy vào rừng sâu.
Nhiều thủ lĩnh người Thái và các dân tộc khác hô hào nhân dân tổ
chức chống cự lại . Nhưng vì sức yếu, họ liên tiếp bị thất bại.
Khi ở Thượng Lào, được các thủ lĩnh Thái là Ngải và Khanh cầu
cứu, Hoàng Công Chất đem quân đánh giặc Phẻ, cứu dân, bảo vệ miền
biên giới của Tổ quốc.
Giặc đóng ở trong thành Xam Mứn. Được lực lượng nghĩa quân
người Thái và các dân tộc ở địa phương giúp đỡ, nghĩa binh Hoàng Côntg
Chất tiến công bằng hai mũi, từ phía châu Sông Mã đánh lên. Trận đánh
xẩy ra rất ác liệt. Quân Phẻ chống cự rất mạnh, nhưng cuối cùng chúng
phải thua to. Quân Chất dồn được chúng vào một địa điểm gọi là Pú Vằng
(Pú là đồi núi, Vằng là vũng). Đến đây giặc đã dùng súng to, bắn đạn chì,
nghĩa quân không tiến lên được. Tướng Ngải và Khanh bày mưu dùng kế
giả hàng. Rốt cục, quân ta phá được giăc, giết được Tin Tòng, tàn quân
Phẻ chạy sang Lào. Hoàng Công Chất giải phóng Điện Biên, giữ thành
Xam Mứn, tính kế lâu dài đánh lại phong kiến nhà Trịnh.
1.3.Chiến đấu chống quân Trịnh-Lê giành lại Vương quyền
Trong khoảng thời gian từ 1751 đến 1769, Hoàng Công Chất một
mặt củng cố miền Điện Biên, mặt khác mở rộng căn cứ ra toàn Tây Bắc
và một phần Thượng Lào, uy hiếp miền sông Thao và Trung Du. Ông đã
từ Điện Biên tiến đánh 10 châu thuộc phủ Yên Tây là 4 châu Chiêu Tấn
và 6 châu :Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Toàn, Tuy Phụ, Khiêm
Châu. Sử nhà Trịnh ghi: “Chất lại giữ chỗ hiểm, lan ra chiếm cứ 10 châu”.
Thấy không thể đánh bại Hoàng Công Chất được, chúa Trịnh quay sang
kế dụ hàng, “sai Trương Trung Bá chiêu dụ vỗ về, phong Chất làm Khoán
Trung Hầu”49Ông phản đối.
Hoàng Công Chất đã được các chúa Thái ở đây quy phục. Ảnh
hưởng của ông rất lớn. Ông tiếp tục thu phục toàn bộ 12 châu Thái ở miền
Sơn La, Nghĩa Lộ và bắc Hoà Bình.
Trong những năm 1767-1768 Hoàng Công Chất hoạt động rất
mạnh, chống lại triều đình. Cuối năm 1767, Chất đem binh qua Mộc
Châu, Mai Châu liên kết với Lê Duy Mật ở Trấn Ninh, chia quân tiến sâu
vào miền thượng du Thanh Hoá với lực lượng trên một vạn. Nhân dân địa
phương nhất tề nổi dậy hưởng ứng làm bọn quan quân chúa Trịnh ở
Thanh Hoá, Hưng Hoá khiếp sợ.
Quan quân nhà Trịnh , “dùng dằng không tiến quân, chúa sai sứ đến
giục…lũ Đình Huấn ngờ có quân mai phục, càng sợ, bèn bàn chuyện rút
49
Đinh Khắc Thuân ( chủ biên): Tứ bình thực lục, thời chúa Trịnh, nxb Văn hoá thông
tin, tr.80.
28
29. quân về50”. Kết quả là tất cả các tướng chỉ huy (6/6) đều bị có phần giáng
cấp:
-Đoàn Nguyễn Thục, giảm một bậc.
-Trọng Hoành giảm một bậc.
-Đình Huấn tước mất lộc binh dân.
-Phạm Ngô Cầu giáng hai bậc
-Vũ Huy Đĩnh giáng làm Đãi chế.
-Nguyễn Đình Diễn giảm một bậc.
Cho đến khi Hoàng Công Chất ốm chết (1769), quan quân triều
đình mới xông vào thành Bản Phủ, đào mộ và hành hạ thi thể Ông.
1.4.Sự nghiệp đoàn kết dân tộc, chăm lo đời sống nhân dân
Ảnh hưởng của Hoàng Công Chất ở Tây Bắc rất lớn. Ông được
nhân dân các dân tộc Tây Bắc tìn nhiệm mến yêu, coi như người anh hùng
của mình51 Nay nhân dân còn nhắc nhở đến công ơn của Keo Chất (người
Kinh tên Chất). Nhiều truyền thuyết, truyện kể, bài ca nói lòng ngưỡng
mộ của nhân dân đối với người anh hùng đã có công giải phóng họ khỏi
sự đàn áp của giặc ngoại xâm và triều đình nhà Trịnh. Sau đây là một
trong số những bài ca tiêu biểu:
“Dưới xuôi có vua
Trên này có chúa
Những miền từ Mường Puồn, Châu Ét (Sầm Nưa)
Từ Đà Bắc, Chợ Bờ
Lại từ phía Xo, Là đổ lại (Vân Nam, Phong Thổ)
Tất cả đều quy phục chúa Mường Thanh
Đất Mường Thanh rộng một giải
Nậm Rốm, Nậm U, Nậm Núa
Vây quanh thành Bản Phủ
Chúa thật lòng yêu dân
Chúa xây bản dựng mường
Mọi người mới được yên ổn làm ăn…
*
…Nghe chăng tiếng hát của quân Keo Chất trong phủ
Ngân vang khắp cánh đồng Mường Thanh bao la
Ai ơi, muốn biết xin hãy về coi
Ai ơi, có mắt hãy mở trông cho kỹ
Người Kinh cùng người Hán
Người Thái với người Lào, người Xá
Vui vẻ cùng nhau tay làm miệng hát
Ai ơi, thấy không?
Chỉ bọn giặc Phẻ cổ phải đeo gông
Dây gai bện ngang lưng thắt chặt
Ai ơi, đừng thương chi bọn gịăc
50
Đinh Khắc Thuân, sách đã dẫn, tr.83.
51
Đặng Nghiêm Vạn-Cầm Trọng: tài liệu đã dẫn, tr. 54.
29
30. Đời làm tôi tớ giành cho chúng, thật đáng lắm rồi
*
Chúa cho ta nước uống, ta được uống
Chúa cho ta cơm ăn, ta được ăn
Chúa bảo ta đắp thành, ta xây, ta đắp
Thành to thành đẹp
Thành vững đứng giữa cánh đồng
Giặc nào chẳng khiếp vía
Hào vây quanh thành, sâu hơn 10 sải
Mặt thành rộng hai chục sải tay
Ngựa đi, voi chạy, lính đứng gươm trần sáng loáng
Chúa cưỡi ngựa trên mặt thành uy nghiêm
Nào ta hãy lấy tre về trồng cho khắp
Tre Điên Biên, Chúa bảo đừng lấy
Hãy lấy tre có gai vàng như ngà
Tận miền xuôi về trồng mới tốt
Lấy hơn bốn mươi ngàn khóm
Bao quanh thành, thành vững, Chúa yên lòng…
(Phỏng dịch theo lời ca của
ông Lường Văn Ún, bản Pắc Pe)52
1.5.Thành Bản Phủ, sự kế tục đặc sắc truyền thống xây thành
của nhà Mạc.
Sau khi giải phóng Điện Biên, Hoàng Công Chất chiếm thành Xam
Mứn, tính kế cố thủ lâu dài đánh lại nhà Trịnh. Xam Mứn (Tam Vạn) là
thành do người Lự đắp từ thế kỷ 13. Thành chiếm khoảng 1/3 cánh đồng
Điện Biên, tuy lớn nhưng có nhiều nhược điểm, phòng thủ sơ sài, không
chống được các thứ súng thần công, hoả mai, chỉ phòng thủ trước mặt mà
phía sau lại trống. Vì những lý do trên mà Hoàng Công Chất quyết định
xây một toà thành khác kiên cố hơn, thành Chiềng Lè, thường gọi là Bản
Phủ, thuộc xã Noong Hẹt, Điện Biên . Thành Bản Phủ là một kỳ công của
Hoàng Công Chất, hiện nay còn di tích.
Thành rộng 80 mẫu, dựa lưng vào sông Nậm Rốm, có đường thành
đắp bằng đất trồng giống tre gai mang từ miền xuôi lên vây kín, bên ngoài
có hào rộng 4-5 thước, sâu 10 thước. Thành cao 4-6 thước, trên mặt thành
ngựa voi đi lại được . Thành có bốn cửa, tiền, hậu, tả, hữu, ở mỗi cửa có
xây đồn đắp cao, có vọng tiêu và lính canh giữ. Trong thành có khu ngoại
vi là nơi lính đóng có đào 133 cái ao hình dạng khác nhau: vuông, tròn,
tam giác, lục giác, bát giác. Hiện nay còn thấy di tích nơi nhà ở của quân
lính, nơi làm kho lương, kho vũ khí, nơi chăn ngựa, chăn voi. Giữa thành
có phủ là nơi các thủ lĩnh nghĩa quân đóng, ở đó nay dựng miếu thờ
52
Đặng Nghiêm Vạn-Cầm Trọng: tài liệu vừa dẫn, tr.53.
30