1. BÀI THẢO LUẬN CỦA NHÓM 2
Các thành viên trong nhóm:
1.Phạm Hồ Hiệp
2.Vũ Thị Hồng Ánh
3.Phạm Thụy Hương Giang
4.Phan Thành Nhân
5.Nguyễn Kiều Hương
6.Nguyễn Quốc Cường
2. Câu 1: 10 năm sau cuộc khủng hoảng người ta tiếp tục lo sợ
điều gì?
Sơ lược về khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997:
Ngày 2/7/1997 bắt đầu chính thức nổ ra cuộc khủng hoảng tài
chính tại châu Á. Vào ngày đó, Thái Lan bị cạn kiệt ngoại tệ, đã
cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình trước cuộc tấn công đầu cơ
lớn và buộc phải thả nổi đồng baht, vốn đã mất giá nhanh chóng
3. Tình trạng khủng hoảng lan nhanh khi các nhà đầu tư ồ ạt rút tiền
khỏi các nước có hiện tượng kinh tế tương tự như Thái Lan - đặc
biệt là Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc. Philppines, Singapores,
Đặc khu Hành chính Hồng Kông và vùng lãnh thổ Đài Loan cũng
bị ảnh hưởng trước dòng xoáy này. Trước đây chưa bao giờ thế giới
chứng kiến một sự rút vốn quy mô lớn và tốc độ nhanh như vậy,
khiến các thị trường tài chính và kinh tế sụp đổ.
4. Kể từ thời điểm các nước Thái Lan, Indonesia ,Philippines
,Malaysia tuyên bố thả nổi tiền tệ hay không can thiệp vào thị
trường ngoại hối đồng tiền của các nước này lập tức bị mất giá
nghiêm trọng, chỉ số chứng khoán giảm mạnh mặc dù đã có
những biện pháp mang tính tình thế để đối phó và có sự giúp đỡ
của cộng đồng tài chính quốc tế.
5. Bảng mức độ mất giá của các đồng tiền ASEAN từ tháng 4 năm
1997 đến tháng 3 năm 1998
- Đơn vị tính : %
- Thời điểm gốc là đầu tháng 4/1997
Đầu
tháng
Malaysia
Ringgit
Indonesia
Rupiah
Singapore
Dollar
Phillipine
Peso
Thailand
Baht
4/1997 0 0 0 0 0
5 -1 -1 0 0 0
6 -2 -2 0 +3 +3
7 -3 -2 0 +3 +3
8 -7 -9 -2 -9 -19
9 -15 -19 -5 -14 -23
10 -29 -30 -7 -24 -27
11 -26 -36 -9 -25 -35
12 -30 -39 -11 -25 -37
1/1998 -37 -58 -15 -35 -44
2 -45 -85 -17 -40 -53
3 -32 -74 -13 -35 -42
6. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:
-Nền kinh tế phát triển hướng ngoại quá lệ thuộc vào nước ngoài:
Sau những năm 70 các nước bị khủng hoảng đã thực hiện chính
sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu . Bản chất của chính
sách này là đẩy mạnh quá trình xuất khẩu để thu ngoại tệ. Trên
thực tế chiến lược phát triển kinh tế theo chính sách này đã tỏ ra
thành công trong suốt thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90, giúp cho các
nước này duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Song quá đề cao
chiến lược phát triển hướng về suất khẩu nên nền kinh tế các
nước đã lệ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu.
-Vay nợ nước ngoài đặc biệt là vay nợ ngắn hạn của các doanh
nghiệp quá cao và đầu tư bất hợp lý ,chủ yếu vào lĩnh vực bất
động sản,do cán cân các nước này bị thâm hụt nên gánh nợ nước
ngoài tăng vọt.
7. -Duy trì tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc theo USD
của các nước có nền kinh tế có dấu hiệu chững lại hoặc đi xuống,
trong khi nền kinh tế của Mỹ đang phát triển đã khiến cho các
nước này thay vì để đồng tiền của mình sụt giảm theo đúng giá trị
của nó lại phải tiêu tốn hàng chục tỷ USD để cố gằng duy trì mức
cân bằng giả tạo tới mức không thể kiềm giữ được nữa. Đặc biệt
là Thái Lan, việc 13 năm liền Chính phủ Thái Lan duy trì tỷ giá
cố định giữa đồng Baht và USD (khoảng 25 Baht/1 USD) là hết
sức phí kinh tế, bởi trong khoảng thời gian này, các quá trình kinh
tế thế giới và khu vực diễn ra rất mạnh mẽ, đồng đôla Mỹ ngày
càng mạnh lên, đồng Baht đã giảm xuống còn 30,27 Baht/1 USD.
Lợi dụng điều này, các nhà đầu tư đã tạo ra mức bán khổng lồ
hàng chục tỷ Baht để mua vài tỷ USD. Sức mạnh theo kiểu bán
khống để nâng cầu USD lên 100 lần so với bình thường và đẩy tỷ
giá vượt xa tỷ giá thực. Kết quả đồng Baht bị bẻ gãy.
8. -Chính phủ không kiểm soát được nợ của các ngân hàng và các
doanh nghiệp . Nợ nước ngoài bao nhiêu chính phủ không nắm rõ.
Thêm vào đó, chính phủ lại không xây dựng được khuân khổ pháp
luật về năng lực giám sát trong quá trình tự do hoá tài chính . DẪN
ĐẾN trong cơ chế quản lý bảo thủ và yếu kém như vậy , các doanh
nghiệp sản xuất đua nhau vay nợ một cách liều lĩnh, số nợ vượt quá
tổng số vốn của doanh nghiệp từ 200-400% .
- Các khoản vay nước ngoài với lãi suất thấp được đầu tư cho vay
với lãi suất cao ở hai khu vực không sinh lời trong ngắn hạn là đầu
tư bất động sản và chứng khoản. Khi thị trường bất động sản mất
giá các khoản vốn đầu tư này đã trở thành những khoản nợ khó đòi
hoặc không thể đòi được.
Khủng hoảng kinh tế 1997 là một cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ-ngân hàng và là kết quả của một nền kinh tế hướng
ngoại bị lệ thuộc nặng nề vào một số ngành công nghiệp xuất
khẩu,vào các khoảng vay nợ,đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn
bên ngoài không được kiểm soát.Trong khi đó các nước lại duy
trì một chính sách tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc
với sự vận hành của hệ thống tài chính ngân hàng yếu kém.
9. Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các
nền kinh tế Châu Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải
cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu
vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả
phương thức tăng trưởng kinh tế.
10. Chính sách tỷ giá hối đoái cũng được thay đổi bằng cách gắn
đồng nội tệ với một rổ ngoại tệ có tỷ trọng thương mại lớn
nhất chứ không còn đơn thuần chỉ gắn với một loại ngoại tệ
là USD nữa.
11. Sau một thập kỷ từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ,
nền kinh tế của khu vực Châu Á đã dần ổn định, nhưng chưa bao
giờ lấy lại được tốc độ tăng trưởng đáng nể như hồi giữa thập
niên 90. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 có thể coi
là sự cố nghiêm trọng nhất trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh
tế thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh.
12. Vậy mười năm sau cuộc khủng
hoảng,điều làm người ta tiếp tục lo
sợ là gì?
13. Vấn đề về nợ:
Mười năm sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997,một số nhà phân
tích nhận thấy bóng ma của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997
vẫn đang hiện diện trên các thị trường châu Á. Các nhà phân tích ở
châu Á đang rung những hồi chuông báo động về nợ trong vùng
đang tăng lên với một bước đáng lo lắng,tỉ lệ nợ của các nước Châu
Á có xu hướng tăng mạnh.
14. Tuy các mức nợ ở Châu Á nói chung đang còn thấp hơn ở
Châu Âu. Nhưng nợ đang leo thang nhanh chóng sẽ làm cho các
nền kinh tế dễ tổn thương trước các cú sốc và các cú trượt thình
lình. Nếu mức tăng trưởng chậm lại trong vùng trong một giai
đoạn, hoặc giả những điều kiện tiền tệ đang dễ dãi bị siết lại đáng
kể, việc nợ tăng ở châu Á có thể trở thành một vấn đề nghiêm
trọng.
15. • Tâm lý “tự phụ, tự mãn” là mối đe dọa lớn đối với sự phồn
thịnh của châu Á, bởi tình trạng lãi suất thấp kéo dài và môi
trường tài chính - tiền tệ tương đối ổn định đã gây nên tâm lý coi
nhẹ những rủi ro tiềm tàng trên thị trường tài chính - tiền tệ khu
vực thời gian qua.Dòng vốn toàn cầu đổ về châu Á có thể gây
mất ổn định trong khi nguồn thặng dư thương mại và tiết kiệm
khổng lồ của châu Á, đặt bên cạnh thâm hụt lớn của Mỹ, gây nên
bài toán mất cân bằng toàn cầu chưa có lời giải đáp.
16. Sự phát triển “bong bóng’’
Luồng vốn chảy vào các thị trường châu Á mới nổi trung bình
chiếm 6-7% GDP, cùng mức với thời điểm trước cuộc khủng hoảng
tài chính năm 1997-98. Tuy nhiên, không như hồi thập kỷ 90, hiện
nay luồng vốn phần lớn là đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài
(FDI và FPI) chứ không phải là đầu tư ngắn hạn.Dù vậy, giới lãnh
đạo tài chính châu Á đã chỉ ra rằng tỷ lệ lãi suất thấp trong suốt
một thời gian dài đã dẫn đến sự phát triển bong bóng của thị trường
chứng khoán, bất động sản, thị trường hàng hóa và hoạt động đầu
tư tư nhân.
17. Tăng trưởng kinh tế quá lệ thuộc vào xuất khẩu:
Các nước Châu Á từ trước đến nay đều tận dụng nguồn lao động rẻ
để sản xuất hàng tiêu dùng để bán cho các nước phát triển.Chiến
lược phát triển kinh tế này tỏ ra khá hiệu quả,các nước Châu Á đã
thu hút được nguồn vốn đầu tư dồi dào từ bên ngoài, tạo ra khối
lượng việc làm khổng lồ, hình thành cơ sở hạ tầng hiện đại, và sản
sinh ra sự thịnh vượng mà bản thân các quốc gia này không thể tự
mình tạo ra được.Nhưng vì quá phụ thuộc vào xuất khẩu nên nếu
nhu cầu hàng hóa của thế giới sụt giảm sẽ đặt các nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu ở châu Á vào thế điêu đứng.Và tốc độ
tăng trưởng kinh tế cũng lao dốc theo sự sụt giảm xuất khẩu.
18. Bất ổn chính trị,kích động bạo lực,căng thẳng leo thang cũng
là một nhân tố kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế,khiến cho
các nhà đâu tư lo ngại khi đầu tư vào các thị trường này.
19. Như vậy,nền kinh tế Châu Á mặc dù đã có những bước
phục hồi và phát triển đáng lạc quan sau khủng hoảng
1997 nhưng vẫn rất dễ bị tổn thương và đang đứng
trước những thách thức lớn trong bối cảnh nền kinh tế
toàn cầu không ổn định.
20. Câu 2: Bài học gì bạn có thể rút ra
cho Việt Nam?
Về phía Việt Nam, cuộc khủng là sự cảnh báo trước những
nguy cơ Việt Nam có thể gặp phải trong quá trình phát
triển kinh tế với chính sách như hiện nay. Việt Nam không
bị ảnh hưởng bao nhiêu trong cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á 1997,một phần vì kinh tế Việt Nam lúc đó còn
chưa hội nhập vào với kinh tế thế giới, một phần nữa là vì
sự kiểm soát chặt chẽ việc tư bản ngoại quốc đầu tư vào
Việt Nam. Nhưng đến năm 2007, tình hình kinh tế Việt
Nam cũng như là sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh
tế toàn cầu đã khác hẳn với cách đây 10 năm.
21.
22. • Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu
quả kinh tế quốc gia là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho
phát triển bền vững và phải trở thành một mục tiêu và chỉ tiêu
của quản lý kinh tế đất nước, quản lí ngành và mỗi doanh
nghiệp. Cần đưa ra các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuận, và tỉ suất
giá trị gia tăng trên vốn riêng của doanh nghiệp theo các ngành
, theo các thành phần kinh tế và theo địa phương trong cả
nước, đồng thời theo dõi chặt chẽ sự biến động của chỉ số
ICOR với mỗi địa phương và cả nước.
23. Thứ hai, để các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững
thì lãi suất vốn vay để đầu tư phải tương đương với hoặc nhỏ hơn
khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vậy để phát triển bền vững
,lãi suất tín dụng chủ yếu phải hình thành từ quan hệ cung cầu
vốn trên thị trường chứ không dựa vào ý chí của nhà nước. Nếu
lãi suất tín dụng nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp và
sản phẩm của doanh nghiệp có tính cạnh tranh cao, thì doanh
nghiệp có thể sẽ càng phát triển nhanh và hiệu quả kinh doanh
cao.
24. Thứ ba , cần có một tổ chức chuyên trách của chính phủ theo dõi
sự biến động của lạm phát, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong
nước và quốc tế , cán cân tài khoản vãng lai, nợ quốc gia ,hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp để đề suất chính sách và
điều tiết cần thiết, đảm bảo phát triển quốc gia bền vững với tăng
trưởng tương đối cao.
25. BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA NHÓM 2
ĐẾN ĐÂY LÀ KẾT THÚC,CẢM ƠN
THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ CHÚ Ý
LẮNG NGHE !!!