1. Chương 4: Khai thác bô-xit, sản xuất
alumin và vấn đề bùn đỏ
4.1 Bô-xit là gì?
Bô-xit (tiếng Pháp của từ “bauxite”) hay
booc-sait (tiếng Anh của từ bauxite”) là một
loại quặng nhôm (aluminium ore) có thành
phần chính là hydroxit nhôm Al(OH)3 hoặc o-
xit hydroxit nhôm AlO(OH) và các loại ô-xit
khác như ô-xít sắt (hematite Fe2O3 và
goethite HFeO2), o-xit silic SiO2, o-xit titan
TiO2, caolinit Al 2 Si 2 O 5 (OH) 4 , sét và các tạp
chất khác.
Bô-xit được đặt theo tên làng Le Baux nằm ở
phía Nam nước Pháp, nơi mà bô-xit được tìm
thấy đầu tiên vào năm 1821 bởi nhà địa chất
Piere Berthier
2. 4.2 Các loại Bô-xit
Có 3 loại bô-xit:
Gibbsite, Boehmite và Diaspore.
Gibbsite khác với boehmite và diaspore về:
Thành phần hóa học vì gibbisite chứa hydoxit
nhôm (aluminium hydroxide) Al(OH)3 còn
boehmite và diaspore chứa ô-xit hydroxit nhôm
(aluminium oxide hydroxide) AlO(OH)
3. Do đòi hỏi năng lượng lớn hơn trong quá trình
tách ô-xit nhôm từ quặng bô xít nên quặng bô-
xit loại boehmite và diaspore được coi là có
chất lượng thấp hơn so với quặng bô-xit loại
gibbsite.
Hầu hết bô-xit được khai thác hiện nay trên
thế giới là loại gibbsite.
Bô-xit ở miền Trung và Tây Nguyên của nước
ta là loại gibbsite
Bô-xit ở các tỉnh phía Bắc như Lạng Sơn, Cao
Bằng là diaspore.
Trung Quốc chỉ có bô-xit boehmite và
diaspore mà không có bô-xit gibbsite vì vậy
các nhà máy sản xuất alumin của Trung Quốc
phải nhập bô-xit gibbsite từ Indonesia.
4. 4.3 Alumin là gì?
Alumin (phiên âm tiếng Pháp của
từ “alumine”) và alumina (phiên âm tiếng Anh
của từ “alumina”) là tên gọi khác của ô-xit
nhôm Al2O3.
Alumin xuất hiện trong tự nhiên dưới dạng hợp
chất với khoáng chất khác ví dụ như trong
quặng bô-xit, đất sét, mica…
Ô-xít nhôm còn xuất hiện gần như nguyên
chất dưới dạng tinh thể được gọi là Corundum
có độ trong suốt cao là đá quý, màu đỏ được
gọi là ruby, không màu và xanh được gọi là
saphia .
5. 4.4 Công dụn g của alumin và corundum
Alumin ngoài công dụng lớn nhất là nguyên
liệu để sản xuất nhôm kim loại, nó còn được
dùng để sản xuất vật liệu xây dựng và vật
liệu chịu lửa như bột mài, đá mài, gạch chịu
lửa. gốm sứ, thủy tinh…
Hydroxit nhôm Al(OH)3 – sản phẩm họ hàng
của alumin được sử dụng trong công nghệ
lọc nước. Hiện nay Công ty Hóa Chất Cơ Bản
Miền Nam đang sản xuất hydroxit nhôm và
alumin để xuất khẩu và cung cấp cho thị
trường trong nước.
Đá quý như ruby và saphia có giá trị rất cao
trong ngành chế tác trang sức và mỹ nghệ.
Corundum không trong suốt có giá trị thấp thì
được nghiền nhỏ làm bột mài hoặc sử dụng
làm tranh đá quý như ở Việt Nam.
6. 4.5 Khai thác bô-xit
80 % lượng bô-xit trên thế giới được khai thác lộ thiên
từ các mỏ dạng vỉa (blanket deposits), còn lại từ khai
thác hầm lò (chủ yếu từ các mỏ ở Nam châu Âu và
Hungary).
Chiều dầy lớp phủ có thể từ 0 cho tới 70 m, chiều dầy
thân quặng dao động từ 1 m đến 40 m.
Các mỏ bô-xit ở Lâm Đồng, Đăk Nông có dạng vỉa
gồm những thân quặng dầy 4-5 m phân bố chủ yếu ở
khu vực đỉnh đồi và có chiều dầy lớp phủ từ 0 – 3 m.
7. Quy trình công nghệ khai thác bô-xit
lộ thiên tương đối đơn giản:
1) Phá lớp phủ thực vật
2) Bóc lớp đất phủ (lưu giữ gần nơi khai
thác)
3) Bô-xit (quặn g thô) được đào và xúc bằng
máy xúc và sau đó được vận chuyển bằng ô-
tô và băng tải tới phân xưởng tuyển rửa
(washing plant).
4) Sau khi được tuyển rửa bô-xit (quặn g tinh
hay quặn g cô đặc ) được vận chuyển bằng
băng tải về nhà máy tinh luyện alumin
(alumina refinery).
8. Để có thể hình dung được mức độ sử dụng đất trong khai thác
bô-xit ta có thể lấy ví dụ tính toán cho diện tích 1 km² của mỏ
Gia Nghĩa như sau:
Lấy hình vuông cạnh 1000 m và diện tích 1 km². Với chiều
dầy thân quặng trung bình 4 m thì ta có thể đào được 4 triệu m³
(1000 m × 1000 m × 4 m) bô-xit (quặng thô).
Với trọng lượng riêng trung bình của bô-xít là 1,6 tấn/ m³ thì
khối lượng bô-xit có thể khai thác trên 1 km² là khoảng 6,4 triệu
tấn quặng nguyên khai.
Với độ thu hồi tinh quặng sau tuyển rửa là 42,54 % thì ta có
tổng lượng quặng tinh thu được trên 1 km² là 2,7 triệu tấn.
Với hàm lượng ô-xit nhôm trung bình là 49,74% thì với 2,7
triệu tấn quặng tinh này ta có thể sản xuất được khoảng 1,3
triệu tấn alumin.
Nói cách khác việc khai thác bô-xit trên một diện tích 1 km² có
thể đủ cung cấp cho hoạt động của một nhà máy sản xuất
alumin công suất 600.000 tấn/ năm trong hơn 2 năm.
9. 4.5.1 Tuyển rửa bô-xit
Quá trình loại bỏ bớt tạp chất trong quặng để
tăng hàm lượng khoáng chất được gọi
là quá trình làm giàu quặng (beneficiation
process).
Một trong những biện pháp làm giàu quặng là
phương pháp tuyển rửa bằng nước (washing
process). Phương pháp tuyển rửa áp dụng cho
các loại bô-xít có chứa nhiều tạp chất có thể
tan trong nước như bùn sét.
Bô-xit ở Tây Nguyên có hàm lượng sét tương
đối cao vì vậy cần được tuyển rửa trước khi
đưa vào quá trình tinh luyện (refinery
process) để tách alumin.
10. Trong quá trình tuyển rửa, quặng được sàng
tuyển và rửa bằng nước, bùn sét hòa tan
trong nước và quặng có độ hạt nhỏ hơn khe
hở của lưới sàng được thải ra một hồ chứa.
Quặng thải sau quá trình tuyển rửa được gọi
là quặng đuôi (tailing). Quặng đuôi sẽ lắng
trong hồ chứa quặng đuôi, còn nước sẽ được
thu hồi đề tái chế sử dụng lại.
Theo kết quả nghiên cứu tính khả tuyển của
bô-xit mỏ Gia Nghĩa, với lưới sàng có đường
kính lỗ 1 mm, độ thu hồi của quá trình tuyển
rửa là 51,13 %, hàm lượng ô-xit nhôm tăng từ
40,3 % (của quặng nguyên khai) lên 50,51%
(của quặng tinh).
11. Quá trình tuyển rửa là cần thiết vì nó giảm chi
phí vật tư (đặc biệt là xút NaOH) và chi phí
vận hành trong công đoạn hòa tách và đồng
thời giảm lượng bùn đỏ thải ra ở công đoạn
hòa tách.
12. Cần nhấn mạnh rằng nước thải chứa quặng
đuôi cũng có màu đỏ nhưng không phải là
bùn đỏ (red mud). Do không chứa hóa chất
nên nước bùn chứa quặng đuôi không phải là
chất thải độc hại.
Với hệ số thu hồi 50 % thì cứ 2 tấn quặng
nguyên khai thì ta thu hồi được 1 tấn quặng
tinh và thải ra 1 tấn quặng đuôi.
Như vậy nếu quặng đuôi được thải ra một hồ
chứa có độ sâu trung bình 4 m (bằng chiều
dầy trung bình của thân quặng bô-xit) thì
diện tích hồ chứa cần phải bằng 50 % diện
tích mỏ đã được khai thác.
Vì vậy hồ chứa quặng đuôi phải có độ sâu
tương đối lớn để giảm diện tích chiếm đất
của hồ chứa. Lượng nước cần có cho quá
trình tuyển rửa cũng là một vấn đề cần phải
xem xét trong việc thu xếp nguồn cung cấp
nước cho sản xuất.
13. 4.5.2 Các công đoạn của quá trình sản
xuất alumin
Bản chất của quá trình sản xuất alumin là
việc tách ô-xit nhôm ra khỏi quặng bô-xit.
Quy trình công nghệ để tách ô-xit nhôm ra
khỏi quặng bô-xit được phát minh bởi Karl
Bayer năm 1887 và do vậy quy trình này
được đặt tên là quy trình Bayer.
Quy trình Bayer gồm 3 công đoạn: 1/ Hòa
tách (digestion); 2/ Kết tủa (precipitation) và
3/ Nung (calcinations).
14. Công đoạn hòa tách (digestion)
Quặng bô-xit được nghiền nhỏ và trộn với xút
(NaOH) trong thùng chứa ở nhiệt độ và áp
suất cao.
Ở nhiệt độ và áp suất cao hydroxit nhôm hòa
tan trong xút thành aluminat natri (sodium
aluminate) NaAl(OH)4 nổi lên trên còn các
thành phần khác không bị hòa tan như ô-xit
sắt, ô-xit silic, ô-xit titan và các tạp chất khác
thì lắng xuống dưới và được thải qua đáy
thùng.
Chất thải này được gọi là quặng bô-xit thải
(bauxite residue) hay bùn đỏ (red mud) vì có
chứa ô-xit sắt và có dạng sền sệt. Bùn đỏ
được rửa bằng nước để thu hồi xút trước khi
được thải ra bãi thải. Bùn đỏ được thải ở dạng
lỏng thì được gọi là thải ướt và ở dạng cô đặc
thì gọi là thải khô
15. Phản ứng hóa học của quá trình hòa tách đối
với bô-xit loại gibbsite:
Al(OH) 3 + Na + + OH - —> Al(OH) 4- + Na +
Hoặc : Al 2 O 3 .3H 2 O + 2NaOH —> 2NaAlO 2 +
4H 2 O
Công đoạn này còn có thể được gọi là công
đoạn “tiêu hóa” theo đúng nghĩa của
từ “digestion” vì nó giống quá trình tiêu hóa
thức ăn trong hệ tiêu hóa của con người
(thức ăn được nghiền bằng răng và dạ dầy và
đưa vào ruột, ở đó các chất dinh dưỡng được
hấp thụ còn cặn bã thì được thải qua ruột già
ra ngoài).
16. Công đoạn kết tủa (precipitation)
Dung dịch chứa aluminat natri NaAl(OH)4
được lọc sạch trước khi được đưa sang công
đoạn kết tủa. Công đoạn kết tủa thực chất là
một quá trình ngược của quá trình hòa tách.
Phản ứng hóa học của quá trình kết tủa là:
Al(OH)4- + Na+ —> Al(OH)3 + Na+ + OH-
Với các mầm kết tủa là các hạt ô-xit nhôm,
hydoxit nhôm Al(OH)3 kết tinh và lắng xuống
đáy thùng.
17. Công đoạn nung (calcination)
Hydroxit nhôm Al(OH)3 từ công đoạn kết tủa
được đưa sang một lò nung để tách nước và
thu được ô-xit nhôm:
2Al(OH)3 —> Al2O3 + 3H2O
19. 4.6 Bùn đỏ, lưu giữ và xử lý bùn đỏ
Bùn đỏ là quặng thải ở công đoạn hòa tách
trong quá trình sản xuất alumin. Ngoài những
thành phần vốn có trong quặng bô-xit như ô-
xit săt, ô-xit silic, ô-xit titan và các tạp chất
khác bùn đỏ còn có chứa một lượng nhỏ xút
NaOH và dung dịch aluminat natri mà không
thể thu hồi hết được.
20. Số liệu dưới đây cho ta khái niệm
chung về thành phần hóa học của bùn
đỏ:
Fe2O3 30-60%
Al2O3 10-20%
SiO2 3-50%
Na2O 2-10%
CaO 2-8%
TiO2 Nguyên tố vết -10%
21. Những vấn đề cần được quan tâm trong
việc lưu giữ và xử lý bùn đỏ
a. Việc lưu giữ bùn đỏ chiếm một diện tích
đất tương đối lớn
Lượng bùn đỏ thải ra trên một tấn alumin
thành phẩm có thể dao động từ 0,3 tấn đối
với bô-xít chất lượng cao và 2,5 tấn đối với
bô-xít chất lượng thấp.
Đối với bô-xit của mỏ Gia Nghĩa (Đăk Nông)
có hàm lượng ô-xit nhôm trung bình là
khoảng 50% thì cứ 1 tấn alumin được sản
xuất thì có 1 tấn bùn đỏ được thải ra hồ chứa.
22. Nói cách khác, cứ 4 tấn quặng nguyên khai được
khai thác thì phải thải ra hồ chứa 1 tấn bùn đỏ. Từ
đó suy ra là nếu hồ chứa bùn đỏ có chiều sâu trung
bình 4 m (bằng chiều dầy trung bình của thân
quặng bô-xit) thì diện tích hồ chứa bùn đỏ bằng ¼
diện tích khu vực mỏ đã được khai thác.
Để giảm diện tích chiếm đất hồ chứa bùn đỏ vì vậy
cần phải có độ sâu lớn. Đối với phương pháp thải
ướt (wet disposal), độ sâu tối đa của hồ chứa là 20
m. Đối với phương pháp thải khô nhiều lớp (dry
stacking disposal), độ sâu tối đa có thể đạt tới 60
m.
23. b. Việc cô lập bùn đỏ ngăn không cho rò rỉ
xuống đất hay khuếch tán ra môi trường xung
quanh
Do có chứa xút NaOH nên bùn đỏ có độ kiềm
cao (pH >12.5), vì vậy bùn đỏ cần phải được
cô lập trong hồ chứa không cho rò rỉ hay
khuếch tán ra môi trường xung quanh.
Để cô lập bùn đỏ và ngăn bùn đỏ rò rỉ người ta
xây dựng hồ chứa chống thấm hai lớp bao gồm
một lớp đất sét dầy 0.5 m và một lớp vải nhựa
PVC hoặc HDPE dầy 1.5 mm kết hợp với một
hệ thống ống đặt trên lớp vải nhựa để thu hồi
xút và dung dịch aluminat.
24. Dưới đây là ảnh chụp cảnh thi công rải lớp vải nhựa chống
thấm cho hồ bùn đỏ.
25. Do có nhiều hạt mịn nên khi khô bùn đỏ
trên bề mặt dễ bị khuếch tán vào không
khí.
Để ngăn các hạt bùn đỏ khô khuếch tán
vào không khí người ta bố trí một
hệ thống vòi phun nước quay (sprinklers
system) để đảm bảo độ ẩm bề mặt của lớp
bùn đỏ đã khô.
26. Sơ đồ phương pháp thải khô nhiều lớp của
Alcoa of Australia
27. c. Tận dụng bùn đỏ
Bùn đỏ được trung hòa (khi giảm được độ pH) có thể
được tận dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Đã
có nhiều phương pháp trung hòa bùn đỏ được áp
dụng bao gồm trung hòa bùn đỏ bằng nước biển hay
khí cac-bo-nic CO2.
Bùn đỏ sau khi được trung hòa có thể được sử dụng
làm vật liệu xây dựng, phân bón. Người ta có thể
trồng cây trên hồ chứa bùn đỏ đã được trung hòa.
28. So sánh giữa thải ướt và thải khô
Mọi cơ sở tinh luyện khoáng sản đều thải bùn ra
thiên nhiên.
Khai thác bô–xít cũng sinh ra phế liệu dưới dạng
bùn. Bùn này thường được gọi là bùn đỏ. Bùn đỏ
là cặn bã các dung dịch dùng để xử lý quặng và
tinh luyện thành sản phẩm trung gian.
Bùn là hỗn hợp những hạt sạn và vật lỏng. Vật
lỏng có chứa những chất hóa học của dung
dịch.
29. Thải “khô” là bơm bùn ra hồ chứa với hàm lượng
chất rắn rất cao, tiết kiệm diện tích bãi chứa nhưng
đòi hỏi công nghệ phức tạp.
Trước khi thải bùn ra thiên nhiên, người ta tìm cách lấy
lại tối đa vật lỏng để tái sinh những chất hóa học của
dung dịch.
Phần vật lỏng còn bám với bùn được thải ra có giá trị
kinh tế thấp hơn là chi phí của quy trình thu hồi triệt để
nó.
Người ta có thể xấy bùn cho đến khi bùn khô. Như thế
những chất hóa học sẽ bay ra khỏi bùn cùng với hơi
nước và được tụ lại để được tái sinh.
Phương pháp này được coi là an toàn, chiếm ít dung
tích để chôn vùi, tiết kiệm chất hóa học dùng trong
quy trình xử lý quặng, nhưng tốn kém vì tiêu thụ nhiều
năng lượng.
30. Thải “ướt” là bơm bùn ra hồ chứa với hàm lượng chất rắn
thấp hơn (chất lỏng >54,4%, chất rắn <45,6%), đỡ tốn
kém, nhưng rủi ro xảy ra sự cố rất cao.
Phương pháp này rẻ hơn phương pháp khô nếu
không xử lý bùn.
Nếu xử lý (đặt ra vấn đề tính vô hại của bùn đổ vào
hố). Nếu bùn có pH bằng 7 thì có thể coi là vô hại.
Nếu khác nhiều với 7 thì phải trung hòa axid hay
kiềm của bùn trước khi đổ vào hố. Lẽ dĩ nhiên những
chất hóa học dùng để trung hòa bùn là một chi phí
làm tăng giá thành của sản phẩm và, để tiết kiệm,
các xí nghiệp thường vi phạm tiêu chuẩn về pH
những phế liệu thải ra thiên nhiên.
31. Nếu không xử lý:
Do còn chứa một tỷ lệ nhất định hoá chất độc hại
như xút NaOH và dung dịch aluminat natri thường
không thể thu hồi hết được. Bùn đỏ nếu dính vào da
sẽ gây bỏng nguy hiểm cho con người (vì đây là một
dạng bỏng hoá học).
Dung dịch bùn đỏ sẽ phân ly thành nhiều pha với các
cỡ hạt khác nhau, trong đó có pha cỡ hạt siêu nhỏ
gồm các kim loại nặng độc hại sẽ ngấm xuống đất,
còn các pha cỡ hạt lớn lại không thể liên kết lại với
nhau khi gặp mưa rất nguy hiểm, dễ bị trôi lấp
Các đập của hồ bùn đỏ sẽ giống như các đập hồ
thuỷ điện, phải chịu lực do áp lực thuỷ tĩnh của bùn
đỏ ướt tạo ra, nên rất kém an toàn. Bùn đỏ có thể
gây ra sự cố nghiêm trọng (ăn mòn, dẫn đến làm
hỏng) đường ống dẫn khí hay đường sắt.
Điều đặc biệt là nguy cơ bùn đỏ làm ô nhiễm các
nguồn nước hạ lưu khi bể chứa bị vỡ
32. Từ tai hoạ bùn đỏ ở Hungary, nghĩ tới bôxít Tây
Nguyên
Ngày 4.10.2010, đập hồ chứa bùn đỏ tại mỏ khai
thác và chế biến bôxít ở Ajka, Hungary đã bị vỡ.
Gần 1 triệu m3 bùn đỏ đã tràn xuống phủ một diện
tích 40km2 và làm tan hoang nhiều khu dân cư
33. Có nơi lũ bùn đỏ với độ dày tới 2m đã nhấn chìm mọi
thứ. Báo chí Hungary cho biết, đến ngày 7.10, đã có
bốn người chết, 123 người bị thương và còn năm
người được coi là mất tích. Ba tỉnh của Hungary đã bị
đặt trong tình trạng báo động môi trường, ba con sông
bị đe doạ, bùn đỏ đã lan xuống sông Rába và đe doạ
sông Duna. Đây là thảm hoạ môi trường lớn nhất ở
Hungary
36. Cơn lũ bùn đỏ đi qua các làng mạc. Ảnh: index.hu
37. Nhà cửa của người dân phủ đầy bùn đỏ. Ảnh:
Reuters
38. Lấy mẫu bùn đỏ gần thị trấn Ajkai. Ảnh: Reuters
39. Bụi bùn khô nguy hại
Sau mấy ngày, bùn đỏ khô đã trở thành mối
nguy hiểm mới: Viện Hàn lâm Khoa học Hungary
cho biết, tác dụng phụ nguy hiểm nhất của lũ
bùn đỏ lại chính là khi bùn đã khô, bụi nhiễm
chất kiềm có thể gây bệnh nặng khi xâm nhập
đường hô hấp của con người.
40.
41. Nước nhiễm hóa chất từ dự án bôxit Tân Rai chảy
ra môi trường với bọt trắng xóa - Ảnh: LÊ DUNG
42. Nước nhiễm xút từ công trình bôxit Tân Rai
chảy ra môi trường - Ảnh: LÊ DUNG
43.
44. Ông Nguyễn Hoài Anh, trưởng Phòng TN-MT
huyện Bảo Lâm, cho biết: “Ước tính có khoảng
200ha đất trồng cà phê, trà và ao nuôi cá của
người dân bị ảnh hưởng. Khi nhận được tin
báo của người dân, chúng tôi đã đến kiểm tra.
Lần theo nguồn nước thì xác định được nước
chảy ra từ cửa xả nước của đường cống ngầm
khu vực nhà máy. Qua kiểm tra bước đầu, độ
pH trong mẫu nước lấy tại miệng cống cao
vượt tiêu chuẩn cho phép (pH=12,6 so với quy
chuẩn Việt Nam là từ 6-9). Cũng may nhiều
ngày qua trên địa bàn luôn có mưa nên nguồn
nước nhiễm độc đã được pha loãng đáng kể”.
47. Theo tính toán của các chuyên gia, chỉ tính riêng trữ lượng
dầu khí ngoài khơi miền nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ
lượng dầu dưới đáy biển Đông.
Có thể khai thác từ 30-40 ngàn thùng/ngày (mỗi thùng 159
lít) khoảng 20 triệu tấn/năm. Đây là nguồn năng lượng chính
đảm bảo cho sự phát triển của nước ta.
48. Theo kết quả thăm dò và thẩm định trữ lượng của Petrovietnam
thì vùng biển Việt Nam có 524 triệu m3 dầu và 730 tỉ m3 khí.
Chất lượng dầu khí ở các mỏ của nước ta được xếp vào loại
khá tốt, chủ yếu là dầu thuộc loại nhẹ. Trong đó:
- Bể sông Hồng có trữ lượng 400 triệu m3 dầu quy đổi, bao
gồm các mỏ đang khai thác như mỏ Bạch Hổ, Rồng, Rạng
Đông, Hồng Ngọc, Sư tử Đen- Sư tử Vàng…
- Bể Phú Khánh có trữ lượng 500 triệu m3 dầu quy đổi;
- Bế Cửu Long có trữ lượng 800 triệu m3 dầu quy đổi;
49. - Bể Nam Côn Sơn với trữ lượng 900 triệu m3 dầu quy đổi, là bể
có cả dầu lẫn khí. Các mỏ đang đang khai thác là: Đại Hùng và
mỏ khí Lan Tây-Lan Đỏ và một số mỏ khí khác;
- Bể Malay-Thổ Châu phát hiện cả dầu và khí trong đó các mỏ
dầu – khí: Bunga Kekwa – Cái Nước, Bunga Raya, Bunga
Seroja ở vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia đang được
khai thác. Bể này có trữ lượng 600 triệu m3 dầu quy đổi.
50. Hoạt động khai thác dầu khí Việt Nam chủ yếu tập trung tại
vịnh Bắc Bộ, vùng cửa Vịnh Bắc bộ, vùng biển Tây Nam, vịnh
Thái Lan.
Dầu khí đã trở thành một trong những ngành mang lại nhiều
ngoại tệ bậc nhất của nước ta.
Với sản lượng 362.000 thùng/ngày, Việt Nam là một trong
những nước có sản lượng dầu dẫn đầu trong khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương sau Trung Quốc (3.836.000 thùng/ngày),
Indonesia (1.100.000 thùng/ngày), Ấn Độ (874.000
thùng/ngày), Malaysia (723.000 thùng/ngày) và Australia
(555.000 thùng/ngày).
Tổng doanh thu ngành dầu khí đạt mức 264,02 nghìn tỷ đồng,
chiếm 15% GDP cả nước; nộp NSNN hơn 91 nghìn tỷ đồng
(2009).
51. Bên cạnh những lợi ích mà khai thác dầu khí đạt được, hệ quả
ô nhiễm môi trường biển từ việc khai thác dầu cũng là vấn đề
đáng lo ngại hiện nay.
Từ năm 1987 đến năm 2008, có hơn 90 vụ tràn dầu trên vùng
biển qua 20 tỉnh từ đảo Bạch Long Vĩ xuống tới Cà Mau, gây
tổn thất lớn về sinh thái và kinh tế xã hội
52. Dò rĩ dầu từ các giàn khoan cũng góp phần làm cho môi trường
biển ngày càng xấu đi. Đặc biệt khu vực miền Trung, cứ 3-4
tháng hàng năm lại xuất hiện dầu tràn không rõ nguyên nhân.
Các tàu chở dầu làm thoát ra biển tới 0,7% tải trọng của chúng
trong quá trình vận chuyển thông thường.Lượng dầu này sẽ
theo chiều gió tấp vào bờ biển Việt Nam.
53. Chính những vết dầu loang này đã gây ô nhiễm nghiêm trọng
vùng biển ven bờ gây chết hàng lọat các sinh vật nổi. các hệ
sinh thái biển như san hô, rừng ngập mặn… bị suy thóai gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học biển, làm
giảm , kéo theo hàng lọat giảm trữ lượng sinh vật biển, tăng
chất ô nhiễm trong các thực phẩm lấy từ biển… Ngòai ra, nó
cũng gây ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống kinh tế của cư
dân ven các vùng biển.