xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Thực tế về hoạt động tình dục ở con người
1. Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con
Người
George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.
Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang
Mục lục
Lời nói
đầu .....................................................
......................................
Chương 1. Hoạt động tình dục Và Quan
điểm Tâm sinh lý xã hội ...........
Chương 2. Nghiên cứu về Tình dục là
gì?...............................................
Chương 3. Các khuôn mẫu, Vai trò và
Nhận dạng về Giới .....................
Chương 4. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý
của Phụ nữ. ............................
Chương 5. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý
của Nam giới ..........................
2. Chương 6. Hưng phấn tình dục và Phản
ứng lại......................................
Chương 7. Thiên hướng Tình
dục......................................................
.....
Chương 8. Các mối quan hệ Yêu
đương................................................
Chương 9. Hành vi Tình
dục.......... ...........................................
............
Chương 10. Hoạt động tình dục, Sức khỏe
và Sự tàn tật........................
Chương 11. Hoạt động tình dục Và Vòng
đời.........................................
Chương 12. Thụ thai, Mang thai và Sinh
nở.............................................
Chương 13. Tránh thai và Nạo phá
thai...................................................
Chương 14. Các bệnh lây truyền qua
đường Tình dục..............................
3. Chương 15. Rối loạn Tình dục và Cách
chữa trị.......................................
Chương 16. Tình dục đồi
trụy.. ..................................................
.............
Chương 17. Chợ
tình .....................................................
.........................
Chương 18. Hoạt động tình dục và Luật
pháp..........................................
Đôi nét về Các tác
giả ......................................................
......................
Lời nói đầu
Chào mừng các bạn đến với thế giới hấp
dẫn của tình dục học - nghiên cứu khoa
học về hoạt động tình dục ở con người.
Bằng cách lựa chọn đọc cuốn Thực tế về
Hoạt động Tình dục ở Con người, bạn
đã chấp nhận thách thức tìm hiểu về các
khía cạnh tình dục để đưa ra những quyết
định mang tính hiểu biết về tình dục.
Chúng tôi thực sự hi vọng rằng, những
4. thông tin được trình bày trong các chương
sau của cuốn sách sẽ giúp bạn làm được
điều này.
Bạn có thể sẽ băn khoăn không biết lý do
tại sao chúng tôi lại viết cuốn sách này.
Đã từng trải qua thời sinh viên và giảng
viên đại học, chúng tôi đã thấy rất nhiều
tài liệu về giáo dục tình dục giành cho
người lớn, đặc biệt là những cuốn sách
giáo khoa trong trường đại học, những tài
liệu đó ở chừng mực nào đó có thể rất cụ
thể, giản dị thái quá, mang tính chính trị,
mang tính kinh nghiệm hay có thể bị phản
đối. Từ cách nhìn của chúng tôi thì hầu
hết các tài liệu về giáo dục giới tính hoặc
là (1) quá mang tính học thuật, (2) đơn
giản một cách khiếm nhã, (3) thiên về
tính chính trị, (4) quá "sôi nổi và thô ráp,"
hay (5) "chỉ dành cho độc giả là người
lớn." Chúng tôi không đồng tình với tất cả
năm cách tiếp cận trên. Thay vào đó,
chúng tôi tin rằng điều quan trọng đối với
những tài liệu giáo dục giới tính giành cho
người lớn là cần phải dễ hiểu, thực tế và
khoa học, nhưng nó cũng cần trung tính
trong cách thể hiện, trình bày.
5. Mục đích của chúng tôi là viết cuốn Thực
tế về Hoạt động Tình dục ở Con người
một cách súc tích, dễ đọc, không mang sự
thành kiến về giới tính, không có những
chi tiết thừa thãi, và không có những bình
luận xã hội chạy theo mốt. Nhằm mục
đích khuyến khích những suy nghĩ có tính
phê phán và độc lập, chúng tôi đã giới
thiệu những chủ đề mang tính tranh cãi
trên quan điểm có sự cân nhắc, trình bày
ý kiến của cả hai bên một cách bình đẳng
và công bằng. Chúng tôi cũng sắp xếp bài
viết theo tính học thuật, xem xét các nhân
tố sinh lý, tâm lý và xã hội của các khía
cạnh khác nhau trong hoạt động tình dục
ở con người. Sự khác biệt và ảnh hưởng
của văn hóa cũng được trình bày một cách
cẩn thận. Chúng tôi chọn việc tiếp cận tài
liệu mang tính chỉnh thể luận; bạn sẽ thấy
những vấn đề về giới, toàn bộ những vấn
đề liên quan đến xu hướng tình dục, và sự
đa dạng của các quan hệ yêu đương trước
khi bắt đầu đọc các tài liệu về hoạt động
tình dục. Những chương nói về hành vi
tình dục được sắp xếp lại với nhau, nó bao
quát những điều liên quan đến tình dục và
6. thách thức cá nhân trong suốt đời người.
Điều này rất phù hợp với khái niệm thảo
luận về các hành vi tình dục trên phạm vi
rộng theo kinh nghiệm của con người. Sự
đa dạng trong các tương tác về tình dục ở
cá nhân và cả xã hội được trình bày ở
những chương còn lại, những chương còn
lại còn bao gồm cả tài liệu về các bệnh lây
truyền qua đường tình dục. Cuốn sách này
được kết thúc bằng một chương sâu sắc
về các vấn đề luật pháp, đạo đức và quy
phạm liên quan đến tình dục. Tóm lại,
chúng tôi hi vọng rằng quyển sách này sẽ
đóng một vai trò hữu ích trong việc giáo
dục giới tính toàn diện cho các bạn.
Trong những trang tiếp theo đây, chúng
tôi xin trình bày một cách tổng quan
những bài giảng tiêu biểu dành cho sinh
viên về hoạt động tình dục ở con người.
Theo cách đó cuốn Thực tế về Hoạt
động Tình dục ở Con người có thể phục
vụ cả hai mục đích, vừa là sách hướng dẫn
cho sinh viên đại học, những người muốn
có tài liệu bổ sung thêm cho các cuốn
sách giáo khoa về tình dục mà họ đã có,
7. vừa là sách tham khảo thông tin cho các
độc giả quan tâm.
Một lần nữa, chào mừng các bạn đến với
thế giới tình dục học!
George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.
Tác Giả
George D. Zgourides, Tiến Sĩ Y Khoa, là
một nhà bác sĩ lâm sàng, một nhà giáo
dục và mục sư chuyên về tâm lý tinh
thần-thể xác, hoạt động tình dục ở con
người, các rối loạn do lo lắng, các vấn đề
của mục sư và tiếp cận y học Phương
Đông để chữa bệnh. Ngoài việc viết hơn
30 bài báo và báo cáo về nhiều chủ đề
khác nhau, Tiến sĩ Zgourides còn là tác giả
của một số cuốn sách bao gồm Hoạt động
Tình Dục ở Con Người: Viễn cảnh hiện tại
(HarperCollins, 1996), Tâm Lý Học Tiến
Triển (Cliffs Notes, 2000), Xã hội học
(Cliffs Notes,2000), và Hội Chứng Bong
Bóng Nhút Nhát: Hướng Dẫn Từng Bước
Từng Bước Để Vượt Qua Paruresis (Nhà
8. xuất bản New Harbinger, 2001). Trước
đây, ông từng là giảng viên chính thức của
Đại học Portland, bang Oregon.
Christie S. Zgourides, M.A., là một nhà sư
phạm và người quản lý y tế trên các lĩnh
vực tư tưởng phê phán, logic phi-quy-ước,
lý thuyết cấu tạo, tu từ học và quản lý y
tế. Trước đây, bà là phó giáo sư của Đại
học Warner Pacific College ở Portland,
bang Oregon.
Chương 1
Hoạt Động Tình Dục Và Quan Điểm
George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.
Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang
Tâm Sinh Lý Xã Hội
Hầu hết mọi người Mỹ đều có sự hiểu biết
mang tính trực giác về nghĩa của cụm từ
hoạt động tình dục của con người. Đối với
9. nhiều người hoạt động tình dục đơn thuần
là theo đuổi thú vui xác thịt. Đối với
những người khác, nó là chức năng sinh lý
- một vấn đề liên quan đến giới và sinh
sản. Và đối với những người khác thì nó là
sự thân mật - một phương tiện để thể
hiện tình yêu. Nếu bạn yêu cầu 10 người
đưa ra định nghĩa của họ về tình dục thì
bạn có thể nhận được ít nhất 10 câu trả lời
khác nhau.
Tất cả các nền văn minh đều xây dựng
cho mình những định nghĩa về tình dục và
cách miêu tả những hành vi tình dục, cho
dù những cách này không phải lúc nào
cũng nhất quán với các thuật ngữ và cách
miêu tả của Phương Tây. Từ sexual (tình
dục) trong Tiếng Anh bắt nguồn từ tiếng
La Tinh sexualis và sexus, mỗi từ nói đến
vấn đề giải phẫu sinh sản ở người - dù cho
là nam hay nữ. Đến thế kỷ 19, từ
sexuality (hoạt động tình dục) bao gồm cả
các hành vi liên quan đến cơ quan sinh
dục phục vụ mục đích sinh sản. Khoảng
100 năm trước sexuality (hoạt động tình
dục) hay sex (tình dục, giới) không chỉ
được dùng để nói đến các hoạt động liên
10. quan đến procreational (sự sinh sản) (có
nghĩa là sinh con), mà còn được dùng để
nói đến recreational (sự tiêu khiển) (quan
hệ tình dục vì mục đích vui thú) và
relational(quan hệ) (tận hưởng tình yêu
và sự thân mật).
Vì sử dụng thuật ngữ sexual (tình dục) có
thể gây nhầm lẫn nên trong cuốn sách
này chúng tôi sử dụng từ sex (tình dục,
giới) để nói đến các hành vi tình dục (ví
dụ "quan hệ tình dục") và bản chất sinh
học ("Giới tính của đứa trẻ là nữ"), trừ khi
trong bối cảnh của đoạn viết từ sex được
dùng như từ rút ngắn cho hai từ chuẩn tắc
là sexual (tình dục) và sexuality (hoạt
động tình dục) ("giáo dục tình dục",
"nghiên cứu tình dục," và "trị liệu tình
dục"). Chúng tôi cũng sử dụng từ gender
(giới) để nói đến việc giải phẫu tình dục
của cá nhân và các khía cạnh tâm lý của
nam hay nữ; gender identity (nhận dạng
giới) được dùng để chỉ ý thức cá nhân của
từng người về việc bản thân là nam hay
nữ; gender role (vai trò về giới) để chỉ sự
thể hiện bên ngoài về nhận dạng giới của
một người đặt trong bối cảnh văn hóa hay
11. xã hội; và sexual orientation (xu hướng
tình dục) để nói đến sự hấp dẫn tình dục
của một cá nhân đối với những người cùng
giới và/hay khác giới. Chúng tôi cũng sử
dụng từ sexual identity (nhận dạng tình
dục) để nói về tất cả những điều này.
Với sự xuất hiện của các phương pháp
nghiên cứu tinh vi, việc hiểu biết về tình
dục đã tăng lên một cách đáng kể trong
những thập niên gần đây. Nhiều chuyên
gia bây giờ đã coi hoạt động tình dục của
con người là một lĩnh vực nghiên cứu khoa
học nghiêm túc . Và mặc cho tính sẵn có
của nhiều thông tin mới thì rõ ràng rằng
môn khoa học về hoạt động tình dục ở con
người là thuộc chỉnh thể luận, và do đó nó
bao gồm nhiều quan điểm khác nhau. Việc
tiếp cận theo hướng chỉnh thể luận đối với
các vấn đề về tình dục liên quan đến
những ảnh hưởng mang tính xã hội, tâm
lý và sinh lý mà những mặt này tác động
qua lại với nhau, hình thành nên kinh
nghiệm tình dục của một người. Những
ảnh hưởng tác động qua lại với nhau này
sẽ được đề cập cụ thể hơn ở phần sau của
chương này và trong suốt cuốn sách này.
12. Mọi người đều có liên quan đến tình dục từ
lúc sinh ra cho đến khi chết đi. Cho dù
một số người chọn việc sống độc thân
(không quan hệ tình dục), nhưng họ vẫn
là những thực thể tình dục. Hơn nữa, con
người là năng động và thay đổi không
ngừng. Người càng có nhiều trải nghiệm
trong cuộc sống càng thay đổi thái độ của
họ về vấn đề tình dục.
Cho dù kinh nghiệm của từng người về
tình dục là khác nhau nhưng có các xu
hướng và kiểu mẫu chung đối với kinh
nghiệm về tình dục của mọi người. Khả
năng giải thích và hiểu những kiểu mẫu và
xu hướng tình dục này sẽ giúp chúng ta
hiểu sâu hơn về hoạt động tình dục của
người khác cũng như của chính bản thân
mình. Nhiều người quên mất rằng, sinh
hoạt tình dục ở con người là một hiện
tượng mang tính toàn cầu chứ không phải
là thú vui của chỉ người Mỹ.
Do đó, tình dục học là một môn khoa học
đòi hỏi coi con người của mọi nền văn hóa
như thực thể tình dục trong quá trình,
nhận biết sự tác động qua lại của các khía
13. cạnh sinh lý, tâm lý và xã hội ảnh hưởng
đến quá trình này. Cái nhìn khái quát toàn
diện về lĩnh vực tình dục bao gồm các
thảo luận về nghiên cứu tình dục, nhận
dạng giới, vai trò của tình dục, giải phẫu
sinh lý và tình dục, việc gợi tình và sự đáp
lại, xu hướng tình dục, các quan hệ yêu
đương và giao tiếp, hành vi tình dục, hoạt
động tình dục và sự bất lực, hoạt động
tình dục trong suốt quãng đời, thụ thai,
mang thai, sinh đẻ, tránh thai, phá thai,
các bệnh lây truyền qua đường tình dục,
rối loạn tình dục và phương pháp điều trị,
sự khác biệt về tình dục, buôn tình, quấy
rối tình dục, ngược đãi tình dục và những
chuẩn mực luật pháp, quy phạm liên quan
đến tình dục.
Trong những chương tiếp theo, chúng tôi
sẽ trình bày những điều này và các chủ đề
liên quan đến tình dục khác.
TẠI SAO CẦN NGHIÊN CỨU HOẠT
ĐỘNG TÌNH DỤC CỦA CON NGƯỜI ?
Tại sao cần nghiên cứu hoạt động tình dục
ở con người? Những người tránh né việc
14. suy nghĩ một cách nghiêm túc về những
khía cạnh quan trọng của cuộc sống, bao
gồm cả sinh hoạt tình dục của họ, là
những người có khuynh hướng đưa ra
những quyết định tồi khi phải đối mặt với
những tình huống rắc rối. Học cách đưa ra
những quyết định hợp lý, có hiệu quả về
tình dục là mục tiêu đầu tiên của việc
nghiên cứu hoạt động tình dục ở con
người. Chúng tôi xin trích dẫn câu nói của
Susan Walen (1985)1, "Tình dục là hoàn
toàn tự nhiên, nhưng hiếm khi được hoàn
hảo một cách tự nhiên" (trang 131). Mọi
người đều có thể thu được lợi ích từ việc
học thêm về chủ đề quan trọng này.
Dưới đây là 10 trong số nhiều lý do tại sao
mọi người nên học thêm về hoạt động tình
dục ở con người.
Để có thêm kiến thức
Kiến thức là sức mạnh. Nếu bạn có những
thông tin đúng đắn về một chủ đề, bạn sẽ
ở một vị thế vững chắc hơn để đưa ra
những quyết định đúng đắn, có hiệu quả
trong cuộc sống. Bạn có thể chịu trách
15. nhiệm hơn với cuộc sống và hoàn cảnh
của mình, và có thể lựa chọn cách để
nâng cao chất lượng cuộc sống cho chính
bạn và người khác.
Để có được Sự sáng suốt Cá nhân
Vì niềm tin của bạn có ảnh hưởng đến
cách cư xử của bạn và ngược lại, nên sự
sáng suốt cá nhân sẽ giúp bạn đưa ra
những quyết định đúng đắn về hành vi xư
xử của mình. Có được sự sáng suốt đối với
bản thân và hiểu lý do tại sao bạn tin hay
làm việc gì đó là bước đầu tiên để hiểu
thấu được người khác. Khi bạn hiểu và
chấp nhận bản thân mình, bạn sẽ thấy dễ
dàng hơn trong việc hiểu và chấp nhận
người khác, bao gồm cả những quyết định
liên quan đến tình dục mà họ có thể đưa
ra.
Để trở nên Thoải mái hơn Đối với vấn
đề Tình dục
Có kiến thức - và sự tôn trọng đối với -
tình dục giúp bạn trở nên thoải mái hơn
với phần quan trọng này của cuộc sống.
Nhiều người thiếu tự tin vào bản thân
16. trong quan hệ tình dục, sự không thoải
mái của họ bắt nguồn từ những thông tin
sai lạc và quan niệm sai lầm về tình dục.
Đây là một trong những lý do cho thấy tại
sao giáo dục tình dục lại quan trọng như
thế.
Để xây dựng Sự tự công nhận về Tình
dục
Xây dựng sự tự công nhận về tình dục là
một lợi ích của việc trở nên thoải mái hơn
với hoạt động tình dục của chính bản thân
mình. Mọi người thường nhầm lẫn giữa các
từ tự nhận thức, lòng tự trọng và tự công
nhận. Tự nhận thức dùng để chỉ những
quan điểm và ý kiến mà bạn cho là của
bản thân, cho dù chúng có tích cực hay
tiêu cực. Lòng tự trọng liên quan đến
những cảm giác về sự tự giá trị, và nghĩa
rộng là đo lường những tiêu chuẩn bên
trong hay bên ngoài. Sự tự công nhận
dùng để chỉ mức độ mà bạn chấp nhận
bản thân như nó vốn có bất kể ý kiến của
người khác về hành vi cư xử của bạn có
như thế nào ( có nghĩa là "sự thể hiện"
của bạn, sử dụng tâm lý học nhận thức).
17. Albert Ellis và các nhà tâm lý học khác
tranh cãi với nhau rằng sự tự công nhận
được ưa chuộng hơn lòng tự trọng. Lòng
tự trọng liên quan đến việc đánh giá bản
thân dựa trên sự thể hiện của bạn, điều
này có thể dẫn đến cảm giác không thỏa
đáng trong tình dục khi bạn thể hiện
"kém". Ngược lại, sự tự công nhận có
nghĩa là chấp nhận bản thân như nó vốn
có, không quan tâm đến những lỗi lầm
hay điểm yếu của bạn. Khả năng tình dục
của bạn, cho dù có thế nào, cũng không
ảnh hưởng đến cách bạn nhìn bản thân.
Để Tối đa hóa việc Trao đổi và Sự thân
mật
Nhiều người cho rằng nói những chuyện
có liên quan đến tình dục gây bối rối, suy
nghĩ như vậy bắt đầu từ thời thơ ấu. Các
kỹ năng giao tiếp, một khi đã được học và
áp dụng vào thực tế, có thể giúp bạn cải
thiện mối quan hệ của bạn với bạn tình
của mình. Nói chuyện về kinh nghiệm tình
dục của bạn là cần thiết, trao đổi về các
vấn đề như thích, không thích, mong
muốn, và sợ hãi, sẽ giúp quan hệ tình dục
18. an toàn hơn. Khi trao đổi cởi mở, sự thân
mật xuất hiện và tăng lên. Có khả năng
chia sẻ bản thân toàn diện với người khác
là một trong những điều thú vị nhất của
cuộc sống. Theo một khách hàng:
Ghi chép Cá nhân (John, 66 tuổi)
Khi tôi trở nên già hơn, tôi chậm chạp
hơn trong phòng ngủ.Tôi cho đó là
điều tự nhiên. Nhưng trong một thời
gian dài, tôi lo lắng không biết vợ tôi
sẽ nghĩ gì. Ý tôi là, không hiểu cô ấy
có còn nghĩ rằng tôi là đàn ông nữa
không? Liệu cô ấy có còn yêu tôi
không? Và lo lắng đó khiến cho việc
quan hệ thậm chí khó khăn hơn. Cuối
cùng, tôi đã thấy rằng chúng tôi cần
nói chuyện về vấn đề đó. Chúng tôi đã
biến một câu chuyện dài thành ngắn
và đúng là có sự khác biệt. Cô ấy hiểu
và sẵn sàng giúp đỡ tôi. Tôi đã quyết
định rằng sẽ tốt hơn khi sử dụng năng
lượng của mình để nói chuyện về cảm
giác của mình thay vì cố gắng che
giấu chúng. (Hồ sơ của Tiến Sĩ
Zgourides)
19. Trao đổi có thể rất có ích trong việc làm
giảm hay loại bỏ những xung đột trong
các mối quan hệ chung. Mặc dù các cặp vợ
chồng thường phàn nàn về các vấn đề liên
quan đến tiền nong và tình dục, nhưng
phần lớn thời gian vấn đề thực sự không
được giải quyết bằng các phương pháp
trao đổi hiệu quả. Mọi người thường thấy
vấn của họ được giải quyết dễ dàng hơn
khi họ sẵn sàng nói chuyện cởi mở với
người khác.
Để Tối đa hóa Khoái lạc Tình dục
Đối với hầu hết mọi người, hoạt động tình
dục mang lại niềm vui thích mãnh liệt.
Làm tăng hiểu biết của bạn về sự kích
thích tình dục ở con người và cách đáp lại
có thể làm tăng thêm sự khoái lạc này. Ví
dụ, biết cách làm thế nào để khích thích
những điểm nhạy cảm đặc biệt của bạn
tình có thể tạo ra sự khác biệt cho dù cả
hai bạn đều có những trải nghiệm tình dục
thú vị dịu dàng hay ở trạng thái mê ly,
ngây ngất, vui vẻ, hồ hởi. Như đã đề cập ở
trên, trao đổi đóng một vai trò rất quan
trọng ở đây. Khi bạn tự do bày tỏ những
20. điều bạn thích và mong muốn của bạn thì
sự ức chế có xu hướng biến mất. Bạn và
bạn tình của mình có thể hỏi về bất kỳ
điều gì khiến bạn cảm thấy thỏa mãn
nhất.
Để Kiểm soát được việc Sinh sản
Nghiên cứu về hoạt động tình dục ở con
người cung cấp cho bạn những thông tin
thực tế về việc kiểm soát sinh sản. Với
những thông tin này, bạn có thể nâng cao
hay làm giảm cơ hội thụ thai của mình. Ít
người có đủ những thông tin thực tế có giá
trị liên quan đến việc sinh sản.
Để Tránh những Rối loạn Tình dục
Ở một chừng mực nào đó, hầu hết mọi
người đều đã từng trải qua những khó
khăn trong hoạt động tình dục. Phần lớn
những giai đoạn khó khăn đó đều là tạm
thời. Nhưng nếu những khó khăn đó trở
thành mãn tính thì rối loạn tình dục (vấn
đề liên quan đến các cơ chế gợi tình và sự
đáp lại) có thể đã xuất hiện. Khi có những
thông tin chính xác, các rối loạn tình dục
thường có thể được tránh hay loại bỏ ở
21. giai đoạn đầu khi mới xuất hiện. Ví dụ,
một người đàn ông có một giai đoạn bị
bất lực (không có khả năng đạt được sự
cương cứng) có thể sẽ lo sợ mình sẽ bị bất
lực mãi mãi đến nỗi anh ta không thể
cương cứng bất kỳ khi nào có quan hệ.
Nếu điều này cứ tiếp diễn, anh ta có thể
sẽ phát triển nó thành bệnh rối loạn
dương cương. Tương tự như vậy, một
người phụ nữ tập trung quá mức vào việc
làm thế nào để trở nên gợi tình có thể sao
nhãng bản thân đến mức việc gây hứng
thú tình dục trở nên rất khó khăn hoặc
không thể làm được. Nếu tình trạng này
tiếp diễn, cô ta có thể sẽ mắc chứng rối
loạn ham muốn tình dục ở phụ nữ. Trong
cả hai trường hợp, những dạng thức của
vòng luẩn quẩn là kết quả của việc dự
đoán sự hoàn thành ước nguyện của mình,
mà ở đó sự sợ hãi và kỳ vọng của một
người thực sự đã đi đến chỗ gay go.
Để Tránh những Bệnh Lây truyền qua
đường Tình dục
Nghiên cứu về hoạt động tình dục ở con
người phải bao gồm cả chủ đề liên quan
22. đến những bệnh lây truyền qua đường
tình dục, nhiều bệnh trong số những bệnh
này đã phát triển thành bệnh dịch, có thể
gây chết người, có thể có ảnh hưởng tiêu
cực đến khả năng sinh ra những đứa trẻ
khỏe mạnh của hai vợ chồng, và/hoặc có
thể gây những đau đớn phiền toái. Bởi
vậy, trước khi có quan hệ tình dục, mọi
người cần phải xem xét nguy cơ bị nhiễm
các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Vào "thời điểm nóng", nhiều người, đặc
biệt là các bạn trẻ thường quên không để
ý đến các bệnh lây truyền qua đường tình
dục. "Điều đó sẽ không bao giờ xảy đến
với tôi. Tôi không phải là đối tượng có
nguy cơ cao. Tôi không phải là kẻ tiêm ch
ma túy." Hay "Tôi ghét sử dụng bao cao
su. Dù sao đi nữa, cũng chẳng phải là vấn
đề gì lớn nếu ngày nào đó tôi bị mắc bệnh
lậu. Chỉ cần tiêm penicillin là xong." Cảm
giác không thể bị đánh bại thường là đặc
điểm của những người trẻ tuổi. Hãy nhớ
rằng những bệnh lây truyền qua đường
tình dục càng trở nên phổ biến thì nguy cơ
nhiễm bệnh lại càng cao nếu như một
người không áp dụng các biện pháp phòng
23. tránh thích hợp.
Để Mang đến những Thay đổi Xã hội
Tích cực
Bằng việc cải thiện bản thân và những
mối quan hệ của mình, bạn đang làm việc
để cải tạo xã hội. Bất kỳ những thay đổi
tích cực và lành mạnh nào mà bạn làm đối
với bản thân cũng sẽ ảnh hưởng đến sự
tương tác của bạn với những người khác.
Ví dụ, bằng việc trang bị những thông tin
và với sự sáng suốt của bản thân bạn có
thể làm việc để phòng chống sự lan truyền
của những bệnh lây qua đường tình dục;
bạn có thể giúp người khác hiểu hơn về
những người thuộc những chủng tộc, tôn
giáo và những nền văn hóa khác họ; và
bạn có thể dạy người khác biết tôn trọng
sự khác biệt về đức tin, giá trị, quyền lợi
và sự lựa chọn quan hệ. Bạn cũng có thể
gánh những trách nhiệm xã hội và chính
trị để cung cấp thông tin khi tranh luận
liên quan đến những vấn đề về tình dục
nảy sinh, chẳng hạn như việc sử dụng bào
thai trong nghiên cứu y học, việc sử dụng
"thuốc phá thai" RL-486 và những nỗ lực
24. coi đồng tính nam và đồng tính nữ là
chuyện bình thường.
Suy nghĩ Cá nhân
(Trong suốt cuốn sách này, chúng tôi
đã trình bày nhiều câu hỏi gây suy
nghĩ khác nhau để làm tăng nhận
thức của bạn về các vấn đề tình dục.
Nhiều người thấy rằng việc giữ lại
những câu trả lời của họ đối với
những câu hỏi khác nhau "Suy nghĩ
cá nhân" được nêu ra trong cuốn sách
này là một việc làm hữu ích - dưới dây
là những câu hỏi mà chúng tôi đưa
ra.)
Bạn có dễ dàng nói chuyện cởi mở về
tình dục với những người bạn?Với gia
đình? Với người hướng dẫn? Với bạn
đời? Với mục sư? Với các chuyên gia
chăm sóc sức khỏe của mình không?
Tại sao có? Hay tại sao không? Bạn dã
học để biết về tình dục từ đâu? Hay từ
ai? Ảnh hưởng nào có tác động lớn
nhất trong việc hình thành các giá trị
và thái độ của bạn đối với vấn đề tình
25. dục? Bạn cảm thấy những điều mình
học được là đúng đắn hay không đúng
đắn?
Những điều tán thành và phản đối đối
với giáo dục giới tính là gì?Có nên
giảng dạy môn giáo dục giới tính ở
trường phổ thông của nhà nước, của
tư nhân không? Nếu có thì nên giảng
ở lớp mấy? Vai trò của gia đình và tôn
giáo trong quá trình giáo dục giới tính
là gì? Những yếu tố nào là quan trọng
để có một chương trình giảng dạy
giáo dục giới tính hay? Những yếu tố
nào cần tránh? Người hướng dẫn có
thể giúp hay gây cản trở suy nghĩ cá
nhân hay thảo luận nhóm về vấn đề
tình dục như thế nào?
QUAN ĐIỂM TÂM SINH LÝ XÃ HỘI LÀ
GÌ?
Định nghĩa về tình dục học được nêu ra ở
trên nói đến mối tương quan giữa các
quan điểm về sinh lý, tâm lý và xã hội.Sự
tác động qua lại của ba yếu tố này hình
thành nên bản chất quan điểm tâm sinh
26. lý xã hội của hoạt động tình dục ở con
người, mà quan điểm này quy những hiện
tượng hay sự kiện phức tạp liên quan đến
tình dục là do nhiều nguyên nhân. Trái
ngược với quan điểm tâm sinh lý xã hội là
quan điểm giản hóa luận, quan điểm này
"làm giảm" những sự kiện hay hiện tượng
phức tạp liên quan đến tình dục, cho nó là
do một nguyên nhân.
Xem xét ví dụ áp dụng mô hình tâm sinh
lý xã hội vào hoạt động tình dục của con
người. Một số phụ nữ thấy khó khăn hoặc
không thể đạt được sự cực khoái khi quan
hệ tình dục. Loại vấn đề liên quan đến
tình dục này có thể là do các nguyên nhân
như: sự huấn thị, hay những thông điệp
nhận được từ thời thơ ấu - ví dụ như quan
hệ tình dục là tội lỗi và phụ nữ không
được hưởng những khoái lạc do nó mang
đến; sợ mang bầu; không trao đổi với
người bạn tình về nhu cầu và mong muốn
của mình; không điều khiển được các cơ
xương chậu; và/hay chưa nhận đủ sự kích
thích tự nhiên. Một ví dụ thực tế về quá
trình tương tác của các yếu tố sinh lý, tâm
lý, xã hội gây ra vấn đề tình dục kinh
27. niên: Sally được nuôi dạy với niềm tin
rằng phụ nữ "tốt" không được hưởng thụ
thú vui từ quan hệ tình dục hay không
được có sự cực khoái. Do trải nghiệm về
việc không được đạt đến cực khoái khi
quan hệ tình dục với chồng của mình (có
nghĩa là yếu tố tâm lý) nên cô tập trung
quá nhiều vào việc "thể hiện", điều này
khiến cô xao lãng khỏi việc đắm chìm bản
thân vào trong hoạt động tình dục (tâm
lý). Trong lúc đó, hệ thống thần kinh của
cô trở nên khuấy động đến nỗi việc đạt
đến cực khoái là rất khó hoặc không thể
(sinh lý). Nhiếc móc bản thân về việc
không đạt đến cực khoái (tâm lý), cô đòi
hỏi thái quá ở người chồng và tình cờ đã
tạo nên môi trường tình dục mang tính
thù địch mà điều này chỉ làm tăng thêm
các vấn đề của cô (xã hội).
Phần còn lại của chương này được dành để
nói về từng quan điểm trong ba quan
điểm chính của mô hình tâm sinh lý xã hội
của hoạt động tình dục ở con người, phần
này cũng nói về những quan điểm khác
nhau được xếp vào trong từng nhóm.
28. CÁC QUAN ĐIỂM SINH HỌC VỀ HOẠT
ĐỘNG TÌNH DỤC Ở CON NGƯỜI
Điều được quan tâm đầu tiên trong
những quan điểm sinh học là ảnh
hưởng của các quá trình sinh học và tự
nhiên đến hoạt động tình dục của một cá
nhân. Những chủ đề về tình dục liên quan
đến phạm trù này bao gồm giải phẫu tình
dục và sinh lý học nam và nữ, sự gợi tình
và việc đáp lại, thu thai, mang thai, sinh
nở, tránh thai, phá thai, các bệnh lây
truyền qua đường tình dục, và những ảnh
hưởng của chứng bất lực và bệnh tật đối
với hoạt động tình dục. Một lần nữa, các
nhân tố tâm lý và xã hội lại có ảnh hưởng
đến từng lĩnh vực này. Ví dụ, mặc dù việc
phá thai có liên quan đến những can thiệp
y học nhằm loại bỏ bào thai khỏi tử cung,
nhưng có một chuỗi các hành động phức
tạp có liên quan đến việc phá thai như
những xem xét về thái độ, xã hội, luật
pháp, quy tắc và đạo đức. Những quan
điểm sinh học bao gồm cả những quan
điểm hóa sinh và tâm thần học.
Quan điểm hóa sinh
29. Trọng tâm của quan điểm hóa sinh là
tất cả những mặt chức năng của con
người - tình dục và những mặt khác - đều
phản ánh các quá trình sinh học và hóa
học. Theo mô hình này, những rối loạn
tình dục là do các bệnh tật trong cơ thể,
những vấn đề về cấu trúc, hay sự mất cân
bằng hóa học. Những nhà trị liệu sinh học,
chẳng hạn như các bác Sĩ điều trị những
vấn đề liên quan đến tình dục bằng cách
cố gắng sửa chữa hay đảo lộn những quá
trình sinh học bị suy yếu. Ví dụ, liệu pháp
sinh học điều trị chứng bất lực có thể bao
gồm việc sử dụng thuốc và việc cấy dương
vật giả. Hai phạm trù nhỏ phổ biến của
quan điểm hóa sinh là quan điểm vô tính
và quan điểm di truyền. Theo quan điểm
vô tính, tất cả các mặt thuộc chức năng
của con người (bao gồm cách cư xử, suy
nghĩ và tình cảm) có cơ sở nằm trong hoạt
động của hệ thống thần kinh. Mặc dù các
quá trình vô tính được hiểu một cách khá
rõ, nhưng hoạt động của hệ thống thần
kinh nói chung trong việc điều khiển hành
vi tình dục thì lại chưa được hiểu nhiều.
Những người đưa ra quan điểm di truyền
30. cho rằng tất cả các mặt thuộc chức năng
con người đã được quyết định bởi yếu tố di
truyền trước khi được sinh ra. Hầu như tất
cả các tế bào trong cơ thể người có đều có
23 cặp nhiễm sắc thể, những cấu trúc
mang yếu tố di truyền. Trong mỗi một
cặp, một nhiễm sắc thể được di truyền từ
bố, và một nhiễm sắc thể được di truyền
từ mẹ. Các nhiễm sắc thể mang gien,
thông tin "lên kế hoạch" về cấu trúc và
chức năng của cơ thể, bao gồm cả chức
năng tình dục
Quan điểm Tâm thần học
Quan điểm tâm thần học có cơ sở từ
quan điểm hóa sinh, và từ một hay nhiều
quan điểm tâm lý.Đối với các chuyên gia
về tâm thần học sử dụng mô hình của
Freud thì những rối loạn về tình dục là kết
quả của sự mất cân bằng hóa sinh và
những mong muốn bị kìm nén hoặc những
xung đột. Do đó việc điều trị các rối loạn
này phải bao gồm cả việc sử dụng thuốc
để điều chỉnh sự mất cân bằng hóa học và
cả liệu pháp phân tâm học để giúp bệnh
nhân tháo gỡ những kìm nén của họ. Mặc
31. dù ngày nay các chuyên gia về tâm thần
học nhìn chung đều cho rằng thuyết
nguyên nhân (các căn nguyên gây bệnh)
về sinh học, phân tâm học và tâm lý xã
hội là quan trọng như nhau, nhưng tâm
thần học truyền thông vẫn còn dựa quá
nhiều vào học thuyết cổ điển của Freud.
Mọi người thường nhầm lẫn quan điểm
tâm thần học với một hay nhiều quan
điểm tâm lý học. Khác biệt chủ yếu của
quan điểm tâm thần học với quan điểm
tâm lý học là tâm thần học tập trung vào
cả quá trình sinh học lẫn quá trình tinh
thần.
Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con
Người
George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.
Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang
Tác Giả
32. George D. Zgourides, Tiến Sĩ Y Khoa, là
một nhà bác sĩ lâm sàng, một nhà giáo
dục và mục sư chuyên về tâm lý tinh
thần-thể xác, hoạt động tình dục ở con
người, các rối loạn do lo lắng, các vấn đề
của mục sư và tiếp cận y học Phương
Đông để chữa bệnh. Ngoài việc viết hơn
30 bài báo và báo cáo về nhiều chủ đề
khác nhau, Tiến sĩ Zgourides còn là tác giả
của một số cuốn sách bao gồm Hoạt động
Tình Dục ở Con Người: Viễn cảnh hiện tại
(HarperCollins, 1996), Tâm Lý Học Tiến
Triển (Cliffs Notes, 2000), Xã hội học
(Cliffs Notes,2000), và Hội Chứng Bong
Bóng Nhút Nhát: Hướng Dẫn Từng Bước
Từng Bước Để Vượt Qua Paruresis (Nhà
xuất bản New Harbinger, 2001). Trước
đây, ông từng là giảng viên chính thức của
Đại học Portland, bang Oregon.
Christie S. Zgourides, M.A., là một nhà sư
phạm và người quản lý y tế trên các lĩnh
vực tư tưởng phê phán, logic phi-quy-ước,
lý thuyết cấu tạo, tu từ học và quản lý y
tế. Trước đây, bà là phó giáo sư của Đại
học Warner Pacific College ở Portland,
bang Oregon.
33. NHỮNG QUAN ĐIỂM TÂM LÝ VỀ HOẠT
ĐỘNG TÌNH DỤC Ở CON NGƯỜI
Những người ủng hộ quan điểm tâm lý
về hoạt động tình dục ở con người xem
xét xem những suy nghĩ, thái độ, tình cảm
và hành vi được tích lũy từ những trải
nghiệm trong cuộc sống có ảnh hưởng đến
thái độ và chức năng tình dục như thế
nào? Những quan điểm này có liên quan
đến thái độ đối với tình dục (ví dụ "Tôi tin
rằng quan hệ tình dục trước hôn nhân là
việc làm trái với đạo đức"), sự cởi mở
trong việc thảo luận về cảm giác ("Vợ tôi
có thể sẽ từ chối tôi nếi tôi nói cho cô ý
biết tôi muốn gì"), các dạng khác biệt về
hành vi tình dục, những người có hoạt
động tình dục bất thường mong muốn gì,
rối loạn tình dục phát triển như thế nào,
và các phương pháp gây ảnh hưởng đến
những lĩnh vực này. Những quan điểm
tâm lý bao gồm tâm lý động học, nhận
thức-hành vi, tồn tại-chủ nghĩa nhân văn,
các hệ thống, và quan điểm phát triển.
34. Quan điểm Tâm lý động học
Dựa trên học thuyết của Freud, quan
điểm tâm lý động học là việc xem xét
những động cơ vô thức và mong muốn
của một cá nhân và quyết định xem anh
ta hay cô ta sẽ tương tác với thế giới như
thế nào. Quan điểm này gần giống với
quan điểm của tâm thần học truyền
thống, nhưng điểm khác biệt là ở chỗ nó
tập trung hơn vào những ảnh hưởng tâm
lý học so với ảnh hưởng sinh học. Ví dụ
phương pháp điều trị tâm thần học truyền
thống đối với bệnh vaginismus (đau khi
co thắt ở phần ngoài âm đạo khiến
cho dương vật không thể hoặc rất khó
có thể vào được bên trong) là sử dụng
thuốc trong khi điều trị bằng liệu pháp
tâm lý động học không dùng thuốc. Tuy
nhiên, cả hai hướng tiếp cận có thể cho
thấy các phương pháp chung liên quan
đến cách giải thích học thuyết của Freud.
Một chuyên gia về tâm thần học theo
thuyết Freud và một nhà trị liệu tâm lý
động học có thể coi người phụ nữ bị bệnh
vaginismus có những xung đột thầm kín
liên quan đến những mong muốn tình dục
35. "không thể chấp nhân" và điều này dẫn
đến "triệu chứng" ngăn cản khiến cô
không nói ra những mong muốn của mình.
Quan điểm Nhận thức - Hành vi
Quan tâm đầu tiên của những người theo
quan điểm hành vi là vai trò của hành vi
và kiến thức trong chức năng tổng thể của
một cá nhân. Chúng dựa trên vị trí của họ
về học thuyết kiến thức, mà học thuyết
này nói rằng những thay đổi thường trực
(hay khá thường xuyên) trong hành vi
xuất hiện là do những trải nghiệm. Những
người theo quan điểm hành vi rất nghiêm
khắc như B. F. Skinner đã khẳng định
rằng hoạt động nhận thức (suy nghĩ)
tương đối không quan trọng khi nghiên
cứu về hành vi. Trong những thập niên
gần đây, những nhà nghiên cứu như David
Barlow không thừa nhận quan điểm này,
điều này dẫn đến việc một số nhà khoa
học hành vi đã dán mác "cuộc cách mạng
nhận thức" - công nhận một cách rộng rãi
vai trò của quá trình nhận thức gây ảnh
hưởng đến hành vi và cảm giác.
36. Trung tâm của học thuyết nhận thức là ý
kiến cho rằng quá trình tư duy có ảnh
hưởng to lớn đến cuộc sống hàng ngày.
Hay như nhà triết học Hi Lạp cổ đại
Epictetus đã nói "Con người không bị đảo
lộn bởi những sự việc, mà họ bị đảo lộn do
cách nhìn nhận sự việc của mình." Nói
một cách đơn giản, nhận thức của một cá
nhân về sự kiện là rất quan trọng chứ
nhất thiết không phải là bản thân sự kiện
đó.
Nhiều chuyên gia tin rằng quan điểm về
kiến thức sẽ là không hoàn thiện nếu như
không quan tâm đến vai trò của nhận
thức.Điều này làm tăng quan điểm nhận
thức - hành vi, mà quan điểm này kết
hợp với cả học thuyết kiến thức lẫn học
thuyết nhận thức. Một ví dụ về mô hình
toàn diện của nhận thức - chủ nghĩa hành
vi là ví dụ về liệu pháp hành vi - cảm xúc
- lý trí của Albert Ellis, một loại liệu pháp
dùng để xóa bỏ những niềm tin vô lý.
Ngoài ra, liệu pháp hành vi - cảm xúc - lý
trí còn được áp dụng một cách thành công
trong việc chữa trị nhiều vấn đề bệnh lý
37. lâm sàng bao gồm cả rối loạn tình dục và
lo lắng.
Quan điểm Tồn tại - Chủ nghĩa nhân
văn
Quan điểm Tồn tại - Chủ nghĩa nhân
văn nhấn mạnh tầm quan trọng của trải
nghiệm tức thì, sự tự chấp nhận và sự thể
hiện đầy đủ tiềm năng của mình. Nhận
thức được cảm giác là một mặt quan trọng
của quan điểm này. Trên phương diện của
tình dục, việc tập trung quá nhiều vào quá
khứ hay tương lai làm giảm những khoái
lạc tình dục hiện tại là nguyên nhân
thường xuyên gây ra các vấn đề về tình
dục. Ngược lại, tự chấp nhận và thoải mái
với hoạt động tình dục rất có tác dụng
trong việc thúc đẩy sự hoàn thành ước
nguyện của chính mình trong quan hệ yêu
đương.
Quan điểm Hệ thống
Phần lớn con người tồn tại như những
thành viên của một hay nhiều nhóm hay
hệ thống xã hội. Quan điểm hệ thống
quan tâm đến việc những hệ thống xã hội
38. khác biệt tương tác và gây ảnh hưởng đến
các cá nhân, các cặp vợ chồng và các gia
đình như thế nào. Hệ thống xã hội phổ
biến nhất là gia đình, trường học, công sở,
cộng đồng và tôn giáo.
Con người có thể nhận được những thông
điệp mâu thuẫn hay không lành mạnh về
tình dục từ cha mẹ, nhà trường và/hay tôn
giáo của họ. Biết được hệ thống nào đưa
ra những thông điệp nào vừa giúp có thêm
kiến thức và vừa có ích đối với việc chống
lại những thông điệp này. Hơn nữa, việc
nhận biết và phân tích xem những hệ
thống xã hội cụ thể tương tác như thế nào
là cơ sở để hiểu về hành vi tình dục. Hãy
xem một đứa trẻ hành động mang tính
nhục dục ở trường học. Cậu bé hành động
như vậy có thể là để phản ứng lại với
những vấn đề mà nó gặp phải ở gia đình,
chẳng hạn như những rắc rối do không
hòa hợp được với anh chị em ruột hay cậu
bé là nạn nhân của việc lạm dụng tình
dục.
Quan điểm phát triển
39. Tình dục là một quá trình năng động,
thậm chí nhiều kiểu mẫu tình dục được
hình thành từ thời thơ ấu. Từ lúc sinh ra
cho đến khi chết đi, con người là những
thực thể tình dục. Con người tiếp tục học,
thay đổi và phát triển. Quan điểm phát
triển xử lý những vấn đề liên quan đến
những thay đổi khác nhau, bao gồm cả
tình dục, mà những thay đổi này xuất hiện
trong suốt cuộc đời. Những chuyên gia về
phát triển đối đầu với những câu hỏi như:
Liệu trẻ con có hoạt động tình dục không?
Tuổi dậy thì có ảnh hưởng như thế nào
đến quan điểm của một cá nhân về thế
giới? Cái gì là nhu cầu tình dục đáng chú ý
ở người già?
Suy nghĩ Cá nhân
Hãy viết ra một số thông điệp liên
quan đến tình dục mà bạn nhận được
từ thời thơ ấu và thời niên thiếu.Nếu
có thì kiểu mẫu nào là rõ ràng?
CÁC QUAN ĐIỂM XÃ HỘI VỀ HOẠT
ĐỘNG TÌNH DỤC Ở CON NGƯỜI
40. Kiểu mẫu của một nhóm người cụ thể là
gì? Đây chính là một trong những khía
cạnh mà quan điểm xã hội quan tâm.
Quan điểm xã hội quan tâm đến những
ảnh hưởng và giá trị về văn hóa và xã hội.
Những chủ đề liên quan đến hoạt động
tình dục ở con người nằm trong phạm trù
này bao gồm: nhận dạng và vai trò của
giới, hoạt động tình dục trong suốt đời
sống con người, xu hướng tình dục, buôn
bán tình dục, ngược đãi tình dục, pháp
luật, đạo đức và tôn giáo. Tất nhiên, yếu
tố sinh học và tâm lý có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến những quan điểm này. Ít nhất,
một giải thích hiện tại đang dùng về xu
hướng tình dục cũng thừa nhận sự có mặt
của cả yếu tố xã hội và sinh học đứng
trước. Quan điểm xã hội bao gồm các
quan điểm về sự so sánh giữa các loài, sự
so sánh giữa các nền văn hóa, thống kê,
lịch sử, luật pháp và đạo đức, và tôn giáo.
Quan điểm so sánh giữa các loài
Quan điểm so sánh giữa các loài xem
xét những tương đồng và khác biệt giữa
hành vi tình dục của con người và hành vi
41. tình dục của những loài động vật khác. So
sánh hành vi tình dục giữa các loài với
nhau có thể mang đến sự hiểu biết có giá
trị về bản chất hoạt động tình dục ở con
người. Ví dụ, ngoài con người ra hành vi
thủ dâm và đồng tính luyến ái cũng xuất
hiện ở một số động vật có vú khác nữa.
Quan điểm so sánh giữa các nền văn
hóa
Nghiên cứu về hoạt động tình dục ở con
người cũng cần phải đề cập đến những
vấn đề và sự khác biệt về văn hóa. Những
nghiên cứu và điều tra xã hội đã xác định
rằng những giá trị, tập quán và niềm tin
về tình dục ở các nền văn hóa khác nhau
là khác nhau. Điều được chấp nhận ở
nhóm này có thể không được chấp nhận ở
nhóm khác. Do đó cụm từ tính tương đối
giữa các nền văn hóa được dùng để chỉ
tính chất tương đối của phong tục và các
chuẩn mực hành vi. Cảnh báo đối với sự
khác biệt văn hóa làm tăng cơ hội để phủ
nhận những khuôn mẫu vai trò - tình dục,
hay niềm tin trong một xã hội về việc các
thành viên của từng giới nên ăn mặc và
42. hành động như thế nào. Do đó quan
điểm so sánh giữa các nền văn hóa
quan tâm đến sự khác biệt tồn tại trong
những nền văn hóa khác nhau.
Suy nghĩ Cá nhân
Đâu là những ích lợi của cảnh báo đối
với các vấn đề về văn hóa khi nghiên
cứu hoạt động tình dục ở con người?
Hãy phỏng vấn những người thuộc
nền văn hóa khác với bạn để xem xét
thái độ của họ đối với hoạt động tình
dục của con người. Điều gì được xem
là bình thường và bất thường ở những
nền văn hóa đó? Những người thuộc
nền văn hóa đó có tự do nói chuyện
cởi mở về các vấn đề liên quan đến
tình dục không? Những người thuộc
nền văn hóa đó có nhạy cảm đối với
những chuẩn mực của các nền văn
hóa khác không?
Quan điểm Thống kê
Quan điểm thống kê được xây dựng dựa
trên tần suất xuất hiện của thái độ hay
thông lệ trong một xã hội. Cho dù ở bất
43. kỳ nhóm nào cũng có những thái cực được
ghi nhận nhưng khuôn khổ thống kê chỉ
quan tâm đến những đặc điểm của số
đông nhất các thành viên, nói cách khác là
"sự trung bình" đặc điểm của các thành
viên. Ví dụ, nghiên cứu chỉ ra rằng việc
thủ dâm ở nam giới là rất phổ biến, đặc
biệt là ở các nam thanh niên.
Quan điểm Lịch sử
Quan điểm lịch sử quan tâm đến những
vấn đề và chủ đề liên quan đến tình dục
trên góc độ những bối cảnh, tập quán, giá
trị, thái độ mang tính lịch sử. Sẽ dễ dàng
hơn trong việc làm rõ những vấn đề phức
tạp liên quan đến hoạt động tình dục của
con người khi ta xem xét vai trò mà
những vấn đề đó đã từng đóng trong lịch
sử. Lấy ví dụ, nhiều quan điểm xã hội
ngày nay liên quan đến đồng tính luyến ái
phản ánh những chuẩn mực của người Do
thái, có lẽ lần đầu tiên được giải thích là
vào khoảng năm 1400 trước công nguyên.
Quan điểm Luật pháp và Đạo đức
44. Như tên của quan điểm đã ngụ ý, quan
điểm luật pháp và đạo đức quan tâm
đến những ảnh hưởng của chuẩn mực về
luật pháp và đạo đức lên các cá nhân.
Những thành viên của xã hội bầu ra
những nhà lãnh đạo, những người phê
chuẩn luật pháp cho phép hay ngăn cấm
những loại hành vi cụ thể nào đó. Luật
pháp cho phép xã hội nói chung được quy
định hành vi cư xử của các thành viên
trong xã hội đó.
Đạo đức là những nguyên tắc chỉ đạo tự
điều chỉnh. Các cá nhân sử dụng đạo đức
để định hướng những quyết định trong
cuộc sống hàng ngày của họ. Họ cũng sử
dụng đạo đức xác định những tổ chức
mang tính chuyên nghiệp của mình và xác
định hành vi có thể của các thành viên
khác. Có rất nhiều tổ chức như thế chẳng
hạn như Hiệp hội Tâm lý học Mỹ, Hiệp hội
những nhà Giáo dục, Tư vấn và Trị liệu
Tình dục Mỹ, những Hiệp hội này đã xây
dựng các quy tắc đạo đức nhằm hướng
dẫn những người đang hành nghề để họ
tự điều chỉnh hành vi của mình với mục
đích không gây hại đến người khác bằng
45. việc đảm bảo sử dụng những phương
pháp và kỹ năng một cách thích hợp.
Quan điểm Tôn giáo
Quan điểm tôn giáo quan tâm đến
những ảnh hưởng của các học thuyết, kinh
thánh và sự duy linh lên các cá nhân và xã
hội. Đối với những người lớn lên trong môi
trường tôn giáo, những lời dạy, bài học và
các giá trị được tôn giáo có tổ chức đưa ra
có thể đóng một vai trò lớn trong cuộc
sống, nó có thể lành mạnh, có hại hoặc
trung tính. Không đâu có nhiều trường
hợp như tình dục.
Một phạm trù nhỏ cụ thể của quan điểm
tôn giáo là quan điểm siêu nhiên, quan
điểm này cho rằng những thế lực siêu
nhiên (Ví dụ như Chúa, các thiên thần, ác
quỷ, và/hay linh hồn) có thể gây ảnh
hưởng đến suy nghĩ và hành vi của con
người. Ngày nay, quan điểm siêu nhiên
vẫn còn được nhiều nhóm ủng hộ, quan
điểm siêu nhiên là phương pháp nguyên
thuỷ dùng để giải thích những bệnh tật
của con người, những quan điểm này
46. thịnh hành nhất từ thời xa xưa cho đến
tận thế kỷ 18.
Quan điểm cá nhân
Trong chừng mực nào thì quan điểm
tôn giáo đóng một vai trò quan trọng
trong cách nhìn cá nhân của bạn đối
với hoạt động tình dục ở con người?
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH
1. Từ sexual (tình dục) ban đầu được dùng
để chỉ giới tính của một người, là nam hay
nữ. 100 năm trước đây sexuality (tình
dục), hay sex (tình dục, giới) bắt đầu được
dùng để chỉ các hoạt động liên quan đến
procreational (sự sinh sản), recreational
(sự tiêu khiển), và relational (quan hệ).
2. Sexology (Tình dục học) là một môn
khoa học đòi hỏi coi con người của mọi
nền văn hóa như thực thể tình dục trong
quá trình, nhận biết sự tác động qua lại
của các khía cạnh sinh lý, tâm lý và xã hội
ảnh hưởng đến quá trình này.
3. Có nhiều lý do để nghiên cứu hoạt động
tình dục ở con người. Một số lý do phổ
47. biến là để có thêm kiến thức, để có được
sự sáng suốt cá nhân, để trở nên thoải
mái hơn đối với vấn đề tình dục, để xây
dựng sự tự chấp nhận về tình dục, để tối
đa hóa sự trao đổi và thân mật, để tối đa
hóa khoái lạc tình dục, để kiểm soát được
việc sinh sản, để tránh những rối loạn tình
dục, để tránh những bệnh lây truyền qua
đường tình dục, để mang đến những thay
đổi xã hội tích cực.
4. Đọc những cuốn sách viết về tình dục là
một cách để giáo dục tình dục, mục tiêu
đầu tiên của nó là học cách đưa ra những
quyết định có lý và hiệu quả về những vấn
đề liên quan đến tình dục.
5. Lĩnh vực liên quan đến hoạt động tình
dục của con người thuộc chỉnh thể luận và
nó bao gồm rất nhiều quan điểm khác
nhau. Sự tương tác giữa các quan điểm
sinh học, tâm lý học và xã hội hình thành
nên bản chất quan điểm tâm sinh lý xã
hội về hoạt động tình dục ở con người.
6. Những quan điểm sinh học gồm có
quan điểm hóa sinh và quan điểm tâm
48. thần học, nó quan tâm đến ảnh hưởng của
các quá trình sinh học và tự nhiên lên hoạt
động tình dục.
7. Những quan điểm tâm lý gồm tâm lý
động học, nhận thức-hành vi, tồn tại-chủ
nghĩa nhân văn, các hệ thống, và quan
điểm phát triển quan tâm đến những vai
trò mà các suy nghĩ, thái độ, tình cảm,
hành vi đóng vai trò trong hoạt động tình
dục.
8. Những quan điểm xã hội bao gồm các
quan điểm về sự so sánh giữa các loài, sự
so sánh giữa các nền văn hóa, thống kê,
lịch sử, luật pháp và đạo đức, vàtôn giáo
quan tâm đến ảnh hưởng của những sức
mạnh văn hóa và xã hội lên hoạt động
tình dục.
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nghiên Cứu Về Tình Dục Là Gì?
George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.
49. Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang
Nghiên cứu về tình dục là một phương
thức khoa học thu thập thông tin về
những khía cạnh khác nhau của tình dục
nhằm mục đích thu được những hiểu biết
có thể ứng dụng được cho các cá nhân và
xã hội. Những phương pháp sớm nhất
nghiên cứu về tình dục là xem xét những
trường hợp lịch sử của các bệnh nhân và
phỏng vấn rất nhiều người. Những phương
pháp gần đây là quan sát những phản ứng
tình dục của các tình nguyện viên ở trong
phòng thí nghiệm và tiến hành các thử
nghiệm. Tình dục học đã có nhiều tiến bộ
trong những thập niên gần đây vì các nhà
nghiên cứu về tình dục
đã sử dụng những phương pháp tinh tế và
vì mọi người đã trở nên cởi mở hơn đối với
quan điểm thuộc hình thức này của nghiên
cứu.
Suy nghĩ Cá nhân
50. Tại sao bạn nghĩ rằng nghiên cứu tình
dục là một lĩnh vực được quan tâm ít
nhất cho đến tận thế kỷ 20?
TÌNH DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
Định nghĩa về tình dục học được trình bày
ở Chương 1 đã sử dụng cụm từ một môn
khoa học. Khoa học là gì? Và nghiên cứu
tình dục như một môn khoa học là thế
nào?
Một số người không nghĩ rằng các môn
khoa học "xã hội" chẳng hạn như xã hội
học và tâm lý học là những môn khoa học
"thực sự" giống như vật lý hay hoá học.
Trong khi có những khác biệt cố hữu giữa
các khoa học "mềm" và "cứng", thì những
nguyên tắc cơ bản chung của khoa học
vẫn được áp dụng. Từ khoa học bắt nguồn
từ tiếng La Tinh scire, nó có nghĩa là "hiểu
biết." Qua nhiều thế kỷ, khoa học gần như
bao gồm tất cả các lĩnh vực. Chỉ trong
51. vòng khoảng vài trăm năm trước, từ này
đã bắt đầu được dùng để chỉ những giá trị
và phương pháp nghiên cứu cụ thể nào
đó. Ngày nay, một lĩnh vực nghiên cứu cụ
thể được gọi là một môn khoa học nếu
như các nhà nghiên cứu nó sử dụng
phương pháp khoa học - một hướng
tiếp cận có hệ thống để nghiên cứu những
câu hỏi và các vấn đề bằng việc quan sát
một cách khách quan và chính xác, tiến
hành thực nghiệm trực tiếp, thu thập và
phân tích thông tin, và tái tạo những quá
trình này. Nói cách khác, các nhà khoa
học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
thu thập thông tin một cách cẩn thận,
không thiên vị khi đánh giá các số liệu,
quan sát các hiện tượng, tiến hành thử
nghiệm, ghi chép các bước và kết quả một
cách chính xác. Các nhà khoa học cũng
quan tâm đến việc những phát hiện của
họ được các nhà khoa học khác công
nhận.
Nghiên cứu tình dục có phải là một khoa
học? Đúng như vậy. Theo như định nghĩa
52. thì tình dục học là một môn khoa học
nghiên cứu về tình dục. Nhưng tại sao tình
dục học là khoa học? Bởi vì những người
nghiên cứu về tình dục (có nghĩa là những
nhà nghiên cứu về tình dục chuyên
nghiệp, những nhà giáo dục, những nhà
trị liệu) dựa vào các phương pháp khoa
học để nghiên cứu. Giống như các nhà
khoa học khác, những nhà nghiên cứu về
tình dục nhấn mạnh vào việc thu thập và
phân tích số liệu một cách chính xác,
không thiên vị, quan sát một cách có hệ
thống, tiến hành thực nghiệm, và hoài
nghi về những phát hiện của họ. Nói tóm
lại, một môn cụ thể nào đó có phải là
khoa học hay không phụ thuộc nhiều vào
phương pháp nghiên cứu được sử dụng
chứ không phải là lĩnh vực nghiên cứu cụ
thể nào đó.
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG
NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC
53. Trước khi thảo luận về những phương
pháp nghiên cứu tình dục, chúng ta nên
xem xét một số khái niệm nghiên cứu cơ
bản. Những điều tra viên thường bắt đầu
nghiên cứu sau khi tìm được những ý
tưởng cho việc nghiên cứu của họ từ một
học thuyết cụ thể nào đó, hay từ những
phát biểu kết hợp nhằm giải thích những
hiện tượng khác nhau. Bởi vì một học
thuyết là quá chung chung hay mơ hồ để
có thể kiểm tra một nghiên cứu nên các
nhà nghiên cứu tạo ra một giả thuyết, hay
một suy luận có thể kiểm chứng cụ thể từ
học thuyết, và kiểm tra nó thay vì kiểm
tra học thuyết. Kết quả của việc nghiên
cứu hoặc chứng minh giả thuyết đưa ra là
sai hay là đúng. Nếu kết quả bị chứng
minh là sai, những nhà nghiên cứu không
thể đưa ra những dự báo và phải đặt câu
hỏi về tính chính xác của học thuyết. Còn
nếu kết quả được chứng minh là đúng,
những nhà nghiên cứu có thể đưa ra dự
đoán căn cứ trên giả thuyết.
54. Mục đích trước tiên của việc nghiên cứu về
tình dục là phát hiện ra những khác biệt,
xu hướng và kiểu mẫu liên quan đến tình
dục của những thành viên trong một cộng
đồng dân cư, hay một nhóm là đối tượng
của nghiên cứu. Đối tượng là các thành
viên của một cộng đồng dân cư, những
người tham gia vào trong nghiên cứu.
Những nhà nghiên cứu hi vọng rằng các
đặc điểm của những ví dụ tiêu biểu của họ
lấy trong cộng đồng dân cư là đại diện cho
những đặc tính của toàn bộ tất cả các
cộng đồng. Nếu như vậy, họ có thể khái
quát hóa, hay áp dụng kết quả của họ vào
cộng đồng. Ví dụ đại diện tiêu biểu nhất
nhìn chung là ví dụ ngẫu nhiên, ở đó mỗi
thành viên của một cộng đồng dân cư có
cơ hội như nhau trong việc được lựa chọn
là đối tượng của nghiên cứu.
Những nhà nghiên cứu sử dụng một bài
kiểm tra hay một bảng câu hỏi thăm dò
trong nghiên cứu, họ quan tâm đến độ tin
cậy của bài kiểm tra, hay khả năng cung
cấp những kết quả nhất quán khi áp dụng
55. vào những trường hợp khác nhau của bài
kiểm tra đó. Họ cũng quan tâm đến căn
cứ vững chắc của bài kiểm tra, hay khả
năng đo lường những cái mà họ muốn đo
lường của bài kiểm tra đó. Trong nghiên
cứu định tính, thông tin được thu thập từ
các đối tượng, có thể được lấy từ việc
miêu tả bằng lời về các sự kiện cụ thể nào
đó, chẳng hạn như cảm thấy thế nào khi
quan hệ tình dục, hay từ việc quan sát
trực tiếp các sự kiện, chẳng hạn như quan
sát hành vi tình dục của các động vật
thuộc loài linh trưởng. Trong nghiên cứu
định lượng, thông tin được thu thập từ các
đối tượng (ví dụ: tình trạng hôn nhân của
đối tượng) có thể được lấy từ dạng hay
được chuyển sang các con số (độc thân =
1; đã có gia đình = 2). Mặc dù những
miêu tả bằng lời và những quan sát có thể
hữu ích trong và đối với bản thân, nhưng
nhiều nhà khoa học vẫn thích những
thông tin được thu thập dưới dạng số hơn
vì chúng tạo điều kiện dễ dàng cho việc
phân tích số liệu.
56. Những nhà nghiên cứu sử dụng số liệu
thống kê, hay các bước toán học để miêu
tả và rút ra kết luận từ các số liệu. Có hai
loại số liệu thống kê: mang tính miêu tả,
sử dụng để miêu tả số liệu (ví dụ: "72%
phụ nữ trong nghiên cứu này có những ý
nghĩa kỳ quặc về tình dục khi quan hệ"),
và mang tính suy luận, sử dụng để đưa ra
dự báo về một số lượng lớn hơn dân số
dựa trên những khác biệt đáng kể được
thấy giữa các cá nhân hay các nhóm
("Đàn ông thể hiện hành động khiêu dâm
một cách bạo lực có xu hướng coi việc sử
dụng bạo lực với phụ nữ là chấp nhận
được nhiều hơn so với những người đàn
ông không thể hiện hành động khiêu dâm
một cách bạo lực"). Những nhà nghiên
cứu sử dụng cả hai loại thống kê để rút ra
những kết luận chung về những ví dụ và
dân số của họ.
ĐÁNH GIÁ NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC
57. Các nguồn tài liệu nghiên cứu tình dục -
những tạp chí và sách học thuật, những
khảo sát mang tính quốc gia của các tạp
chí, và "những tin vắn trên truyền hình" -
rất đa dạng về chất lượng thông tin được
xuất bản. Bởi thế sẽ là khôn ngoan nếu ta
không chấp nhận giá trị bề ngoài của tất
cả các nghiên cứu về tình dục. Khả năng
đánh giá nghiên cứu và những khám phá
của nó là rất quan trọng khi nghiên cứu
hoạt động tình dục ở con người (hay bất
kỳ chủ đề nào khác liên quan đến vấn đề
này). Mặc dù có khá nhiều thông tin chính
xác, nhưng cũng có không ít những thông
tin không chính xác.
Thật không may khi những nghiên cứu có
ý đồ tồi hay được thực hiện một cách kém
cỏi có xu hướng mang lại những quan
niệm sai lầm về tình dục cho xã hội.
Những tạp chí chuyên ngành và tạp chí
xuất bản định kỳ có thể là những nguồn
thông tin quan trọng cung cấp những
thông tin khoa học về tình dục vì những
nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và những
58. bác sĩ lâm sàng là những người đóng góp
số lượng lớn tài liệu cho các tạp chí này,
và cũng vì ban biên tập xem xét lại những
tài liệu mà họ gửi, do đó những nghiên
cứu được xuất bản có chất lượng cao hơn.
Một số tạp chí đứng đầu về tình dục là
Tạp Chí Thường Niên Về Nghiên Cứu Tình
Dục, Những Tài Liệu Lưu Trữ Về Hành Vi
Tình Dục, Nhà Giáo Dục Cuộc Sống Gia
Đình, Những Quan Điểm Quy Hoạch
Gia Đình, Tạp Chí Về Đồng Tính Luyến Ái,
Tạp Chí Về Hôn Nhân Và Gia Đình, Tạp
Chí Về Tâm Lý Học Và Hoạt Động Tình
Dục ở Con Người, Tạp Chí Về Tình Dục Và
Liệu Pháp Hôn Nhân, Tạp Chí Về Giáo Dục
Giới Tính Và Liệu Pháp, Tạp Chí Về Nghiên
Cứu Tình Dục, Những Khía Cạnh Y Học Về
Tình Dục ở Con Người, Và Tạp Chí Về Kế
Hoạch Hóa Gia Đình. Những tạp chí thông
thường và truyền hình nhìn chung không
cung cấp những nguồn thông tin khoa học
chính xác về tình dục, bởi vì những nghiên
cứu được thông báo trên các phương tiện
truyền thông này có xu hướng thuộc
phong cách gây xúc động mạnh và được
xây dựng một cách kém cỏi.
59. Các độc giả nên suy nghĩ về một số các
vấn đề chung khi quyết định xem một
nghiên cứu có giá trị hay không. Hỏi
những câu hỏi dưới đây có thể có tác
dụng:
• Liệu những nhà nghiên cứu đó có trình
độ để thực hiện những nghiên cứu liên
quan đến tình dục? Những giấy tờ, bằng
cấp chứng minh trình độ của họ? Họ có
liên hệ gì với bệnh viện, viện nghiên cứu
hàn lâm hay phòng thí nghiệm không?
• Phương pháp nghiên cứu được sử dụng
là gì? Lợi thế và bất lợi của phương pháp
nghiên cứu đó là gì? Liệu những nhà
nghiên cứu đó có thừa nhận những hạn
chế đi kèm với các phương pháp cụ thể
của họ không?
60. • Liệu những bảng câu hỏi hay bài kiểm
tra được sử dụng có đáng tin cậy hay có
căn cứ vững chắc không?
• Liệu các nhà nghiên cứu có đưa ra sự
khái quát hóa dựa trên số đông không?
Nếu có thì đại diện nào của số đông được
dùng làm ví dụ tiêu biểu của họ?
• Liệu ví dụ tiêu biểu của họ có sự thiên vị
về giới, có nhiều nam giới hơn phụ nữ hay
ngược lại nhiều phụ nữ hơn nam giới
không? Liệu ví dụ tiêu biểu đó có mang
tính thiên vị ở bất kỳ cách nào khác
không? Nó có tính đến nhóm thiểu số
không? Ví dụ tiêu biểu đó chỉ được dành
riêng cho đô thị hay nông thôn không?
• Nếu nghiên cứu là một thử nghiệm thì
liệu có một nhóm chỉ đạo không cho phép
tiết lộ những điều kiện thực nghiệm so
sánh với nhóm thử nghiệm không?
61. • Liệu những nhà nghiên cứu có sử những
các bài kiểm tra thống kê phù hợp nhất để
phân tích số liệu không? hay họ chỉ đơn
giản đưa ra nhận xét về cái có vẻ như là
kiểu mẫu thôi.
• Liệu những kết luận được rút ra từ các
số liệu có biểu thị theo cách thừa nhận
những khả năng khác không?
• Có những nghiên cứu được xuất bản ủng
hộ hay phản đối phương pháp nghiên cứu
hay những khám phá của các nhà nghiên
cứu này không?
Bất kỳ nhà nghiên cứu dày dạn kinh
nghiệm nào cũng sẽ chứng thực rằng
danh sách những câu hỏi này đã bao quát
hết các mặt. Các trường cao đẳng và đại
học có đưa ra toàn bộ chương trình về
nghiên cứu thống kê và các phương pháp
62. nghiên cứu, nội dung của các chương trình
đó không nằm trong phạm vi của cuốn
sách này. Tuy nhiên, đọc và suy nghĩ về
những chương đó sẽ cung cấp cho bạn ý
niệm chung về các loại vấn đề giúp bạn
đánh giá các bài nghiên cứu khác nhau.
Suy nghĩ Cá nhân
Đâu là những lý lẽ tán thành và phản
đối việc chọn trở thành một nhà
nghiên cứu tình dục? Bạn dã bao giờ
từng suy nghĩ đến việc chọn nghiên
cứu tình dục là nghề nghiệp của
mình? Tại sao có hay tại sao không?
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
TÌNH DỤC
Các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau để nghiên cứu về tình
dục. Dưới đây là 6 phương pháp nghiên
63. cứu phổ biến nhất: Nghiên cứu trường
hợp, khảo sát, quan sát, so sánh giữa các
nền văn hóa, tương quan, và thực
nghiệm.
Nghiên cứu Trường hợp
Trong nghiên cứu trường hợp, các nhà
nghiên cứu thực hiện nghiên cứu tập trung
vào một cá nhân, hay trong một số trường
hợp là một nhóm nhỏ các cá nhân. Cá
nhân tiêu biểu có điều kiện hiếm hay có
phản ứng thuận lợi với phương pháp điều
trị mới. Do đó, nghiên cứu trường hợp
thường mang tính đơn giản về bản chất.
Người nghiên cứu (thường là bác sĩ, nhà
tâm lý học, nhân viên xã hội, nhà tư vấn,
hay nhà giáo dục) có thể sử dụng hoặc
không sử dụng bản tự báo cáo và bảng
câu hỏi để có được những số liệu có thể
xác định số lượng về người bệnh. Giống
như nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu
trường hợp có thể được tiến hành trong
64. hàng tuần, hàng tháng hay thậm chí hàng
năm giữa nhà nghiên cứu và đối tượng.
Một báo cáo trường hợp điển hình tuân
theo 4 phần sau:
• Trình bày vấn đề: Điều kiện hay vấn đề
khiến người bệnh đi chữa trị, bao gồm cả
những đánh giá về vấn đề.
• Hoàn cản lịch sử: Tóm tắt lịch sử xã hội
liên quan điều kiện của người bệnh.
• Điều trị:Miêu tả quá trình chữa trị, bao
gồm các bước và chi tiết mỗi buổi chữa.
• Các kết quả điều trị: Miêu tả hiệu quả
của việc điều trị, nếu có.
65. Những nghiên cứu trường hợp rất có giá
trị vì chúng cung cấp thông tin hữu ích về
các cá nhân, những điều kiện hiếm, và các
liệu pháp chữa trị mới. Nhiều thông tin về
lạm dụng tình dục, sự cưỡng hiếp, và các
rối loạn tình dục đã được phát hiện theo
cách này. Mặt tiêu cực của phương pháp
nghiên cứu này là, các nghiên cứu trường
hợp có xu hướng tập trung vào bệnh lý
học, và kết quả của nó chỉ được áp dụng
cho những cá nhân có các điều kiện tương
tự thay vì được áp dụng đại chúng. Sác
xuất thiên kiến cao của người phỏng vấn
ảnh hưởng đến các phản ứng của người
bệnh đối với việc chữa trị cũng hạn chế sự
tổng quát của phương thức nghiên cứu
này.
Hai trong số những nhà nghiên cứu tiên
phong nổi tiếng nhất sử dụng phương
pháp nghiên cứu trường hợp để nghiên
cứu về tình dục là Kraft-Ebing và Freud.
66. Kraft-Ebing. Richard von Kraft-Ebing
(1840-1902) là bác sĩ sống dưới triều đại
của nữ hoàng Victoria, ông chủ yếu làm
việc với những bệnh nhân mắc các chứng
bệnh liên quan đến rối loạn tình dục.
Những bài viết của ông về tình dục dựa
trên 200 nghiên cứu trường hợp. Kraft-
Ebing ủng hộ quan điểm phổ biến của
triều đại nữ hoàng Victoriavề tình dục.
Trong tác phẩm nổi tiếng của ông có tựa
đề Psychopathia Sexualis (Tình dục Tâm
thần) (1886/1978)2, Kraft-Ebing đã tranh
luận rằng hoạt động tình dục vì bất kỳ
mục đích gì ngoài mục đích sinh sản đều
là lầm đường lạc lối. Tập trung vào những
hành vi tình dục kỳ dị đôi khi xảy ra của
bệnh nhân của mình, Kraft-Ebing đã giúp
việc duy trì chuyện hoang đường ở thời
đại Victoria về tình dục, coi nó như "căn
bệnh" và do đó có gì đấy thật đáng sợ.
Freud. Giống với người người đồng nghiệp
Kraft-Ebing của mình, những bài viết của
Sigmund Freud (1856-1939) về tình dục
dựa trên công việc khám và điều trị những
67. bệnh nhân mắc các bệnh liên quan đến rối
loạn tình dục, mặc dù hầu hết các bệnh
nhân ban đầu đến với Freud đều phàn nàn
về những vấn đề đủ loại, không liên quan
đến tình dục. Freud được đào tạo thành
bác sĩ ở Đại học Vienna, nhưng sau đó ông
quyết định cống hiến sức lực của mình cho
việc nghiên cứu các quá trình tinh thần vô
thức và có ý thức. Kết quả là Freud đã xây
dựng một học thuyết toàn diện về hành
vi của con người được biết đến dưới tên
học thuyết phân tâm học.
Freud tin rằng con người là những thực
thể tình dục từ lúc sinh ra cho đến khi
chết đi, và hầu hết những rối loạn tâm
thần là do những mâu thuẫn tình dục vô
thức nảy sinh trong các giai đoạn phát
triển nhạy cảm. Ví dụ học thuyết của
Frued cho rằng một cậu bé 6 tuổi bị phạt
vì đã sờ mó vào vùng sinh dục có thể xây
dựng những mâu thuẫn về việc nghịch
ngợm với vùng sinh dục và sau này trở
nên bất lực. Tác phẩm nổi tiếng nhất của
68. Freud viết về tình dục là Ba bài Tiểu luận
về Học thuyết Tình dục (1905)3.
Những nghiên cứu trường hợp gần
đây hơn. Kraft-Ebing và Freud không phải
là hai nhà khoa học duy nhất sử dụng
phương pháp nghiên cứu trường hợp. Các
nhà nghiên cứu ngày nay thường công bố
những báo cáo về phương pháp điều trị
mới cho bệnh nhân với các điều kiện bất
thường. Hầu hết các tạp chí hàng đầu về
tình dục học đều xuất bản những nghiên
cứu trường hợp. Nhiều sách về tình dục
cũng có một hay nhiều báo cáo trường
hợp dùng để minh họa các hướng tiếp cận
mang tính đổi mới đối với phương pháp
điều trị. Ví dụ cuốn Các Nguyên tắc và
Thực hành Trị liệu Tình dục
4
do Sandra Leiblum và Raymond chủ biên
là một tập hợp các chương và các báo cáo
trường hợp về những rối loạn tình dục
khác nhau và cách điều trị được các
chuyên gia về tình dục viết.
Nghiên Cứu Về Tình Dục Là Gì?
69. George D. Zgourides, Bác Sĩ.
Christie S. Zgourides, Thạc Sĩ.
Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang
Nghiên cứu Khảo sát
Một phương pháp thu thập thông tin về
chủ đề quan tâm là hỏi mọi người về các
trải nghiệm tình dục của họ. Nghiên cứu
khảo sát là phương pháp được sử dụng
phổ biến nhất trong nghiên cứu tình dục,
liên quan đến việc phỏng vấn hay thực
hiện những khảo sát bằng văn bản đối với
rất nhiều người. Những nhà nghiên cứu
phân tích số liệu thu thập được từ các
khảo sát và quyết định các xu hướng, sự
tương đồng và khác biệt. Sau đó họ rút ra
kết luận về các kiểu mẫu dân số điều tra.
Thực hiện nghiên cứu khảo sát vừa có ưu
điểm vừa có nhược điểm. Ưu điểm nằm ở
chỗ thông tin thu thập từ nhiều đối tượng,
linh hoạt trong thời gian phỏng vấn (ví dụ,
thực hiện phỏng vấn cá nhân khi nào đối
tượng thấy thuận tiện) và phương tiện sử
70. dụng để phỏng vấn (qua điện thoại), và
khá tiết kiệm chi phí. Khảo sát "bằng thư"
có lợi thế đặc biệt vì nó đảm bảo tính bí
mật, không có tên và do đó khiến cho các
đối tượng trả lời một cách trung thực.
Những nhược điểm của phương pháp này
là sự bóp méo, thiên kiến của người
phỏng vấn, và thiên kiến của người tình
nguyện. Sự bóp méo xuất hiện khi một đối
tượng, vì bất kỳ lý do gì, không trả lời các
câu hỏi một cách trung thực. Thiên kiến
của người phỏng vấn liên quan đến những
kỳ vọng của người phỏng vấn hay những
điệu bộ cử chỉ không có nghĩa, chẳng hạn
như cười hay nhăn mặt, gây ảnh hưởng
một cách không cố ý đến các phản ứng
của đối tượng theo cách này hay cách
khác. Thiên kiến của người tình nguyện
xuất hiện khi người tình nguyện được chọn
không phải là đại diện cho dân số nói
chung. Những người tình nguyện nói về
các vấn đề tình dục có thể phản ứng một
cách khác đối với khảo sát so với những
người không tình nguyện.
71. Có một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến
kết quả của bất kỳ nghiên cứu, khảo sát.
Yếu tố đầu tiên là người được chọn làm ví
dụ, đó là đại diện cho dân số được nghiên
cứu. Một yếu tố khác là khống chế những
biến số bên ngoài, chẳng hạn như nhiệt độ
trong phòng hay mức độ tiếng ồn, những
điều này có thể làm thay đổi kết quả
nghiên cứu. Vẫn còn một thiên kiến nữa
đó là thiên kiến của người nghiên cứu, đó
là những kỳ vọng của người nghiên cứu về
cái gì nên hay không nên diễn ra trong
nghiên cứu, điều này gây ảnh hưởng đến
kết quả.
Ellis. Một nhân vật quan trọng trong thời
kỳ đầu nghiên cứu về tình dục là Henry
Havelock Ellis (1859-1939), ông là một
trong những người nghiên cứu đầu tiên sử
dụng phương pháp khảo sát tình dục. Là
một nhà tâm lý học người Anh, Ellis đã
làm việc để nâng cao hiểu biết và sự chấp
nhận của xã hội về tình dục bằng việc thu
thập thông tin từ những cá nhân đúng
mực chứ không phải từ những cá nhân
lúng túng. Nhiều đức tin của ông về tình
dục - chẳng hạn như việc thủ dâm không
72. gây ra bệnh điên, rằng trẻ em cần được
học về tình dục từ khi còn nhỏ, rằng hành
vi tình dục của các nền văn hóa khác nhau
là khác nhau - là "đi trước thời đại lúc đó"
và đi ngược lại với những niềm tin chung
được chấp nhận thời bấy giờ. Tác phẩm
nổi tiếng nhất của Ellis về tình dục là một
loạt các tập sách có tiêu đề Các nghiên
cứu về Tâm lý học Tình dục
(1896-1928/1936)5 và Tâm lý học Tình
dục: Sách giáo khoa dành cho Sinh viên
(1933)6.
Kinsey. Phải nói chắc chắn rằng những
khảo sát về tình dục trên diện rộng nổi
tiếng nhất là những khảo sát của Alfred
Kinsey (1894-1956), một nhà sinh vật học
có kiến thức về các quá trình tiến hóa.
Năm 1937, khi được yêu cầu dạy một
khóa học về hoạt động tình dục ở con
người tại Đại học Indiana, Kinsey đã
không thể kiếm đủ số lượng những thông
tin đáng tin cậy về chủ đề này. Trong suốt
16 năm tiếp theo Kinsey và những cộng
sự của ông đã thu thập số liệu bằng cách
phỏng vấn và lấy tư liệu lịch sử tình dục
của 5.300 nam giới và 5.940 phụ nữ Mỹ ở
73. các lứa tuổi và trình độ học vấn khác
nhau. Nghiên cứu của ông phát triển đến
cực điểm khi các tác phẩm Hành vi Tình
dục ở Namgiới (1948)7 và Hành vi Tình
dục ở Nữ giới (1953)8 được xuất bản, hai
cuốn sách này được phổ biến rộng rãi ở
trên cả các tạp chí khoa học lẫn các
phương tiện thông tin. Đến giữa thập kỷ
60, nghiên cứu của Kinsey là thông tin về
tình dục duy nhất thuộc loại này có giá trị
đối với các nhà khoa học xã hội.
Kinsey bắt đầu xua tan đi những chuyện
hoang đường về tình dục. Với hứng thú
đặc biệt về thị trường tình dục của người
Mỹ, Kinsey đã tích lũy những số liệu về
các chủ đề như thủ dâm, những quan hệ
ngoài hôn nhân, và đồng tính luyến ái. Cố
nhiên, một số phát hiện của ông đã (và
vẫn) gây tranh cãi. Ví dụ, những bị đơn
trong các vụ kiện ly hôn theo báo cáo có
quan hệ tình dục ngoài hôn nhân nhiều
hơn so với những gì mà các nhà nghiên
cứu nghi ngờ. Điều tương tự cũng đúng
đối với những bị đơn có quan hệ đồng tính
luyến ái.
74. Mặc dù, khảo sát của Kinsey được cho là
khảo sát lớn và toàn diện nhất về tình dục
cho đến ngày nay, nhưng nghiên cứu của
ông đã bị lấy làm ví dụ cho một số vấn đề
cố hữu thường gặp trong các nghiên cứu
khảo sát. Những báo cáo của ông được lập
dựa trên những thông tin từ các tình
nguyện viên, những người có thể có hoặc
có thể không nói ra động cơ tham dự vào
nghiên cứu của họ (nghĩa là thiên kiến của
tình nguyện viên). Báo cáo ghi lại những
điều mà các đối tượng nói là họ đã làm,
chứ không nhất thiết là điều mà họ thực
sự đã làm (sự bóp méo). Và những đối
tượng của Kinsey hầu hết là những người
có học vấn, cư dân thành thị, là người da
trắng (không phải là đại diện tiêu biểu).
Trong khi hầu hết các nhà tình dục học
đều tôn trọng các tác phẩm của Kinsey,
coi các tác phẩm của ông là khảo sát có
quy mô lớn đầu tiên về thái độ và hành vi
tình dục của người Mỹ, ghi nhận sự xuất
sắc về khả năng thực hiện nghiên cứu tình
dục của ông, thì một số người khác lại
khẳng định rằng, nhiều trong số các
phương pháp của ông là không khoa học -
75. và nó trở thành nguồn gốc của một số
thông tin sai lầm về tình dục ngày nay.
Hunt. Đầu những năm 1970, Tổ chức
Playboy (Những kẻ ăn chơi) uỷ nhiệm cho
Research Guild, một tổ chức nghiên cứu
độc lập, tiến hành một khảo sát trên quy
mô lớn về thói quen tình dục của người
Mỹ. Nhà báo Morton Hunt đã viết ra
những phát hiện của mình trong một loạt
bài báo trên tạp chí Playboy. Tổ chức
Playboy rất quan tâm đến những phát
hiện mới của Kinsey, trong đó bao gồm cả
nghiên cứu về những nhóm người mà
Kinsey không tiến hành khảo sát, cũng
như so sánh kết quả của Kinsey và Hunt
để thấy xem có gì thay đổi trong kiểu mẫu
tình dục từ những năm 40 đến những năm
50. Trên thực tế Hunt đã phát hiện ra
những thói quen tình dục nhất định như
quan hệ tình dục trước hôn nhân, điều này
xảy ra phổ biến hơn so với thời kỳ của
Kinsey. Ông cũng thấy một số ít khác biệt
trong vai trò về giới. Những phát hiện của
Hunt sau này xuất hiện trong cuốn Hành
vi Tình dục ở thập niên 1970 (1974)9.
76. Ví dụ của Hunt được thu thập bởi sự chọn
lựa ngẫu nhiên từ danh bạ điện thoại trên
khắp nước Mỹ, bao gồm 982 nam giới và
1.044 phụ nữ. Chỉ có 20% trong số những
người được liên lạc lúc đầu đồng ý tham
gia vào nghiên cứu, nghiên cứu này bao
gồm những cuộc thảo luận nhóm nhỏ
được tiến hành nhờ các bảng câu hỏi tự
thực hiện. Hunt sau đó cũng thực hiện
một số cuộc phỏng vấn. Ví dụ của Hunt
được cho là đã đại diện cho dân số của
toàn nước Mỹ trên phương diện giới tính,
tuổi tác, chủng tộc, trình độ học vấn, nghề
nhiệp, cư dân thành thị, nông thôn. Bảng
câu hỏi tự thực hiện bao gồm 1.000 đến
1.200 hạng mục bao quát các chủ đề như
thói quen, trải nghiệm và thái độ đối với
tình dục.
Những nhà phê bình nghi ngờ báo cáo của
Hunt bởi một số lý do. Vì chỉ có 20% trong
số các đối tượng tiềm năng đồng ý tham
gia vào nghiên cứu, và tỷ lệ từ chối là
80% nên con số này làm tăng khả năng
thiên kiến của người tình nguyện, gây ảnh
hưởng đến kết quả. Hơn nữa, đối tượng
của Hunt được lấy từ danh bạ điện thoại,
77. vậy còn những người mà số điện thoại
không được liệt kê hay không có điện
thoại thì sao, họ đã bị loại ra khỏi nghiên
cứu.
Hite. Shere Hite công bố kết quả khảo sát
của bà về tình dục của phụ nữ trên cuốn
Báo cáo của Hite (1976)10. Bà đã gửi qua
đường bưu điện bảng câu hỏi mang phong
cách bài luận đến 100.000 cá nhân và các
tổ chức của phụ nữ từ năm 1972 đến năm
1976, nhiều người trong số những người
đó đã trả lời các quảng cáo của Hite trên
những tạp chí như Phụ nữ, Tiếng nói Làng
quê, và Tiểu thư. Hite đã nhận được 3.019
bài trả lời hoàn thiện cho bảng câu hỏi của
mình từ những người phụ nữ, những người
này đã bày tỏ quan điểm và cảm xúc của
mình về các chủ đề tình dục khác nhau, từ
sự cực khoái, thủ dâm đến tình dục đồng
giới. Hite cũng đã tiến hành khảo sát
7.000 nam giới để lấy thông tin cho cuốn
Báo cáo của Hite về Tình dục Nam giới
(1981)11.
Liệu các báo cáo của Hite có đại diện cho
quan điểm tình dục của đàn ông và phụ
78. nữ Mỹ nói chung không? Rõ ràng là
không. Trên thực tế, những nhà phê bình
vẫn nhắc lại các nghi vấn của mình đối với
phương pháp nghiên cứu và kết luận đưa
ra của bà, vì tính thiên kiến của đối tượng
được chọn, tỷ lệ hồi âm đối với bảng câu
hỏi được gửi đi thấp, và dấu hiệu mang
tính vặt vãnh của dạng thức bài luận chứ
không phải phân tích thống kê số liệu.
Các khảo sát của Tạp chí. Khoảng 30
năm trước, có một số tạp chí đã tiến hành
các khảo sát trên quy mô lớn về thái độ
và hành vi tình dục đối với các độc giả của
mình. Một số tạp chí nổi tiếng đã tiến
hành khảo sát là Tâm lý học Ngày nay,
Sách đỏ, Tạp chí Phụ nữ Gia đình, Tạp chí
của McCall, Người theo chủ nghĩa thế giới,
Các báo cáo của Người tiêu dùng, Phụ nữ
Mới, Tạp chí của những kẻ ăn chơi, Sức
khoẻ Con người, và Tạp chí Chi tiết/Tiểu
thư. Số liệu đưa ra từ những tạp chí này
và những khảo sát phổ biến khác đôi khi
có thể làm "mở mắt", cho dù nó thường
nhận được số lượng phản hồi rất lớn từ
người đọc. Nếu có, thì chỉ có một số rất ít
79. những thông tin của chúng được áp dụng
cho quảng đại quần chúng.
Nghiên cứu Quan sát
Không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng sự
bóp méo là một hạn chế nghiên trọng của
phương pháp khảo sát tình dục. Các đối
tượng có thể không hoàn toàn trung thực
khi nói với các trải nghiệm và phản ứng
đối với tình dục. Họ có thể cảm thấy bối
rối, không thể nhớ nổi một sự kiện, hay
không thực hiện khảo sát một cách
nghiêm túc. Bắt đầu từ những năm 60,
một số nhà nghiên cứu đã quyết định rằng
cách để giải quyết vấn đề về sự bóp mép
là giám sát các phản ứng liên quan đến
tình dục của đối tượng trực tiếp ở trong
phòng thí nghiệm. Phương pháp nghiên
cứu này được biết đến dưới tên nghiên
cứu quan sát.
Masters và Johnson. Có lẽ nhóm nghiên
cứu nổi tiếng nhất sử dụng các phương
pháp quan sát là nhóm của William
Masters và Virginia Johnson. Mục đích
thực hiện nghiên cứu khảo sát hoạt động
80. tình dục ở con người của họ tập trung
"vào việc nam giới và phụ nữ làm gì để
phản ứng lại với các kích thích tình dục có
hiệu quả, và tại sao họ lại làm như thế
chứ không phải như những gì mọi người
nói hay nghĩ là họ sẽ có thể có phản ứng
khác" (Phản ứng Tình Dục Của Con Người,
1966, trang 20)12.
Nghiên cứu quan sát của Masters và
Johnson được thực hiện với 312 đối tượng
là nam giới và 382 đối tượng là nữ giới,
tham gia vào những hoạt động tình dục
khác nhau trong khi đó nhiều loại thiết bị
đã được thiết kế, lắp đặt để đo các phản
ứng sinh lý. Ví dụ, một số đối tượng là phụ
nữ đã thủ dâm khi sử dụng dương vật giả
có gắn camera. Masters và Johnson đã
quan sát và phân tích khoảng observed
and 10.000 tình tiết tình dục khác nhau
trong vòng 12 năm, sau đó cho xuất bản
cuốn sách nổi tiếng có tên là Phản ứng
Tình dục của Con người (1966). Một thời
gian ngắn sau đó, một cuốn sách nữa của
họ về chữa trị các bệnh liên quan đến tình
dục cũng được xuất bản có tên là Sự
81. không thỏa đáng trong Tình dục của Con
người (1970)13.
Masters và Johnson cũng sử dụng nghiên
cứu quan sát để nghiên cứu về các phản
ứng tình dục của những người đồng tính
luyến ái nam, nữ. Họ quan tâm đến việc
phát hiện nếu có bất kỳ sự khác biệt nào
giữa phản ứng của những người đồng tính
luyến ái và của những người có quan hệ
tình dục với người khác giới. Không có
khác biệt nào được ghi nhận.
Nghiên cứu quan sát cũng có những hạn
chế, đặc biệt ở sự thiên kiến của tình
nguyện viên. Các tình nguyện viên có thể
không phải là đại diện cho toàn bộ dân số.
Các cá nhân đồng ý để người khác quan
sát khi họ quan hệ tình dục có thể thực
hiện khác đi so với những người không
đồng ý. Các đối tượng có thể hành động
khác khi ở trong phòng thí nghiệm so với
khi thực hiện ở nhà.
Nghiên cứu So sánh giữa các nền văn
hóa
82. Để có thể thông cảm với những thói quen,
thái độ và phong tục của người khác
chúng ta cần phải có kiến thức về văn hóa
và xã hội của họ. Đây là lý do tại sao một
số nhà nghiên cứu về tình dục đã thực
hiện nghiên cứu so sánh giữa các nền
văn hóa, hay nghiên cứu nhằm phát hiện
những khác biệt tồn tại giữa các nhóm
người khác nhau. Hầu hết nghiên cứu so
sánh giữa các nền văn hóa đều sử dụng
các phương pháp nghiên cứu như khảo
sát, quan sát trực tiếp, và quan sát người
tham dự. Ở phương pháp quan sát người
tham dự, "người quan sát" thực sự trở
thành một thành viên của nhóm của
những đối tượng của anh ta hay cô ta. Lợi
thế của nghiên cứu quan sát người tham
dự là cơ hội được thấy những điều liên
quan đến tình dục thực sự xảy ra trong
một nhóm, và sau đó xem xét thông tin
này trong hệ thống xã hội, chính trị, kinh
tế và tôn giáo đang tồn tại.
Mangaia, Nam Thái Bình dương, thuộc
quần đảo Pô-li-nê-di, là xã hội được chọn
làm chủ thể cho nghiên cứu so sánh về
tình dục giữa các nền văn hóa. Thói quen
83. tình dục của người Mangaians rất khác
biệt so với thói quen tình dục của những
người sống ở miền Bắc nước Mỹ. Người
Mangaia tin rằng quan hệ tình dục thường
xuyên là có lợi và cần thiết để có sức khỏe
tốt, và tập luyện quan hệ tình dục bắt đầu
từ rất sớm. Gia đình đặc thù của người
Mangaia sống trong những túp lều có một
gian, ở đó trẻ con xem cha mẹ chúng
quan hệ tình dục. Cha mẹ cũng khuyến
khích bọn trẻ thủ dâm. Và thanh thiếu
niên nâng cao các kỹ năng làm tình của
chúng bằng cách tập luyện với nhau, với
hi vọng rằng cuối cùng chúng sẽ thu hút
được một người bạn đời thích hợp. Những
người đàn ông nhấn mạnh vào việc mang
đến sự cực khoái cho bạn tình là nữ giới,
mà điều này ở xã hội của người Mangaia
có vẻ là rất phổ biến đối với cả hai giới.
Tất cả mọi xã hội đều có những quan niệm
về hành vi tình dục nào được coi là chấp
nhận được trong gia đình hay xã hội.
Nghiên cứu so sánh giữa các nền văn hóa
chứng tỏ rằng cái được cho là tình dục
"bình thường" hay chấp nhận được ở một
nền văn hóa có thể là "bất thường" hay