Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan niệm duy vật biện chứng
l
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài 4: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan
niệm duy vật biện chứng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận chung và
liên hệ với thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay.
Dịch vụ làm tiểu luận
Luanvantrithuc.com
Hotline 0936.885.877
Tải file tài liệu qua zalo
Hà Nội - 2020
PHẦN MỞ ĐẦU
Mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay là tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có thực hiện được mục tiêu quan
trọng này thì chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam mà theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh là: ‘dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Cũng chỉ khi xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì chúng ta mới có thể làm
thỏa mãn mong muốn không chỉ của Người mà của tất cả nhân dân Việt Nam là:
“Làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,..”. Vậy
chúng ta phải làm thế nào để đạt được mục tiêu đó? Theo thực tế hiện nay, với con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đại hội Đảng lần
thứ VI đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là
nền tẳng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải
sử dụng quan điểm, lập trường và các phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin để
rút ra những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta để có thể xác định được đường lối, chính sách của Cách mạng xã
hội sao cho phù hợp nhất với tình hình nước ta.
Với tư cách là một sinh viên đại học, đồng thời là một công dân của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, em muốn cùng mọi người tìm hiểu kĩ hơn về
Triết học Mác- Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Cụ thể hơn là đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan
niệm duy vật biện chứng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận chung và
liên hệ với thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay.” Em cũng muốn góp một phần
công sức nhỏ của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân.
Đó là, mọi sách lược, chiễn lược cách mạng chúng ta đưa ra phải xuất phát từ thực
tế khách quan, phát huy được tính năng động chủ quan và đồng thời chống chủ
quan duy ý chí. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài.
Do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em sẽ
không thể tránh khỏi thiếu sót, em kính mong sự góp ý của thầy giáo cùng toàn thể
bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn !
3
PHẦN NỘI DUNG
I. LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
Đây là vấn đề cơ bản, cốt lỗi để phân biệt các trường phái triết học. Trong
mối quan hệ này, Triết học Mác- Lênin đã khẳng định: Mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có
thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
1.Vật chất và các hình thức tồn tại của nó
1.1.Định nghĩa phạm trù vật chất:
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất:
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về vật chất, trong đó có một số quan niệm điển hình sau:
Định nghĩa đầu tiên về vật chất cho rằng vật chất là một vật thể cụ thể, hữu
hình nhất định. Điều này xuất phát từ nhận thức trực quan sinh động, cảm tính. Các
nhà triết học cổ Hy Lạp tin rằng mọi sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới
đều bắt nguồn từ một nguyên thể đầu tiên rõ rệt, nói cách khác là quan điểm nhất
nguyên thể. Chẳng hạn, Talet cho rằng vật chất là nước, nước là yếu tố đầu tiên, là
bản nguyên của mọi sự vật xuất hiện trong thế giới này. Ông tin rằng mọi sự vật
đều sinh ra từ nước, biến đổi không ngừng và khi chết đi lại phân hủy thành nước,
chỉ có nước là tồn tại mãi mãi.
Một số nhà triết học Trung Quốc cổ đại lại tin theo thuyết ngũ hành, còn gọi
là quan điểm đa nguyên thể. Thuyết này cho rằng năm yếu tố Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ là khởi nguyên, cấu thành nên mọi vật; và mọi sự biến đổi của tự nhiên
đều là do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố vật chất đầu tiên này. Tuy chưa
đầy đủ nhưng so với học thuyết nhất nguyên thì đây là một bước tiến lớn trong quá
trình nhận thức về vật chất bởi vì cơ sở hình thành của mọi vật là một số tương đối
rộng lớn.
Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển về phạm trù vật chất là định
nghĩa về vật chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ là Lờxíp (khoảng 500- 440 TCN)
và Đêmôcrít (khoảng 427- 374 TCN). Hai ông đã định nghĩa nguyên tử là căn
4
nguyên của mọi vật. Theo họ, nguyên tử là những hạt nhỏ nhất, không thể phân
chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng về
hình dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật. Theo thuyết
nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng nghĩa với
những vật thể mà con người có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà là một
lớp các phần tử hữu hình nằm sâu trong mỗi sự vật. Quan niệm này là một bước
tiến lớn tỏng quá trình tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất mà còn có ý
nghĩa như một dự báo khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật
chất nói chung.
Bắt đầu từ thời kì Phục Hưng (thế kỉ XV), phương Tây đã có sự bứt phá so
với phương Đông ở chỗ khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt là sự phát triển
mạnh của cơ học, công nghiệp. Đến thế kỉ XVII- XVIII, chủ nghĩa duy vật mang
hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Thuyết nguyên tử vẫn được các
nhà triết học và khoa học tự nhiên thời kì đó như Galilê, Bêcơn, Niutơn,… tiếp tục
nghiên cứu và khẳng định trên lập trường khoa học. Đặc biệt, nhừng thành công
vang dội của Niutơn trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo và các thuộc tính
của các vật thể vật chất vĩ mô tính từ nguyên tử trở lên) và việc khoa học vật lý
thực nghiệm chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử càng làm cho quan
niệm trên được củng cố thêm. Tuy nhiên, thuyết nguyên tử vẫn còn một số hạn chế
là đã không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn về vật chất. Các nhà
triết học thời kỳ này thường đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định luật
cơ học như những chân lý không thể thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế
giới theo chuẩn mực thuần túy của cơ học. Cũng có một số nhà triết học thời kì này
như Đềcáctơ, Cantơ,… cố gắng vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên tử nhưng
vẫn không thể làm thay đổi căn bản cái nhìn cơ học về thế giới.
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra
hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh
được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà thay đổi theo vận tốc vận
động của nguyên tử. Năm 1902, nhà nữ vật lý học Marie Curie cùng chồng Pie
Curie đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là Pôlôni và Radium. Những phát hiện
vĩ đại đó đã chứng tỏ nguyên tử vẫn có thể bị phân chia, chuyển hóa. Năm 1905,
thuyết Tương đối hẹp và 1906 thuyết Tương đối rộng của A. Einstein đã chứng
minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của
vật chất. Thế giưới vật chất không có và không thể có những vật thể không có kết
cấu, tức là không thể có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và bất biến thể để đặc
trưng cho vật chất. Thế giới ấy còn nhiều điều kỳ diệu mà con người đã và đang
tiếp tục khám phá: sự chuyển hóa giữa hạt và trường, song và hạt, hạt và phản hạt,
5
hụt khối lượng,.v.v.. Điều này đã khẳng định dự đoán của Ph.Ăngghen: “Không
thể coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất đã biết”, và của V.I.Lênin:
“Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận” là hoàn toàn đúng
đắn.
b. Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin:
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
của mình, Lênin đã đưa ra một phương pháp mới để định nghĩa vật chất và phát
triển lý luận phản ánh duy vật và lý luận:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác. Được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Định nghĩa này của V.I.Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
Một là, vật chất, với tư cách là một phạm trù triết học thì nó là một sự trừu
tượng. Vì vậy, “chúng ta không biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật chất
với tính cách là vật chất…bằng con đường cảm tính nào khác”. (C.Mác và
P.Ăngghen: toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994, tr.726). Sự trừu tượng
này chỉ các đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể
nào của vật chất cũng có, đó là đặc tính tồn tại khách quan và độc lập với ý thức
của loài người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật
chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất luôn có hai khía cạnh phân biệt nhau
nhưng lại gắn bó với nhau, đó là tính trừu tượng và tính cụ thể. Chủ nghĩa duy vật
Mácxít cũng không bao giờ quy vật chất thành “những viên gạch nhỏ của lâu đài
thế giới” có tính bất biến mà luôn luôn hiểu vật chất là thực tại khách quan tồn tại
độc lập với ý thức và được ý thức con người phản ánh lại.
Hai là, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và
tồn tại không lệthuôc vào cảm giác. Với nôi dung này, V.I.LêNin làm rõ mối quan
hê ̣giữa thực tại khách quan và cảm giác rằng thực tại khách quan (tức là vâṭ chất)
là cái có trước ý thức, không phụ thuôc vào ý thức, đôc lập với ý thức, còn cảm
giác (tức ý thức) của con người là cái có sau vâṭ chất, phụ thuôc vào vâṭ chất. Vât
chất là nôi dung, là nguồn gốc khách quan của tri thức, là nguyên nhân phát sinh ra
ý thức, không có cái bị phản ánh là vâṭ chất sẽ không có cái phản ánh là ý thức. –
Ba là, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại
phản ánh. Với nôi dung này, V.I.LêNin chứng minh vâṭ chất tồn tại khách quan,
6
nhưng không phải tồn tại môt cách vô hình thần bí mà tồn tại môt cách hiên thực
dưới dạng các sự vâṭ, hiên tượng cụ thể, mà con người bằng cá giác quan có thể
trực tiếp hoăc gián tiếp nhân biết được. Nghĩa là, ngoài dấu hiêu tồn tại khách
quan, vâṭ chất còn có môt dấu hiêu quan trọng khác là tính có thể nhân thức được.
Vì vâỵ , về nguyên tắc, không có đối tượng nào không thể nhân biết, chỉ có những
đối tượng chưa nhân thức được mà thôi. Là kết quả của sự khái quát những thành
tựu khoa học mới và hoạt đông thực tiễn của con người, định nghĩa vâṭ chất của
V.I.LêNin đã giải đáp môt cách đúng đắn, sâu sắc cả hai măṭ nôi dung vấn đề cơ
bản của triết học. Vì vâỵ , ngoài ý nghĩa thế giới quan khoa học trên đây, định nghĩa
vâṭ chất của V.I.LêNin còn có ý nghĩa phương pháp luân chung đối với chúng ta
trong nhân thức và hoạt đông thực tiễn.
Vì vâṭ chất có trước, tồn tại khách quan không phụ thuôc vào ý thức, ý thức
có sau, vâṭ chất quyết định ý thức, cho nên trong nhân thức và hoạt đông thực tiễn
“Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành đông theo quy luât khách
quan” (Đảng Công Sản Viêṭ Nam :Văn Kiên Đại Hôi Đại Biểu Toàn Quốc Lần
Thứ VI, NXB Sự Thâṭ, Hà Nôị, 1987, tr.30), phải xuất phát từ điều kiên vâṭ chất
khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hành đông của mình, không được lấy
ý muốn, nguyên vọng chủ quan làm điểm xuất phát. Yêu cầu khi đề ra mục tiêu,
nhiêm vụ và các biên pháp thực hiên mục tiêu, nhiêm vụ cho địa phương mình,
đơn vị mình, ngành mình, phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan thì mới nêu
ra mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt đông thực tiễn.
Ngược lại, cần chống thái độchủ quan, duy ý chí, nóng vôị, bất chấp quy luâṭ
khách quan, không đếm xỉa đến điều kiên vâṭ chất khách quan, tùy tiên phiến diên,
lấy ý muốn, nguyên vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương, chính
sách, hâu quả là đường lối không hiên thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất
bại trong hoạt đông thực tiễn.
1.2. Các hình thức tồn tại của vâṭ chất:
Chủ nghĩa duy vâṭ biên chứng cho rằng vâṭ chất tồn tại bằng vân đông, và
vân đông của vâṭ chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vâỵ , vân đông,
không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vâṭ chất. 2.1. Vân đông: Quan
điểm của chủ nghĩa duy vâṭ biên chứng cũng như sự phát triển của khoa học hiên
đại đã chứng minh rằng: không thể hiểu vân đông chỉ theo nghĩa cơ học, tức là sự
chuyển dịch vị trí của vâṭ thể trong không gian, mà phải hiểu vân đông theo nghĩa
chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Tư tưởng ấy đã được Ph.Ăngghen khái
quát như sau: “Vân đông, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là môt
phương thức tồn tại của vât chất, là môt thuôc tính cố hữu của vât chất, thì bao
7
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi
vị trí đơn giản cho đến tư duy.” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn Tâp, NXB Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nôị, 1994, tr 519).
a.Vân
“Vâṇ
đông là phương thức tồn tại của vât
đông là phương thức tồn tại của vâṭ
chất:
chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc
nào cũng không có và không thể có vât chất mà không có vân đông. Vân đông
trong không gian vũ trụ, vân đông cơ học của những khối nhỏ hơn trên mỗi thiên
thể riêng biêṭ, dao đông phân tử dưới hình thức nhiêṭ, hay dưới hình thức dòng
điên hoăc dòng từ, phân giải hóa học và hóa hợp hóa học đời sống hữu cơ, đó là
những hình thức vân đông mà mỗi môt nguyên tử vât chất riêng biêṭ trong vũ trụ
(trong mỗi lúc nhất định đều nằm dưới môt hình thức vân đông hay dưới nhiều
hình thức vân đông cùng môt lúc. Mọi trạng thái đứng yên, mọi trạng thái thăng
bằng đều chỉ là tương đối, chỉ có ý nghĩa nếu đem so sánh với môt
đông nhất định nào đó.”
hình thức vân
Vân đông là phương thức tồn tại của vâṭ chất, điều đó có nghĩa là vâṭ chất
tồn tại bằng cách vân đông, thông qua vân đông mà các dạng vâṭ chất biểu hiên sự
tồn tại của mình. Như vâỵ , bất cứ sự vâṭ, hiên tượng nào cũng ở trong trạng thái
vân đông. Từ các thiên thể khổng lồ đến những hạt vô cùng nhỏ, từ giới vô sinh
đến giới hữu sinh, từ các sự vâṭ, hiên tượng tự nhiên đến xã hôi loài người, tất cả
đều không ngừng biến đổi dưới hình thức này hay hình thức khác.
chất:
b.Nguồn gốc của vân đông nằm trong ngay bản thân sự vâṭ, bản thân vât
Vâṭ chất bao giờ cũng ở trong trạng thái vân đông, bởi vì bất cứ sự vâṭ, hiên
tượng vâṭ chất nào cũng là môt thể thống nhất có môt kết cấu nhất định. Kết cấu đó
gồm những nhân tố, những bô ̣phân, những xu hướng khác nhau, đối lâp nhau. Sự
tác đông, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của các yếu tố đó gây ra những biến đổi nói
chung, tức là vân đông. Vì vâỵ , nguồn gốc của vân đông là do sự tác đông của các
măṭ khác biêṭ bên trong của các kết cấu vâṭ chất tạo nên. Do đó, vân đông của vât
chất là tự vân đông.
c.Những hình thức vân đông cơ bản của vât chất:
Với cách nhìn khái quát theo quan điểm duy vâṭ biên chứng, Ph.Ăngghen đã
rút ra năm hình thức vân đông cơ bản của vâṭ chất là:
8
o Vân đông cơ học (sự dịch chuyển vị trí của các vâṭ thể trong không gian).
o Vân đông vâṭ lý (vân đông của các phân tử, các hạt cơ bản, vân đông của điên
tử, của các quá trình nhiêṭ, điên ….).
o Vân đông hóa học (vân đông của các nguyên tử, các quá trình hóa học và phân
giải các chất).
o Vân đông sinh vâṭ (sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường).
o Vân đông xã hôi (sự biến đổi, thay thế của các hình thái kinh tế xã hôị). Các
hình thức vân đông cơ bản có sự khác nhau về chất, nhưng lại tồn tại trong mối
liên hệbiên chứng với nhau. Mỗi hình thức vân đông được thực hiên là do tác
đông qua lại với nhiều hình thức vân đông khác.
2.Nguồn gốc và bản chất của ý thức
2.1.Nguồn gốc ý thức:
a. Nguồn gốc tự nhiên:
Trước Mác, nhiều nhà duy vâṭ tuy không thừa nhân tính chất siêu tự
nhiên của ý thức, song khi đó khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải
thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của
khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vâṭ biên chứng
khẳng định rằng: ý thức là môt thuôc tính của vâṭ chất nhưng không phải của
mọi dạng vâṭ chất mà chỉ là thuôc tính của môt dạng vâṭ chất sống có tổ chức
cao là bộnão con người. Bộnão người là cơ quan vâṭ chất của ý thức còn ý
thức là chức năng của bộnão. Hoạt đông ý thức của con người diễn ra trên sở
hoạt đông sinh lý thần kinh của bộnão, khi não bộ bị tổn thương thì hoạt đông
ý thức sẽ không bình thường hoăc bị rối loạn. Vì vâỵ , không thể tách rời ý thức
ra khỏi hoạt đông của não bộ. Ý thức không thể diễn ra khi tách rời hoạt đông
sinh lý thần kinh của bộnão con người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộóc không thôi mà không có sự tác đông của thế
giới bên ngoài để bộóc phản ánh lại tác đông đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuôc
tính này được biểu hiêṇ
tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vâṭ chất, thuôc
ra trong sự liên hê,̣ tác đông qua lại giữa các đối tượng
vâṭ chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đăc điểm của môt hê ̣thống vât
9
chất này ở hê ̣thống vâṭ chất khác trong quá trình tác đông qua lại của chúng.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuôc vào cả hai vâṭ – vâṭ tác đông và vâṭ nhân tác
đông. Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác,
vâṭ nhân tác đông bao giờ cũng mang thông tin của vâṭ tác đông. Đây là điều
hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiên thực, ý thức bắt
nguồn từ thuôc tính này của vật chất - phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả
phát triển lâu dài của thuôc tính phản ánh của vâṭ chất, nôi dung của nó là thông
tin về thế giới bên ngoài, về vâṭ được phản ánh. Ý thức phản ánh thế giới bên
ngoài vào trong não bộ con người. Bộnão người là cơ quan phản ánh song chỉ
có riêng bộnão thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác đông của thế giới
bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến não bộ thì hoạt đông ý thức không
thể xảy ra. Như vây
̣ , bộnão người cùng với thế giới bên ngoài tác đông lên não,
đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hôị:
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là quan trọng
không thể thiếu được, song vẫn chưa đủ điều kiên quyết định cho sự ra đời của
ý thức. Cùng với quá trình hình thành bộnão của người nhờ lao đông, ngôn ngữ
và những quan hê ̣xã hôị, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hôị, nó phụ
thuôc và xã hôị, và mang tính chất xã hôị.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhân
thụ đông. Nhờ có lao đông, con người tác đông vào các đối tượng hiên thực, bắt
chúng phải bôc lộnhững thuôc tính, những kết cấu, những quy luâṭ vân đông
thành những hiên tượng nhất định và các hiên tượng này tác đông vào bộnão
con người. Ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác đông thuần
túy, tự nhiên của thế giới khách quan vào bộnão con người, mà chủ yếu là do
hoạt đông của con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó.
Quá trình hình thành ý thức là kết quả của các hoạt đông chủ đông của con
người. Không phải bỗng nhiên thế giới khách quan tác đông vào bộóc người để
con người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ
đông tác đông vào thế giới thông qua hoạt đông thực tiễn để cải tạo thế giới,
con người chỉ có ý thức do có tác đông vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ
được hình thành thông qua hoạt đông thực tiễn của con người. Nhờ sự tác đông
vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mâṭ của thế giới, ngày càng
làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
10
Ngôn ngữ, do nhu cầu của lao đông và nhờ vào lao đông mà ý thức.
Không có hê ̣thống tín hiêu này thì ý thức không thể tồn tại và thể hiên được.
Ngôn ngữ, theo C. Mác, là cái vỏ vâṭ chất của tư duy, là hiên thực trực tiếp của
tư tưởng. Không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức. Như vâỵ , nguồn
gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là
lao đông và thực tiễn xã hôị. Ý thức là sự phản ánh hiên thực khách quan vào
trong bộóc người thông qua lao đông, ngôn ngữ và các quan hê ̣xã hôị. Ý thức
là sản phẩm xã hôị, là môt hiên tượng xã hôị.
2.2. Bản chất của ý thức
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ đông máy móc của
sự vâṭ. Ý thức là của con người, mà con người là môt thực thể xã hôi năng đông
sáng tạo. Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác
đông cải tạo thế giới. Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng
đông, sáng tạo. Ý thức là sự phản ảnh sáng tạo lại hiên thực, theo nhu cầu thực
tiển xã hôị, vì vây ý thức “chẳng qua chỉ là vât chất được đem chuyển vào
trong đầu óc con người, và được cải biến đi ở trong đó” (C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tâp, NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35). Nói cách khác, ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiên thực khách quan vào bộóc con người, song
đây là sự phản ảnh đăc biêṭ -phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế
giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 măṭ sau đây:
Môt là sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao
đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần
thiết .
Hai là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiên tượng của ý thức , theo nghĩa mã
hóa các đối tượng vâṭ chất thành các ý thức tinh thần phi vâṭ chất .
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiên thực khách quan, tức quá trình
hiên thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt đông thực tiển biến cái quan niêm thành
cái thực tại, biến các ý tưởng phi vâṭ chất trong tư duy thành các dạng vâṭ chất
ngoài hiên thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp,
11
phương tiên, công cụ để tác đông vào hiên thực khách quan nhằm thực hiên
mục đích của mình. Điều đó càng nói lên tính năng đông sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức tạo ra vâṭ chất. Sáng
tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luâṭ và trong khuôn khổ
của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng
tạo của ý thức không đối lâp, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống
nhất với phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai măṭ thuôc ̣
bản chất của ý thức. Ý thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh
và chính thực tiễn xã hôi
sáng tạo của não bộ.
của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng đông,
3. Mối quan hệ biện chứng duy vật giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ vật chất và ý thức được coi là “vấn đề cơ bản của mọi triết
học, đặc biệt là triết học hiện đại” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tâp, NXB.
CTQG, HN, 1995, Trang 403). Tùy theo lập trường về thế giới quan khác nhau
mà khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có hình thành các đường
lối khác nhau. Tuy nhiên, nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát
kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã nêu lên những quan điểm khoa học,
khái quát đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật
chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Theo quan điểm của triết học Mác- Lênin: vật chất và ý thức có mối quan
hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực
trở lại vật chất.
3.1. Vật chất quyết định ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất tới ý thức được thể hiện:
Một là, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên theo lẽ tự nhiên thì
ý thức- một thuộc tính của con người- cũng là do giới tự nhiên sinh ra. Các
thành tựu của khoa học tự nhiên đã chứng minh rằng, giới tự nhiên có trước con
người và vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc của ý thức. Ý thức con người tồn tại
dựa vào vật chất- bộ não con người- trong quá trình phản ánh hiện thực khách
12
quan. Sự vận động của vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của vật chất có tư
duy là não bộ.
Hai là, vật chất quyết định nội dung của của ý thức.
Ý thức dưới bất kì hình thức nào cũng đều phản ánh hiện thực khách
quan. Ý thức và nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh của hiện
thực khách quan vào đầu óc con người. Sự hát triển của hoạt động thực tiễn cả
về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ quyết định tính phong phú và độ
sâu sắc của tư duy và ý thức của con người.
Ba là, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất là những sự vật,
hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là
thế giới con người với các hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật
chất có tính cải biến thế giới của con người- là cơ sở để hình thành, phát triển ý
thức.
Bốn là, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Con người- sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển thì dĩ nhiên, ý
thức- một hình thức phản ánh não bộ cũng phát triển về nội dung và hình thức
phản ánh của nó. Xã hội ngày càng văn minh, khoa học ngày càng phát triển thì
ý thức cũng phát triển theo. Biểu hiện thực tế nhất đó chính là sự ảnh hưởng của
kinh tế chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống văn hóa, tinh thần của con
người. Sự phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật
chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
3.2.Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
Thứ nhất, tuy ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não
con người nhưng ý thức cũng có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát
triển riêng.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người, còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được
hiện thực. Con người dựa trên tri thức về thế giới vật chất để phát minh, đề ra
các phương hướng, biện pháp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã xác định.
13
Thứ ba, ý thức có thể chỉ đạo hoạt động của con người, quyết định hoạt
động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng
hiện thực, nó có thể giúp hình thành nên những lý luận, định hướng đúng đắn,
góp phần khia thác tiềm năng con người, từ đó sức mạnh vật chất sẽ được tang
lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch
hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng lớn. Nhất
là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa hiện tại thì vai trò của tri thức khia
học, tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn lại càng vô cùng quan trọng.
II. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Ý nghĩa phương pháp luận
Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biến được tự
nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt
động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính tính phản ánh sáng tạo và tính xã hội
của ý thức và chính nhờ tính chất đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả
năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thành tự nhiên trù
phú, sinh động, tự nhiên của con người. Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập
giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý
thức. Mặt khác, đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng
phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng
định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có ý nghĩa là
khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động
của con người. Trái lại, triết học Mác-Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của
con người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua lại, song sự tác động
đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân
tố ý thức.
Tuy nhiên, trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến
cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định hoạt động của con
người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia
vào hoạt động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh
thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích chủ trương biện pháp
14
mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung,
cụ thể hoá mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con
người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu
cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và
phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện
có. Khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học
Mác- Lênin không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ
quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn
nữa, trong hoạt động của mình con người không thể để cho thế giới khách quan,
quy luật khách quan chi phối mà chủ động hướng nó đi theo con đường có lợi của
mình, ý thức con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất, cũng không thể
thay đổi quy luật vận động của nó. Do đó, trong quá trình hoạt động của mình, con
người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có thể đề ra những mục đích, chủ
trương trong phạm vi hoàn cảnh vật chất cho phép.
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải
tôn trọng khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ
quan, đặc biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú ý giáo dục và nâng cao
nhận thức cho con người.
Chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của ý thức mà hạ thấp,
đánh giá không đúng vai trò của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí
áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự
yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dungjlis
luận vào thực tiễn nói riêng. Đó là “sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự phát dẫn
đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Chúng ta cũng không nên
tuyệt đối hóa vai trò của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa
là chống lại “chủ nghĩa khách quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện
vật chất.
Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và chủ quan
trong hoạt động của con người cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nhận
thức.
2. Sự vận dụng trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay.
15
Chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng để Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt
được qua hơn 30 năm đổi mới thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng;
đồng thời, cũng góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin trong
điều kiện mới.
C.Mác, Ph.Ăngghen đã có đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ
thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội
khoa học. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế
và vai trò của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý luận của mình,
đặc biệt là trong bộ “Tư bản”, các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn
cố hữu, nội tại, gắn liền với nó và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay
thế bởi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã
hội khoa học, các ông cũng chỉ ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh
giải phóng thoát khỏi sự nô dịch và bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, mà sau này, không phải
ngẫu nhiên, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng nhất trong học
thuyết Mác là việc làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản với
tư cách là người xây dựng, kiến tạo xã hội mới.
Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tế cách mạng Việt
Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ luận điểm có tính
phương pháp luận hết sức sâu sắc của V.I. Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa
“tính phổ biến” và “tính đặc thù” của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Tất cả
các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng
tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn
giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình
thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô
sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác- Lênin cho phù hợp với điều kiện mới của Việt Nam, từ đó đã đúc kết
những luận điểm lý luận phù hợp với mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó
16
là những luận điểm lý luận về mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, về con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Trong bước chuyển đổi từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính
sách kinh tế mới” vào mùa xuân năm 1921, V.I.Lênin đã tự phê phán về những sai
lầm nghiêm trọng khi coi thường quy luật khách quan và yêu cầu cần thay đổi căn
bản những quan niệm, tư duy trước đây về chủ nghĩa xã hội. Lĩnh hội tinh thần đó,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã tạo ra bước
ngoặt trong đổi mới tư duy về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phương
châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, xuất phát từ
thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan là khởi nguồn cho những sáng tạo của
Đảng khi xác định mô hình và bước đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Đại hội thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần trong buổi đầu thời kỳ quá độ. Những quan điểm đổi mới về tư duy
kinh tế nêu trên Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) khẳng định và bổ sung
với những bước tiến mới. Từ kinh nghiệm của 5 năm đổi mới, Đại hội VII của
Đảng (6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
So với sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991) đã nêu ra, Đại hội
X đã bổ sung hai đặc trưng là xây dựng “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh” và “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) tiếp tục bổ sung và phát
triển “Cương lĩnh” cho phù hợp với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, trong đó có những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
“Cương lĩnh” năm 1991 đã vạch ra bảy phương hướng cơ bản của quá trình
xây dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 20 năm thực
hiện “Cương lĩnh” năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, “Cương lĩnh” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển
nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở tám phương hướng cơ
bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là
xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
17
Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng (tháng 1-2016) tiếp tục
khẳng định và phân tích sâu sắc hơn tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam cho phù hợp hơn với thực tiễn, bối cảnh mới. Đại hội XII rút ra ba kết
luận quan trọng: 1- Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta
tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; 2- Những thành tựu
đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; 3- Những thành
tựu đó khẳng định con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã nhận thức lại, thấm
nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển nhằm khắc phục những
cách hiểu, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy
luật khách quan về thời kỳ trước đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I.Lênin. Đổi
mới, do đó, không phải là xa rời hay từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, phủ nhận chủ
nghĩa xã hội khoa học mà trái lại, là sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn, là sự
phát triển sáng tạo hơn nữa bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, của chủ nghĩa xã hội khoa học để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội một
cách có căn cứ khoa học và thực tiễn.
Tư tưởng của V.I.Lênin về Chính sách kinh tế mới là cơ sở nền tảng để Đảng
ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa- sự phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới. V.I.Lênin đã
bổ sung, cụ thể hóa lý luận Mác về thời kỳ quá độ bằng thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tập trung phân tích về quá độ trong kinh tế.
V.I. Lênin đã chỉ ra năm thành phần kinh tế nước Nga đương thời, đồng thời chủ
trương thực hiện “những bước quá độ nhỏ”, bắc những “chiếc cầu nhỏ” để đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trong “Chính sách kinh tế mới”, cơ chế thị trường được sử dụng
để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng, kiểm soát của
Nhà nước; lợi ích của các chủ thể được quan tâm đã có tác dụng phục hồi lực
lượng sản xuất nhanh chóng, thúc đẩy kinh tế phát triển, đời sống của công nhân,
nông dân được cải thiện. Nhờ có chính sách này mà đến cuối năm 1925, về cơ bản,
Liên Xô đã hoàn thành việc khôi phục nền kinh tế quốc dân.
Theo tinh thần Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, Đại hội VI đã đề ra
đường lối đổi mới, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động
lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển sản
xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, phải 15 năm
sau, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức
được xác định từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Đến Đại hội XII (năm 2016),
18
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy rất rõ nét về kinh tế thị
trường khi xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đại hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Như vậy, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của các
nước trong quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận
kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó không đối
lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Chính V.I.Lênin cũng đã từng nhấn mạnh: “Chúng ta không hình
dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất
cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”.
Các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng được Đảng ta vận dụng, phát
triển vào xây dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã vận dụng
sáng tạo những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp vào
thực tiễn cách mạng nước Nga và xây dựng được liên minh giai cấp công- nông
bền vững, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, V.I.Lênin còn nhiều lần nhấn mạnh tới vai trò
của trí thức và khẳng định, muốn thu hút họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì cần phải “đảm bảo cho các người trí thức những điều kiện lao động tốt
nhất”.
Tư tưởng của V.I.Lênin được Đảng ta nghiên cứu thấu đáo, rút ra những
kinh nghiệm quý báu để xây dựng liên minh giai cấp, tầng lớp ở nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. “Cương lĩnh” năm 1991 rất coi trọng
việc thực hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo với ý nghĩa là nền tảng chính trị- xã hội
19
của Nhà nước của dân, do dân, vì dân, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
2001) không chỉ tiếp tục khẳng định tính tất yếu của liên minh công- nông- trí thức
trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn
đặc biệt coi trọng vấn đề này, coi đây là động lực quan trọng trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động lực chủ yếu
để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”.
Kế thừa và phát triển tinh thần đó trong bối cảnh mới, các Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI và XII đều tiếp tục khẳng định vai trò, tính tất yếu
của liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đối với việc
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, có bổ sung những quan điểm, định hướng và giải pháp mới.
Tư tưởng của V.I.Lênin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng
tạo, đem lại những thành tựu trong xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam- nhân tố quan trọng hàng đầu
bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thắng lợi.
Khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào kỷ luật đảng và phẩm chất tiền phong
của đảng viên. Tháng 5-1920, trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong
phong trào cộng sản”, V.I.Lênin viết: “Những người Bônsêvích sẽ không giữ được
chính quyền, tôi không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi
cũng không được nữa, nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật
sắt thật sự”. Theo ông, có ba kẻ thù chính mà người cộng sản của đảng cầm quyền
phải kiên quyết đấu tranh là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; nạn mù chữ, sự
ngu dốt, cản trở việc giáo dục chính trị và nạn hối lộ, tham nhũng”. Thấm nhuần
sâu sắc những tư tưởng này của V.I.Lênin, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta
luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đảng đã ban hành nhiều nghị
quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là cơ sở, tiền đề vững chắc bảo
đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Gần 35 năm qua, nhất là trong 10 năm gần đây, nhận thức về công tác xây
dựng Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc
20
hơn vị trí của công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng.
Nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng ngày càng đầy đủ, khách
quan và khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác- Lênin về xây dựng Đảng- đội tiền phong của giai cấp công nhân- phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện lời di huấn của V.I.Lênin
là phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và các đoàn thể chính trị- xã hội; đó
phải là những tổ chức bộ máy phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ bộ
máy. Theo V.I.Lênin, chính trị được đề cập ở đây chính là cuộc sống của nhân dân,
lợi ích của nhân dân, là số phận của hàng triệu triệu con người.
Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân, tăng cường phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ
nghĩa để phát triển đất nước trong điều kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các
cường quốc năm châu như tâm nguyện của Bác Hồ.
Nhìn tổng thể, sau 33 năm đổi mới, 28 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, nhất
là 10 năm gần đây, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong
thời gian tới. Đồng thời, cũng phải thấy còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn
chế, bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững hơn. Qua 4 năm nhiệm kỳ khoá XII, đất nước tiếp tục phát triển
nhanh và khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật: kinh tế
tăng trưởng liên tục và cao hơn nhiệm kỳ trước, trở thành một trong những nền
kinh tế tăng trưởng nhanh; kinh tế vĩ mô ổn định và từng bước được tăng cường;
sức cạnh tranh, tiềm lực và quy mô của nền kinh tế được nâng cao. Công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, quyết liệt, có bước đột
phá và đạt nhiều kết quả rõ rệt, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, tin tưởng
và ủng hộ. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng
cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả, góp
phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
21
Báo cáo mới nhất của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại kỳ họp thứ 8, Quốc
hội khóa XIV cho thấy: Tốc độ tăng GDP cả năm 2019 ước đạt trên 6,8%, thuộc
nhóm các nước tăng trưởng cao hàng đầu khu vực, thế giới. Nước ta được xếp thứ
8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với
năm 2018. Thành tích giảm nghèo của Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng, được
cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam vừa được bầu là Ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với số phiếu 192/193... Như lời đồng chí
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng là, sau 50 năm thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ đồ đất nước ta chưa bao giờ có được như ngày
hôm nay.
Việc có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây
dựng đất nước là khó tránh khỏi. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vô cùng
khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều
điều kiện khác. Chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30
năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không phải từ sự thiếu
thốn về của cải, vật chất mà đa phần chính ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính
chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ
trợ của phe xã hội chủ nghĩa như trước đây. Nhiều thế lực đang dòm ngó, chống
phá. Trong điều kiện ấy, những thành tựu mà công cuộc đổi mớiđạt được là đặc
biệt quan trọng. Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao trên 6,5% năm
trong suốt 30 năm thực hiện chính sách đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người chỉ
80 USD đã tăng lên mức trên 2100 USD. Đời sống nhân dân đã được cải thiện một
bước cơ bản. Để có được những thành tựu to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã có những bước đi dũng cảm về nhận thức, sự đổi mới mạnh mẽ về chính sách
kinh tế - xã hội. Từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng,
chúng ta đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sở hữu,
rồi chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ một
Nhà nước xây dựng theo mô hình nền chuyên chính vô sản, chúng ta đã chuyển
sang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ bị bao vây cấm vận,
chỉ có quan hệ với các nước khối xã hội chủ nghĩa là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa
hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên tổng số 193 thành viên Liên Hợp quốc, trong đó có 2 đối tác toàn diện đặc
biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, hai đối tác chiến lược theo từng
lĩnh vực.
22
PHẦN KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý
thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan
hệ tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao
năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan
trong hoạt động thực tiễn của con người.
Trong quá trình làm bài, em còn gặp phải nhiều sai sót, mong nhận
được sự bổ khuyết từ phía thầy giáo phụ trách bộ môn Triết Học Mác- Lênin để em
có điều kiện hoàn thiện hiểu biết về cả lí luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm cho
những bài làm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn !
23
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995.
3. https://vksndtc.gov.vn/tin-vks/cac-bai-bao/quan-diem-duong-loi-chien-
luoc-cua-dang-cong-san-v-d11-t3533.html
4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995.
5. V.I.Lênin: Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.
6. ĐCSCN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
7. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-
nghi-bch-trung-uong/khoa-vi/nghi-quyet-so-06-nqhntw-ngay-2931989-
hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vi-ve-
kiem-diem-hai-nam-thuc-1107