SlideShare a Scribd company logo
1 of 45
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
THUYẾT MINH TUYẾN MIỀN BẮC
18THÁNG 6
NỘI DUNG TUYẾN ĐIỂM MIỀN BẮC
1) ĐỊA LÝ
Diện tích:
Dân số:
Bao gồm các tỉnh: Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hà
Tây, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc,
Phú Thọ, Lạng Sơn, Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai, Lai
Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình.
Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Phía Tây giáp Lào và Trung Quốc. Phí Bắc giáp Trung Quốc (Vân
Nam, Quảng Tây). Phía Nam giáp Quảng Bình.
Địa hình được bao bọc bởi 3 dãy núi chính là: cánh cung Đông Triều, Hoàng Liên Sơn, dãy núi
Đá vôi Tam Điệp – Ninh Bình và Thanh Hóa. Các núi này thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam
nên sông suối cũng chảy theo hướng này. 2/3 diện tích là núi đồi. Có đỉnh núi cao nhất là
Phanxipăng cao 3.143m được coi là “Ngọc ngà Đông Dương”. Vùng đồng bằng sông Hồng rộng
25.000km², cao trung bình dưới 5m so với mực nước biển.
Khí hậu: một năm có 4 mùa rõ rệt. Riêng khu vực miền núi nơi có độ cao trên 1.000m vào mùa
đông nhiệt độ ở đây có thể xuống 0ºC, có nơi có tuyết rơi (Mẫu Sơn – Lạng Sơn, Phanxipăng,
Sa Pa).
Sông ngòi: Có hệ thống sông Hồng lớn nhất, bồi lắng tạo nên đồng bằng sông Hồng lớn thứ 2 cả
nước, là cái nôi hình thành văn minh Nông nghiệp trồng lúa nước, tạo nên bản sắc văn hóa Việt
Nam. Ngoài ra, có hệ thống sông Thái Bình, bồi lắng các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình;
hệ thống sông Mã (Thanh Hóa), sông Lam (Hà Tĩnh). Sông thường khô hạn vào mùa khô, lũ lụt
vào mùa mưa bão, nên từ sâu trong tâm trí người Việt đã có sự tích Sơn Tinh – Thủy Tinh. Sông
suối ở miển núi nhiều thác ghềnh thuận lợi làm thủy điện. Có các thủy điện như: thủy điện Hòa
Bình trên sông Đà, thủy điện Sơn La ở thượng nguồn sông Đà, thủy điện Thác Bà trên sông Lô.
Giao thông vận tải: Có sân bay quốc tế Nội Bài là trung tâm của vùng, ngoài ra còn có các sân
bay Điện Biên, sân bay Vinh, sân bay Hải Phòng, sân bay quân sự Gia Lâm. Đường thủy có
cảng Hải Phòng lớn nhất miền Bắc dùng để giao thương quốc tế. Ngoài ra trên các con sông lớn
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
ghe thuyền có thể vận chuyển liên tỉnh, liên huyện trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đường sắt: Từ
ga Hàng Cỏ (Hà Nội) có thể đi Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên, Hà Tĩnh vào Sài
Gòn; nó được nối tiếp đến Bắc Kinh, Mátxcơva, và Châu Âu. Đường bộ có Quốc lộ 1A xuyên
suốt từ Hà Tĩnh đến Lạng Sơn qua Hà Nội. Quốc lộ 5: Hà Nội đi Hải Phòng. Quốc lộ 18: Hà Nội
đi Quảng Ninh. Quốc lộ 3: Hà Nội đi Thái Nguyên. Quốc lộ 2: Hà Nội đi Hà Giang. Quốc lộ 6: Hà
Nội đi Hòa Bình, Sơn La,…
Động thực vật: Có 2 hệ sinh thái tiêu biểu:Ở những vùng núi cao trên 1.000m, động thực vật
mang yếu tố cận ôn đới với loài thông đặc thù, tiêu biểu là đỉnh Phanxipăng; Các vùng cao dưới
1.000m là rừng nhiệt đới tiêu biểu là vườn quốc gia Cúc Phương, Bến En, Cát Bà, Tam Đảo, khu
bảo tồn thiên nhiên Ba Bể,…
Tài nguyên du lịch: Có 3 loại Tài nguyên chính: Tài nguyên du lịch miền biển có: Vịnh Hạ Long,
Đồ Sơn – Hải Phòng, Sầm Sơn – Thanh Hóa, Cửa Lò – Nghệ An. Vùng đồng bằng sông Hồng là
cái nôi của lịch sử văn hóa Việt Nam nên nhiều đền đài, di tích, chùa chiền,… hàng ngàn năm
tuổi mang đậm bản sắc Việt Nam. Bao gồm các lễ hội dân gian với các loại hình Nghệ thuật độc
đáo như chèo, ả đào, ca trù, múa rối nước, hát xoan,… Khu vực miền núi với nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống như: Thái, Mường, Dao, Nùng, Lô Lô, Sán Dìu, Xá Phó, Tày Mường,
phù hợp loại hình du lịch văn hóa kết hợp chợ phiên. Ngoài ra do địa hình thắc trở nhiều thác
ghềnh, phong cảnh đẹp, ruộng bậc thang nên phù hợp du lịch mạo hiểm khám phá.
2) LỊCH SỬ
Cách đây 4.000 năm, người Việt cổ tách ra từ cộng đồng Bắc Việt (phía Nam sông Dương Tử –
miền trung Trung Quốc) xuôi theo dòng sông Hồng về miền Phú Thọ lập nên 18 đời vua Hùng từ
từ bỏ qua thời kỳ đồ đá, bước vào thời kỳ đồ sắt lập ra Nhà nước Văn Lang đóng đô ở Phong
Châu.
Đến thế kỷ IX trước Công nguyên, cư dân Văn Lang tiến về đồng bằng sông Hồng khai phá, bắt
đầu trồng cây lúa nước, đóng đô ở Cổ Loa. Từ đó, nước ta bị đô hộ bởi phương Bắc. Nước Âu
Lạc trở thành quận Giao Chỉ của Trung Quốc. Dân Giao Chỉ đứng lên đấu tranh theo Hai Bà
Trưng ở Mê Linh.
Đến thế kỷ thứ VI có khởi nghĩa Lý Bí. Và đến năm 1938 sau chiến thắng Bạch Đằng, nhà Đinh,
nhà Lê đóng quân ở Ninh Bình. Năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời kinh đô về Thăng Long mở
ra 8 đời vua nhà Lý.
Năm 1070, xây dựng Chùa một cột, đây là Phật giáo cực thịnh ở thời Lý, Trần trong việc triều
chính áp dụng mô hình của Khổng Giáo đến xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giáo. Đến thời Nhà
Hồ có nhiều cải cách độc đáo (tiền giấy, cân, đo, xây thành, cải cách hành chính). Đến cuối đời
Lê, trong triều xuất hiện hai thế lực chú Trịnh và chúa Nguyễn. năm 1558, Nguyễn Hoàng theo
lời Nguyễn Bỉnh Khiêm vào Đàng Trong mở ra 9 đời chúa, 13 đời vua (ở Ải Thuận Hóa). Từ đó
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
nổ ra cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài 200 năm. Năm 1802, vua Gia Long lên
ngôi đóng đô ở Phú Xuân, ba miền Bắc – Trung – Nam trở về một khối. Năm 1832, vua Minh
Mạng lập thành Hà Nội thay thế Thăng Long xưa.
Năm 1883, sau hiệp ước Pa-trơ-nốt, miền Bắc trở thành xứ thuộc địa.
Năm 1930, Đảng Cộng Sản được thành lập ở Hương Cảng đã về đến Hà Nội và khắp 3 miền.
Phong trào đầu tiên chống Pháp là Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 – 1931.
Từ năm 1936 – 1939 là thời kỳ hoạt động của Cách mạng Dân Chủ,
Năm 1941, tại Pắc Pó – Cao Bằng, sau 30 năm Bác Hồ trở lại lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Năm 1944, hội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ra đời.
Năm 1945, Cách mạng tháng 8 giành thắng lợi.
2-9-1945, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình.
Năm 1946, Pháp quay lại đánh chiếm Hà Nội, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, bắt
đầu cuộc kháng chiến 9 năm (Việt Bắc, Biên Giới, Điện Biên Phủ),…
Sau khi chiến thắng trận Điện Biên Phủ, miền Bắc đứng lên xây dựng Xã hội Chủ Nghĩa và chi
viện cho miền Nam.
Năm 1965, Mỹ sau sự kiện Bắc Bộ bắt đầu ném bom Hà Nội. Cao điểm là năm 1972.
Năm 1976, phiên họp đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất diễn ra tại Hà Nội, quyết định lập
ra nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, chọn Hà Nội là thủ đô. Sau đó miền Bắc bước
vào hàn gắn vết thương chiến tranh.
Trong thời bao cấp đã có sự sai lầm trong chính sách chế độ ruộng dất và tem phiếu.
Năm 1986, bí thư Thành Uỷ thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh đã kiến nghị trước cuộc
họp hội đồng đại biểu nhân dân và chính sách “mở cửa” ra đời.
3) NHÂN VĂN
Do có lịch sữ 4.00 năm nên có rất nhiều danh nhân. Ở vùng còn giữ rất nhiều thuần phong mỹ
tục của người Việt như: giọng nói, lễ cưới, lễ tang, cúng đình, nề nếp gia phong,…
4) CÁC VẤN ĐỀ KHÁC
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Các chuyên đề về đồng bằng sông Hồng, Phố cổ Hà Nội, phố cũ Hà Nội. chuyên đề về ẩm thực:
phở, chả cá, bánh tôm Tây Hồ, bánh cốm, bánh đậu xanh, vải thiều Lục Ngạn, nhãn Hưng Yên,
nem Thanh Hóa, tương bần,…
Các chuyên đề về lễ hội dan gian, về Đền Hùng, Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, chọi trâu, chùa
Hương, rối nước, hát quan họ,…
Chuyên đề về các làng nghề thủ công: gốm sứ Bát Tràng, Đông Triều, lụa Hà Đông (Vạn Phúc),
tranh Đông Hồ, điêu khắc gỗ Hải Dương, làng đào Nhật Tân.
II/ TUYẾN ĐIỂM CỤ THỂ
1. HÀ NỘI CITY TOUR
SƠ ĐỒ TUYẾN HÀ NỘI CITY TOUR
Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
thương mại và du lịch quan trọng của Việt Nam. Hà Nội là thủ đô lâu đời của Việt Nam và tính
đến tháng 10 năm 2010 Hà Nội kỉ niệm 1000 năm.
Hà Nội nằm ở bờ phải của con sông Hồng, cách thành phố Hồ Chí Minh 1760 km. Hà Nội nằm
trong vùng châu thổ sông Hồng thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, giáp với 6 tỉnh: Thái Nguyên ở
phía bắc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông và đông nam, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở
phía nam và phía tây.
Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Việt Nam sau ngày Bắc Nam thống nhất 2 tháng 7 năm 1976.
Hà Nội còn có nhiều các tên gọi không chính thức khác, chủ yếu xuất hiện trong văn thơ và dân
gian: Trường An hay Tràng An (lấy theo tên gọi của kinh đô của Trung Quốc thời kỳ nhà Hán và
nhà Đường); Phượng Thành hay Phụng Thành (trong bài phú của Nguyễn Giản Thanh); Long
Thành, Long Biên, Kẻ Chợ (trong dân gian); Thượng Kinh, Kinh Kỳ, Hà Thành, Hoàng Diệu, ngay
sau Cách mạng tháng Tám – 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để
chỉ Hà Nội.
Vùng đất quanh Hà Nội hiện đại hiện nay được biết đến ít nhất 3000 TCN. Một trong những điều
đầu tiên được biết đến là thành Cổ Loa được tìm thấy khoảng 200 TCN.
Hệ thống giao thông Hà Nội rất đa dạng, bao gồm giao thông công cộng như xe buýt, taxi, giao
thông cá nhân như xe máy (đa số), ô tô. Đặc biệt ở Hà Nội có loại hinh xích lô thường dùng để
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
phục vụ du lịch. Ngoài ra Hà Nội cũng là đầu mối đường sắt và đường hàng không lớn nhất miền
Bắc.
Hà Nội có hệ thống sông ngòi khá lớn, đặc biệt có sông Hồng chảy giữa thành phố, thuận lợi cho
việc vận tải bằng đường sông. Trong vài năm trở lại đây đã xuất hiện thêm cả loại hình du lịch
bằng tàu trên sông Hồng.
Hà Nội là một trong hai trung tâm văn hóa – giải trí lớn nhất của Việt Nam (cùng với Thành phố
Hồ Chí Minh).
Hà Nội từ xưa đã được coi là một trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam. Rất nhiều tác phẩm văn
học, nghệ thuật lớn đã ra đời trên địa bàn thành phố, cũng như rất nhiều danh nhân văn hóa của
Việt Nam đã có thời gian hoạt động ở Hà Nội. Nhiều môn nghệ thuật từ thời phong kiến vẫn còn
tồn tại đến ngày nay trên địa bàn thủ đô như ca trù, múa rối nước, tạo nên nét độc đáo riêng cho
văn hóa Hà Nội. Một điểm đặc biệt của văn hóa Hà Nội là đã có rất nhiều tác phẩm văn học,
nghệ thuật được sáng tác với chủ đề về chính Hà Nội và con người Hà Nội.
Tham quan và giải trí
Đền Ngọc Sơn và Cầu Thê Húc, Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ trước là vườn bách
thú, Vườn Bách Thảo, Công viên Tuổi Trẻ, Công viên nước Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Hồ
Thiền Quang, Hồ Trúc Bạch, Phủ Chủ Tịch, Lăng Hồ Chí Minh, Thành cổ Hà Nội, Thành Cổ Loa,
Thăng long tứ trấn, Phủ Tây Hồ, Văn miếu, Chùa Một Cột, Chùa Quán Sứ, Khu phố cổ Hà Nội .
Ẩm thực Hà Nội
Bánh cuốn Thanh Trì, Phở Hà Nội, chả cá Lã Vọng, bánh cốm, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm
Hồ Tây, nem tai…
Khách sạn
Có nhiều khách sạn sang trọng ở Hà nội: đó là Sofitel Metropole, Hilton Hanoi Opera. Sofitel
Metropole là khách sạn có từ thời kỳ là thuộc địa của Pháp. Khách sạn được bình chọn là khách
sạn đẹp đứng thứ 2 ở châu Á bởi tạp chí du lịch Condé Nast nhờ vào vẻ đẹp cổ của nó (2007)
Từ thành phố Hồ Chí Minh bay ra Hà Nội, chúng ta sẽ đáp xuống sân bay quốc tế Nội Bài.
Sân Bay Quốc tế Nội Bài
Sân bay quốc tế Nội Bài là cảng hàng không quốc tế ở miền Bắc. Sân bay này là cửa ngõ giao
thông quan trọng không chỉ của thủ đô Hà Nội mà còn của cả miền Bắc. Đây là sân bay lớn thứ
hai của Việt Nam hiện nay, sau sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Sân bay quốc tế Nội
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Bài thuộc huyện Sóc Sơn, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 45 km về phía Tây Bắc. Tên giao dịch
chính thức: Cảng hàng không quốc tế Nội Bài (tiếng Anh: Noi Bai International Airport). Sân bay
này do Cụm cảng hàng không miền Bắc (NAA), một cơ quan của Cục Hàng không Dân dụng Việt
Nam, quản lý.
Sân bay quốc tế Nội Bài, nguyên là một căn cứ không quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam
trong chiến tranh Việt Nam, đã được cải tạo để phục vụ cả mục đích dân sự và quân sự.
Cầu Thăng Long
Cầu Thăng Long bắc qua sông Hồng tại vị trí km6+300 trên quốc lộ Nam Thăng Long, con
đường nối sân bay quốc tế Nội Bài với Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.
Chiều dài: 3.500m. Cầu đường bộ và đường sắt đi chung, gồm 2 tầng. Cầu có 25 nhịp phần cầu
chính và 46 nhịp cầu đường dẫn của đường sắt và đường xe thô sơ.
Phường Nhật Tân
cách trung tâm thủ đô Hà Nội 7Km về phía tây bắc, Phường nằm ven Hồ Tây, có đường Âu Cơ
đi Chèm (Thụy Phương) và đường Lạc Long Quân, thuộc quân Tây Hồ thành phố Hà Nội. Phía
đông giáp phường Tứ Liên, phía đông nam giáp phường Quảng An, phía tây nam giáp phường
Xuân La, phía tây và tây bắc giáp phường Phú Thượng, đông bắc giáp với sông Hồng và bên bờ
bắc là xã Tàm Xá huyện Đông Anh.
Phường Nhật Tân trải dài hai bên bờ phía đông bắc và phía tây Hồ Tây. Bên bờ phía đông bắc
Sông Hồng có thôn Bắc ở phía ngoài bãi và thôn Đông, bên bờ phía tây của Hồ Tây có thôn Tây
và thôn Nam. Xã Nhật Tân trước năm 1945 có diện tích tự nhiên 341,2 Ha với khoảng trên 2000
nhân khẩu nhưng chỉ có 141,7 Ha đất canh tác. Phường Nhật Tân hiện nay với 365,2 Ha diện
tích 341,2 Ha đất canh tác với trên 8000 người.
Tương truyền nghề trồng đào có ở Nhật Tân từ xuân Kỷ Dậu năm 1789. Lúc đó vua Quang
Trung sau khi đại thắng quân Thanh đã sai người đến Nhật Chiêu (Nhật Tân ngày nay) lấy một
cành đào đưa hỏa tốc đến Phú Xuân tặng Ngọc Hân công chúa báo tin thắng trận. Làng đào từ
đó phát triển dần và định hình ở đây. Đến đầu thế kỷ XX Nhật Tân bắt đầu trồng loại hoa đào
mới, hoa đào bích. Kỹ thuật trồng hoa đào ở Nhật Tân đạt đến trình độ điêu luyện không nơi nào
theo kịp.
Sông Hồng
Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149 km bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Việt Nam và đổ ra
biển Đông. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà hay sông Cái. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung
Quốc được gọi là Nguyên Giang , đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang. Đoạn từ Lào Cai đến
Việt Trì gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà.
Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chủ
yếu nó chảy theo hướng tây bắc-đông nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái, Di,
Cáp Nê, ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì) trước khi sang Việt Nam ở thị trấn Hà Khẩu (Trung
Quốc), giáp giới với thành phố Lào Cai của Việt Nam, rồi chảy qua phía đông thủ đô Hà Nội
trước khi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt (ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Nam Định).
Ở Lào Cai sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái cách Lào Cai 145 km thì sông
chỉ còn ở cao độ 55 m. Giữa hai thị trấn đó là 26 ghềnh thác, nước chảy xiết. Đến Việt Trì thì
triền dốc sông không còn mấy nên lưu lượng chậm hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu
con sông này.
Các sông nhánh chính của sông Hồng có thể kể đến là sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông
Chảy và sông Gâm). Sông Hồng có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến
Phả Lại thuộc Hải Dương và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng. Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là
sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ), nối sông Hồng và sông Đáy là hai
sông Phủ Lý và sông Nam Định. Ở Trung Quốc, các sông như sông Lý Tiên (tức sông Đà), sông
Đăng Điều (tức sông Nậm Na), sông Bàn Long (tức sông Lô) và sông Phổ Mai (tức sông Nho
Quế) cùng một số sông nhỏ khác như sông Mễ Phúc, sông Nam Khê chảy qua biên giới hai
nước vào Việt Nam.
Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc
tên gọi của nó. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm
tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét khối nước.
Cầu Long Biên
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây dựng (1899-
1902) và đặt tên là cầu Doumer, đọc như Đu-me (tên của Toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer). Dân gian còn gọi là cầu sông Cái. Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc
chữ “1899 -1902 – Daydé & Pillé – Paris”.
Chiều dài toàn cầu 1.862 m, gồm 19 nhịp dầm thép và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho
đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho
các loại xe là 2,6m và luồng đi bộ là 0,4m. Luồng giao thông của cầu theo hướng đi xuôi ở phía
trái cầu chứ không phải ở bên phải như các cầu thông thường khác.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam của không lực Hoa Kỳ (1965-1972) cầu Long
Biên bị ném bom 14 lần. Để bảo vệ cầu, bộ đội công binh và phòng không Việt Nam xây dựng
hai trận địa pháo phòng không cao 11,5 m trên bãi cát nổi giữa sông Hồng (còn gọi là bãi giữa),
để vẫn có thể bắn máy bay Hoa Kỳ khi có lũ cao nhất.
Lịch sử sử dụng cầu Long Biên đã chứng kiến các điểm cao trên thành cầu trở thành ụ pháo cao
xạ chống máy bay Mỹ trong thời gian chiến tranh.
Sang thời bình, do giao thông ngày một tăng trong thập kỷ 90, cầu Long Biên được sử dụng chỉ
cho tàu hỏa, xe đạp và người đi bộ. Việt Nam xây dựng thêm cầu Chương Dương nằm trong
mục tiêu đáp ứng nhu cầu đi lại và để phát triển kinh tế, xã hội đô thị ở hai bờ sông Hồng Hà Nội.
Cuối năm 2005 xe máy được phép đi qua cầu Long Biên để giảm việc ùn tắc giao thông cho cầu
Chương Dương.
Cầu Chương Dương
Cầu Chương Dương bắc qua sông Hồng, trên quốc lộ 1A tại km170+200, địa phận Hà Nội. Đây
là cây cầu lớn lần đầu tiên được thiết kế và thi công tại Việt Nam không cần có sự trợ giúp kỹ
thuật của các kỹ sư nước ngoài. Tại cây cầu này các kỹ sư cầu đường của Việt Nam tự thử sức
mình để có thể tự thiết kế và thi công các cây cầu lớn khác.
Đây là cây cầu nối quận Hoàn Kiếm với quận Long Biên của Hà Nội.
Cầu được xây năm 1983, đưa vào sử dụng năm 1986.
Từ 2002 cầu được sửa chữa, gia cố. Cầu có chiều dài: 1.230m. Gồm 21 nhịp: 11 nhịp thép; 10
nhịp bê tông trong đó 7 nhịp ở phía Hà Nội và phía Gia Lâm có 3 nhịp.
Chùa Trấn Quốc
Chùa tọa lạc phía Nam hồ Tây, đường Thanh Niên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Sách Từ
điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993) giới thiệu chùa nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ
thời Tiền Lý Nam Đế (541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng
(1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện
Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa được tiếp tục trùng tu, mở
rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1637 về
công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm
1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1824, Vua Thiệu Trị đến
thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên
chùa Trấn Quốc từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.,Chùa đã
được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối
đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế (541-547) ở gần
sông Hồng, đến năm 1615, được dời vào vị trí ngày nay. Chùa có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều
tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn. Chùa là Di tích lịch sử – văn hóa
quốc gia.
Chùa Trấn Quốc nằm trên bán đảo phía đông của Hồ Tây, nên thuộc đất làng Yên Phụ, nơi có
ngôi đình thờ thánh. Vào mùa xuân hằng năm dân làng tổ chức đám rước từ đình sang chùa rồi
từ chùa về làng bằng cả một đoàn thuyền nối nhau cờ reo trống thúc tưng bừng.
Hồ Tây
Hồ Tây – hay còn có tên hồ Mù Sương (Dâm Đàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), Đầm Xác Cáo
– là một hồ lớn nhất ở nội thành Hà Nội (với diện tích hơn 500 ha). Con đường đi vòng quanh hồ
dài tới 17 km. Hồ nằm ở phía tây bắc Hà Nội. Có giả thuyết cho rằng hồ là một đoạn sông Hồng
cũ còn sót lại sau khi sông đã đổi dòng.
Theo truyện “Hồ Tinh” thì hồ có tên là hồ (hoặc đầm) Xác Cáo vì truyện kể là có con cáo chín
đuôi ẩn nấp ở đây làm hại dân. Long Quân dâng nước lên phá hang cáo, cáo chết nôn ra nước
thành hồ tây bây giờ.
Theo truyện “Khổng Lồ đúc chuông” thì hồ lại có tên là Trâu Vàng. Truyện kể rằng ông Khổng Lồ
có tài thu hết đồng đen của phương Bắc đem đúc thành chuông. Chuông đánh lên tiếng vang
sang bên Bắc. Vì đồng đen là mẹ vàng nên con trâu vàng phương Bắc nghe tiếng chuông liền
chạy đi tìm mẹ. Tới đây nó quần thảo mãi khiến chân bị chảy máu thành hồ tây
Theo sách xưa ghi chép thì thế kỷ 11, hồ này mang tên hồ Dâm Đàm (đầm Mù Sương). Tới thế
kỷ 18 thì đã gọi là Tây Hồ.
Hồ Tây từ xa xưa đã là thắng cảnh nổi tiếng. Từ thời Lý-Trần, các vua chúa đã lập quanh hồ
nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí như cung Thuý Hoa đời nhà Lý, tức điện Hàm Nguyên
đời nhà Trần nay là khu chùa Trấn Quốc; cung Từ Hoa đời nhà Lý nay là khu chùa Kim Liên;
điện Thuỵ Chương đời nhà Lê nay là khu Trường Chu Văn An.
Đền Quán Thánh
Nằm trên góc đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) và phố Quán Thánh (trông ra Hồ Tây),
đền Quan Thánh là nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ – thần trấn cửa Bắc thành Thăng Long.
Đền Quán Thánh còn gọi là Trấn Vũ Quán là nơi thờ thánh Trấn Vũ tại Hà Nội. Tên đền có khi bị
gọi nhầm là Quan Thánh.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Cứ như ba chữ tạc trên nóc cổng ra vào thì đây là Trấn Vũ Quán. Thực ra cái tên Đền Quán
Thánh này mới có từ năm 1980. Trước kia tên gọi chính là Trấn Vũ Quán, và dân chúng gọi nôm
na là Đền Quán Thánh. Quán là Đạo Quán và là nơi thờ tự của Đạo Giáo, cũng như chùa là của
Phật Giáo. Thánh Trấn Vũ là một hình tượng kết hợp nhân vật thần thoại Việt Nam (ông Thánh
đã giúp An Dương Vương trừ ma trong khi xây dựng thành Cổ Loa) và nhân vật thần thoại Trung
Quốc (Thánh coi giữ phương Bắc).
Tương truyền đền có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028). Nhưng diện mạo đã được tu sửa vào năm
1838. Kiến trúc đền thuộc loại đẹp. Các mảng chạm, khắc trên gỗ có giá trị nghệ thuật rất cao.
Bố cục không gian rất thoáng và hài hòa. Hồ Tây trước mặt tạo cho đền luôn có không khí mát
mẻ quanh năm.
Trong đền có bức tượng Trấn Vũ đúc bằng đồng đen năm 1667, cao 3,69 m, nặng khoảng 4 tấn.
Tượng có hình dáng một người ngồi, y phục gọn gàng nhưng tóc lại bỏ xõa, chân không mang
giày, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm thần có rắn quấn quanh và chống lên lưng rùa. Đó
là một Đạo sĩ. Tượng Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo duy nhất tại Việt Nam, khẳng
định nghệ thuật đúc đồng và tạc tượng của người Hà Nội cách đây ba thế kỷ.
Khu Phố Cổ Hà Nội
Khu Phố cổ Hoàn Kiếm là nơi hội tụ 36 phố phường có bề dày gần một ngàn năm lịch sử của
một khu đô thị buôn bán sầm uất.
Khu phố mang đậm trong mình những dấu vết lịch sử. Các phố mang tên các mặt hàng được
sản xuất hoặc bày bán ở đó: phố Hàng Bông, phố Hàng Gai, phố Lò Rèn, phố Hàng Đường, …
Mạng lưới đô thị phản ánh cơ cấu tổ chức thành thị cổ xưa gồm 36 phường nghề . Cơ cấu này
về mặt không gian và xã hội là hiện thân của một di sản phi vật chất đặc biệt, duy trì các nghề cổ
và giới thiệu nhiều hoạt động mang tính chất truyền thống tại các khu phố.
Không những vậy, vẫn còn một di sản giàu kiến trúc đang tồn tại. Nhiều ngôi nhà cổ như những
ngôi nhà ở có nhiều giá trị, đình, đền thờ và nhiều ngôi chùa đã minh chứng cho điều đó. Kiến
trúc của khu phố cổ được thể hiện đặc biệt qua 3 phong cách: cách xây dựng theo kiểu truyền
thống của Việt Nam hoặc Trung Quốc, kiến trúc thuộc địa kiểu Pháp và phong cách nghệ thuật
trang trí.
Ngày nay, khu Phố cổ đang tận dụng cơ hội phát triển kinh tế và đón nhận một lượng khách du
lịch rất lớn : các quán cà-phê, nhà hàng, cửa hàng bán đồ lưu niệm thủ công và các khách sạn
nhỏ đã lần lượt ra đời. Một số nghề như nghề thủ công lụa tơ tằm và buôn bán kim hoàn đã có
những bước phát triển vượt bậc.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Để bảo tồn di sản của khu phố cổ, Bộ xây dựng Việt Nam ngay từ năm 1995 đã ra quyết định về
nguyên tắc bảo tồn và trùng tu khu Phố cổ.
Bộ văn hoá và thông tin Việt Nam đã xếp hạng Khu phố cổ danh hiệu Di sản lịch sử của quốc gia
ngày 5 tháng 4 năm 2004.
Rối Nước Thăng Long
Trong nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền ở nước ta, múa rối nước là một trong những môn
nghệ thuật được mời biểu diễn ở nhiều nước trên thế giới, được khán giả các nước hoan
nghênh nhiệt liệt. Báo chí nước ngoài đã có nhiều bài viết về môn nghệ thuật độc đáo này với
nhận định “Múa rối nước đã trả cho nhân loại một di sản văn hoá vinh quang mà trước đây nó bị
nằm trong quên lãng”. Hiện nay, múa rối nước Việt Nam đang được đề nghị công nhận là di sản
văn hoá của nhân loại.
Theo sử liệu cũ, múa rối nước ở nước ta có từ lâu đời. Nghệ thuật múa rối nước là sản phẩm
đặc sắc của vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam với nền văn minh lúa nước. Mỗi phường múa
rối nước đều có những đặc điểm, thế mạnh riêng, nhưng nhìn chung, các tích trò đều gắn với
truyền thuyết lâu đời từ thời dựng nước, phản ánh sinh hoạt và lao động của người nông dân
trên đồng ruộng với bao lo toan vất vả trước thiên tai, địch hoạ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời.
Múa rối nước cũng như các loại hình nghệ thuật dân gian khác không phải tất cả đều sinh ra từ
Thăng Long – Hà Nội, nhưng khi được trình diến ở đất Kinh kỳ – nơi hội tụ, kết tinh, toả sáng và
phát triển các giá trị văn hoá dân tộc – bộ môn nghệ thuật đó dần được nâng cao cả về nội dung
và hình thức. Chất bác học hoà quyện với chất dân gian làm cho nghệ thuật Thăng Long – Hà
Nội có nhựa sống dồi dào, khắc phục những thô sơ, thô thiển của buổi sơ khai để vươn tới hoàn
thiện.
Hồ Gươm
Hồ Gươm với Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn… đi vào lòng người xa xứ, vào trái tim du khách, in đậm
trong tim những người chưa một lần đến thủ đô như một biểu tượng đẹp nhất.
Hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm là một hồ nước ngọt nằm giữa thủ đô Hà Nội. Tên hồ cũng được
đặt cho một quận của Hà Nội, quận Hoàn Kiếm.
Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả
gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu 10 năm của nhân dân Việt Nam
chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi.
Trên hồ có hai hòn đảo: Đảo Ngọc và Đảo Rùa
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Hồ Hoàn Kiếm được du khách cho là một thắng cảnh của Hà Nội. Quanh hồ trồng nhiều loại hoa
và cây cảnh. Giữa hồ có tháp Rùa, cạnh hồ có đền Ngọc Sơn. Xung quanh hồ còn có những di
tích lịch sử khác như tượng vua Lê Thái Tổ, cầu Thê Húc, tháp Bút, đền Bà Kiệu,… bên cạnh
những công trình kiến trúc hiện đại. Toà nhà Bưu điện với tháp đồng hồ cổ kính in bóng hồ
Gươm đã đi vào lòng nhiều người dân Hà Nội.
Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm
tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một
khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp.
Đền Ngọc Sơn
Trên đất kinh kỳ Thǎng Long – Đông Đô – Hà Nội, nghìn nǎm vǎn hiến thì sự dung hợp về tôn
giáo được thể hiện khá rõ nét tại đền Ngọc Sơn. Cùng với Hồ Gươm và Tháp Rùa, đền Ngọc
Sơn đã tạo nên một quần thể hoàn chỉnh, đẹp đẽ. Quần thể này đã trở thành một trong những
biểu tượng đặc trưng nhất cho Hà Nội ngày nay.
Sự hỗn dung của Đạo giáo, Đạo Phật, Đạo Nho (hay còn gọi: Tam giáo đồng nguyên), không chỉ
ở hiện trạng bây giờ, mà nó còn được thể hiện trong lịch sử xây dựng đền Ngọc Sơn. Trước hết
là sự thể hiện tinh thần Nho giáo một cách sâu sắc ở Tháp Bút và Đài Nghiên. Cạnh đó, Đài
Nghiên được đặt trên cửa cuốn. Đài Nghiên được tạc bằng đá hình nửa quả đào có ba con ếch
đội. Tháp Bút, Đài Nghiên biểu trưng cho quan điểm trọng vǎn chương, anh tài của Nho giáo.
Qua cửa cuốn là cầu Thê Húc dẫn đến Đắc Nguyệt Lầu (lầu được trǎng). Cả cầu Thê Húc lẫn
Đắc Nguyệt Lầu mang đậm mầu sắc Đạo giáo.
Khu vực chính của đền Ngọc Sơn có ba phần: phía trước là Trấn Ba Đình (đình chắn sóng); giữa
là điện thờ chính, sau cùng là Hậu Cung. Điện thờ chính là nơi thờ Vǎn Xương Đế Quân cùng
chư vị Thần Tiên, ở đây mầu sắc Đạo giáo rõ rệt. Phần Hậu Cung là nơi thờ trần Hưng Đạo. Tuy
nhiên, tượng Đức Thánh Trần với bàn thờ ở giữa, còn một bên là bàn thờ Phật với tượng Quan
Âm Bồ Tát và Thiện Tài Đồng Tử, bên kia là bàn thờ Thần linh, sơn Thần, Thổ địa. Bức tường
trước Hậu Cung thì lại có sự dung hòa giữa Đạo giáo và Nho giáo, giữa hai chữ Trung – Nghĩa là
hình Bát quái.
Đền Ngọc Sơn vẫn đứng đó, Tháp Bút vẫn đang viết lên trời xanh, tất cả không chỉ là một quần
thể đẹp đẽ giữa lòng Hà Nội, đó còn là thế giới tâm linh, khẩu khí của con người Việt Nam xưa
và nay.
Quảng Trường Ba Đình
Hà Nội là trái tim của nước Việt Nam, Quảng trường Ba Đình là trái tim của Hà Nội. Tại đây đã
diễn ra những sự kiện trọng đại của thủ đô và cả nước. Ngày trước, đây vốn là khu vực cửa tây
của thành Hà Nội cổ. Thực dân Pháp phá thành làm một vườn hoa nhỏ gọi là điểm tròn Puy-gi-
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
ni-nơ. Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải đất Ba Đình ở
tỉnh Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 -1886 đến tháng 1-
1887.
Quảng trường là nơi chứng kiến hàng trăm nghìn người về dự lễ Độc lập ngày 2-9-1945. Ngày 9-
9-1969, sáu ngày sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, tại Quảng trường này, đồng bào thủ đô và các địa
phương cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới đây dự lễ truy điệu trọng thể vị Anh hùng giải
phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất.
Ngày nay, mặt chính của quảng trường là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước lăng là khoảng
không gian rộng lớn với 320m chiều dài và 100m chiều rộng, đủ chỗ cho 200 nghìn người dự mít
tinh. Quảng trường có 168 ô cỏ bốn mùa xanh tươi. Chính giữa là cột cờ. Quảng trường Ba Đình
đã trở thành không gian thiêng liêng của thủ đô Hà Nội.
Lăng Hồ Chí Minh
Lăng Hồ Chí Minh, hay Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lăng Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ
giữa Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét,
lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và
những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá
hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: “Chủ tịch Hồ-Chí-
Minh” bằng đá hồng màu mận chín. Lăng được xây theo kiểu kiến trúc hiện thực xã hội chủ
nghĩa, lấy nguyên bản của Lăng Lenin.
Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh chủ
trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh qua đời. Nghĩ tới lúc thống nhất đồng bào còn
được thấy ông, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức khởi công xây lăng vào 2
tháng 9 năm 1973.
Bên phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chí Minh. Tại đây có Viện bảo tàng Hồ Chí
Minh, ngôi nhà sàn Hồ Chí Minh. Lăng Hồ Chí Minh thường có nhiều đoàn khách ở các tỉnh
thành phố và nước ngoài đến thăm viếng.
Lăng Hồ Chí Minh hoạt động 5 ngày một tuần (trừ thứ hai và thứ sáu), mỗi năm có hai lần đóng
cửa vào tháng 11 hoặc tháng 12 để trùng tu và bảo quản thi hài.
Văn Miếu-Quốc Tử Giám
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà
Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý. Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn
Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An,
người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường
Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn
nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong
và ngoài nước đồng thời cũng nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng
năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước
mỗi kỳ thi.
Văn Miếu được xây dựng từ “tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý
Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn
mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.”.
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu
tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên
gọi tên là Quốc Tử).Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và
thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở
Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục
Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc
Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và
theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại
liên hệ với nhau.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của
thành phố Hà Nội.
Chùa Một Cột
Tên thường gọi là chùa Một Cột, nằm trong quần thể chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ). Chùa
nằm trên đất thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây hoàng thành Thǎng Long thời Lý, nay
thuộc phố chùa Một Cột, quận Ba Đình – Hà Nội, ở bên phải Lǎng Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Theo Đại Việt ký sự toàn thư, chùa được xây dựng vào nǎm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại
Bảo 1 (1409) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm
trên toà sen đưa tay dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có người cho là
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
điềm không lành. Sư Thiên Tuế khuyên nhà vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm toà sen
của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng. Chùa xây xong, đài sen nghìn cánh đỡ toà Phật sắc
hồng, trong đặt tượng Phật vàng lấp lánh. Các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật
cầu phúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu.
Theo vǎn bia dựng nǎm Cảnh Trị 3 do hoà thượng Lê Tất Đạt ghi, chùa được dựng từ thời thuộc
Đường: “Nǎm đầu niên hiệu Hàm Thông thời Đường…, dựng một cột đá ở giữa hồ, trên cột xây
một toà lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ cúng. Khí đất chung đúc anh linh, cầu
gì được nấy. Đến khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, cũng noi theo dấu cũ, nên càng linh
thiêng. Khi Lý Thánh Tông chưa có Hoàng tử, thường đến đó cầu nguyện. Một đêm nằm mộng
thấy Phật Quan Âm mời lên lầu ngồi, ôm một đứa bé đặt vào lòng vua. Tháng đó Hoàng hậu có
mang hoàng tử. Vua bèn sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa Một Cột để mở rộng
việc thờ cúng…”
Đời Lý Nhân Tông, nǎm Anh Vũ Chiêu Thánh 5 (1080) vua cho đúc chuông lớn để treo ở chùa
gọi là “Giác Thế chung” (chuông thức tỉnh người đời) và một toà phương đình bằng đá xanh cao
8 trượng, nhưng vì chuông quá nặng không sao treo lên được, phải để dưới đất nên đánh không
kêu. Chỗ ruộng để chuông thấp, có nhiều rùa đến ở, được gọi là ruộng Quy Điền và quả chuông
cũng được gọi là chuông Quy Điền. Khi quân Minh bị bao vây ở Đông Quan, hết quân khí,
Vương Thông đã cho phá quả chuông này để đúc súng đạn.
Quy mô chùa Một Cột vào thế kỷ 12 to lớn lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều. Vǎn bia Tháp
sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi (Nam Hà) dựng nǎm 1121, mười sáu nǎm sau khi chùa mới
hoàn thành, cung cấp cho ta hình ảnh chân thực nhất về một ngôi chùa Một Cột thời Lý
Toà đài sen (Liên Hoa Đài), ta quen gọi là chùa Một Cột có hình vuông mỗi chiều 3m, mái cong
dựng trên cột đá hình trụ cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất) có đường kính là 1,2m. Trụ đá
gồm 2 khối, gắn rất khéo, thoạt nhìn như một khối đá liền. Sự độc đáo của kiến trúc chùa Một
Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá.
Chùa Một cột đã được Bộ Vǎn hoá xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật ngày 28-4-
1962.
Nhà Sàn Bác Hồ
Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng xoài dẫn tới
một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà,
cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-
1958 cho tới khi Người qua đời.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác
làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ
ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm.
Nhân dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn
đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Sau nhà là vườn quả với hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng. Trong vườn
còn có cả những loại cây từ nước ngoài như ngân hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc
từ Caribê…
Khu Di Tích Phủ Chủ Tịch
Phủ Chủ tịch là toà nhà bốn tầng nhìn ra đường Hùng Vương, được xây dựng năm 1901. Thời
Pháp thuộc, đây là nơi ở và làm việc của Toàn quyền Pháp ở Đông Dương (có tên là Phủ Toàn
quyền). Hiện nay, địa điểm này là nơi các vị đứng đầu Nhà nước ta tiếp đón các đoàn khách
quan trọng nước ngoài và là nơi để các đại sứ các nước đến trình quốc thư. Tại đây, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chủ trì nhiều cuộc họp Hội đồng Chính phủ…
Hà Đông
Hà Đông là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tây, nằm bên bờ sông Nhuệ, cửa ngõ phía Tây, cách
trung tâm Hà Nội 11 km, là nơi tập trung các cơ quan hành chính và trung tâm kinh tế, văn hóa, y
tế, giáo dục, thể thao của tỉnh Hà Tây.
Hà Đông nằm dọc theo Quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hòa Bình và trên ngã ba sông Nhuệ, sông La Khê.
Phía bắc giáp huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội; phía đông giáp huyện Thanh Trì, Hà Nội; phía
đông bắc giáp một chút quận Thanh Xuân, Hà Nội; phía tây giáp các huyện Quốc Oai, Hoài Đức;
phía tây nam giáp huyện Chương Mỹ; phía nam giáp các huyện Thanh Oai, Chương Mỹ, tỉnh Hà
Tây.
Thị xã Hà Đông có diện tích tự nhiên 47,9 km² và 173.707 nhân khẩu.(2006)
Năm 1904, đổi tên là thị xã Hà Đông, tỉnh lỵ tỉnh Hà Đông. Từ năm 1965 là tỉnh lỵ tỉnh Hà Tây. Từ
năm 1975 đến năm 1991 là tỉnh lỵ tỉnh Hà Sơn Bình. Sau khi chia tách tỉnh Hà Sơn Bình, trở lại
là tỉnh lỵ tỉnh Hà Tây như cũ.
2. TUYẾN ĐIỂM HÀ NỘI- HẢI PHÒNG- HẠ LONG
SƠ ĐỒ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH HÀ NỘI- HẢI PHÒNG- HẠ LONG
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Đi theo quốc lộ 5 chúng ta sẽ đến quận Gia Lâm.
Gia Lâm
Diện tích 172,9 km². Dân số 340.200 người (1999). Diện tích 108,4466 km². Dân số 190.194
người (2003), sau khi tách một phần đất lập quận Long Biên.
Có sông Hồng, sông Đuống và kênh Gia Thượng chảy qua.
Dưới thời phong kiến, huyện Gia Lâm có nhiều nhà khoa bảng lừng danh mà tên tuổi của họ
được nhiều người trong cả nước biết tới. Chẳng hạn như: Hà Giáp Hải (làng Bát Tràng, xã Bát
Tràng, huyện Gia Lâm), Cao Bá Quát (xã Phú Thị, huyện Gia Lâm)…
Huyện Gia Lâm cũng là quê hương của Chử Đồng Tử, Thánh Gióng – hai nhân vật trong Tứ bất
tử của Phật giáo Việt Nam. Chử Đồng Tử là người xã Văn Đức, huyện Gia Lâm ngày nay, Thánh
Gióng người xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm; Nguyên phi Ỷ Lan hay còn gọi là Bà Tấm (người xã
Dương Xá, huyện Gia Lâm).
Nơi đây là phát hiện nhiều di tích khảo cổ quan trọng.
Một số làng nghề tại huyện Gia Lâm: Bát Tràng (sản xuất gốm sứ), Kiêu Kỵ (dát bạc, sơn son
thếp vàng), Ninh Hiệp (trồng và kinh doanh thuốc Bắc)…
Tại quận Gia Lâm. Phía bên phải của quốc lộ là sân bay Gia Lâm.
Sân Bay Gia Lâm
Theo tin từ Bộ Giao Thông Vận Tải, dự án quy hoạch sân bay Gia Lâm vừa được phê duyệt đầu
tư thành một cảng hàng không nội địa dành cho các chặng bay ngắn.
Theo đó, đến năm 2015, cảng hàng không Gia Lâm sẽ có nhà ga với công suất có thể tiếp nhận
162.000 khách/năm và sân đỗ của cảng hàng không Gia Lâm có thể đón 3 máy bay ATR72.
Đến năm 2015, sân đỗ của cảng hàng không Gia Lâm có thể đón 3 máy bay ATR72 hoặc
Fokker. Và đến năm 2025, sẽ đón gần 300 nghìn khách/năm và diện tích sân đỗ đủ chỗ cho 5
chiếc ATR72 và Fokker.
Toàn bộ diện tích sân bay này hiện rộng khoảng 302,61 ha. Trong đó, diện tích đất dành cho
quân sự là 144,44 ha, dân sự khoảng 80 ha; và diện tích dùng chung cả quân sự, dân sự là 66,4
ha.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Sân bay Gia Lâm là sân bay nhỏ, nằm cách trung tâm Hà Nội 8km, vốn là sân bay chính của Hà
Nội trước năm 1970. Hiện nay, sân bay Gia Lâm dành cho hoạt động bay huấn luyện và bay taxi
phục vụ các tour du lịch bằng máy bay trực thăng.
Tại các sân bay này, hành khách sẽ không được cung cấp các dịch vụ như đối với hàng không
truyền thống, đặc biệt là không có xe ca đưa đón đến tận cầu thang máy bay…
Giáp với quận Gia Lâm là tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên
Hưng Yên là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam. Trung tâm hành chính của
tỉnh là thị xã Hưng Yên nằm cách thủ đô Hà Nội 64 km về phía đông nam, cách thành phố Hải
Dương 50 km về phía tây nam. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía đông giáp tỉnh Hải Dương,
phía tây giáp tỉnh Hà Tây, phía tây bắc giáp thủ đô Hà Nội, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía
tây nam giáp tỉnh Hà Nam.
Tuy là tỉnh “mới” chỉ non 200 năm, vùng đất Hưng Yên đã nổi danh từ thời kỳ Trịnh – Nguyễn
phân tranh trước đó với Phố Hiến, vốn là thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài.
Thuyền bè ngược sông Hồng lên Thăng Long “Kẻ Chợ” đều phải dừng ở Phố Hiến đợi giấy phép
nên Phố Hiến trở thành tụ điểm sầm uất. Người Tàu, người Nhật và người Tây phương đều đến
đấy buôn bán. Do vậy dân gian đã có câu: “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”.
Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, là tỉnh
đồng bằng không có rừng, núi và biển.
Diện tích: 923,09 km²
Dân số 1.116.000 người
Đường sắt: tuyến đường sắt Hà Nội-Hải Phòng chạy qua địa phận Hưng Yên 17 km, từ Như
Quỳnh tới Lương Tài.
Đường thủy: Sông Hồng là ranh giới của Hưng Yên với các tỉnh, thành phía tây, dài 57 km. Sông
Luộc là ranh giới với tỉnh Thái Bình dài 25 km. Sông Luộc và sông Hồng giao nhau tại địa phận
thị xã Hưng Yên. Ngoài ra còn các sông nhỏ khác như: sông Sặt, sông Chanh, sông Cửu Yên,
sông Tam Đô, sông Điện Biên v.v. Hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải chủ yếu phục vụ tưới
tiêu cho nông nghiệp tỉnh này.
Hưng Yên có các di tích lịch sử sau:
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Quần thể di tích Phố Hiến: (đền Thiên Hậu, Đông Đô Quảng Hội, Võ Miếu, chùa Nễ Châu, đền
Mây, Văn Miếu, Phố Hiến xưa, hội ả đào…)
Hồ bán nguyệt
Di tích Chử Đồng Tử – Tiên Dung: (đền Đa Hòa, đền Dạ Trạch, các di tích liên quan đến Triệu
Việt Vương)
Nhà tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông.
Cụm di tích Phù Ủng (Ân Thi) liên quan đến danh tướng Phạm Ngũ Lão, di tích Tống Trân – Cúc
Hoa (Phù Cừ)
ở tỉnh Hưng Yên có một làng nghề làm tương rất nổi tiếng đó chính là làng nghề Tương Bần.
làng nghề này nằm bên trái quốc lộ 5.
Làng Nghề Tương Bần
Đi từ Hà Nội theo quốc lộ 5 khoảng 25 km là đến thị trấn Bần Yên nhân (trước đây là một thôn
của xã Văn Phú) huyện Mỹ Hào, ở đó có nghề làm tương Bần. Nước ta có nhiều địa phương làm
tương ngon và nổi tiếng nhưng Tương Bần vẫn là thứ đặc sản mà người Hà Nội sành ăn xếp
vào những món ăn đặc biệt của thủ đô xưa, đó là : Dưa La, húng Láng, nem Bảng, tương Bần,
nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét. Nguồn nguyên liệu để làm tương là gạo, ngô, đỗ tương,…
rất dồi dào và có sẵn, công nghệ làm tương khá đơn giản song nhờ bí quyết độc đáo mà tương
Bần có hương vị thơm ngon độc đáo hơn hẳn các nơi khác.
Nhãn lồng Hưng Yên là một đặc sản nổi tiếng trong và ngoài nước.
Đi hết tỉnh Hưng Yên, các bạn sẽ đến với tỉnh Hải Dương.
Hải Dương
Hải Dương là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trung tâm hành chính của tỉnh là
thành phố Hải Dương nằm cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố Hải Phòng
45 km về phía tây. Phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông bắc
giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp thành phố Hải Phòng, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía
tây giáp tỉnh Hưng Yên.
Diện tích: 1.662 km²
Năm 2003 Hải Dương có 1.689.200 người.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Hải Dương là một địa danh gắn liền với nhiều tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam như danh nhân
quân sự thế giới Trần Hưng Đạo (Đức thánh Trần- Hưng Đạo Đại Vương), danh nhân văn hóa
thế giới Nguyễn Trãi, danh sư Chu Văn An, danh y Tuệ Tĩnh.
Hiện nay trong địa bàn tỉnh Hải Dương còn nhiều di tích lịch sử-văn hóa như: đền Kiếp Bạc thờ
Đức thánh Trần, chùa Côn Sơn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đền Cao,
văn miếu Mao Điền, di tích gốm sứ Chu Đậu-Mỹ Xá.
Mỹ Xá cũng là nơi mà Việt Nam Quốc dân đảng đã họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Thái
Học để phát động phong trào khởi nghĩa Yên Bái chống lại thực dân Pháp tháng 2 năm 1930.
Hải Dương nổi tiếng với đặc sản bánh đậu xanh, bánh gai và vải thiều. Gần đầu tỉnh có cơ sở
sản xuất bánh đậu xanh, cơ sở này nằm bên trái của quốc lộ.
Bánh Đậu Xanh Hải Dương
Trong số đặc sản của tỉnh Đông xưa phải kể đến bánh đậu xanh của thành phố Hải Dương.
Nguyên liệu để chế biến nên loại bánh này không phải khai thác từ đâu xa mà lấy ngay từ hoa
màu của đồng nội, hương vị của vườn quê. Thành phần của bánh cũng đơn giản : Đậu xanh,
đường kết tinh, mỡ lợn, tinh dầu của hoa bưởi. Những nguyên liệu này đều phải chọn lọc chế
biến tinh khiết. Bốn nguyên liệu trên pha trộn với nhau theo một tỉ lệ hợp lý, vượt tỉ lệ đó bánh sẽ
kém chất lượng. Bánh đậu xanh Hải Dương ra đời tại thị xã Hải Dương vào đầu thế kỷ 20, nổi
tiếng có hiệu Bảo Hiên, Cự Hương, Mai Phương. Mai Hoa…. Bánh đậu xanh Hải Dương nhãn
hiệu rồng vàng đã có mặt ở hầu hết các tỉnh Bắc kỳ bốn lần tham gia hội chợ đều được giải.
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hải Dương có trên 50 nhà hàng bánh đậu xanh, trong đó có
những nhà hàng nổi tiếng như : Bảo Hiên, Nguyên Hương, Bảo Long, Bá Tiến, Hoà An, Minh
Ngọc, Quê Hương…
Tỉnh Hải Dương có thành phố cùng tên là thành phố Hải Dương. Đi qua cơ sở sản xuất bánh đậu
xanh một đoạn, bên tay phải có 1 con đường đi vào thành phố Hải Dương.
Thành Phố Hải Dương
Phía bắc và phía đông giáp huyện Nam Sách – được chia tách bằng sông Thái Bình (“sông Cái”
theo cách gọi của một số người dân địa phương), phía tây giáp huyện Cẩm Giàng, phía nam
giáp huyện Gia Lộc, phía đông nam giáp hai huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ. Ở phía nam có sông
Sặt, chi lưu sông Thái Bình, chảy qua.
Diện tích 36.253 ha, dân số 138.265 người.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Được thành lập năm 1804 dưới tên gọi Thành Đông. Thời thuộc Pháp là một thị xã. Trước năm
1968, là tỉnh lị tỉnh Hải Dương; từ 1968 tới năm 1996 là tỉnh lị tỉnh Hải Hưng. Từ ngày 6 tháng 11
năm 1996, trở lại tỉnh lị tỉnh Hải Dương. Ngày 6 tháng 8 năm 1997, thành lập thành phố Hải
Dương.
Vẫn đi trên quốc lộ 5, đến ngã 3 Tiền Trung có quốc lộ 18 đi thị trấn Sao Đỏ.
Sao Đỏ
Sao Đỏ là tên một thị trấn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thị trấn Sao Đỏ được thành lập
năm 1978.
Sao Đỏ cách thủ đô Hà Nội 66 km về phía Đông bắc, nằm ở ngã ba giữa đường 18 và đường
183, gần tả ngạn sông Thái Bình.
Sao Đỏ cách Đông Triều: 19 Km; Thành phố Hải Dương: 22 Km.
Sao Đỏ cách Côn Sơn (Di tích lịch sử cấp quốc gia): 5 Km; Đền Kiếp Bạc: 10 Km; Đền Cao: 5
Km.Đền Chu Văn An 4Km(Di tích quốc gia)
Thị trấn Sao Đỏ có địa hình bán sơn địa: Một bên giáp núi, một bên tiếp giáp với đồng bằng.
Nằm trong tam giác kinh tế lớn: Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh ,và là trung tâm tam giác Tp Hải
Dương-Bắc Ninh-Bắc Giang nên Sao Đỏ có nhiều thuận lợi về mặt phát triển kinh tế. Sao Đỏ có
tiềm năng phát triển về kinh tế thương mại, du lịch và dịch vụ,đặc biệt là công nghệ cao.
Một số địa điểm giải trí:
Du lịch: Đền Côn Sơn, Đền Kiếp Bạc,Đền Chu Văn AN, Đền Cao
Sân Gold Chí Linh (nằm nội bộ trong thị trấn)
Cách thị trấn Sao Đỏ 5 km là khu di tích đền Côn Sơn
Côn Sơn
Khu di tích danh thắng Côn Sơn thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, cách Hà
Nội khoảng 70km.
Khu di tích này gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân trong lịch sử; là một trong ba trung
tâm của thiền phái Trúc Lâm vào thời Trần.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Khu di tích nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng – Kỳ Lân. Khu di tích, danh thắng này gồm có
núi non, chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của nhiều
danh nhân trong lịch sử. Ngay từ thời Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền
phái Trúc Lâm (Côn Sơn – Yên Tử – Quỳnh Lâm). Mảnh đất này đã gắn bó với tên tuổi và sự
nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Ðán, Huyền Quang và đặc biệt là anh
hùng dân tộc – danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Côn Sơn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
đến thăm và đọc bia về Nguyễn Trãi.
Ngày nay, Côn Sơn còn lưu giữ được những dấu tích văn hoá thời Trần và các giai đoạn lịch sử
kế tiếp. Tiêu biểu là: Chùa Côn Sơn, Giếng Ngọc, Bàn Cờ Tiên , Thạch Bàn.
Đi hết tỉnh Hải Dương chúng ta sẽ tới tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh
Quảng Ninh được thành lập năm 1963 với nền tảng là khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh. Tên
tỉnh là ghép tên của hai tỉnh Quảng Yên và Hải Ninh cũ. Diện tích của toàn tỉnh Quảng Ninh là
8.239,243 km. Vùng biển của Quảng Ninh có hơn 2000 đảo lớn nhỏ, trong đó có 1.030 đảo có
tên, còn lại hơn một nghìn hòn đảo chưa có tên, chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/2779).
Tổng diện tích các đảo là 619,913 km².
Phía tây Quảng Ninh giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây
nam giáp tỉnh Hải Dương và tỉnh Hải Phòng, phía bắc giáp Sùng Tả và Phòng Thành Cảng,
Quảng Tây, Trung Quốc với cửa khẩu Móng Cái và Trinh Tường.
Về phía biển ngoài có các đảo như đảo Trần và quần đảo Cô Tô (thuộc huyện Cô Tô). Vùng nội
thuỷ từ bắc xuống nam có những đảo chính như đảo Đầu Tán, đảo Vĩnh Thực, đảo Miễu, đảo
Cái Chiên, đảo Thoi Xanh, đảo Vạn Vược, đảo Thoi Đây, đảo Sậu Nam, đảo Cái Bầu, đảo Trà
Ngọ, đảo Cao Lô, đảo Trà Bàn, đảo Chén, đảo Thẻ Vàng, đảo Cảnh Cước, đảo Vạn Cảnh, đảo
Cống Tây, đảo Phượng Hoàng, đảo Nấc Đất, đảo Thượng Mai và đảo Hạ Mai cùng vô số những
đảo nhỏ trong vịnh Bái Tử Long và Hạ Long.
Cực đông của tỉnh, cũng là điểm đầu tiên của hình chữ S của nước Việt Nam, là mũi Sa Vĩ, thuộc
phường Trà Cổ, thị xã Móng Cái.
Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đồng
thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ
Long đã hai lần được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mỹ và địa chất, địa mạo. Quảng Ninh
có 3 Khu kinh tế Vân Đồn, hai Trung tâm thương mại Hạ Long, Móng Cái là đầu mối giao thương
giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc và các nước trong khu vực.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Quảng Ninh là tỉnh nằm trọn vẹn trong chương trình “hai hành lang, một vành đai kinh tế” giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Tỉnh có nhiều tuyến đường cao tốc trọng điểm đang được xây dựng
bên cạnh những cảng biển lớn. Về trữ lượng than trên toàn Việt Nam thì riêng Quảng Ninh đã
chiếm tới 90%.
Quảng Ninh là một địa danh giàu tiềm năng du lịch, là một đỉnh của tam giác tăng trưởng du lịch
miền Bắc Việt Nam, Quảng Ninh có danh thắng nổi tiếng là vịnh Hạ Long đã được UNESCO
công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và di sản thế giới bởi giá trị địa chất địa mạo. Tiềm năng
du lịch Quảng Ninh nổi bật nên với:
Các bãi tắm bãi tắm đẹp như Bãi Cháy, đảo Tuần Châu đã được cải tạo, nâng cấp với nhiều loại
hình dịch vụ phục vụ đa dạng các nhu cầu của khách.
Cả tỉnh có gần 500 di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… gắn với nhiều lễ hội truyền thống, trong
đó có những di tích nổi tiếng của Quốc gia như chùa Yên Tử, đền Cửa Ông, di tích lịch sử Bạch
Đằng, chùa Long Tiên, đình Quan Lạn. đây là những điểm thu hút khách thập phương đến với
các loại hình du lịch văn hoá, tôn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội.
Quảng Ninh nổi bật với các món ăn được chế biến từ các loài hải sản của biển Quảng Ninh,
trong đó có những đặc sản giá trị như hải sâm, bào ngư, tôm, cua, sò, ngán, hầu hà, sá sùng,
rau câu
Đến với tỉnh Quảng Ninh chúng ta sẽ đến thị xã Uông Bí
Uông Bí
Uông Bí là một thị xã nằm ở miền tây của tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội 120km. Nằm dưới chân
dãy núi Yên Tử và giáp sông Đá Bạc. Ngày 28 tháng 10, 1961, Chính Phủ ra Nghị định 181/CP
thành lập thị xã Uông Bí trực thuộc Khu Hồng Quảng.
Uông Bí nổi tiếng với nền công nghiệp khai thác than. Mỏ than Vành Danh, Bạch Thái Bưởi được
khai thác từ thời thuộc địa.Những năm gần đây thêm nhiều mỏ và công ty than được thành lập
tại khu vực Uông Bí và nằm trong công ty than Uông Bí như Công ty than Hồng Thái, Công ty
than Nam Mẫu,Đồng Vông…
Quốc lộ 18A và đường sắt Yên Viên-Hạ Long chạy ngang qua Uông Bí. Quốc lộ 10 từ Hải Phòng
sang Quảng Ninh gặp quốc lộ 18A tại ngã ba Cầu Sến. Giao thông thuỷ nối Hải Phòng với Hạ
Long.
Uông Bí có hơn 10 vạn người, hơn 90% là người Kinh. Người Dao Tập trung ở xã Thượng Yên
Công. Các dân tộc Tày, Sán Dìu, Hoa ở rải rác trong vùng núi phía bắc.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
ở đây có các thắng cảnh như: Hang Son, Động Bảo Phúc, Núi Yên Tử, Khu di , tích Yên Tử, Hồ
Yên Trung, Lựng Xanh.
Từ thị xã Uông Bí, có đường dẫn vào núi Yên Tử
Núi Yên Tử
Núi Yên Tử cao 1.068 m là ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng đông bắc Việt Nam. Núi
thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vốn là là một thắng cảnh thiên
nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh “đất tổ Phật Giáo Việt Nam”.
Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn.Tổng chiều dài
đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng
ngàn bậc đá, đường rừng núi… Hành trình lên Yên Tử hôm nay sẽ không vất vả như xưa nữa vì
hệ thống cáp treo 1 lên gần Hoa Yên đã hoàn thành năm 2002 và hệ thống cáp treo 2 lên cổng
trời (khu vực đỉnh Yên Tử) đã được đưa vào sử dụng từ mùa lễ hội 2008
Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo
cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc
Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông
(1258-1308). Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu
hành và truyền kinh, giảng đạo. Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng
Kiên Cương (1284-1330), vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn
ra bộ sách Thạch thất mị ngữ và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với
hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như viện Quỳnh Lâm, chùa Hồ
Thiên ở Đông Triều… Tại trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Đạo
(1254-1334), vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm.
Từ Hà Nội có thể đi xe ô-tô vượt quãng đường 125 km, qua thị xã Uông Bí thì rẽ vào đường
Vàng Danh, đi tiếp khoảng 9 km thì rẽ trái. Có thể lên núi Yên Tử bằng hai cách:
Theo đường đi bộ dài trên 6 km đã được gia cố bởi hàng nghìn bậc đá xếp, len lỏi theo lối mòn
vượt qua bạt ngàn cây cỏ, dưới tán rừng trúc, rừng thông.
Đứng ở độ cao 1068 m trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những
đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa hơn là sông Bạch Đằng.
Dọc đường còn có một số điểm tham quan như Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá
Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền
viện Trúc Lâm Yên Tử xây trên nền dấu tích của chùa Lân mà đức Điếu Ngự Giác Hoàng Trần
Nhân Tông từng thuyết giảng chúng sinh. Đây là công trình thiền viện lớn nhất Việt Nam.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Lễ hội Yên Tử được tổ chức hàng năm bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng và kéo dài hết tháng 3
(âm lịch).
Nhắc đến Quảng Ninh thì mỗi chúng ta sẽ nhớ tới ngay một địa danh nổi tiếng khắp trên thế giới
đó chính là di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long
Nằm ở vùng Ðông Bắc, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành
phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo
Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, với tổng diện
tích 1553 km2 gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Ðảo
của vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là
vùng phía đông nam (thuộc vịnh Bái Tử Long) và vùng phía tây nam (thuộc vùng vịnh Hạ Long)
có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 – 280 triệu năm. Vùng tập trung dày đặc các đảo đá có phong
cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp nổi tiếng là vùng trung tâm Di sản thiên nhiên vịnh Hạ
Long, bao gồm vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử Long. Vùng Di sản thiên nhiên được thế
giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo
Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực
đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng năm 1962.
Vịnh Hạ Long cũng là nơi gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc với những địa danh nổi
tiếng như Vân Ðồn – nơi có thương cảng cổ nổi tiếng một thời (1149), có núi Bài Thơ ghi bút tích
của nhiều bậc vua chúa, danh nhân, xa hơn chút nữa là dòng sông Bạch Ðằng – nơi đã từng
chứng kiến hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của cha ông ta chống giặc ngoại xâm.. Không chỉ có vậy,
Hạ Long ngày nay được các nhà khoa học chứng minh là một trong những cái nôi của con người
có nền văn hoá Hạ Long từ Hậu kỳ đồ đá mới với những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như
Ðồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học
cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ
sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… Với hàng ngàn loài động, thực vật vô cùng
phong phú trên rừng dưới biển, cá, mực… Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây.
Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di
sản Thế giới thuộc UNESCO tổ chức tại Thái Lan, vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là
Di sản thiên nhiên, khẳng định giá trị mang tính toàn cầu của Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ
Long.
Quay lại với quốc lộ 5 chúng ta sẽ tới thành phố Hải Phòng.
Hải Phòng
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Hải Phòng là thành phố cảng công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm cấp quốc gia; đầu mối giao
thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, có cảng nước sâu (nếu điều kiện
kỹ thuật cho phép); một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc; một
trọng điểm phát triển kinh tế biển; một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của
cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thuỷ sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc bộ; một
pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng an ninh; có tổ chức đảng và hệ thống chính trị không
ngừng lớn mạnh, đời sống nhân dân ngày một cao. Phấn đấu Hải Phòng là một trong những địa
phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành thành phố
công nghiệp, văn minh, hiện đại trước năm 2020″
Hải Phòng là thành phố lớn thứ ba của Việt Nam, sau thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội.
Thành phố nằm ở phía đông bắc Việt Nam, trên bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ, phía bắc giáp tỉnh
Quảng Ninh, phía nam giáp Thái Bình, phía Tây giáp Hải Dương và phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ.
Hải Phòng được nối với các tỉnh qua các hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông và đường
hàng không. Nhờ vậy, Hải Phòng là trung tâm giao thông vận tải của toàn bộ khu vực phía Bắc
Việt Nam, nối các tỉnh phía bắc với thị trường thế giới qua hệ thống cảng biển.
Hải Phòng có hệ thống đường bộ rất thuận tiện cho việc vận tải hàng hoá và đi lại với Thủ đô Hà
Nội và các tỉnh phía bắc thông qua quốc lộ 5 và quốc lộ 10. Quốc lộ 5 dài 105 km gồm 4 làn xe
cơ giới và 2 làn xe thô sơ, hiện là tuyến đường cấp 1 hiện đại nhất Việt Nam.Quốc lộ 10 nối Hải
Phòng với Quảng Ninh nơi có khu công nghiệp than, khu du lịch nổi tiếng Vịnh Hạ Long và với
vùng nông nghiệp trù phú của các tỉnh đồng bằng ven biển từ Thái Bình đến Thanh Hoá. Quốc lộ
10 cũng nối cảng Hải Phòng, các tỉnh duyên hải Bắc Bộ với đường quốc lộ 1 Bắc – Nam.
Với 5 con sông chảy qua, Hải Phòng là trung tâm đầu mối của mạng giao thông đường sông, nối
liền các tỉnh và các cảng sông khu vực phía Bắc. Mạng lưới giao thông đường sông vận tải
chuyển tới trên 40% lượng hàng hoá của các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Hải Phòng có 2 sân bay Cát Bi và Kiến An. Sân bay Cát Bi nằm cách trung tâm thành phố 5 km.
Sân bay đã được nâng cấp, có thể tiếp nhận máy bay Airbus 320, là sân bay dự bị cho sân bay
quốc tế Nội Bài.
Tại thành phố Hải Phòng có sân bay Cát Bi
Sân bay quốc tế Cát Bi
Sân bay Cát Bi là một sân bay cấp III, nằm cách trung tâm thành phố 5 km.
Chiều dài đường cất hạ cánh: chính 2.400 m; phụ: 1.500 m, có phục vụ bay đêm.
Chiều rộng đường cất hạ cánh: chính 50 m, phụ 15 m;
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Kích thước đường lăn chính: 1.600×15 (m);
Kết cấu đường cất hạ cánh: bê tông xi măng – bê tông nhựa;
Sân đỗ máy bay: 3 chiếc;
Sân chứa máy bay: 80 chiếc;
Hướng phát triển: nâng cấp mở rộng, cải tạo thành sân bay cấp I, và là sân bay quốc tế trong
khu vực
Có thể tiếp nhận các loại máy bay lớn như Boeing 767-300 ER, B777, B747-400, Airbus 320…
Các hãng hàng không và các điểm đi đến
Nội địa
Vietnam Airlines (Hà Nội , Đà Nẵng , Thành phố Hồ Chí Minh)
Pacific Airlines (Thành phố Hồ Chí Minh)
Từ quốc lộ 5, rẽ trái theo con đường vào thị xã Uông Bí, quý khách sẽ đi qua sông Bạch Đằng,
một con sông đã đi vào lịch sử của nước ta.
Sông Bạch Đằng
Sông Bạch Đằng, còn gọi là Bạch Đằng Giang, hiệu là sông Vân Cừ, là một con sông chảy giữa
hai huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục
khoảng 40 km. Nó nằm trong hệ thống sông Thái Bình.
Điểm đầu là phà Rừng – Hải Phòng (danh giới Hải Phòng và Quảng Ninh).
Điểm cuối là cửa Nam Triệu – Hải Phòng. Sông có chiều dài 19 km.
Các loại tàu thuyền có tải trọng 300-400 tấn tham gia vận tải được cả 2 mùa.
Sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa) từ miền
nam Trung Quốc, từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống
và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội
Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam:
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán của Ngô Quyền,
Cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lê Hoàn
Cuộc thủy chiến của Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên (trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên lần thứ ba).
Đi qua khỏi con đường rẽ vào thị xã Uông Bí một đoạn không xa, nhìn phía bên phải có một con
đường đi Đồ Sơn
Đồ Sơn
Đồ Sơn hấp dẫn du khách bốn phương còn bởi sự nổi tiếng với các di tích và danh thắng hòa
quyện trong không gian đầy thơ mộng của núi – biển – trời – mây. Ở đó có cái đẹp của thiên
nhiên, của con người hiện hữu trong từng ngọn núi, bãi biển và trong những huyền thoại lung
linh.
Đi dọc khu nghỉ mát Đồ Sơn, xe bon bon qua khu I, khu II, khu III bạn sẽ được ngắm không chán
mắt cảnh sắc phong phú của núi non và biển cả, của rừng cây và bãi cát, của sự sôi động và tĩnh
lặng. Con đường uốn lượn dẫn bạn đi khi thì như lẫn vào rừng, xuyên qua núi, lúc thì bạn nhìn
thây biển trước mặt, lúc lại thấy biển sau lưng… Điều huyền diệu chính là chỗ ấy.
Nằm giữa trung tâm khu du lịch nổi tiếng Đồ Sơn là Công ty Khách sạn Du lịch Đồ Sơn với:
Hệ thống khách sạn hiện đại 250 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nhà hàng sang trọng sẵn sàng phục vụ quý khách các món ăn Âu – Á, món ăn dân tộc. Với các
đầu bếp giỏi và đội ngũ nhân viên nhiệt tình, chu đáo và lịch sự, chắc chắn sẽ làm vừa lòng quý
khách.
Hệ thống phòng họp, hội nghị, hội thảo từ 20 – 300 chỗ
Biệt thự Bảo Đại mang đậm nét cung đình Huế tại Đồ Sơn. Đến đây quý khách có thể tổ chức
các bữa tiệc cung đình, thưởng thức những món ăn do các nghệ nhân tài hoa của Công ty chế
biến và tạo hình cùng những giọng ca ngọt ngào qua các làn điệu dân ca của chính những nhân
viên Biệt thự phục vụ mang nét cung đình xưa.
Khu vui chơi, giải trí, sân tennis, karaoke, bể bơi, vật lý trị liệu….và các địch vụ vui chơi giải trí
khác đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng của khách.
Trở lại với quốc lộ 5, cứ tiếp tục đi thẳng thì sẽ tới Cát Bà.
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Cát Bà
Cát Bà là huyện cũ của thành phố Hải Phòng, nằm trên đảo Cát Bà.
Trước năm 1945, đây là tổng Hà Sen, thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên.
Khi đó, thị trấn Cát Bà từng là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà (thuộc tổng Hà Sen), sau là thị xã Cát
Bà thuộc tỉnh Quảng Yên, sau nữa thuộc khu Hồng Quảng, đến ngày 5 tháng 6 năm 1956 sáp
nhập vào thành phố Hải Phòng. Và sau đó thì thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn Cát Bà, đồng thời
với việc thành lập huyện Cát Bà.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Cát Bà nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới.
Đảo Cát Bà
Là một trong bốn khu sinh thái Việt Nam được Unesco công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế
giới, ngày nay Cát Bà đã trở thành địa chỉ du lịch quen thuộc với nhiều người, nhất là với du
khách thích du lịch sinh thái.
Quần đảo Cát Bà có trên 300 đảo lớn, nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo chính Cát Bà rộng khoảng
100 km2. Quần đảo này tiếp nối với các đảo của vịnh Hạ Long tạo nên một quần thể đảo và hang
động trên biển và là nơi hội tụ đầy đủ các hệ sinh thái tiêu biểu nhất Việt Nam: hệ sinh thái rừng
mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, thảm rong – cỏ biển, các rạng san hô và đặc biệt
là hệ thống hang động, thung áng.
Ngoài biển, rừng trên núi đá vôi ở Cát Bà chiếm diện tích khá lớn, xen kẽ là những khu rừng mọc
tự nhiên trên núi đất. Hệ thực vật ở đây có 620 loài, thuộc 123 họ có giá trị như Lát Hoa, Kim
Giao… Tại động Trung Trang của Cát Bà còn có khu rừng Kim Giao mọc tự nhiên đẹp và có giá
trị về kinh tế lẫn nghiên cứu khoa học.
Hệ động vật ở đây cũng rất phong phú với 20 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư,
đặc biệt có loài voọc đầu trắng thường sống ở các vách đá cheo leo ven biển, loài thú quí hiếm
được ghi trong sách đỏ thế giới, nay chỉ còn thấy ở Cát Bà.
Khí hậu trên đảo Cát Bà mát mẻ, trong lành, thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng. Du khách có thể
nghe tiếng sóng vỗ lên những bờ đá hằng đêm và tiếng gió với nhiều cung bậc ở nơi này: có
tiếng gió thổi lồng lộng trên bờ đá ven biển, có tiếng gió vi vu trên đỉnh đèo, cũng lại có tiếng gió
rít hoang dã, len lỏi qua những khe núi.
Đến Cát Bà, du khách có thể thuê một chiếc tàu du lịch đi khắp vịnh Lan Hạ, ghé vào những bãi
tắm lớn nhỏ thật đẹp với những cái tên ngộ nghĩnh: bãi Cát Cò, bãi Bến Bèo, bãi Cô Tiên… hoặc
những hang động Trung Trang, Hoa Cương, Thiên Long để khám phá thiên nhiên kỳ thú rồi sau
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
đó dừng lại ở một vịnh nhỏ bất kỳ, hưởng cái thú câu cá và nhâm nhi thủy hải sản cùng chút
rượu đế giữa non xanh nước biếc bên cạnh người thân hoặc bạn bè. Mọi phiền muộn sẽ được
gột rửa.
Du khách có thể từ khu nhà nghỉ tại trung tâm thị trấn đảo qua những dốc núi để xuống bãi tắm
Cát Bà. Hoặc không, quý khách có thể đặt phòng nghỉ ngay tại các khu nghỉ dưỡng sát bãi biển.
Các bãi tắm được nối với nhau bằng một con đường nhỏ men theo triền núi, vì thế, du khách sẽ
có thêm cảm giác thú vị khi di chuyển tìm một bãi tắm vừa ý.
3. TUYẾN ĐIỂM HÀ NỘI-PHÚ THỌ-LÀO CAI-SA PA
SƠ ĐỒ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH HÀ NỘI-PHÚ THỌ-LÀO CAI-SA PA
Từ quốc lộ 5, rẽ theo quốc lộ 2 chúng ta sẽ đến với tỉnh Vĩnh Phúc.
Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là một tỉnh miền núi trung du nằm ở vùng Đông Bắc. Phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh
giới tự nhiên là sông Lô, Phía nam giáp tỉnh Hà Tây – Hà Nội, ranh giới tự nhiên là sông Hồng.
Phía đông giáp hai huyện Sóc Sơn, Đông Anh – Hà Nội, Phía bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh
Tuyên Quang, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía nam giáp tỉnh Hà Tây và thủ đô Hà Nội.
Vĩnh Phúc là một tỉnh ở vùng đỉnh của châu thổ sông Hồng, khoảng giữa của miền Bắc nước
Việt Nam, khu vực chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng vì vậy có ba vùng sinh thái: đồng
bằng ở phía Nam tỉnh, trung du ở phía Bắc tỉnh, vùng núi ở huyện Tam Đảo.
Vĩnh Phúc tiếp giáp với sân bay quốc tế Nội Bài, là điểm đầu của quốc lộ 18 đi cảng Cái Lân (tỉnh
Quảng Ninh), đồng thời có đường sắt Hà Nội-Lào Cai, đường quốc lộ 2 chạy dọc tỉnh. Chảy qua
Vĩnh Phúc có 4 dòng chính: sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy và sông Cà Lồ. Hệ thống sông
Hồng là tuyến đường thuỷ quan trọng, thuận lợi cho tàu bè.
Vĩnh Phúc vùng đất địa linh nhân kiệt, là cái nôi của người Việt cổ, với di chỉ khảo cổ học Đồng
Đậu nổi tiếng. Mê Linh, nơi Hai Bà Trưng đóng đô, nằm trong tỉnh này.
Tới Vĩnh Phúc, chúng ta sẽ đi qua huyện mê Linh
Mê Linh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Mê Linh là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, nằm ở phía Bắc Hà Nội, giáp sân bay Nội Bài. Đây là
địa danh gắn với tên tuổi của Hai Bà Trưng.
Diện tích 14.095,74 km²
Dân số 181.299 (2004)
Huyện Mê Linh được thành lập năm 1977 trên cơ sở hợp nhất 2 huyện Bình Xuyên và Yên Lãng,
ngoài ra còn có 4 xã Văn Tiến, Nguyệt Đức, Minh Tân và Bình Định của huyện Yên Lạc, 2 xã Kim
Hoa và Quang Minh của huyện Kim Anh.
Một năm sau, Mê Linh được sáp nhập vào Hà Nội. Đến 1979, sáp nhập thêm các xã Nam Viêm,
Ngọc Thanh, Phúc Thắng, Cao Minh và thị trấn Xuân Hòa của huyện Sóc Sơn vào huyện Mê
Linh, nâng tổng số đơn vị hành chính huyện Mê Linh lên thành 22 xã và 2 thị trấn.
1991, Mê Linh tách khỏi Hà Nội và trở về tỉnh Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc).
Sau khi thành lập thị xã Phúc Yên, tách khỏi huyện Mê Linh năm 2004, thị trấn Xuân Hòa trở
thành một phường của thị xã Phúc Yên, thì huyện Mê Linh còn lại 17 xã.
2008, chủ trương sáp nhập Mê Linh vào Hà Nội.
Khi đi qua huyện Mê Linh, gần đầu huyện về phía bên phải quốc lộ có đền thờ Hai Bà Trưng.
Đền Thờ Hai Bà Trưng
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 sau CN), thời đại Hai Bà Trưng (40 – 43 sau CN), được mọi
người dân Việt Nam biết đến với niềm tự hào và kính trọng sâu sắc. Lần đầu tiên trong lịch sử
dân tộc, trong cả lịch sử nhân loại, một cuộc khởi nghĩa do hai nữ Anh hùng lãnh đạo, đánh đuổi
giặc ngoại xâm giành thắng lợi. Bà Trưng Trắc đã lên ngôi Vua, phong thưởng các tướng sĩ, cắt
cử quan lại các cấp… Có thể nói,
Hai Bà Trưng là người đầu tiên có công giữ nước, xây dựng nền độc lập, người đặt nền móng
cho truyền thống đánh giặc, ý thức tự lập, tự cường của dân tộc ta.
Sau khi hai bà mất, nhân dân trong nước thuộc nhiều triều đại kính trọng lập đền thờ hai bà và
các tướng lĩnh giỏi (phần lớn là nữ tướng) ở nhiều nơi. Chỉ tính riêng trên đất Vĩnh Phúc đã có
65 đền thờ Hai Bà Trưng và 66 tướng lĩnh. Hàng năm, cứ đến ngày 6 tháng Giêng (ngày Hai Bà
Trưng dựng cờ khởi nghĩa), tại đền thờ hai bà ở xã Mê Linh, huyện Mê Linh, lại mở hội lớn, nhân
dân trong tỉnh và cả nước nô nức kéo về dự, thắp hương thành kính biết ơn “Nhị Vị Đại Vương”
đã có công xây dựng nền độc lập ngay từ buổi bình minh của dân tộc và tiếp tục cầu mong Hai
Bà phù hộ cho quốc thái, dân an…
Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com
Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam
Từ ngày có Đảng, đặc biệt là những năm 1940 – 1945, Đền thờ Hai Bà Trưng trở thành nơi chở
che, đi về, hội họp của các nhà lãnh đạo tiền bối Đảng ta như các đồng chí Trường Chinh,
Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo
Trên đường tới thị xã Vĩnh Yên, bên tay phải có tuyến đường đi vào hồ Đại Lãi.
Hồ Đại Lãi
Đại Lải là một hồ nước nhân tạo lớn. Xưa kia, vùng hồ là một thung lũng cằn cỗi nằm giữa một
bên là dải núi Thằn Lằn, một bên là các đồi trọc trải dần ra từ phía chân dãy Tam Đảo. Mùa mưa
lũ, nước ở các con suối chảy dồn về như thác, đồng thời lại rút đi rất nhanh, cuốn trôi theo phù
sa màu mỡ, làm cho đồng ruộng bị xói mòn, đất đai bạc màu vì khô cằn. Vì vậy, Bộ Thuỷ lợi đã
cho khảo sát, thiết kế xây dựng hồ chứa nước Đại Lải với nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ tưới tiêu
cho đại bộ phận ruộng đồng của huyện Kim Anh, Sóc Sơn và một phần diện tích đất nông nghiệp
huyện Bình Xuyên. Công trình được khởi công vào năm 1959, đến năm 1963 cơ bản hoàn thành
bằng sức lao động chân tay của bộ đội, nhân dân, cán bộ công nhân viên chức, các cơ quan,
đoàn thể trong và ngoài tỉnh, diện tích mặt nước 525ha, chứa 26,4 triệu m3 nước. Công trình hồ
Đại Lải mang lại lợi ích phát triển kinh tế, xã hội, nông lâm nghiệp, phục vụ tưới tiêu cho khoảng
2.900ha – 3.500ha đất canh tác.
Với diện tích tự nhiên là 1.500ha, trung tâm là hồ Đại Lải, khu du lịch – thắng cảnh này đã, đang
và ngày càng đẹp hơn, có tiềm năng lớn để phát triển du lịch – dịch vụ, bước đầu thu hút được
khách du lịch trong và ngoài nước tới thăm quan, nghỉ dưỡng.
Từ bãi tắm dưới hồ, du khách có thể đi bộ thể dục lên đỉnh núi Thằn Lằn phóng tầm mắt nhìn về
Thủ đô Hà Nội và tham quan đồn Thằn Lằn, nơi ghi dấu một trong những trận đánh quyết liệt mà
chiến thắng hào hùng của lực lượng vũ trang chiến khu Ngọc Thanh những năm chống Pháp.
Những ai thích leo núi có thể ngược lên phía Bắc, luồn rừng qua đèo Nhe (một thời là con đường
liên lạc trọng yếu giữa chiến khu Ngọc Thanh và căn cứ địa Việt Bắc) sang đất Thái Nguyên
thăm hồ Suối Lạnh; tới đèo Khế thăm khe núi Đá Đen – địa điểm đặt kho bạc nhà nước thời
kháng chiến; hay rẽ sang núi Mỏ Quạ mạo hiểm thử sức leo lên những vách đá dựng đứng… Từ
trên cao nhìn xuống sẽ thấy thấp thoáng giữa bạt ngàn rừng xanh là các mặt nước hồ Xạ
Hương, hồ Làng Hà, hồ Gia Khau thanh bình lặng sóng. Du khách cũng có thể tới thăm những
dấu tích thành lũy của Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương hay những địa điểm ghi đầy dấu ấn lịch
sử khác của chiến khu Ngọc Thanh như: cơ sở bào chế thuốc tân dược và nơi làm việc của trạm
quân y chiến khu, thung lũng Đá Bia, Đồng Dè, đại bản doanh Móc Son…
Khu du lịch Đại Lải nằm trong địa phận xã Ngọc Thanh và xã Cao Minh, thuộc thị xã Phúc Yên,
cách nội thành Hà Nội 40 km, cách sân bay Nội Bài 10 km với hệ thống đường giao thông thuận
tiện cả đường bộ, đường sắt và đường hàng không. Với vị trí thuận lợi được thiên nhiên ưu đãi,
được sự quan tâm của các cấp chính quyền trong tương lai không xa Đại Lải sẽ cùng với các
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc
Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc

More Related Content

Viewers also liked

Viewers also liked (10)

Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sốngCẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
Cẩm nang 800 mẹo vặt trong cuộc sống
 
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnhChẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnh
 
Hoa ca dao
Hoa ca daoHoa ca dao
Hoa ca dao
 
Ss Ca Dao MiềN Nam
Ss Ca Dao MiềN NamSs Ca Dao MiềN Nam
Ss Ca Dao MiềN Nam
 
Ca dao viet nam
Ca dao viet namCa dao viet nam
Ca dao viet nam
 
Ctcg01
Ctcg01Ctcg01
Ctcg01
 
Vo gia dinh
Vo gia dinhVo gia dinh
Vo gia dinh
 
Ca dao về tình yêu đôi lứa
Ca dao về tình yêu đôi lứaCa dao về tình yêu đôi lứa
Ca dao về tình yêu đôi lứa
 
Cadao tucnguf
Cadao   tucngufCadao   tucnguf
Cadao tucnguf
 
Thanh ngu viet_anh
Thanh ngu viet_anhThanh ngu viet_anh
Thanh ngu viet_anh
 

More from Thanh Hải

Các thì Hiện tại trong tiếng Anh
Các thì Hiện tại trong tiếng AnhCác thì Hiện tại trong tiếng Anh
Các thì Hiện tại trong tiếng AnhThanh Hải
 
Tóm tắt về Philipine
Tóm tắt về PhilipineTóm tắt về Philipine
Tóm tắt về PhilipineThanh Hải
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămThanh Hải
 
Bao cao xuyen viet
Bao cao xuyen vietBao cao xuyen viet
Bao cao xuyen vietThanh Hải
 
Lịch sử hình thành đảo phú quốc
Lịch sử hình thành đảo phú quốcLịch sử hình thành đảo phú quốc
Lịch sử hình thành đảo phú quốcThanh Hải
 
Tài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải LươngTài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải LươngThanh Hải
 

More from Thanh Hải (6)

Các thì Hiện tại trong tiếng Anh
Các thì Hiện tại trong tiếng AnhCác thì Hiện tại trong tiếng Anh
Các thì Hiện tại trong tiếng Anh
 
Tóm tắt về Philipine
Tóm tắt về PhilipineTóm tắt về Philipine
Tóm tắt về Philipine
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
 
Bao cao xuyen viet
Bao cao xuyen vietBao cao xuyen viet
Bao cao xuyen viet
 
Lịch sử hình thành đảo phú quốc
Lịch sử hình thành đảo phú quốcLịch sử hình thành đảo phú quốc
Lịch sử hình thành đảo phú quốc
 
Tài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải LươngTài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải Lương
 

Tài liệu thuyết minh tuyến miền Bắc

  • 1. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam THUYẾT MINH TUYẾN MIỀN BẮC 18THÁNG 6 NỘI DUNG TUYẾN ĐIỂM MIỀN BẮC 1) ĐỊA LÝ Diện tích: Dân số: Bao gồm các tỉnh: Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hà Tây, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn, Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Phía Tây giáp Lào và Trung Quốc. Phí Bắc giáp Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Tây). Phía Nam giáp Quảng Bình. Địa hình được bao bọc bởi 3 dãy núi chính là: cánh cung Đông Triều, Hoàng Liên Sơn, dãy núi Đá vôi Tam Điệp – Ninh Bình và Thanh Hóa. Các núi này thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam nên sông suối cũng chảy theo hướng này. 2/3 diện tích là núi đồi. Có đỉnh núi cao nhất là Phanxipăng cao 3.143m được coi là “Ngọc ngà Đông Dương”. Vùng đồng bằng sông Hồng rộng 25.000km², cao trung bình dưới 5m so với mực nước biển. Khí hậu: một năm có 4 mùa rõ rệt. Riêng khu vực miền núi nơi có độ cao trên 1.000m vào mùa đông nhiệt độ ở đây có thể xuống 0ºC, có nơi có tuyết rơi (Mẫu Sơn – Lạng Sơn, Phanxipăng, Sa Pa). Sông ngòi: Có hệ thống sông Hồng lớn nhất, bồi lắng tạo nên đồng bằng sông Hồng lớn thứ 2 cả nước, là cái nôi hình thành văn minh Nông nghiệp trồng lúa nước, tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngoài ra, có hệ thống sông Thái Bình, bồi lắng các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình; hệ thống sông Mã (Thanh Hóa), sông Lam (Hà Tĩnh). Sông thường khô hạn vào mùa khô, lũ lụt vào mùa mưa bão, nên từ sâu trong tâm trí người Việt đã có sự tích Sơn Tinh – Thủy Tinh. Sông suối ở miển núi nhiều thác ghềnh thuận lợi làm thủy điện. Có các thủy điện như: thủy điện Hòa Bình trên sông Đà, thủy điện Sơn La ở thượng nguồn sông Đà, thủy điện Thác Bà trên sông Lô. Giao thông vận tải: Có sân bay quốc tế Nội Bài là trung tâm của vùng, ngoài ra còn có các sân bay Điện Biên, sân bay Vinh, sân bay Hải Phòng, sân bay quân sự Gia Lâm. Đường thủy có cảng Hải Phòng lớn nhất miền Bắc dùng để giao thương quốc tế. Ngoài ra trên các con sông lớn
  • 2. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam ghe thuyền có thể vận chuyển liên tỉnh, liên huyện trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đường sắt: Từ ga Hàng Cỏ (Hà Nội) có thể đi Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên, Hà Tĩnh vào Sài Gòn; nó được nối tiếp đến Bắc Kinh, Mátxcơva, và Châu Âu. Đường bộ có Quốc lộ 1A xuyên suốt từ Hà Tĩnh đến Lạng Sơn qua Hà Nội. Quốc lộ 5: Hà Nội đi Hải Phòng. Quốc lộ 18: Hà Nội đi Quảng Ninh. Quốc lộ 3: Hà Nội đi Thái Nguyên. Quốc lộ 2: Hà Nội đi Hà Giang. Quốc lộ 6: Hà Nội đi Hòa Bình, Sơn La,… Động thực vật: Có 2 hệ sinh thái tiêu biểu:Ở những vùng núi cao trên 1.000m, động thực vật mang yếu tố cận ôn đới với loài thông đặc thù, tiêu biểu là đỉnh Phanxipăng; Các vùng cao dưới 1.000m là rừng nhiệt đới tiêu biểu là vườn quốc gia Cúc Phương, Bến En, Cát Bà, Tam Đảo, khu bảo tồn thiên nhiên Ba Bể,… Tài nguyên du lịch: Có 3 loại Tài nguyên chính: Tài nguyên du lịch miền biển có: Vịnh Hạ Long, Đồ Sơn – Hải Phòng, Sầm Sơn – Thanh Hóa, Cửa Lò – Nghệ An. Vùng đồng bằng sông Hồng là cái nôi của lịch sử văn hóa Việt Nam nên nhiều đền đài, di tích, chùa chiền,… hàng ngàn năm tuổi mang đậm bản sắc Việt Nam. Bao gồm các lễ hội dân gian với các loại hình Nghệ thuật độc đáo như chèo, ả đào, ca trù, múa rối nước, hát xoan,… Khu vực miền núi với nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như: Thái, Mường, Dao, Nùng, Lô Lô, Sán Dìu, Xá Phó, Tày Mường, phù hợp loại hình du lịch văn hóa kết hợp chợ phiên. Ngoài ra do địa hình thắc trở nhiều thác ghềnh, phong cảnh đẹp, ruộng bậc thang nên phù hợp du lịch mạo hiểm khám phá. 2) LỊCH SỬ Cách đây 4.000 năm, người Việt cổ tách ra từ cộng đồng Bắc Việt (phía Nam sông Dương Tử – miền trung Trung Quốc) xuôi theo dòng sông Hồng về miền Phú Thọ lập nên 18 đời vua Hùng từ từ bỏ qua thời kỳ đồ đá, bước vào thời kỳ đồ sắt lập ra Nhà nước Văn Lang đóng đô ở Phong Châu. Đến thế kỷ IX trước Công nguyên, cư dân Văn Lang tiến về đồng bằng sông Hồng khai phá, bắt đầu trồng cây lúa nước, đóng đô ở Cổ Loa. Từ đó, nước ta bị đô hộ bởi phương Bắc. Nước Âu Lạc trở thành quận Giao Chỉ của Trung Quốc. Dân Giao Chỉ đứng lên đấu tranh theo Hai Bà Trưng ở Mê Linh. Đến thế kỷ thứ VI có khởi nghĩa Lý Bí. Và đến năm 1938 sau chiến thắng Bạch Đằng, nhà Đinh, nhà Lê đóng quân ở Ninh Bình. Năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời kinh đô về Thăng Long mở ra 8 đời vua nhà Lý. Năm 1070, xây dựng Chùa một cột, đây là Phật giáo cực thịnh ở thời Lý, Trần trong việc triều chính áp dụng mô hình của Khổng Giáo đến xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giáo. Đến thời Nhà Hồ có nhiều cải cách độc đáo (tiền giấy, cân, đo, xây thành, cải cách hành chính). Đến cuối đời Lê, trong triều xuất hiện hai thế lực chú Trịnh và chúa Nguyễn. năm 1558, Nguyễn Hoàng theo lời Nguyễn Bỉnh Khiêm vào Đàng Trong mở ra 9 đời chúa, 13 đời vua (ở Ải Thuận Hóa). Từ đó
  • 3. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam nổ ra cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài 200 năm. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi đóng đô ở Phú Xuân, ba miền Bắc – Trung – Nam trở về một khối. Năm 1832, vua Minh Mạng lập thành Hà Nội thay thế Thăng Long xưa. Năm 1883, sau hiệp ước Pa-trơ-nốt, miền Bắc trở thành xứ thuộc địa. Năm 1930, Đảng Cộng Sản được thành lập ở Hương Cảng đã về đến Hà Nội và khắp 3 miền. Phong trào đầu tiên chống Pháp là Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 – 1931. Từ năm 1936 – 1939 là thời kỳ hoạt động của Cách mạng Dân Chủ, Năm 1941, tại Pắc Pó – Cao Bằng, sau 30 năm Bác Hồ trở lại lãnh đạo cuộc kháng chiến. Năm 1944, hội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ra đời. Năm 1945, Cách mạng tháng 8 giành thắng lợi. 2-9-1945, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình. Năm 1946, Pháp quay lại đánh chiếm Hà Nội, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, bắt đầu cuộc kháng chiến 9 năm (Việt Bắc, Biên Giới, Điện Biên Phủ),… Sau khi chiến thắng trận Điện Biên Phủ, miền Bắc đứng lên xây dựng Xã hội Chủ Nghĩa và chi viện cho miền Nam. Năm 1965, Mỹ sau sự kiện Bắc Bộ bắt đầu ném bom Hà Nội. Cao điểm là năm 1972. Năm 1976, phiên họp đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất diễn ra tại Hà Nội, quyết định lập ra nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, chọn Hà Nội là thủ đô. Sau đó miền Bắc bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong thời bao cấp đã có sự sai lầm trong chính sách chế độ ruộng dất và tem phiếu. Năm 1986, bí thư Thành Uỷ thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh đã kiến nghị trước cuộc họp hội đồng đại biểu nhân dân và chính sách “mở cửa” ra đời. 3) NHÂN VĂN Do có lịch sữ 4.00 năm nên có rất nhiều danh nhân. Ở vùng còn giữ rất nhiều thuần phong mỹ tục của người Việt như: giọng nói, lễ cưới, lễ tang, cúng đình, nề nếp gia phong,… 4) CÁC VẤN ĐỀ KHÁC
  • 4. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Các chuyên đề về đồng bằng sông Hồng, Phố cổ Hà Nội, phố cũ Hà Nội. chuyên đề về ẩm thực: phở, chả cá, bánh tôm Tây Hồ, bánh cốm, bánh đậu xanh, vải thiều Lục Ngạn, nhãn Hưng Yên, nem Thanh Hóa, tương bần,… Các chuyên đề về lễ hội dan gian, về Đền Hùng, Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, chọi trâu, chùa Hương, rối nước, hát quan họ,… Chuyên đề về các làng nghề thủ công: gốm sứ Bát Tràng, Đông Triều, lụa Hà Đông (Vạn Phúc), tranh Đông Hồ, điêu khắc gỗ Hải Dương, làng đào Nhật Tân. II/ TUYẾN ĐIỂM CỤ THỂ 1. HÀ NỘI CITY TOUR SƠ ĐỒ TUYẾN HÀ NỘI CITY TOUR Hà Nội Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, thương mại và du lịch quan trọng của Việt Nam. Hà Nội là thủ đô lâu đời của Việt Nam và tính đến tháng 10 năm 2010 Hà Nội kỉ niệm 1000 năm. Hà Nội nằm ở bờ phải của con sông Hồng, cách thành phố Hồ Chí Minh 1760 km. Hà Nội nằm trong vùng châu thổ sông Hồng thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, giáp với 6 tỉnh: Thái Nguyên ở phía bắc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông và đông nam, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở phía nam và phía tây. Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Việt Nam sau ngày Bắc Nam thống nhất 2 tháng 7 năm 1976. Hà Nội còn có nhiều các tên gọi không chính thức khác, chủ yếu xuất hiện trong văn thơ và dân gian: Trường An hay Tràng An (lấy theo tên gọi của kinh đô của Trung Quốc thời kỳ nhà Hán và nhà Đường); Phượng Thành hay Phụng Thành (trong bài phú của Nguyễn Giản Thanh); Long Thành, Long Biên, Kẻ Chợ (trong dân gian); Thượng Kinh, Kinh Kỳ, Hà Thành, Hoàng Diệu, ngay sau Cách mạng tháng Tám – 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội. Vùng đất quanh Hà Nội hiện đại hiện nay được biết đến ít nhất 3000 TCN. Một trong những điều đầu tiên được biết đến là thành Cổ Loa được tìm thấy khoảng 200 TCN. Hệ thống giao thông Hà Nội rất đa dạng, bao gồm giao thông công cộng như xe buýt, taxi, giao thông cá nhân như xe máy (đa số), ô tô. Đặc biệt ở Hà Nội có loại hinh xích lô thường dùng để
  • 5. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam phục vụ du lịch. Ngoài ra Hà Nội cũng là đầu mối đường sắt và đường hàng không lớn nhất miền Bắc. Hà Nội có hệ thống sông ngòi khá lớn, đặc biệt có sông Hồng chảy giữa thành phố, thuận lợi cho việc vận tải bằng đường sông. Trong vài năm trở lại đây đã xuất hiện thêm cả loại hình du lịch bằng tàu trên sông Hồng. Hà Nội là một trong hai trung tâm văn hóa – giải trí lớn nhất của Việt Nam (cùng với Thành phố Hồ Chí Minh). Hà Nội từ xưa đã được coi là một trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam. Rất nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật lớn đã ra đời trên địa bàn thành phố, cũng như rất nhiều danh nhân văn hóa của Việt Nam đã có thời gian hoạt động ở Hà Nội. Nhiều môn nghệ thuật từ thời phong kiến vẫn còn tồn tại đến ngày nay trên địa bàn thủ đô như ca trù, múa rối nước, tạo nên nét độc đáo riêng cho văn hóa Hà Nội. Một điểm đặc biệt của văn hóa Hà Nội là đã có rất nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật được sáng tác với chủ đề về chính Hà Nội và con người Hà Nội. Tham quan và giải trí Đền Ngọc Sơn và Cầu Thê Húc, Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ trước là vườn bách thú, Vườn Bách Thảo, Công viên Tuổi Trẻ, Công viên nước Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Hồ Thiền Quang, Hồ Trúc Bạch, Phủ Chủ Tịch, Lăng Hồ Chí Minh, Thành cổ Hà Nội, Thành Cổ Loa, Thăng long tứ trấn, Phủ Tây Hồ, Văn miếu, Chùa Một Cột, Chùa Quán Sứ, Khu phố cổ Hà Nội . Ẩm thực Hà Nội Bánh cuốn Thanh Trì, Phở Hà Nội, chả cá Lã Vọng, bánh cốm, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm Hồ Tây, nem tai… Khách sạn Có nhiều khách sạn sang trọng ở Hà nội: đó là Sofitel Metropole, Hilton Hanoi Opera. Sofitel Metropole là khách sạn có từ thời kỳ là thuộc địa của Pháp. Khách sạn được bình chọn là khách sạn đẹp đứng thứ 2 ở châu Á bởi tạp chí du lịch Condé Nast nhờ vào vẻ đẹp cổ của nó (2007) Từ thành phố Hồ Chí Minh bay ra Hà Nội, chúng ta sẽ đáp xuống sân bay quốc tế Nội Bài. Sân Bay Quốc tế Nội Bài Sân bay quốc tế Nội Bài là cảng hàng không quốc tế ở miền Bắc. Sân bay này là cửa ngõ giao thông quan trọng không chỉ của thủ đô Hà Nội mà còn của cả miền Bắc. Đây là sân bay lớn thứ hai của Việt Nam hiện nay, sau sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Sân bay quốc tế Nội
  • 6. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Bài thuộc huyện Sóc Sơn, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 45 km về phía Tây Bắc. Tên giao dịch chính thức: Cảng hàng không quốc tế Nội Bài (tiếng Anh: Noi Bai International Airport). Sân bay này do Cụm cảng hàng không miền Bắc (NAA), một cơ quan của Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam, quản lý. Sân bay quốc tế Nội Bài, nguyên là một căn cứ không quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam, đã được cải tạo để phục vụ cả mục đích dân sự và quân sự. Cầu Thăng Long Cầu Thăng Long bắc qua sông Hồng tại vị trí km6+300 trên quốc lộ Nam Thăng Long, con đường nối sân bay quốc tế Nội Bài với Hà Nội, thủ đô của Việt Nam. Chiều dài: 3.500m. Cầu đường bộ và đường sắt đi chung, gồm 2 tầng. Cầu có 25 nhịp phần cầu chính và 46 nhịp cầu đường dẫn của đường sắt và đường xe thô sơ. Phường Nhật Tân cách trung tâm thủ đô Hà Nội 7Km về phía tây bắc, Phường nằm ven Hồ Tây, có đường Âu Cơ đi Chèm (Thụy Phương) và đường Lạc Long Quân, thuộc quân Tây Hồ thành phố Hà Nội. Phía đông giáp phường Tứ Liên, phía đông nam giáp phường Quảng An, phía tây nam giáp phường Xuân La, phía tây và tây bắc giáp phường Phú Thượng, đông bắc giáp với sông Hồng và bên bờ bắc là xã Tàm Xá huyện Đông Anh. Phường Nhật Tân trải dài hai bên bờ phía đông bắc và phía tây Hồ Tây. Bên bờ phía đông bắc Sông Hồng có thôn Bắc ở phía ngoài bãi và thôn Đông, bên bờ phía tây của Hồ Tây có thôn Tây và thôn Nam. Xã Nhật Tân trước năm 1945 có diện tích tự nhiên 341,2 Ha với khoảng trên 2000 nhân khẩu nhưng chỉ có 141,7 Ha đất canh tác. Phường Nhật Tân hiện nay với 365,2 Ha diện tích 341,2 Ha đất canh tác với trên 8000 người. Tương truyền nghề trồng đào có ở Nhật Tân từ xuân Kỷ Dậu năm 1789. Lúc đó vua Quang Trung sau khi đại thắng quân Thanh đã sai người đến Nhật Chiêu (Nhật Tân ngày nay) lấy một cành đào đưa hỏa tốc đến Phú Xuân tặng Ngọc Hân công chúa báo tin thắng trận. Làng đào từ đó phát triển dần và định hình ở đây. Đến đầu thế kỷ XX Nhật Tân bắt đầu trồng loại hoa đào mới, hoa đào bích. Kỹ thuật trồng hoa đào ở Nhật Tân đạt đến trình độ điêu luyện không nơi nào theo kịp. Sông Hồng Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149 km bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Việt Nam và đổ ra biển Đông. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km.
  • 7. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà hay sông Cái. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang , đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang. Đoạn từ Lào Cai đến Việt Trì gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chủ yếu nó chảy theo hướng tây bắc-đông nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái, Di, Cáp Nê, ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì) trước khi sang Việt Nam ở thị trấn Hà Khẩu (Trung Quốc), giáp giới với thành phố Lào Cai của Việt Nam, rồi chảy qua phía đông thủ đô Hà Nội trước khi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt (ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Nam Định). Ở Lào Cai sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái cách Lào Cai 145 km thì sông chỉ còn ở cao độ 55 m. Giữa hai thị trấn đó là 26 ghềnh thác, nước chảy xiết. Đến Việt Trì thì triền dốc sông không còn mấy nên lưu lượng chậm hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu con sông này. Các sông nhánh chính của sông Hồng có thể kể đến là sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông Chảy và sông Gâm). Sông Hồng có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Lại thuộc Hải Dương và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ), nối sông Hồng và sông Đáy là hai sông Phủ Lý và sông Nam Định. Ở Trung Quốc, các sông như sông Lý Tiên (tức sông Đà), sông Đăng Điều (tức sông Nậm Na), sông Bàn Long (tức sông Lô) và sông Phổ Mai (tức sông Nho Quế) cùng một số sông nhỏ khác như sông Mễ Phúc, sông Nam Khê chảy qua biên giới hai nước vào Việt Nam. Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét khối nước. Cầu Long Biên Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây dựng (1899- 1902) và đặt tên là cầu Doumer, đọc như Đu-me (tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer). Dân gian còn gọi là cầu sông Cái. Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ “1899 -1902 – Daydé & Pillé – Paris”. Chiều dài toàn cầu 1.862 m, gồm 19 nhịp dầm thép và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe là 2,6m và luồng đi bộ là 0,4m. Luồng giao thông của cầu theo hướng đi xuôi ở phía trái cầu chứ không phải ở bên phải như các cầu thông thường khác.
  • 8. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam của không lực Hoa Kỳ (1965-1972) cầu Long Biên bị ném bom 14 lần. Để bảo vệ cầu, bộ đội công binh và phòng không Việt Nam xây dựng hai trận địa pháo phòng không cao 11,5 m trên bãi cát nổi giữa sông Hồng (còn gọi là bãi giữa), để vẫn có thể bắn máy bay Hoa Kỳ khi có lũ cao nhất. Lịch sử sử dụng cầu Long Biên đã chứng kiến các điểm cao trên thành cầu trở thành ụ pháo cao xạ chống máy bay Mỹ trong thời gian chiến tranh. Sang thời bình, do giao thông ngày một tăng trong thập kỷ 90, cầu Long Biên được sử dụng chỉ cho tàu hỏa, xe đạp và người đi bộ. Việt Nam xây dựng thêm cầu Chương Dương nằm trong mục tiêu đáp ứng nhu cầu đi lại và để phát triển kinh tế, xã hội đô thị ở hai bờ sông Hồng Hà Nội. Cuối năm 2005 xe máy được phép đi qua cầu Long Biên để giảm việc ùn tắc giao thông cho cầu Chương Dương. Cầu Chương Dương Cầu Chương Dương bắc qua sông Hồng, trên quốc lộ 1A tại km170+200, địa phận Hà Nội. Đây là cây cầu lớn lần đầu tiên được thiết kế và thi công tại Việt Nam không cần có sự trợ giúp kỹ thuật của các kỹ sư nước ngoài. Tại cây cầu này các kỹ sư cầu đường của Việt Nam tự thử sức mình để có thể tự thiết kế và thi công các cây cầu lớn khác. Đây là cây cầu nối quận Hoàn Kiếm với quận Long Biên của Hà Nội. Cầu được xây năm 1983, đưa vào sử dụng năm 1986. Từ 2002 cầu được sửa chữa, gia cố. Cầu có chiều dài: 1.230m. Gồm 21 nhịp: 11 nhịp thép; 10 nhịp bê tông trong đó 7 nhịp ở phía Hà Nội và phía Gia Lâm có 3 nhịp. Chùa Trấn Quốc Chùa tọa lạc phía Nam hồ Tây, đường Thanh Niên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993) giới thiệu chùa nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý Nam Đế (541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa được tiếp tục trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1637 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1824, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.,Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
  • 9. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế (541-547) ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được dời vào vị trí ngày nay. Chùa có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn. Chùa là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Trấn Quốc nằm trên bán đảo phía đông của Hồ Tây, nên thuộc đất làng Yên Phụ, nơi có ngôi đình thờ thánh. Vào mùa xuân hằng năm dân làng tổ chức đám rước từ đình sang chùa rồi từ chùa về làng bằng cả một đoàn thuyền nối nhau cờ reo trống thúc tưng bừng. Hồ Tây Hồ Tây – hay còn có tên hồ Mù Sương (Dâm Đàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), Đầm Xác Cáo – là một hồ lớn nhất ở nội thành Hà Nội (với diện tích hơn 500 ha). Con đường đi vòng quanh hồ dài tới 17 km. Hồ nằm ở phía tây bắc Hà Nội. Có giả thuyết cho rằng hồ là một đoạn sông Hồng cũ còn sót lại sau khi sông đã đổi dòng. Theo truyện “Hồ Tinh” thì hồ có tên là hồ (hoặc đầm) Xác Cáo vì truyện kể là có con cáo chín đuôi ẩn nấp ở đây làm hại dân. Long Quân dâng nước lên phá hang cáo, cáo chết nôn ra nước thành hồ tây bây giờ. Theo truyện “Khổng Lồ đúc chuông” thì hồ lại có tên là Trâu Vàng. Truyện kể rằng ông Khổng Lồ có tài thu hết đồng đen của phương Bắc đem đúc thành chuông. Chuông đánh lên tiếng vang sang bên Bắc. Vì đồng đen là mẹ vàng nên con trâu vàng phương Bắc nghe tiếng chuông liền chạy đi tìm mẹ. Tới đây nó quần thảo mãi khiến chân bị chảy máu thành hồ tây Theo sách xưa ghi chép thì thế kỷ 11, hồ này mang tên hồ Dâm Đàm (đầm Mù Sương). Tới thế kỷ 18 thì đã gọi là Tây Hồ. Hồ Tây từ xa xưa đã là thắng cảnh nổi tiếng. Từ thời Lý-Trần, các vua chúa đã lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí như cung Thuý Hoa đời nhà Lý, tức điện Hàm Nguyên đời nhà Trần nay là khu chùa Trấn Quốc; cung Từ Hoa đời nhà Lý nay là khu chùa Kim Liên; điện Thuỵ Chương đời nhà Lê nay là khu Trường Chu Văn An. Đền Quán Thánh Nằm trên góc đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) và phố Quán Thánh (trông ra Hồ Tây), đền Quan Thánh là nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ – thần trấn cửa Bắc thành Thăng Long. Đền Quán Thánh còn gọi là Trấn Vũ Quán là nơi thờ thánh Trấn Vũ tại Hà Nội. Tên đền có khi bị gọi nhầm là Quan Thánh.
  • 10. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Cứ như ba chữ tạc trên nóc cổng ra vào thì đây là Trấn Vũ Quán. Thực ra cái tên Đền Quán Thánh này mới có từ năm 1980. Trước kia tên gọi chính là Trấn Vũ Quán, và dân chúng gọi nôm na là Đền Quán Thánh. Quán là Đạo Quán và là nơi thờ tự của Đạo Giáo, cũng như chùa là của Phật Giáo. Thánh Trấn Vũ là một hình tượng kết hợp nhân vật thần thoại Việt Nam (ông Thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma trong khi xây dựng thành Cổ Loa) và nhân vật thần thoại Trung Quốc (Thánh coi giữ phương Bắc). Tương truyền đền có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028). Nhưng diện mạo đã được tu sửa vào năm 1838. Kiến trúc đền thuộc loại đẹp. Các mảng chạm, khắc trên gỗ có giá trị nghệ thuật rất cao. Bố cục không gian rất thoáng và hài hòa. Hồ Tây trước mặt tạo cho đền luôn có không khí mát mẻ quanh năm. Trong đền có bức tượng Trấn Vũ đúc bằng đồng đen năm 1667, cao 3,69 m, nặng khoảng 4 tấn. Tượng có hình dáng một người ngồi, y phục gọn gàng nhưng tóc lại bỏ xõa, chân không mang giày, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm thần có rắn quấn quanh và chống lên lưng rùa. Đó là một Đạo sĩ. Tượng Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo duy nhất tại Việt Nam, khẳng định nghệ thuật đúc đồng và tạc tượng của người Hà Nội cách đây ba thế kỷ. Khu Phố Cổ Hà Nội Khu Phố cổ Hoàn Kiếm là nơi hội tụ 36 phố phường có bề dày gần một ngàn năm lịch sử của một khu đô thị buôn bán sầm uất. Khu phố mang đậm trong mình những dấu vết lịch sử. Các phố mang tên các mặt hàng được sản xuất hoặc bày bán ở đó: phố Hàng Bông, phố Hàng Gai, phố Lò Rèn, phố Hàng Đường, … Mạng lưới đô thị phản ánh cơ cấu tổ chức thành thị cổ xưa gồm 36 phường nghề . Cơ cấu này về mặt không gian và xã hội là hiện thân của một di sản phi vật chất đặc biệt, duy trì các nghề cổ và giới thiệu nhiều hoạt động mang tính chất truyền thống tại các khu phố. Không những vậy, vẫn còn một di sản giàu kiến trúc đang tồn tại. Nhiều ngôi nhà cổ như những ngôi nhà ở có nhiều giá trị, đình, đền thờ và nhiều ngôi chùa đã minh chứng cho điều đó. Kiến trúc của khu phố cổ được thể hiện đặc biệt qua 3 phong cách: cách xây dựng theo kiểu truyền thống của Việt Nam hoặc Trung Quốc, kiến trúc thuộc địa kiểu Pháp và phong cách nghệ thuật trang trí. Ngày nay, khu Phố cổ đang tận dụng cơ hội phát triển kinh tế và đón nhận một lượng khách du lịch rất lớn : các quán cà-phê, nhà hàng, cửa hàng bán đồ lưu niệm thủ công và các khách sạn nhỏ đã lần lượt ra đời. Một số nghề như nghề thủ công lụa tơ tằm và buôn bán kim hoàn đã có những bước phát triển vượt bậc.
  • 11. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Để bảo tồn di sản của khu phố cổ, Bộ xây dựng Việt Nam ngay từ năm 1995 đã ra quyết định về nguyên tắc bảo tồn và trùng tu khu Phố cổ. Bộ văn hoá và thông tin Việt Nam đã xếp hạng Khu phố cổ danh hiệu Di sản lịch sử của quốc gia ngày 5 tháng 4 năm 2004. Rối Nước Thăng Long Trong nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền ở nước ta, múa rối nước là một trong những môn nghệ thuật được mời biểu diễn ở nhiều nước trên thế giới, được khán giả các nước hoan nghênh nhiệt liệt. Báo chí nước ngoài đã có nhiều bài viết về môn nghệ thuật độc đáo này với nhận định “Múa rối nước đã trả cho nhân loại một di sản văn hoá vinh quang mà trước đây nó bị nằm trong quên lãng”. Hiện nay, múa rối nước Việt Nam đang được đề nghị công nhận là di sản văn hoá của nhân loại. Theo sử liệu cũ, múa rối nước ở nước ta có từ lâu đời. Nghệ thuật múa rối nước là sản phẩm đặc sắc của vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam với nền văn minh lúa nước. Mỗi phường múa rối nước đều có những đặc điểm, thế mạnh riêng, nhưng nhìn chung, các tích trò đều gắn với truyền thuyết lâu đời từ thời dựng nước, phản ánh sinh hoạt và lao động của người nông dân trên đồng ruộng với bao lo toan vất vả trước thiên tai, địch hoạ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời. Múa rối nước cũng như các loại hình nghệ thuật dân gian khác không phải tất cả đều sinh ra từ Thăng Long – Hà Nội, nhưng khi được trình diến ở đất Kinh kỳ – nơi hội tụ, kết tinh, toả sáng và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc – bộ môn nghệ thuật đó dần được nâng cao cả về nội dung và hình thức. Chất bác học hoà quyện với chất dân gian làm cho nghệ thuật Thăng Long – Hà Nội có nhựa sống dồi dào, khắc phục những thô sơ, thô thiển của buổi sơ khai để vươn tới hoàn thiện. Hồ Gươm Hồ Gươm với Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn… đi vào lòng người xa xứ, vào trái tim du khách, in đậm trong tim những người chưa một lần đến thủ đô như một biểu tượng đẹp nhất. Hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm là một hồ nước ngọt nằm giữa thủ đô Hà Nội. Tên hồ cũng được đặt cho một quận của Hà Nội, quận Hoàn Kiếm. Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu 10 năm của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Trên hồ có hai hòn đảo: Đảo Ngọc và Đảo Rùa
  • 12. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Hồ Hoàn Kiếm được du khách cho là một thắng cảnh của Hà Nội. Quanh hồ trồng nhiều loại hoa và cây cảnh. Giữa hồ có tháp Rùa, cạnh hồ có đền Ngọc Sơn. Xung quanh hồ còn có những di tích lịch sử khác như tượng vua Lê Thái Tổ, cầu Thê Húc, tháp Bút, đền Bà Kiệu,… bên cạnh những công trình kiến trúc hiện đại. Toà nhà Bưu điện với tháp đồng hồ cổ kính in bóng hồ Gươm đã đi vào lòng nhiều người dân Hà Nội. Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Đền Ngọc Sơn Trên đất kinh kỳ Thǎng Long – Đông Đô – Hà Nội, nghìn nǎm vǎn hiến thì sự dung hợp về tôn giáo được thể hiện khá rõ nét tại đền Ngọc Sơn. Cùng với Hồ Gươm và Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn đã tạo nên một quần thể hoàn chỉnh, đẹp đẽ. Quần thể này đã trở thành một trong những biểu tượng đặc trưng nhất cho Hà Nội ngày nay. Sự hỗn dung của Đạo giáo, Đạo Phật, Đạo Nho (hay còn gọi: Tam giáo đồng nguyên), không chỉ ở hiện trạng bây giờ, mà nó còn được thể hiện trong lịch sử xây dựng đền Ngọc Sơn. Trước hết là sự thể hiện tinh thần Nho giáo một cách sâu sắc ở Tháp Bút và Đài Nghiên. Cạnh đó, Đài Nghiên được đặt trên cửa cuốn. Đài Nghiên được tạc bằng đá hình nửa quả đào có ba con ếch đội. Tháp Bút, Đài Nghiên biểu trưng cho quan điểm trọng vǎn chương, anh tài của Nho giáo. Qua cửa cuốn là cầu Thê Húc dẫn đến Đắc Nguyệt Lầu (lầu được trǎng). Cả cầu Thê Húc lẫn Đắc Nguyệt Lầu mang đậm mầu sắc Đạo giáo. Khu vực chính của đền Ngọc Sơn có ba phần: phía trước là Trấn Ba Đình (đình chắn sóng); giữa là điện thờ chính, sau cùng là Hậu Cung. Điện thờ chính là nơi thờ Vǎn Xương Đế Quân cùng chư vị Thần Tiên, ở đây mầu sắc Đạo giáo rõ rệt. Phần Hậu Cung là nơi thờ trần Hưng Đạo. Tuy nhiên, tượng Đức Thánh Trần với bàn thờ ở giữa, còn một bên là bàn thờ Phật với tượng Quan Âm Bồ Tát và Thiện Tài Đồng Tử, bên kia là bàn thờ Thần linh, sơn Thần, Thổ địa. Bức tường trước Hậu Cung thì lại có sự dung hòa giữa Đạo giáo và Nho giáo, giữa hai chữ Trung – Nghĩa là hình Bát quái. Đền Ngọc Sơn vẫn đứng đó, Tháp Bút vẫn đang viết lên trời xanh, tất cả không chỉ là một quần thể đẹp đẽ giữa lòng Hà Nội, đó còn là thế giới tâm linh, khẩu khí của con người Việt Nam xưa và nay. Quảng Trường Ba Đình Hà Nội là trái tim của nước Việt Nam, Quảng trường Ba Đình là trái tim của Hà Nội. Tại đây đã diễn ra những sự kiện trọng đại của thủ đô và cả nước. Ngày trước, đây vốn là khu vực cửa tây của thành Hà Nội cổ. Thực dân Pháp phá thành làm một vườn hoa nhỏ gọi là điểm tròn Puy-gi-
  • 13. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam ni-nơ. Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 -1886 đến tháng 1- 1887. Quảng trường là nơi chứng kiến hàng trăm nghìn người về dự lễ Độc lập ngày 2-9-1945. Ngày 9- 9-1969, sáu ngày sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, tại Quảng trường này, đồng bào thủ đô và các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới đây dự lễ truy điệu trọng thể vị Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất. Ngày nay, mặt chính của quảng trường là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước lăng là khoảng không gian rộng lớn với 320m chiều dài và 100m chiều rộng, đủ chỗ cho 200 nghìn người dự mít tinh. Quảng trường có 168 ô cỏ bốn mùa xanh tươi. Chính giữa là cột cờ. Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian thiêng liêng của thủ đô Hà Nội. Lăng Hồ Chí Minh Lăng Hồ Chí Minh, hay Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn. Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: “Chủ tịch Hồ-Chí- Minh” bằng đá hồng màu mận chín. Lăng được xây theo kiểu kiến trúc hiện thực xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên bản của Lăng Lenin. Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh qua đời. Nghĩ tới lúc thống nhất đồng bào còn được thấy ông, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức khởi công xây lăng vào 2 tháng 9 năm 1973. Bên phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chí Minh. Tại đây có Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn Hồ Chí Minh. Lăng Hồ Chí Minh thường có nhiều đoàn khách ở các tỉnh thành phố và nước ngoài đến thăm viếng. Lăng Hồ Chí Minh hoạt động 5 ngày một tuần (trừ thứ hai và thứ sáu), mỗi năm có hai lần đóng cửa vào tháng 11 hoặc tháng 12 để trùng tu và bảo quản thi hài. Văn Miếu-Quốc Tử Giám
  • 14. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý. Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi. Văn Miếu được xây dựng từ “tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.”. Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử).Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử. Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau. Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Chùa Một Cột Tên thường gọi là chùa Một Cột, nằm trong quần thể chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ). Chùa nằm trên đất thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây hoàng thành Thǎng Long thời Lý, nay thuộc phố chùa Một Cột, quận Ba Đình – Hà Nội, ở bên phải Lǎng Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Theo Đại Việt ký sự toàn thư, chùa được xây dựng vào nǎm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo 1 (1409) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có người cho là
  • 15. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam điềm không lành. Sư Thiên Tuế khuyên nhà vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm toà sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng. Chùa xây xong, đài sen nghìn cánh đỡ toà Phật sắc hồng, trong đặt tượng Phật vàng lấp lánh. Các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật cầu phúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu. Theo vǎn bia dựng nǎm Cảnh Trị 3 do hoà thượng Lê Tất Đạt ghi, chùa được dựng từ thời thuộc Đường: “Nǎm đầu niên hiệu Hàm Thông thời Đường…, dựng một cột đá ở giữa hồ, trên cột xây một toà lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ cúng. Khí đất chung đúc anh linh, cầu gì được nấy. Đến khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, cũng noi theo dấu cũ, nên càng linh thiêng. Khi Lý Thánh Tông chưa có Hoàng tử, thường đến đó cầu nguyện. Một đêm nằm mộng thấy Phật Quan Âm mời lên lầu ngồi, ôm một đứa bé đặt vào lòng vua. Tháng đó Hoàng hậu có mang hoàng tử. Vua bèn sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa Một Cột để mở rộng việc thờ cúng…” Đời Lý Nhân Tông, nǎm Anh Vũ Chiêu Thánh 5 (1080) vua cho đúc chuông lớn để treo ở chùa gọi là “Giác Thế chung” (chuông thức tỉnh người đời) và một toà phương đình bằng đá xanh cao 8 trượng, nhưng vì chuông quá nặng không sao treo lên được, phải để dưới đất nên đánh không kêu. Chỗ ruộng để chuông thấp, có nhiều rùa đến ở, được gọi là ruộng Quy Điền và quả chuông cũng được gọi là chuông Quy Điền. Khi quân Minh bị bao vây ở Đông Quan, hết quân khí, Vương Thông đã cho phá quả chuông này để đúc súng đạn. Quy mô chùa Một Cột vào thế kỷ 12 to lớn lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều. Vǎn bia Tháp sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi (Nam Hà) dựng nǎm 1121, mười sáu nǎm sau khi chùa mới hoàn thành, cung cấp cho ta hình ảnh chân thực nhất về một ngôi chùa Một Cột thời Lý Toà đài sen (Liên Hoa Đài), ta quen gọi là chùa Một Cột có hình vuông mỗi chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất) có đường kính là 1,2m. Trụ đá gồm 2 khối, gắn rất khéo, thoạt nhìn như một khối đá liền. Sự độc đáo của kiến trúc chùa Một Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá. Chùa Một cột đã được Bộ Vǎn hoá xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật ngày 28-4- 1962. Nhà Sàn Bác Hồ Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5- 1958 cho tới khi Người qua đời.
  • 16. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm. Nhân dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng trường Ba Đình lịch sử. Sau nhà là vườn quả với hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng. Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước ngoài như ngân hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê… Khu Di Tích Phủ Chủ Tịch Phủ Chủ tịch là toà nhà bốn tầng nhìn ra đường Hùng Vương, được xây dựng năm 1901. Thời Pháp thuộc, đây là nơi ở và làm việc của Toàn quyền Pháp ở Đông Dương (có tên là Phủ Toàn quyền). Hiện nay, địa điểm này là nơi các vị đứng đầu Nhà nước ta tiếp đón các đoàn khách quan trọng nước ngoài và là nơi để các đại sứ các nước đến trình quốc thư. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì nhiều cuộc họp Hội đồng Chính phủ… Hà Đông Hà Đông là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tây, nằm bên bờ sông Nhuệ, cửa ngõ phía Tây, cách trung tâm Hà Nội 11 km, là nơi tập trung các cơ quan hành chính và trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao của tỉnh Hà Tây. Hà Đông nằm dọc theo Quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hòa Bình và trên ngã ba sông Nhuệ, sông La Khê. Phía bắc giáp huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội; phía đông giáp huyện Thanh Trì, Hà Nội; phía đông bắc giáp một chút quận Thanh Xuân, Hà Nội; phía tây giáp các huyện Quốc Oai, Hoài Đức; phía tây nam giáp huyện Chương Mỹ; phía nam giáp các huyện Thanh Oai, Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Thị xã Hà Đông có diện tích tự nhiên 47,9 km² và 173.707 nhân khẩu.(2006) Năm 1904, đổi tên là thị xã Hà Đông, tỉnh lỵ tỉnh Hà Đông. Từ năm 1965 là tỉnh lỵ tỉnh Hà Tây. Từ năm 1975 đến năm 1991 là tỉnh lỵ tỉnh Hà Sơn Bình. Sau khi chia tách tỉnh Hà Sơn Bình, trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Hà Tây như cũ. 2. TUYẾN ĐIỂM HÀ NỘI- HẢI PHÒNG- HẠ LONG SƠ ĐỒ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH HÀ NỘI- HẢI PHÒNG- HẠ LONG
  • 17. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Đi theo quốc lộ 5 chúng ta sẽ đến quận Gia Lâm. Gia Lâm Diện tích 172,9 km². Dân số 340.200 người (1999). Diện tích 108,4466 km². Dân số 190.194 người (2003), sau khi tách một phần đất lập quận Long Biên. Có sông Hồng, sông Đuống và kênh Gia Thượng chảy qua. Dưới thời phong kiến, huyện Gia Lâm có nhiều nhà khoa bảng lừng danh mà tên tuổi của họ được nhiều người trong cả nước biết tới. Chẳng hạn như: Hà Giáp Hải (làng Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm), Cao Bá Quát (xã Phú Thị, huyện Gia Lâm)… Huyện Gia Lâm cũng là quê hương của Chử Đồng Tử, Thánh Gióng – hai nhân vật trong Tứ bất tử của Phật giáo Việt Nam. Chử Đồng Tử là người xã Văn Đức, huyện Gia Lâm ngày nay, Thánh Gióng người xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm; Nguyên phi Ỷ Lan hay còn gọi là Bà Tấm (người xã Dương Xá, huyện Gia Lâm). Nơi đây là phát hiện nhiều di tích khảo cổ quan trọng. Một số làng nghề tại huyện Gia Lâm: Bát Tràng (sản xuất gốm sứ), Kiêu Kỵ (dát bạc, sơn son thếp vàng), Ninh Hiệp (trồng và kinh doanh thuốc Bắc)… Tại quận Gia Lâm. Phía bên phải của quốc lộ là sân bay Gia Lâm. Sân Bay Gia Lâm Theo tin từ Bộ Giao Thông Vận Tải, dự án quy hoạch sân bay Gia Lâm vừa được phê duyệt đầu tư thành một cảng hàng không nội địa dành cho các chặng bay ngắn. Theo đó, đến năm 2015, cảng hàng không Gia Lâm sẽ có nhà ga với công suất có thể tiếp nhận 162.000 khách/năm và sân đỗ của cảng hàng không Gia Lâm có thể đón 3 máy bay ATR72. Đến năm 2015, sân đỗ của cảng hàng không Gia Lâm có thể đón 3 máy bay ATR72 hoặc Fokker. Và đến năm 2025, sẽ đón gần 300 nghìn khách/năm và diện tích sân đỗ đủ chỗ cho 5 chiếc ATR72 và Fokker. Toàn bộ diện tích sân bay này hiện rộng khoảng 302,61 ha. Trong đó, diện tích đất dành cho quân sự là 144,44 ha, dân sự khoảng 80 ha; và diện tích dùng chung cả quân sự, dân sự là 66,4 ha.
  • 18. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Sân bay Gia Lâm là sân bay nhỏ, nằm cách trung tâm Hà Nội 8km, vốn là sân bay chính của Hà Nội trước năm 1970. Hiện nay, sân bay Gia Lâm dành cho hoạt động bay huấn luyện và bay taxi phục vụ các tour du lịch bằng máy bay trực thăng. Tại các sân bay này, hành khách sẽ không được cung cấp các dịch vụ như đối với hàng không truyền thống, đặc biệt là không có xe ca đưa đón đến tận cầu thang máy bay… Giáp với quận Gia Lâm là tỉnh Hưng Yên. Hưng Yên Hưng Yên là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thị xã Hưng Yên nằm cách thủ đô Hà Nội 64 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Dương 50 km về phía tây nam. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía đông giáp tỉnh Hải Dương, phía tây giáp tỉnh Hà Tây, phía tây bắc giáp thủ đô Hà Nội, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây nam giáp tỉnh Hà Nam. Tuy là tỉnh “mới” chỉ non 200 năm, vùng đất Hưng Yên đã nổi danh từ thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh trước đó với Phố Hiến, vốn là thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài. Thuyền bè ngược sông Hồng lên Thăng Long “Kẻ Chợ” đều phải dừng ở Phố Hiến đợi giấy phép nên Phố Hiến trở thành tụ điểm sầm uất. Người Tàu, người Nhật và người Tây phương đều đến đấy buôn bán. Do vậy dân gian đã có câu: “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”. Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, là tỉnh đồng bằng không có rừng, núi và biển. Diện tích: 923,09 km² Dân số 1.116.000 người Đường sắt: tuyến đường sắt Hà Nội-Hải Phòng chạy qua địa phận Hưng Yên 17 km, từ Như Quỳnh tới Lương Tài. Đường thủy: Sông Hồng là ranh giới của Hưng Yên với các tỉnh, thành phía tây, dài 57 km. Sông Luộc là ranh giới với tỉnh Thái Bình dài 25 km. Sông Luộc và sông Hồng giao nhau tại địa phận thị xã Hưng Yên. Ngoài ra còn các sông nhỏ khác như: sông Sặt, sông Chanh, sông Cửu Yên, sông Tam Đô, sông Điện Biên v.v. Hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp tỉnh này. Hưng Yên có các di tích lịch sử sau:
  • 19. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Quần thể di tích Phố Hiến: (đền Thiên Hậu, Đông Đô Quảng Hội, Võ Miếu, chùa Nễ Châu, đền Mây, Văn Miếu, Phố Hiến xưa, hội ả đào…) Hồ bán nguyệt Di tích Chử Đồng Tử – Tiên Dung: (đền Đa Hòa, đền Dạ Trạch, các di tích liên quan đến Triệu Việt Vương) Nhà tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông. Cụm di tích Phù Ủng (Ân Thi) liên quan đến danh tướng Phạm Ngũ Lão, di tích Tống Trân – Cúc Hoa (Phù Cừ) ở tỉnh Hưng Yên có một làng nghề làm tương rất nổi tiếng đó chính là làng nghề Tương Bần. làng nghề này nằm bên trái quốc lộ 5. Làng Nghề Tương Bần Đi từ Hà Nội theo quốc lộ 5 khoảng 25 km là đến thị trấn Bần Yên nhân (trước đây là một thôn của xã Văn Phú) huyện Mỹ Hào, ở đó có nghề làm tương Bần. Nước ta có nhiều địa phương làm tương ngon và nổi tiếng nhưng Tương Bần vẫn là thứ đặc sản mà người Hà Nội sành ăn xếp vào những món ăn đặc biệt của thủ đô xưa, đó là : Dưa La, húng Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét. Nguồn nguyên liệu để làm tương là gạo, ngô, đỗ tương,… rất dồi dào và có sẵn, công nghệ làm tương khá đơn giản song nhờ bí quyết độc đáo mà tương Bần có hương vị thơm ngon độc đáo hơn hẳn các nơi khác. Nhãn lồng Hưng Yên là một đặc sản nổi tiếng trong và ngoài nước. Đi hết tỉnh Hưng Yên, các bạn sẽ đến với tỉnh Hải Dương. Hải Dương Hải Dương là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương nằm cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía tây. Phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp thành phố Hải Phòng, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây giáp tỉnh Hưng Yên. Diện tích: 1.662 km² Năm 2003 Hải Dương có 1.689.200 người.
  • 20. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Hải Dương là một địa danh gắn liền với nhiều tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam như danh nhân quân sự thế giới Trần Hưng Đạo (Đức thánh Trần- Hưng Đạo Đại Vương), danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, danh sư Chu Văn An, danh y Tuệ Tĩnh. Hiện nay trong địa bàn tỉnh Hải Dương còn nhiều di tích lịch sử-văn hóa như: đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Trần, chùa Côn Sơn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đền Cao, văn miếu Mao Điền, di tích gốm sứ Chu Đậu-Mỹ Xá. Mỹ Xá cũng là nơi mà Việt Nam Quốc dân đảng đã họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Thái Học để phát động phong trào khởi nghĩa Yên Bái chống lại thực dân Pháp tháng 2 năm 1930. Hải Dương nổi tiếng với đặc sản bánh đậu xanh, bánh gai và vải thiều. Gần đầu tỉnh có cơ sở sản xuất bánh đậu xanh, cơ sở này nằm bên trái của quốc lộ. Bánh Đậu Xanh Hải Dương Trong số đặc sản của tỉnh Đông xưa phải kể đến bánh đậu xanh của thành phố Hải Dương. Nguyên liệu để chế biến nên loại bánh này không phải khai thác từ đâu xa mà lấy ngay từ hoa màu của đồng nội, hương vị của vườn quê. Thành phần của bánh cũng đơn giản : Đậu xanh, đường kết tinh, mỡ lợn, tinh dầu của hoa bưởi. Những nguyên liệu này đều phải chọn lọc chế biến tinh khiết. Bốn nguyên liệu trên pha trộn với nhau theo một tỉ lệ hợp lý, vượt tỉ lệ đó bánh sẽ kém chất lượng. Bánh đậu xanh Hải Dương ra đời tại thị xã Hải Dương vào đầu thế kỷ 20, nổi tiếng có hiệu Bảo Hiên, Cự Hương, Mai Phương. Mai Hoa…. Bánh đậu xanh Hải Dương nhãn hiệu rồng vàng đã có mặt ở hầu hết các tỉnh Bắc kỳ bốn lần tham gia hội chợ đều được giải. Hiện nay trên địa bàn thành phố Hải Dương có trên 50 nhà hàng bánh đậu xanh, trong đó có những nhà hàng nổi tiếng như : Bảo Hiên, Nguyên Hương, Bảo Long, Bá Tiến, Hoà An, Minh Ngọc, Quê Hương… Tỉnh Hải Dương có thành phố cùng tên là thành phố Hải Dương. Đi qua cơ sở sản xuất bánh đậu xanh một đoạn, bên tay phải có 1 con đường đi vào thành phố Hải Dương. Thành Phố Hải Dương Phía bắc và phía đông giáp huyện Nam Sách – được chia tách bằng sông Thái Bình (“sông Cái” theo cách gọi của một số người dân địa phương), phía tây giáp huyện Cẩm Giàng, phía nam giáp huyện Gia Lộc, phía đông nam giáp hai huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ. Ở phía nam có sông Sặt, chi lưu sông Thái Bình, chảy qua. Diện tích 36.253 ha, dân số 138.265 người.
  • 21. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Được thành lập năm 1804 dưới tên gọi Thành Đông. Thời thuộc Pháp là một thị xã. Trước năm 1968, là tỉnh lị tỉnh Hải Dương; từ 1968 tới năm 1996 là tỉnh lị tỉnh Hải Hưng. Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, trở lại tỉnh lị tỉnh Hải Dương. Ngày 6 tháng 8 năm 1997, thành lập thành phố Hải Dương. Vẫn đi trên quốc lộ 5, đến ngã 3 Tiền Trung có quốc lộ 18 đi thị trấn Sao Đỏ. Sao Đỏ Sao Đỏ là tên một thị trấn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thị trấn Sao Đỏ được thành lập năm 1978. Sao Đỏ cách thủ đô Hà Nội 66 km về phía Đông bắc, nằm ở ngã ba giữa đường 18 và đường 183, gần tả ngạn sông Thái Bình. Sao Đỏ cách Đông Triều: 19 Km; Thành phố Hải Dương: 22 Km. Sao Đỏ cách Côn Sơn (Di tích lịch sử cấp quốc gia): 5 Km; Đền Kiếp Bạc: 10 Km; Đền Cao: 5 Km.Đền Chu Văn An 4Km(Di tích quốc gia) Thị trấn Sao Đỏ có địa hình bán sơn địa: Một bên giáp núi, một bên tiếp giáp với đồng bằng. Nằm trong tam giác kinh tế lớn: Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh ,và là trung tâm tam giác Tp Hải Dương-Bắc Ninh-Bắc Giang nên Sao Đỏ có nhiều thuận lợi về mặt phát triển kinh tế. Sao Đỏ có tiềm năng phát triển về kinh tế thương mại, du lịch và dịch vụ,đặc biệt là công nghệ cao. Một số địa điểm giải trí: Du lịch: Đền Côn Sơn, Đền Kiếp Bạc,Đền Chu Văn AN, Đền Cao Sân Gold Chí Linh (nằm nội bộ trong thị trấn) Cách thị trấn Sao Đỏ 5 km là khu di tích đền Côn Sơn Côn Sơn Khu di tích danh thắng Côn Sơn thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, cách Hà Nội khoảng 70km. Khu di tích này gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân trong lịch sử; là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm vào thời Trần.
  • 22. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Khu di tích nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng – Kỳ Lân. Khu di tích, danh thắng này gồm có núi non, chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân trong lịch sử. Ngay từ thời Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn – Yên Tử – Quỳnh Lâm). Mảnh đất này đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Ðán, Huyền Quang và đặc biệt là anh hùng dân tộc – danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Côn Sơn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và đọc bia về Nguyễn Trãi. Ngày nay, Côn Sơn còn lưu giữ được những dấu tích văn hoá thời Trần và các giai đoạn lịch sử kế tiếp. Tiêu biểu là: Chùa Côn Sơn, Giếng Ngọc, Bàn Cờ Tiên , Thạch Bàn. Đi hết tỉnh Hải Dương chúng ta sẽ tới tỉnh Quảng Ninh. Quảng Ninh Quảng Ninh được thành lập năm 1963 với nền tảng là khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh. Tên tỉnh là ghép tên của hai tỉnh Quảng Yên và Hải Ninh cũ. Diện tích của toàn tỉnh Quảng Ninh là 8.239,243 km. Vùng biển của Quảng Ninh có hơn 2000 đảo lớn nhỏ, trong đó có 1.030 đảo có tên, còn lại hơn một nghìn hòn đảo chưa có tên, chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/2779). Tổng diện tích các đảo là 619,913 km². Phía tây Quảng Ninh giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và tỉnh Hải Phòng, phía bắc giáp Sùng Tả và Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc với cửa khẩu Móng Cái và Trinh Tường. Về phía biển ngoài có các đảo như đảo Trần và quần đảo Cô Tô (thuộc huyện Cô Tô). Vùng nội thuỷ từ bắc xuống nam có những đảo chính như đảo Đầu Tán, đảo Vĩnh Thực, đảo Miễu, đảo Cái Chiên, đảo Thoi Xanh, đảo Vạn Vược, đảo Thoi Đây, đảo Sậu Nam, đảo Cái Bầu, đảo Trà Ngọ, đảo Cao Lô, đảo Trà Bàn, đảo Chén, đảo Thẻ Vàng, đảo Cảnh Cước, đảo Vạn Cảnh, đảo Cống Tây, đảo Phượng Hoàng, đảo Nấc Đất, đảo Thượng Mai và đảo Hạ Mai cùng vô số những đảo nhỏ trong vịnh Bái Tử Long và Hạ Long. Cực đông của tỉnh, cũng là điểm đầu tiên của hình chữ S của nước Việt Nam, là mũi Sa Vĩ, thuộc phường Trà Cổ, thị xã Móng Cái. Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mỹ và địa chất, địa mạo. Quảng Ninh có 3 Khu kinh tế Vân Đồn, hai Trung tâm thương mại Hạ Long, Móng Cái là đầu mối giao thương giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc và các nước trong khu vực.
  • 23. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Quảng Ninh là tỉnh nằm trọn vẹn trong chương trình “hai hành lang, một vành đai kinh tế” giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tỉnh có nhiều tuyến đường cao tốc trọng điểm đang được xây dựng bên cạnh những cảng biển lớn. Về trữ lượng than trên toàn Việt Nam thì riêng Quảng Ninh đã chiếm tới 90%. Quảng Ninh là một địa danh giàu tiềm năng du lịch, là một đỉnh của tam giác tăng trưởng du lịch miền Bắc Việt Nam, Quảng Ninh có danh thắng nổi tiếng là vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và di sản thế giới bởi giá trị địa chất địa mạo. Tiềm năng du lịch Quảng Ninh nổi bật nên với: Các bãi tắm bãi tắm đẹp như Bãi Cháy, đảo Tuần Châu đã được cải tạo, nâng cấp với nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đa dạng các nhu cầu của khách. Cả tỉnh có gần 500 di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… gắn với nhiều lễ hội truyền thống, trong đó có những di tích nổi tiếng của Quốc gia như chùa Yên Tử, đền Cửa Ông, di tích lịch sử Bạch Đằng, chùa Long Tiên, đình Quan Lạn. đây là những điểm thu hút khách thập phương đến với các loại hình du lịch văn hoá, tôn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội. Quảng Ninh nổi bật với các món ăn được chế biến từ các loài hải sản của biển Quảng Ninh, trong đó có những đặc sản giá trị như hải sâm, bào ngư, tôm, cua, sò, ngán, hầu hà, sá sùng, rau câu Đến với tỉnh Quảng Ninh chúng ta sẽ đến thị xã Uông Bí Uông Bí Uông Bí là một thị xã nằm ở miền tây của tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội 120km. Nằm dưới chân dãy núi Yên Tử và giáp sông Đá Bạc. Ngày 28 tháng 10, 1961, Chính Phủ ra Nghị định 181/CP thành lập thị xã Uông Bí trực thuộc Khu Hồng Quảng. Uông Bí nổi tiếng với nền công nghiệp khai thác than. Mỏ than Vành Danh, Bạch Thái Bưởi được khai thác từ thời thuộc địa.Những năm gần đây thêm nhiều mỏ và công ty than được thành lập tại khu vực Uông Bí và nằm trong công ty than Uông Bí như Công ty than Hồng Thái, Công ty than Nam Mẫu,Đồng Vông… Quốc lộ 18A và đường sắt Yên Viên-Hạ Long chạy ngang qua Uông Bí. Quốc lộ 10 từ Hải Phòng sang Quảng Ninh gặp quốc lộ 18A tại ngã ba Cầu Sến. Giao thông thuỷ nối Hải Phòng với Hạ Long. Uông Bí có hơn 10 vạn người, hơn 90% là người Kinh. Người Dao Tập trung ở xã Thượng Yên Công. Các dân tộc Tày, Sán Dìu, Hoa ở rải rác trong vùng núi phía bắc.
  • 24. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam ở đây có các thắng cảnh như: Hang Son, Động Bảo Phúc, Núi Yên Tử, Khu di , tích Yên Tử, Hồ Yên Trung, Lựng Xanh. Từ thị xã Uông Bí, có đường dẫn vào núi Yên Tử Núi Yên Tử Núi Yên Tử cao 1.068 m là ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng đông bắc Việt Nam. Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh “đất tổ Phật Giáo Việt Nam”. Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn.Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi… Hành trình lên Yên Tử hôm nay sẽ không vất vả như xưa nữa vì hệ thống cáp treo 1 lên gần Hoa Yên đã hoàn thành năm 2002 và hệ thống cáp treo 2 lên cổng trời (khu vực đỉnh Yên Tử) đã được đưa vào sử dụng từ mùa lễ hội 2008 Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308). Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330), vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ sách Thạch thất mị ngữ và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như viện Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều… Tại trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Đạo (1254-1334), vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm. Từ Hà Nội có thể đi xe ô-tô vượt quãng đường 125 km, qua thị xã Uông Bí thì rẽ vào đường Vàng Danh, đi tiếp khoảng 9 km thì rẽ trái. Có thể lên núi Yên Tử bằng hai cách: Theo đường đi bộ dài trên 6 km đã được gia cố bởi hàng nghìn bậc đá xếp, len lỏi theo lối mòn vượt qua bạt ngàn cây cỏ, dưới tán rừng trúc, rừng thông. Đứng ở độ cao 1068 m trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa hơn là sông Bạch Đằng. Dọc đường còn có một số điểm tham quan như Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử xây trên nền dấu tích của chùa Lân mà đức Điếu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông từng thuyết giảng chúng sinh. Đây là công trình thiền viện lớn nhất Việt Nam.
  • 25. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Lễ hội Yên Tử được tổ chức hàng năm bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng và kéo dài hết tháng 3 (âm lịch). Nhắc đến Quảng Ninh thì mỗi chúng ta sẽ nhớ tới ngay một địa danh nổi tiếng khắp trên thế giới đó chính là di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Vịnh Hạ Long Nằm ở vùng Ðông Bắc, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, với tổng diện tích 1553 km2 gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Ðảo của vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đông nam (thuộc vịnh Bái Tử Long) và vùng phía tây nam (thuộc vùng vịnh Hạ Long) có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 – 280 triệu năm. Vùng tập trung dày đặc các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp nổi tiếng là vùng trung tâm Di sản thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử Long. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng năm 1962. Vịnh Hạ Long cũng là nơi gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc với những địa danh nổi tiếng như Vân Ðồn – nơi có thương cảng cổ nổi tiếng một thời (1149), có núi Bài Thơ ghi bút tích của nhiều bậc vua chúa, danh nhân, xa hơn chút nữa là dòng sông Bạch Ðằng – nơi đã từng chứng kiến hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của cha ông ta chống giặc ngoại xâm.. Không chỉ có vậy, Hạ Long ngày nay được các nhà khoa học chứng minh là một trong những cái nôi của con người có nền văn hoá Hạ Long từ Hậu kỳ đồ đá mới với những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Ðồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… Với hàng ngàn loài động, thực vật vô cùng phong phú trên rừng dưới biển, cá, mực… Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây. Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO tổ chức tại Thái Lan, vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là Di sản thiên nhiên, khẳng định giá trị mang tính toàn cầu của Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. Quay lại với quốc lộ 5 chúng ta sẽ tới thành phố Hải Phòng. Hải Phòng
  • 26. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Hải Phòng là thành phố cảng công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm cấp quốc gia; đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, có cảng nước sâu (nếu điều kiện kỹ thuật cho phép); một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế biển; một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thuỷ sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc bộ; một pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng an ninh; có tổ chức đảng và hệ thống chính trị không ngừng lớn mạnh, đời sống nhân dân ngày một cao. Phấn đấu Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp, văn minh, hiện đại trước năm 2020″ Hải Phòng là thành phố lớn thứ ba của Việt Nam, sau thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội. Thành phố nằm ở phía đông bắc Việt Nam, trên bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ, phía bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía nam giáp Thái Bình, phía Tây giáp Hải Dương và phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Hải Phòng được nối với các tỉnh qua các hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông và đường hàng không. Nhờ vậy, Hải Phòng là trung tâm giao thông vận tải của toàn bộ khu vực phía Bắc Việt Nam, nối các tỉnh phía bắc với thị trường thế giới qua hệ thống cảng biển. Hải Phòng có hệ thống đường bộ rất thuận tiện cho việc vận tải hàng hoá và đi lại với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía bắc thông qua quốc lộ 5 và quốc lộ 10. Quốc lộ 5 dài 105 km gồm 4 làn xe cơ giới và 2 làn xe thô sơ, hiện là tuyến đường cấp 1 hiện đại nhất Việt Nam.Quốc lộ 10 nối Hải Phòng với Quảng Ninh nơi có khu công nghiệp than, khu du lịch nổi tiếng Vịnh Hạ Long và với vùng nông nghiệp trù phú của các tỉnh đồng bằng ven biển từ Thái Bình đến Thanh Hoá. Quốc lộ 10 cũng nối cảng Hải Phòng, các tỉnh duyên hải Bắc Bộ với đường quốc lộ 1 Bắc – Nam. Với 5 con sông chảy qua, Hải Phòng là trung tâm đầu mối của mạng giao thông đường sông, nối liền các tỉnh và các cảng sông khu vực phía Bắc. Mạng lưới giao thông đường sông vận tải chuyển tới trên 40% lượng hàng hoá của các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Hải Phòng có 2 sân bay Cát Bi và Kiến An. Sân bay Cát Bi nằm cách trung tâm thành phố 5 km. Sân bay đã được nâng cấp, có thể tiếp nhận máy bay Airbus 320, là sân bay dự bị cho sân bay quốc tế Nội Bài. Tại thành phố Hải Phòng có sân bay Cát Bi Sân bay quốc tế Cát Bi Sân bay Cát Bi là một sân bay cấp III, nằm cách trung tâm thành phố 5 km. Chiều dài đường cất hạ cánh: chính 2.400 m; phụ: 1.500 m, có phục vụ bay đêm. Chiều rộng đường cất hạ cánh: chính 50 m, phụ 15 m;
  • 27. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Kích thước đường lăn chính: 1.600×15 (m); Kết cấu đường cất hạ cánh: bê tông xi măng – bê tông nhựa; Sân đỗ máy bay: 3 chiếc; Sân chứa máy bay: 80 chiếc; Hướng phát triển: nâng cấp mở rộng, cải tạo thành sân bay cấp I, và là sân bay quốc tế trong khu vực Có thể tiếp nhận các loại máy bay lớn như Boeing 767-300 ER, B777, B747-400, Airbus 320… Các hãng hàng không và các điểm đi đến Nội địa Vietnam Airlines (Hà Nội , Đà Nẵng , Thành phố Hồ Chí Minh) Pacific Airlines (Thành phố Hồ Chí Minh) Từ quốc lộ 5, rẽ trái theo con đường vào thị xã Uông Bí, quý khách sẽ đi qua sông Bạch Đằng, một con sông đã đi vào lịch sử của nước ta. Sông Bạch Đằng Sông Bạch Đằng, còn gọi là Bạch Đằng Giang, hiệu là sông Vân Cừ, là một con sông chảy giữa hai huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km. Nó nằm trong hệ thống sông Thái Bình. Điểm đầu là phà Rừng – Hải Phòng (danh giới Hải Phòng và Quảng Ninh). Điểm cuối là cửa Nam Triệu – Hải Phòng. Sông có chiều dài 19 km. Các loại tàu thuyền có tải trọng 300-400 tấn tham gia vận tải được cả 2 mùa. Sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa) từ miền nam Trung Quốc, từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam:
  • 28. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán của Ngô Quyền, Cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lê Hoàn Cuộc thủy chiến của Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba). Đi qua khỏi con đường rẽ vào thị xã Uông Bí một đoạn không xa, nhìn phía bên phải có một con đường đi Đồ Sơn Đồ Sơn Đồ Sơn hấp dẫn du khách bốn phương còn bởi sự nổi tiếng với các di tích và danh thắng hòa quyện trong không gian đầy thơ mộng của núi – biển – trời – mây. Ở đó có cái đẹp của thiên nhiên, của con người hiện hữu trong từng ngọn núi, bãi biển và trong những huyền thoại lung linh. Đi dọc khu nghỉ mát Đồ Sơn, xe bon bon qua khu I, khu II, khu III bạn sẽ được ngắm không chán mắt cảnh sắc phong phú của núi non và biển cả, của rừng cây và bãi cát, của sự sôi động và tĩnh lặng. Con đường uốn lượn dẫn bạn đi khi thì như lẫn vào rừng, xuyên qua núi, lúc thì bạn nhìn thây biển trước mặt, lúc lại thấy biển sau lưng… Điều huyền diệu chính là chỗ ấy. Nằm giữa trung tâm khu du lịch nổi tiếng Đồ Sơn là Công ty Khách sạn Du lịch Đồ Sơn với: Hệ thống khách sạn hiện đại 250 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhà hàng sang trọng sẵn sàng phục vụ quý khách các món ăn Âu – Á, món ăn dân tộc. Với các đầu bếp giỏi và đội ngũ nhân viên nhiệt tình, chu đáo và lịch sự, chắc chắn sẽ làm vừa lòng quý khách. Hệ thống phòng họp, hội nghị, hội thảo từ 20 – 300 chỗ Biệt thự Bảo Đại mang đậm nét cung đình Huế tại Đồ Sơn. Đến đây quý khách có thể tổ chức các bữa tiệc cung đình, thưởng thức những món ăn do các nghệ nhân tài hoa của Công ty chế biến và tạo hình cùng những giọng ca ngọt ngào qua các làn điệu dân ca của chính những nhân viên Biệt thự phục vụ mang nét cung đình xưa. Khu vui chơi, giải trí, sân tennis, karaoke, bể bơi, vật lý trị liệu….và các địch vụ vui chơi giải trí khác đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng của khách. Trở lại với quốc lộ 5, cứ tiếp tục đi thẳng thì sẽ tới Cát Bà.
  • 29. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Cát Bà Cát Bà là huyện cũ của thành phố Hải Phòng, nằm trên đảo Cát Bà. Trước năm 1945, đây là tổng Hà Sen, thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Khi đó, thị trấn Cát Bà từng là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà (thuộc tổng Hà Sen), sau là thị xã Cát Bà thuộc tỉnh Quảng Yên, sau nữa thuộc khu Hồng Quảng, đến ngày 5 tháng 6 năm 1956 sáp nhập vào thành phố Hải Phòng. Và sau đó thì thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn Cát Bà, đồng thời với việc thành lập huyện Cát Bà. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Cát Bà nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Đảo Cát Bà Là một trong bốn khu sinh thái Việt Nam được Unesco công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, ngày nay Cát Bà đã trở thành địa chỉ du lịch quen thuộc với nhiều người, nhất là với du khách thích du lịch sinh thái. Quần đảo Cát Bà có trên 300 đảo lớn, nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo chính Cát Bà rộng khoảng 100 km2. Quần đảo này tiếp nối với các đảo của vịnh Hạ Long tạo nên một quần thể đảo và hang động trên biển và là nơi hội tụ đầy đủ các hệ sinh thái tiêu biểu nhất Việt Nam: hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, thảm rong – cỏ biển, các rạng san hô và đặc biệt là hệ thống hang động, thung áng. Ngoài biển, rừng trên núi đá vôi ở Cát Bà chiếm diện tích khá lớn, xen kẽ là những khu rừng mọc tự nhiên trên núi đất. Hệ thực vật ở đây có 620 loài, thuộc 123 họ có giá trị như Lát Hoa, Kim Giao… Tại động Trung Trang của Cát Bà còn có khu rừng Kim Giao mọc tự nhiên đẹp và có giá trị về kinh tế lẫn nghiên cứu khoa học. Hệ động vật ở đây cũng rất phong phú với 20 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư, đặc biệt có loài voọc đầu trắng thường sống ở các vách đá cheo leo ven biển, loài thú quí hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới, nay chỉ còn thấy ở Cát Bà. Khí hậu trên đảo Cát Bà mát mẻ, trong lành, thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng. Du khách có thể nghe tiếng sóng vỗ lên những bờ đá hằng đêm và tiếng gió với nhiều cung bậc ở nơi này: có tiếng gió thổi lồng lộng trên bờ đá ven biển, có tiếng gió vi vu trên đỉnh đèo, cũng lại có tiếng gió rít hoang dã, len lỏi qua những khe núi. Đến Cát Bà, du khách có thể thuê một chiếc tàu du lịch đi khắp vịnh Lan Hạ, ghé vào những bãi tắm lớn nhỏ thật đẹp với những cái tên ngộ nghĩnh: bãi Cát Cò, bãi Bến Bèo, bãi Cô Tiên… hoặc những hang động Trung Trang, Hoa Cương, Thiên Long để khám phá thiên nhiên kỳ thú rồi sau
  • 30. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam đó dừng lại ở một vịnh nhỏ bất kỳ, hưởng cái thú câu cá và nhâm nhi thủy hải sản cùng chút rượu đế giữa non xanh nước biếc bên cạnh người thân hoặc bạn bè. Mọi phiền muộn sẽ được gột rửa. Du khách có thể từ khu nhà nghỉ tại trung tâm thị trấn đảo qua những dốc núi để xuống bãi tắm Cát Bà. Hoặc không, quý khách có thể đặt phòng nghỉ ngay tại các khu nghỉ dưỡng sát bãi biển. Các bãi tắm được nối với nhau bằng một con đường nhỏ men theo triền núi, vì thế, du khách sẽ có thêm cảm giác thú vị khi di chuyển tìm một bãi tắm vừa ý. 3. TUYẾN ĐIỂM HÀ NỘI-PHÚ THỌ-LÀO CAI-SA PA SƠ ĐỒ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH HÀ NỘI-PHÚ THỌ-LÀO CAI-SA PA Từ quốc lộ 5, rẽ theo quốc lộ 2 chúng ta sẽ đến với tỉnh Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc Vĩnh Phúc là một tỉnh miền núi trung du nằm ở vùng Đông Bắc. Phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh giới tự nhiên là sông Lô, Phía nam giáp tỉnh Hà Tây – Hà Nội, ranh giới tự nhiên là sông Hồng. Phía đông giáp hai huyện Sóc Sơn, Đông Anh – Hà Nội, Phía bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía nam giáp tỉnh Hà Tây và thủ đô Hà Nội. Vĩnh Phúc là một tỉnh ở vùng đỉnh của châu thổ sông Hồng, khoảng giữa của miền Bắc nước Việt Nam, khu vực chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng vì vậy có ba vùng sinh thái: đồng bằng ở phía Nam tỉnh, trung du ở phía Bắc tỉnh, vùng núi ở huyện Tam Đảo. Vĩnh Phúc tiếp giáp với sân bay quốc tế Nội Bài, là điểm đầu của quốc lộ 18 đi cảng Cái Lân (tỉnh Quảng Ninh), đồng thời có đường sắt Hà Nội-Lào Cai, đường quốc lộ 2 chạy dọc tỉnh. Chảy qua Vĩnh Phúc có 4 dòng chính: sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy và sông Cà Lồ. Hệ thống sông Hồng là tuyến đường thuỷ quan trọng, thuận lợi cho tàu bè. Vĩnh Phúc vùng đất địa linh nhân kiệt, là cái nôi của người Việt cổ, với di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu nổi tiếng. Mê Linh, nơi Hai Bà Trưng đóng đô, nằm trong tỉnh này. Tới Vĩnh Phúc, chúng ta sẽ đi qua huyện mê Linh Mê Linh Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm
  • 31. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Mê Linh là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, nằm ở phía Bắc Hà Nội, giáp sân bay Nội Bài. Đây là địa danh gắn với tên tuổi của Hai Bà Trưng. Diện tích 14.095,74 km² Dân số 181.299 (2004) Huyện Mê Linh được thành lập năm 1977 trên cơ sở hợp nhất 2 huyện Bình Xuyên và Yên Lãng, ngoài ra còn có 4 xã Văn Tiến, Nguyệt Đức, Minh Tân và Bình Định của huyện Yên Lạc, 2 xã Kim Hoa và Quang Minh của huyện Kim Anh. Một năm sau, Mê Linh được sáp nhập vào Hà Nội. Đến 1979, sáp nhập thêm các xã Nam Viêm, Ngọc Thanh, Phúc Thắng, Cao Minh và thị trấn Xuân Hòa của huyện Sóc Sơn vào huyện Mê Linh, nâng tổng số đơn vị hành chính huyện Mê Linh lên thành 22 xã và 2 thị trấn. 1991, Mê Linh tách khỏi Hà Nội và trở về tỉnh Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc). Sau khi thành lập thị xã Phúc Yên, tách khỏi huyện Mê Linh năm 2004, thị trấn Xuân Hòa trở thành một phường của thị xã Phúc Yên, thì huyện Mê Linh còn lại 17 xã. 2008, chủ trương sáp nhập Mê Linh vào Hà Nội. Khi đi qua huyện Mê Linh, gần đầu huyện về phía bên phải quốc lộ có đền thờ Hai Bà Trưng. Đền Thờ Hai Bà Trưng Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 sau CN), thời đại Hai Bà Trưng (40 – 43 sau CN), được mọi người dân Việt Nam biết đến với niềm tự hào và kính trọng sâu sắc. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, trong cả lịch sử nhân loại, một cuộc khởi nghĩa do hai nữ Anh hùng lãnh đạo, đánh đuổi giặc ngoại xâm giành thắng lợi. Bà Trưng Trắc đã lên ngôi Vua, phong thưởng các tướng sĩ, cắt cử quan lại các cấp… Có thể nói, Hai Bà Trưng là người đầu tiên có công giữ nước, xây dựng nền độc lập, người đặt nền móng cho truyền thống đánh giặc, ý thức tự lập, tự cường của dân tộc ta. Sau khi hai bà mất, nhân dân trong nước thuộc nhiều triều đại kính trọng lập đền thờ hai bà và các tướng lĩnh giỏi (phần lớn là nữ tướng) ở nhiều nơi. Chỉ tính riêng trên đất Vĩnh Phúc đã có 65 đền thờ Hai Bà Trưng và 66 tướng lĩnh. Hàng năm, cứ đến ngày 6 tháng Giêng (ngày Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa), tại đền thờ hai bà ở xã Mê Linh, huyện Mê Linh, lại mở hội lớn, nhân dân trong tỉnh và cả nước nô nức kéo về dự, thắp hương thành kính biết ơn “Nhị Vị Đại Vương” đã có công xây dựng nền độc lập ngay từ buổi bình minh của dân tộc và tiếp tục cầu mong Hai Bà phù hộ cho quốc thái, dân an…
  • 32. Download thêm tài liệu tại http://diendan.ngaodu24.com Cộng đồng Hướng Dẫn Viên Việt Nam Từ ngày có Đảng, đặc biệt là những năm 1940 – 1945, Đền thờ Hai Bà Trưng trở thành nơi chở che, đi về, hội họp của các nhà lãnh đạo tiền bối Đảng ta như các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo Trên đường tới thị xã Vĩnh Yên, bên tay phải có tuyến đường đi vào hồ Đại Lãi. Hồ Đại Lãi Đại Lải là một hồ nước nhân tạo lớn. Xưa kia, vùng hồ là một thung lũng cằn cỗi nằm giữa một bên là dải núi Thằn Lằn, một bên là các đồi trọc trải dần ra từ phía chân dãy Tam Đảo. Mùa mưa lũ, nước ở các con suối chảy dồn về như thác, đồng thời lại rút đi rất nhanh, cuốn trôi theo phù sa màu mỡ, làm cho đồng ruộng bị xói mòn, đất đai bạc màu vì khô cằn. Vì vậy, Bộ Thuỷ lợi đã cho khảo sát, thiết kế xây dựng hồ chứa nước Đại Lải với nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ tưới tiêu cho đại bộ phận ruộng đồng của huyện Kim Anh, Sóc Sơn và một phần diện tích đất nông nghiệp huyện Bình Xuyên. Công trình được khởi công vào năm 1959, đến năm 1963 cơ bản hoàn thành bằng sức lao động chân tay của bộ đội, nhân dân, cán bộ công nhân viên chức, các cơ quan, đoàn thể trong và ngoài tỉnh, diện tích mặt nước 525ha, chứa 26,4 triệu m3 nước. Công trình hồ Đại Lải mang lại lợi ích phát triển kinh tế, xã hội, nông lâm nghiệp, phục vụ tưới tiêu cho khoảng 2.900ha – 3.500ha đất canh tác. Với diện tích tự nhiên là 1.500ha, trung tâm là hồ Đại Lải, khu du lịch – thắng cảnh này đã, đang và ngày càng đẹp hơn, có tiềm năng lớn để phát triển du lịch – dịch vụ, bước đầu thu hút được khách du lịch trong và ngoài nước tới thăm quan, nghỉ dưỡng. Từ bãi tắm dưới hồ, du khách có thể đi bộ thể dục lên đỉnh núi Thằn Lằn phóng tầm mắt nhìn về Thủ đô Hà Nội và tham quan đồn Thằn Lằn, nơi ghi dấu một trong những trận đánh quyết liệt mà chiến thắng hào hùng của lực lượng vũ trang chiến khu Ngọc Thanh những năm chống Pháp. Những ai thích leo núi có thể ngược lên phía Bắc, luồn rừng qua đèo Nhe (một thời là con đường liên lạc trọng yếu giữa chiến khu Ngọc Thanh và căn cứ địa Việt Bắc) sang đất Thái Nguyên thăm hồ Suối Lạnh; tới đèo Khế thăm khe núi Đá Đen – địa điểm đặt kho bạc nhà nước thời kháng chiến; hay rẽ sang núi Mỏ Quạ mạo hiểm thử sức leo lên những vách đá dựng đứng… Từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy thấp thoáng giữa bạt ngàn rừng xanh là các mặt nước hồ Xạ Hương, hồ Làng Hà, hồ Gia Khau thanh bình lặng sóng. Du khách cũng có thể tới thăm những dấu tích thành lũy của Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương hay những địa điểm ghi đầy dấu ấn lịch sử khác của chiến khu Ngọc Thanh như: cơ sở bào chế thuốc tân dược và nơi làm việc của trạm quân y chiến khu, thung lũng Đá Bia, Đồng Dè, đại bản doanh Móc Son… Khu du lịch Đại Lải nằm trong địa phận xã Ngọc Thanh và xã Cao Minh, thuộc thị xã Phúc Yên, cách nội thành Hà Nội 40 km, cách sân bay Nội Bài 10 km với hệ thống đường giao thông thuận tiện cả đường bộ, đường sắt và đường hàng không. Với vị trí thuận lợi được thiên nhiên ưu đãi, được sự quan tâm của các cấp chính quyền trong tương lai không xa Đại Lải sẽ cùng với các