1. CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
PTCĐ là một tiến trình tăng trưởng kinh tế cùng với tiến bộ cộng đồng theo hướng
hoàn thiện các giá trị chân, thiện, mỹ của cộng đồng.
PTCĐ tự phát và PTCĐ tự giác là hai trình độ khác nhau, với tác động của yếu tố
khoa học trong các chiến lược, quy hoạch tổng thể, dự án, có tổ chức thiết chế
quản lý sự phát triển.
Các nguyên lý PTCĐ gồm : tính tương đối, tính đa dạng và tính bền vững. Với tổ
chức xã hội là đồng thuận, tự quản và tham gia, hành động xã hội của cộng đồng
là đồng biến, tự biến và hiệp biến.
Lý thuyết PTCĐ có 6 quan điểm : từ dưới lên; đồng bộ, tham dự; chuyển biến xã
hội; phát triển năng lực; chú trọng nghiên cứu và 4 mục tiêu : cải thiện chất lượng
sống; tạo sự bình đẳng trong tham gia; củng cố thiết chế, tổ chức; thu hút tối đa.
Triết lý tham dự là cơ sở quan trọng của lý thuyết PTCĐ, trong đó, nghiên cứu
tham dự là một dạng tham gia có chất lượng, với nhiều kỹ thuật khác nhau.
Lịch sử hình thành và diễn tiến của phát triển cộng đồng
I.
1- Lịch sử : PTCĐ (Community Development) xuất hiện vào những năm 1940 tại các
cựu thuộc địa đầu tiên của Anh. Ở Ghana, một người Anh tốt bụng nảy ra sáng
kiến giúp dân tự cải thiện đời sống bằng các nỗ lực chung của chính quyền và
người dân địa phương.
Nghèo
Trình độ văn hóa kém
Sản xuất kém
Sức khỏe kém
2- Diễn tiến :
Kinh nghiệm tích cực nầy được lan rộng ở hầu hết các cựu thuộc địa ở
châu Á và châu Phi.
Năm 1950 LHQ công nhận khái niệm PTCĐ vàkhuyến khích các quốc gia
sử dụng PTCĐ như một công cụ để thực hiện các chương trình phát triển
quốc gia.
Thập kỷ 1960-1970 được chọn là thập kỷ phát triển thứ nhất với những
chương trình viện trợ quy mô lớn về kỹ thuật, phương pháp, vốn liếng.
Năm 1970 LHQ lượng giá thập kỷ phát triển, rút ra một số phương hướng :
Sự tham gia của quần chúng là yếu tố cơ bản.
1
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
2. Yếu tố tổ chức là quan trọng : cần hỗ trợ sự hình thành và củng cố tổ chức của
chính người dân.
Không đặt nặng chương trình, dự án từ bên trên hoặc bên ngoài đưa vào mà
chú trọng các công trình vừa tầm do người dân đề xướng và thực hiện với sự
hỗ trợ từ bên ngoài.
Tạo được sự chuyển biến xã hội mới là quan trọng. Đó là sự thay đổi nhận
thức, hành vi của người dân nhằm mục đích phát triển. Tạo được sự chuyển
biến trong tổ chức, cơ cấu và các mối tương quan lực lượng trong xã hội.
PTCĐ chỉ có hiệu quả khi nằm trong một chiến lược phát triển quốc gia đúng
đắn.
Phát triển cấp làng xã phải đặt trong kế hoạch phát triển cấp vùng.
Huấn luyện để trang bị cho dân và những người có trách nhiệm kỹ năng tổ
chức, lãnh đạo là một bộ phận không thể thiếu.
Từ thập kỷ 80 cho đến nay, PTCĐ được biết đến một cách rộng rãi qua các chương
trình viện trợ phát triển của nước ngoài tại Việt Nam trong đó yếu tố tham gia của
người dân là một trong những nhân tố quyết định.
Bộ môn PTCĐ và tổ chức cộng đồng được giảng dạy trong một số trường đại học
phía Nam.
Tuy nhiên, PTCĐ vẫn là khoa học mới hình thành ở nước ta, cần có những tổng
kết lý thuyết và thực tiễn để hoàn chỉnh nó.
Phát triển cộng đồng và tổ chức cộng đồng :
PTCĐ xuất phát từ các nước đang phát triển.
TCCĐ là phương pháp giúp các CĐ dân cư nghèo đô thị (ở các nước công nghiệp
phát triển) biến chuyển, đoàn kết và tổ chức tốt hơn để giải quyết các vấn đề và
nhu cầu của mình.
Thực chất PTCĐ và TCCĐ rất gần gũi và trùng lắp.
Phát triển cộng đồng : một bộ môn khoa học.
PTCĐ là một phương pháp vận động, giáo dục và tổ chức quần chúng nên triết lý
và phương pháp của nó được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như : khuyến nông,
giáo dục sức khỏe, xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cộng đồng, kế hoạch hóa
gia đình, phát triển kinh tế gia đình, tín dụng tiết kiệm, xây dựng nếp sống đô thị,
cải tạo khu nhà ổ chuột…
PTCĐ vận dụng nhiều ngành khoa học khác như : tâm lý học, nhân chủng học, xã
hội học, CTXH, quản trị học, kinh tế học, chính trị học, tổ chức học…
II. Cơ sở lý thuyết phát triển cộng đồng
1- Khái niệm phát triển cộng đồng - thực chất và phạm vi
Phát triển cộng đồng: PTCĐ thực chất là quá trình tăng trưởng kinh tế cộng
đồng cùng với tiến bộ cộng đồng theo hướng hoàn thiện các giá trị chân, thiện,
mỹ.
Định nghĩa của Liên Hiệp Quốc (1956) :
“ PTCĐ là những tiến trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ
lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của
các cộng đồng và giúp các cộng đồng nầy hội nhập đồng thời đóng góp
vào đời sống quốc gia”
Theo Murray và Ross :
2
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
3. “ Tổ chức cộng đồng là một diễn tiến qua đó một cộng đồng nhận rõ
nhu cầu hay mục tiêu của mình, sắp xếp các nhu cầu và mục tiêu nầy,
phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng, tìm kiếm tài nguyên
(bên trong và bên ngoài) để giải quyết nhu cầu hay mục tiêu ấy.
Thông qua đó sẽ phát huy những thái độ và kỹ năng hợp tác với nhau
trong cộng đồng”.
“Đó là một chiến lược phát triển nhằm vận động sức dân trong các cộng
đồng nông thôn cũng như đô thị để phối hợp cùng với những nỗ lực của
Nhà nước để cải thiện hạ tầng cơ sở và tăng khả năng tự lực của cộng
đồng”1
Phát triển cộng đồng sẽ bao gồm một số hoạt động chủ yếu sau :
Cộng đồng xác định các vấn đề cần giải quyết của cộng đồng (Nhu cầu và mục
tiêu).
Chọn lựa các vấn đề ưu tiên bằng các phân tích định lượng và định tính (Nhu
cầu và mục tiêu ưu tiên).
Xây dựng các chương trình hành động trên cơ sở phối hợp các nguồn lực bên
trong và bên ngoài.
Triển khai, bao gồm cả điều chỉnh các chương trình hành động.
Lượng giá các chương trình hành động không chỉ trên cơ sở nguyên lý là
chúng phải tạo ra những chuyển biến xã hội hơn là một số hiệu quả trước mắt hoặc
mang tính hình thức, không căn bản.
2- Lý thuyết phát triển cộng đồng
Nguyên lý PTCĐ dựa trên nguyên lý phát triển xã hội, còn nguyên lý phát triển xã
hội dựa vào nguyên lý phát triển phổ quát, thực chất đó là các nguyên lý biện chứng.
Phép biện chứng là cơ sở chung của lý thuyết phát triển. Biện chứng của sự phát triển
coi tồn tại khách quan phải bao gồm 4 nguyên lý tổng quát :
(1) Tồn tại
(2) Tương đối
(3) Biến hóa mâu thuẫn
(4) Thống nhất đa dạng.
Các nguyên lý nầy khi áp dụng vào xã hội được diễn đạt cũng bằng 4 nguyên lý cơ
bản như :
(1) Sinh tồn
(2) Hình thái kinh tế-xã hội (để tổ chức và thiết chế xã hội)
(3) Tiến bộ văn hóa – văn minh (vai trò của lực lượng sản xuất, của khoa học công
nghệ)
(4) Phát triển bền vững (thể hiện mối quan hệ giữa xã hội người với môi trường).
Ba khía cạnh chủ yếu của nguyên lý tổng quát của phát triển cộng đồng :
Tính tương đối : người ta đề cập tới những quan niệm rất khác nhau về
PTCĐ, nên không tuyệt đối hóa một sự vật, một hiện tượng nào cả. Tuân Tử
1
Pratt, Brian & Jo Boyden, The Field Director’s Handbook, Oxfam Manual for Development Worker.
3
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
4. đã nhận định : Có cái riêng thấy thì đương nhiên có cái riêng khác bị che.
Ví dụ, cái gọi là phát triển và kém phát triển là những quy ước theo một hệ
quy chiếu, với một hệ quy chiếu khác, ta lại có cách nhìn khác, không nên
tuyệt đối hóa. Phát triển và kém phát triển là trong mối quan hệ tương đối
với nhau, bởi vì có thể phát triển cái này thì kém phát triển cái kia và ngược
lại. LêNin nói đấy là phát triển không đều của các tổ chức và thiết chế xã
hội, của cộng đồng xã hội nói riêng.
Tính đa dạng : cộng đồng là một tính nhưng biểu hiện rất phong phú, rất đa
dạng.
Tính bền vững : cộng đồng có tính bền vững, loài người dựa trên tính cộng
đồng làm căn bản để tồn tại và phát triển.
Tóm lại, cơ sở riêng của lý thuyết phát triển cộng đồng bao gồm 3 nguyên lý, tạo nên
tam vị nhất thể như sau :
(1) Nguyên lý tương đối của phát triển cộng đồng.
(2) Nguyên lý tính đa dạng của phát triển cộng đồng.
(3) Nguyên lý tính bền vững của phát triển cộng đồng.
Nguyên lý đa dạng
Nguyên lý tương đối Nguyên lý bền vững
Lý thuyết phát triển cộng đồng cũng đề cập đến mối quan hệ giữa các thể chế
xã hôi, chủ yếu là ba thể chế xã hội cơ bản tham gia vào sự phát triển cộng đồng.
- Thứ nhất là tự quản cộng đồng.
- Thứ hai là sự quản lý của nhà nước.
- Thứ ba là sự can thiệp của thị trường
Triết lý tham dự hay tham gia (participation) là một trong những quan điểm
quan trọng của phát triển cộng đồng. Tham dự là tham gia ở mức thấp, còn tham gia
là tham dự là ở mức cao. Triết lý này thể hiện như sau : để cho cộng đồng phát triển
tốt đẹp, bền vững thì phải có sự hợp tác của tất cả các lực lượng xã hội, của các tổ
chức và thíết chế xã hội, mà ta tạm hình dung có 4 lực lượng chủ chốt sau đây tham
gia vào phát triển cộng đồng :
- Thứ nhất là bản thân cộng đồng.
- Thứ hai là Nhà nước.
- Thứ ba là thị trường.
- Thứ tư là các nhân tố xã hội.
Vấn đề phát triển :
4
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
5. Thế nào là phát triển và kém phát triển ?
Phát triển : Phát triển là quá trình biến đổi về chất và lượng. Về số lượng thì
đó là sự tăng trưởng, về phẩm chất thì nhất định phải có sự biến đổi về mặt
chất lượng theo hướng tiến bộ.
Phát triển xã hội : phát triển xã hội là sự tăng trưởng, đặc biệt là tăng trưởng
kinh tế cùng với sự biến đổi xã hội theo chiều hướng tiến bộ xã hội, nghĩa là
đúng hơn, tốt hơn và đẹp hơn.
Kém phát triển : Kém PT thể hiện ở chỗ các nhu cầu cơ bản không được đáp
ứng đầy đủ : thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nước sạch, thiếu điện, nhà ở tồi tàn,
thiếu cầu đường, lưu thông khó khăn, thiếu thuốc chữa bệnh,... Các nhu cầu
sinh hoạt tinh thần, giải trí yếu kém, mù chữ cao, thiếu trường lớp và giáo viên,
thiếu thông tin, lạc hậu về khoa học kỹ thuật. Tâm lý thiếu tự tin, trông chờ, ỷ
lại.
Mục đích của phát triển :
“ Mục đích và mục tiêu của phát triển là nâng cao chất lượng đời sống của
người dân và nhằm cung cấp cho con người những cơ hội để phát triển toàn diện các
tiềm năng. Phát triển không thể chỉ định nghĩa như tăng số thu nhập đầu người của
một quốc gia, tăng các chỉ số sản phẩm sản xuất của địa phương, của vùng, hoặc tăng
tiết kiệm của cá nhân hay nhóm. Phát triển không chỉ hàm ý sự tăng lên về tài nguyên
và thêm kỹ năng, mà còn là tạo ra những thay đổi, cải tiến tích cực.
Phát triển cần giúp những người dân thiệt thòi trước đây có thể cải thiện các
điều kiện sống của họ và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản như việc làm, nhà ở, môi
trường an toàn.
Phát triển có nghĩa là người dân thiệt thòi trong cộng đồng ngày nay có khả
năng trả tiền học phí cho con cái, trả y tế phí và mở mang kiến thức về xã hội hiện
đang sống.
Phát triển ngụ ý rằng đường sá, cầu cống được xây dựng, lưu thông được cải
tiến và mạng lưới thông tin hữu hiệu được thiết lập.
Phát triển cũng có nghĩa là người dân trong cộng đồng có thể đạt được
nhiều mặt cải thiện nêu trên thông qua những cố gắng của họ, và sẽ tham gia vào
những quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của họ. Điều nầy được xem như yếu tố
chủ yếu để quyết định xem phát triển cộng đồng đúng nghĩa có xảy ra hay không.
Cuối cùng Phát triển tùy vào sáng kiến khởi sự của người dân trong cộng
đồng, và Phát triển chỉ có thể xem như đúng nghĩa đích thực nếu nghèo đói và thất
nghiệp giảm đi, nhân quyền và công bằng xã hội được củng cố”2
2
Định nghĩa của United Nations Center for Regional Development, 1988 Trung tâm phát triển vùng
của Liên Hiệp Quốc.
5
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
6. Các chỉ báo phát triển :
Các nhà nghiên cứu và các nàh lãnh đạo cho rằng không thể đồng nhất
phát triển với tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế không có nghĩa là phát triển xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là một chỉ số của sự phát triển chứ không phải là tòan bộ các chỉ
số của sự phát triển. Phát triển xã hội hiện nay được hiểu theo nghĩa toàn diện gồm có
rất nhiều chỉ số. Trong báo cáo phát triển hằng năm của Ngân hàng Thế giới (WB) ta
thấy có hơn 200 chỉ số về sự phát triển xã hội để so sánh giữa các nước về sự phát
triển, giữa các khu vực, trong đó nếu gom lại thì có các nhóm chỉ số cơ bản :
Nhóm chỉ số tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là chỉ số về bình quân thu
nhập đầu người so sánh giữa các cộng đồng và các khu vực.
Nhóm chỉ số phát triển xã hội : người ta quan tâm rất nhiều đến nhiều
đến chỉ só phát triển xã hội, đặc biệt là chỉ số phát triển dịch vụ xã hội,
trong đó có 2 dịch vụ cơ bản nhất là dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế.
Chỉ số phát triển con người HDI – Human Development Index là chỉ số
tổng hợp kinh tế xã hội của sự phát triển, bao gồm :
Thu nhập bình quân đầu người
Tuổi thọ trung bình
Trình độ học vấn trung bình
Ngoài hai chỉ số phát triển kinh tế và xã hội nói trên, người ta quan tâm đến một nhóm
chỉ số quan trọng nữa :
- Chỉ số phát triển cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm)
- Chỉ số phát triển bền vững : Đây là một quan niệm hiện đại. Lâu nay chúng
ta mới chỉ quan tâm đến những chỉ số phát triển kinh tế, xã hội, con người,
văn hóa... nhưng ít đề cập tới quan hệ giữa con người và xã hội với tự
nhiên. Đó là những quan niệm mở rộng, có một loạt các chỉ số có liên
quan như : chỉ số bảo vệ môi trường, phát triển con người. Phát triển kinh
tế-xã hội mà khong bảo vệ môi trường thì có nguy cơ sẽ dẫn tới mặt trái
của nó, tức là suy thoái mà thế giới hiện đại đã có quá nhiều bài học.
3- Quan điểm, mục tiêu và quy tắc hành động
3.1 Các quan điểm định hướng
1) Phát triển cộng đồng dựa trên phương pháp luận từ dưới lên (Bottom-up) xuất
phát từ nhu cầu của chính người dân. Muốn tự phát triển, chính người dân phải
tự ý thức cũng như tự tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình.
2) Phát triển phải đồng bộ trên mọi khía cạnh của đời sống xã hội : kinh tế, xã
hội, văn hóa…phải cùng được nâng lên.
3) Sự tham gia của quần chúng là hết sức quan trọng, là yếu tố then chốt. Sự tham
gia của chính quyền được coi như là một nhân tố bên trong, nó không phải là
một lực lượng đứng bên ngoài hoặc bên trên cộng đồng mà là một thành phần
quan trọng của cộng đồng.
4) Tạo được chuyển biến xã hội mới là quan trọng. Đó là sự thay đổi nhận thức,
hành vi của người dân nhằm mục đích phát triển; là tạo được chuyển biến
trong cơ cấu tổ chức, các mối tương quan lực lượng trong chính cộng đồng đó.
6
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
7. 5) Phát triển năng lực trên cơ sở không “làm thay”, “làm cho” người dân. Người
dân không thể hành động nếu thiếu năng lực. Họ cũng không thể hành động
đơn phương, riêng lẻ mà phải kết hợp với các cá nhân, tổ chức cùng một chí
hướng và quyền lợi để tạo thành quyền lực chung. Muốn cho người dân tự làm
thì tổ chức thông qua huấn luyện là then chốt.
6) Các nghiên cứu làm nền tảng cho việc triển khai các dự án phải đặt ngang tầm
với vị trí cần có của nó trong công tác phát triển cộng đồng. Hoạt động đánh
giá, lượng giá (Evaluation) là một bước “đo lường” hiệu quả xã hội của các dự
án và mở ra những vấn đề mới cho cộng đồng. Chúng tăng tính hiệu quả của
các dự án.
3.2 Mục tiêu của phát triển cộng đồng:
Mục tiêu bao trùm của Phát triển cộng đồng là góp phần mở rộng và phát triển các
nhận thức và hành động có tính chất hợp tác trong cộng đồng, phát triển năng lực tự
quản cộng đồng.
Mục tiêu tổng quát trên đây được thể hiện dưới 4 khía cạnh sau đây :
1) Hướng tới cải thiện chất lượng sống của cộng đồng, với sự cân bằng về vật
chất và tinh thần, qua đó, tạo những chuyển biến xã hội trong cộng đồng.
2) Tạo sự bình đẳng trong tham gia của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng, kể cả
các nhóm thiệt thòi nhất đều có quyền nêu lên nguyện vọng của mình và được
tham gia vào các hoạt động phát triển, qua đó, góp phần đẩy mạnh công bằng
xã hội.
3) Củng cố các thiết chế/tổ chức để tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển biến xã hội
và sự tăng trưởng.
4) Thu hút sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình phát triển.
Hai khái niệm then chốt của PTCĐ hiện nay là “xây dựng năng lực” (capability
building) và tạo sức mạnh (empowerment). Để tạo được điều nầy, PTCĐ phải là một
quá trình luôn luôn tiếp diễn. Mục tiêu cuối cùng của một chương trình PTCĐ là giúp
cho cộng đồng đi từ một tình trạng kém phát triển, không tự mình giải quyết các vấn
đề của riêng mình tiến tới tự lực.
Tiến trình phát triển cộng đồng
Thức tỉnh : việc làm đầu tiên là phải giúp CĐ hiểu về chính mình thông qua
các hoạt động nhận diện (assessment) và chẩn đoán (diagnosis) cộng đồng, gồm
các hoạt động trao đổi, thảo luận, điều tra các nhu cầu và vấn đề khó khăn cũng
như tiềm năng và thuận lợi, xác lập những vấn đề ưu tiên, xây dựng các dự án
để giải quyết các vấn đề của CĐ, lượng giá tính hiệu quả của chúng.
Tăng năng lực : CĐ cần được hỗ trợ bên ngoài (kiến thức chuyên môn, tín
dụng, đầu tư, cơ quan viện trợ…) và thông qua quá trình huấn luyện cộng đồng
để khác phục những hạn chế và tăng cường kiến thức và kỹ năng để hành động.
Các hoạt động tăng độ liên kết, khả năng tổ chức, lãnh đạo và quản lý để hành
động tập thể có hiệu quả hơn.
Tự lực : mục đích quan trọng nhất là thông qua thay đổi và tăng trưởng, cộng
đồng sẽ trở nên tự lực. Mục đích cuối cùng không phải là mọi khó khăn, khủng
7
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
8. hoảng không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn, cộng đồng có thể tự huy động
nguồn lực bên trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề. Điều nầy chỉ có thể có
nếu biết xử lý đúng các tình huống trong quá trình phát triển, qua đó, cộng đồng
sẽ tăng trưởng và tự lực hơn như con người phải trải qua khủng hoảng mới
trưởng thành được. Thông qua các dự án phát triển cộng đồng như là những
phương pháp “kích hoạt”, các mục tiêu trên từng bước triển khai trong thực
tiễn.
Sau đây là một mô hình về quá trình làm PTCĐ4
CĐ còn yếu CĐ thức tỉnh CĐ tăng năng CĐ tự lực
kém lực
Hình Tăng
Tự tìm hiểu Phát huy Huấn
thành các cường
tiềm
và phân tích luyện
động lực
nhóm liên
năng
kết tự nguyện
Hành động chung có lượng giá
(từ thấp đến cao)
3.3 Quy tắc hành động:
Phát triển cộng đồng tin tưởng rằng mọi công dân và các cộng đồng hoàn toàn có
khả năng quản lý cuộc sống và các vấn đề của mình ngoại trừ khi họ bị đè nặng bởi
mối lo âu để sống còn. Năng lực tự quản (governance) là một năng lực tự có và
tiềm ẩn trong các cộng đồng, vấn đề của phát triển cộng đồng là cần đánh thức hoặc
củng cố năng lực đó.
Phát triển chỉ có thể thành công trên cơ sở xuất phát từ ý chí và nội lực từ bên
trong. “Làm thay”, “nghĩ hộ” là những tư duy và hành động xa lạ với phát triển
cộng đồng.
Mọi chương trình hành động phải do cộng đồng tự quyết nhằm bảo đảm tính tự
chịu trách nhiệm của cộng đồng.
Dân chủ là một nguyên tắc mà mọi chương trình phát triển cộng đồng phải hướng
tới vì chúng đảm bảo rằng lợi ích chung sẽ được tôn trọng. Nhưng dân chủ đòi hỏi
một quá trình làm quen và không nên quên rằng tính tổ chức, kỷ luật là hình thức
dân chủ nhất.
4
Giáo trình PTCĐ, Nguyễn thị Oanh, 1994
8
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
9. Không đặt nặng chương trình, dự án (nghĩa là những ý đồ có sẵn của tổ chức nhà
nước, cơ quan phát triển, tổ chức xã hội …) từ bên trên hoặc bên ngoài đưa vào mà
là hướng tới các công trình vừa tầm do người dân đề xướng và thực hiện với sự hỗ
trợ từ bên ngoài.
Các hoạt động phát triển cộng đồng là các hoạt động mang tính nhân-quả, muốn tạo
ra hiệu quả mang tính tổng thể phải có một chuỗi các hoạt động liên quan và phụ
thuộc lẫn nhau.
Ưu tiên các hoạt động mang tính đột phá khẩu, các mục tiêu ưu tiên nhưng chúng
phải được đặt trong một cái nhìn phát triển mang tính tổng thể.
Đối tượng ưu tiên của PTCĐ là người nghèo và người thiệt thòi. Nghèo, dân trí
thấp… là các vấn đề của phát triển cộng đồng.
Công bằng xã hội không chỉ là một khẩu hiệu mà phải dẫn tới sự tái phân phối các
nguồn lực ở cấp vi mô cũng như vĩ mô. Điều nầy rất quan trọng vì không ít chương
trình phát triển đã tạo ra khoảng cách giàu-nghèo.
Các hình thức hợp tác là cơ sở để phát huy tinh thần trách nhiệm và tinh thần cộng
đồng. Xây dựng và củng cố khả năng hợp tác là những vấn đề của phát triển cộng
đồng.
Sự hỗ trợ bên ngoài từ chuyên môn (xã hội và kỹ thuật) đến các nguồn lực vật chất-
tài chính là rất cần thiết nhưng chỉ là chất xúc tác. Tiền của cũng quan trọng nhưng
quan trọng hơn là “cách nghĩ”, “cách làm”.
Đây là các hoạt động xúc tiến (promotion) của bên ngoài với sự nỗ lực và quyết
tâm của bản thân cộng đồng.
Các hoạt động phát triển cộng đồng có trình tự về mặt phương pháp, cần có sự
huấn luyện cho các tác viên phát triển cộng đồng và người dân tại chỗ.
III. Cơ sở thực tiễn phát triển cộng đồng
1- Từ sáng kiến của cộng đồng, gia tăng tính năng động xã hội vi mô và giảm trừ
độc quyền Nhà nước vĩ mô.
Nhu cầu phát triển của các cộng đồng nhỏ ở nông thôn đòi hỏi phải có những cách
đặt vấn đề mới xuất phát từ những nhu cầu được thức tỉnh từ chính họ. Tính bền vững
của các hoạt động phát triển cần phải có những nguyên tắc làm việc mới, những
phương pháp mới đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Quá trình xác định
nhu cầu, lập kế hoạch can thiệp đã dựa trên một tư duy mới là : thay vì bên ngoài làm
hộ, người dân ở mỗi cộng đồng phải tự mình đứng ra giải quyết những vấn đề riêng
của mình, sự giúp đỡ của bên ngoài chỉ có tính chất hỗ trợ, không mang tính quyết
định.
Thiếu hụt sự hưởng ứng, ý chí và nỗ lực của người dân là một trong những nguyên
nhân cho sự thất bại của nhiều chương trình phát triển cộng đồng. Ngoài nguyên nhân
chú trọng đến biện pháp hỗ trợ mang tính cấp cứu, từ thiện là cách đặt vấn đề mang
tính áp đặt từ trên xuống (Top-down) thay vì cần có một kế hoạch từ dưới lên
(Bottom-up).
Cho dù thể chế đã cởi mở rất nhiều nhưng xã hội ta chưa biết nhiều đến các tổ
chức tự nguyện từ sáng kiến của người dân, của các tổ chức phi chính phủ. Hệ thống
9
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
10. giáo dục chưa tạo cho con người Việt Nam khả năng tự chủ, sáng tạo, biết thích ứng
trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Tinh thần làm việc theo nhóm còn
xa lạ với chúng ta.
Phát triển cộng đồng khuyến khích sáng kiến từ dưới lên, với sự kết hợp với chính
người dân để giải quyết vấn đề của cộng đồng. Sự tin tưởng tuyệt đối, vô điều kiện
vào khả năng vươn lên của người nghèo, của những thành phần xã hội thấp kém nhất
là một giá trị nhân bản, là một cách đặt vấn đề mới. Thói quen áp đặt, bao biện và làm
thay dân là sản phẩm của cách giáo dục và quản lý không thích hợp với tư duy phát
triển cộng đồng. Triết lý phát triển cộng đồng có sự tham gia tích cực của người dân
đòi hỏi một sự đổi mới về nhận thức và tư duy hành động.
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mang tính bước ngoặt. Nhiều
hình thức hợp tác tự nguyện mới, nhiều mô hình do người dân địa phương tự liên kết
để giải quyết nhu cầu của mình hay tham gia vào các chương trình từ bên ngoài đưa
vào, một số mô hình đã chứng minh tính hiệu quả của nó. Trong công cuộc Đổi mới,
chúng ta có thể lấy các tư tưởng của Bác Hồ “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong” cũng như các tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” làm cơ sở tư tưởng cho phát triển cộng đồng. Truyền
thống tình làng nghĩa xóm, tương thân tương trợ, lá lành đùm lá rách cũng là những
cơ sở xã hội-lịch sử quan trọng cho hoạt động nầy.
2- Quá trình chuyên môn hóa phát triển cộng đồng
Ơ cấp Nhà nước cần có sự công nhận phát triển cộng đồng như là một phương
thức tạo điều kiện cho cho phát triển kinh tế, xã hội toàn diện, và phải được áp
dụng trong các chương trình quốc gia như phát triên nông thôn, xóa đói giảm
nghèo, dân số và sức khỏe…
Cán bộ các chương trình kể trên cần được tập huấn về phương pháp phát triển
cộng đồng.
Cần xây dựng phát triển cộng đồng như một bộ môn khoa học ứng dụng tại các
trường đại học.
IV. Triết lý tham dự phát triển cộng đồng
Cộng đồng là một nhóm người sống trong cùng một địa vực hay có những lợi ích
và mối quan tâm chung mà không bị quy định bởi các giới hạn địa lý. Họ xây dựng
các tổ chức và thiết chế nhằm đáp ứng một số nhu cầu chung của cộng đồng. Tham dự
là một quá trình của quần chúng cùng tham gia các hoạt động có mục đích chăm sóc
cộng đồng.
Oakley trích dẫn các thí dụ về cách biểu thị khái niệm tham dự cộng đồng :
Quá trình tham dự, theo nghĩa rộng, là quá trình tạo ra khả năng nhậy cảm của
quần chúng và do vậy làm tăng khả năng tiếp thu và năng lực của quần chúng
10
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
11. nông thôn nhằm đáp ứng các chương trình phát triển cũng như khích lệ các
sáng kiến của địa phương.
Liên quan đến vấn đề phát triển, tham dự bao hàm việc thu hút quần chúng vào
quá trình ra quyết định, thực hiện sự phân chia lợi ích trong các chương trình
phát triển và lôi cuốn họ vào quá trình đánh giá chương trình.
Quá trình tham dự hướng tới những nỗ lực có tổ chức nhằm tăng cường kiểm
soát các nguồn lực và các tổ chức điều hành trong những hoàn cảnh xã hội nhất
định, kiểm soát các nhóm, các phong trào mà từ trước đến giờ vẫn nằm ngoài
sự kiểm soát như vậy.
Susan Rifkin cho rằng để hiểu sự tham dự cộng đồng phải đặt các câu hỏi sau :
Tại sao lại tham dự ? Ai tham dự ? Quần chúng tham dự như thế nào ? Để đo sự
tham dự, Rifkin đưa ra một khung đánh giá quá trình tham gia gồm 5 yếu tố :
Đánh giá nhu cầu, sự lãnh đạo, hoạt động quản lý, tổ chức và huy động nguồn
lực. Mọi sự tham dự tốt phải thể hiện trên 5 chiều cạnh nầy.
Mc. Call phân biệt ba mức độ tham dự :
Tham dự như là một phương tiện để tạo ra các điều kiện dễ dàng cho việc thực
hiện các can thiệp từ bên ngoài vào.
Tham dự như là một phương tiện để dung hòa trong quá trình ra quyết định và
tạo lập chính sách cho các can thiệp từ bên ngoài vào.
Tham dự như là mục đích tự thân – trao quyền cho các nhóm xã hội và kiểm
soát nguồn lực và ra quyết định.
1- Các hình thức tham gia cộng đồng
Trong xã hội hiện đại, tầm ảnh hưởng của Nhà nước trong xã hội đã được mở
rộng một cách to lớn. Nhà nước ngày nay là người cung cấp chính yếu các dịch vụ
phát triển xã hội. Nhà nước là người hợp tác, một lực lượng quan trọng trong phát
triển cộng đồng. Vai trò của Nhà nước trong phát triển cộng đồng bao hàm cả hai tư
cách : là cơ quan có thẩm quyền cho phép các hoạt động phát triển tại cộng đồng và là
một trong các lực lượng có tiềm lực tham gia vào quá trình này. Không thể coi nhẹ vị
trí của Nhà nước đóng góp có hiệu quả vào việc xúc tiến tham gia cộng đồng, thể hiện
trên một số phương diện sau :
Tạo hành lang pháp lý/hệ thống chính sách cho các hoạt động hướng vào các
chương trình phúc lợi công cộng chung, các chính sách miễn giảm thuế cho
các doanh nghiệp, các nhóm xã hội trong cộng đồng tham gia các dự án phát
triển cộng đồng.
Cung cấp/điều chỉnh các nguồn lực của chính phủ cho các chương trình phát
triển cộng đồng, kêu gọi hoặc tạo điều kiện cho c ác dự án do các NGO nước
ngoài vào cộng đồng.
Là lực lượng điều chỉnh các mâu thuẫn trong cộng đồng, giữa các cộng đồng
với nhau với tư cách là người đại diện cao nhất lợi ích chung của cộng đồng
quốc gia.
Các tổ chức phi chính phủ cung cấp các cơ hội có hiệu quả hơn cho việc thực
hiện các ý tưởng tham gia cộng đồng, và hình thức tham gia thường là thiết thực hơn
11
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
12. là Nhà nước do hoạt động của NGO thường nhỏ, ngừơi dân dễ thấy ngay tính hiệu quả
của nó. Tính quan liêu của hệ thống Nhà nước cũng không phải lúc nào cũng thích
hợp với vai trò là lực lượng tham gia trực tiếp vào phát triển cộng đồng. NGO linh
hoạt hơn vì họ không bị hạn chế trong hoạt động của mình ở lĩnh vực công tác chuyên
biệt như các cơ quan chính phủ. Các mối quan hệ tốt với cơ quan công cộng sẽ là điều
kiện và nguyên tắc để các NGO có thể thực hiện được tốt chức năng của mình.
Là người trực tiếp xây dựng , triển khai và đánh giá các chương trình phát triển
cộng đồng bởi nhu cầu của các hoạt động phát triển là rất đa dạng, do đó mỗi
một NGO với tôn chỉ và mục tiêu của mình thường bó gọn vào một số lĩnh
vực, với một số hoạt động có tính truyền thống.
Tính gọn nhẹ của một tổ chức là một lợi thế trong việc nắm bắt nhu cầu, xây
dựng kế hoạch, triển khai các hoạt động phát triển cộng đồng. Tính quan liêu ít
được biết đến trong các hoạt động phát triển của NGO.
Do ngay từ đầu nhiều tổ chức NGO xây dựng tôn chỉ, mục tiêu của minh theo
triết lý tham dự nên những mâu thuẫn của quá trình phát triển cộng đồng vốn là
sự hợp lực của các lực lượng bên ngoài và bên trong ít xảy ra hoặc có thì cũng
dễ có thể điều hòa được.
Các NGO đã đóng góp vai trò chính trong việc thúc đẩy tham gia cộng đồng,
song không thể không nói tới một số vấn đề về khả năng hợp tác với hệ thống
chính quyền, trong đó có chính quyền cơ sở, nhiều khi gây ra những phản ứng
tại cộng đồng. Vấn đề thứ hai dễ găp phải là các NGO thường quá chú trọng
đến một số lĩnh vực hoặc hoạt động nào đó, thường ít có những hoạt động
mang tính hệ thống nên có khi trùng lặp tại một thời điểm hoặc một khu vực,
hoặc ít có hiệu quả hệ thống.
Vai trò của các tổ chức xã hội tại cộng đồng trong sự tham gia cộng đồng là
một vấn đề nội bộ của quá trình tham gia cộng đồng. Các tổ chức xã hội tại cộng đồng
thường có những vai trò nhất định bởi đó là các tổ chức do người dân tự nguyện lập
nên nhằm đáp ứng các nhu cầu đã xác định cụ thể nào đó, nó thường bền vững do có
cơ sở tại chỗ.
Trong mỗi cộng đồng nông thôn, các tổ chức, nhóm lập ra bởi rất nhiều nhu cầu,
từ các vấn đề kinh tế, tín dụng, các dịch vụ xã hội cơ bản như nước sạch, học hành, y
tế và chăm sóc sức khỏe, cho đến các nhu cầu văn hóa tinh thần như thờ cúng, cố kết
cộng đồng… Điểm chung của các tổ chức nầy là chỉ lập ra khi người dân thấy cần
thiết, người lãnh đạo hay các thành viên đều là những người tự nguyện, hào hứng
tham gia các hoạt động của địa phương. Trong các cộng đồng đô thị, vốn là người tứ
xứ nên các tổ chức ở đây thường không có cơ sở thân tộc hay láng giềng thân thiết mà
lấy mục đích công việc làm hạt nhân tập hợp, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức xã hội,
những cá nhân là các nhà hoạt động xã hội, các doanh nghiệp, các nhà từ thiện.
Tính tại chỗ của các tổ chức tại chỗ ở các cộng đồng tham gia vào các chương
trình phát triển cộng đồng vừa là điểm thuận lợi vừa là điểm bất lợi. Sự hợp tác chặt
chẽ giữa ba bộ phận : chính quyền cơ sở, các NGO và các tổ chức xã hội tại chỗ là
cách tốt nhất để khắc phục những điểm mạnh và yếu của từng bộ phận. Trong thực
12
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
13. tiễn, sự thành công hay thất bại của các chương trình phát triển cộng đồng phụ thuộc
vào việc có xác lập được cơ chế phối hợp giữa ba lực lượng này hay không.
2- Nghiên cứu tham dự như một cách tham gia
Nghiên cứu (Research) có thể được hiểu như một quá trình phân tích những vấn
đề, những mâu thuẫn, xung đột của đối tượng, có liên hệ với hoàn cảnh, môi trường
xung quanh, nhằm tìm ra những giải pháp hiệu quả cho phát triển. Các chương trình
nghiên cứu của các tổ chức quốc tế tại cộng đồng thường áp dụng phương pháp luận
tham dự với niềm tin rằng bằng triết lý tham dự, các chương trình phát triển cộng đồng
có thể thu hút được sự tham gia của mọi lực lượng xã hội, mọi nguồn lực vào quá trình
phát triển, phần nào khắc phục những hạn chế của các phương pháp nghiên cứu không
tham dự. Phương pháp luận tham dự dựa trên triết lý như sau :
Tham dự là từ người dân và trả lại cho người dân, đấy là thực chất của phương
pháp luận tham dự. Nhiều tổ chức quốc tế hiện nay cho rằng phương pháp luận tham
dự là phương pháp luận đi từ dưới lên, chứ không phải là phương pháp nghiên cứu
không tham dự là đi từ trên xuống. Đi từ người dân trở thành khoa học, chứ không
phải đi từ tháp ngà khoa học rồi áp đặt cho người dân những khái niệm, những phạm
trù mà tự mình đặt ra.
Nói một cách lý tưởng, nghiên cứu tham dự là cùng người dân, vì người dân và
không phải là đứng trên dân. Điều nầy có nghĩa là các đại diện của quần chúng phải
có đủ năng lực để tham gia như là các nhóm hướng dẫn trong nghiên cứu tham dự,
tham gia ở mọi thời điểm của quá trình nghiên cứu cho đến khi các kết quả được công
bố và thông tin được đưa trở lại tới quần chúng theo đường khác nhau.
Có sự khác biệt rõ nét giữa nghiên cứu thông thường (không tham dự) và nghiên
cứu tham dự. Sự khác biệt quan trọng nhất trong nghiên cứu tham dự là các câu hỏi
nghiên cứu và các vấn đề ưu tiên được dựa trên cơ sở các nhu cầu của cộng đồng và
được hình thành bởi chính cộng đồng.
Giai đoạn 1: xác lập các ưu tiên và ấn định các mục tiêu
Giai đoạn 2 : Triển khai đề cương nghiên cứu tại cộng đồng. Trong nghiên cứu
tham dự muốn đạt được sự tham dự tối đa của cộng đồng trong việc chẩn đoán
vấn đề, nâng cao nhận thức và tự tin để cải thiện hoàn cảnh thì các phương
pháp được lựa chọn cần :
Tương đối đơn giản
Ngăn ngừa được sự nản lòng và thờ ơ của người tham dự
Chỉ hướng vào sự hiểu biết những gì thực sự cần thiết
Tổ chức những cuộc họp để nâng cao nhận thức và trách nhiệm chung.
Việc thu thập số liệu thực tế cũng có thể được thực hiện theo phương pháp tham
dự. Trong trường hợp này, thực chất là các thành viên cộng đồng tự mình thực
hiện nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu cần phải thích hợp để trả lời các câu hỏi
nghiên cứu của họ.
13
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
14. Quá trình tìm ra các kết quả nghiên cứu theo phương pháp thông thường (không
tham dự) vẫn cần phải chuyển giao cho cộng đồng, trong khi đó, kết quả do
chính các thành viên cộng đồng tìm ra (có sự tham dự) thì không cần phải
chuyển giao.
Phương pháp làm báo cáo cũng là điểm khác biệt cơ bản giữa nghiên cứu thông
thường và nghiên cứu tham dự :
Các nhà nghiên cứu thông thường có thể báo cáo ngay đến đồng nghiệp
và các nhà tài trợ nghiên cứu của họ. Đôi khi họ không được đào tạo viết
báo cáo một cách toàn diện. Những báo cáo của họ thường khó đọc,
dùng các thuật ngữ chuyên môn.
Nghiên cứu tham dự là dạng nghiên cứu trong đó các kết quả được trình
bày theo cách những người không có chuyên môn khoa học có thể tham
dự vào các buổi thảo luận. Điều này có thể có ít uy tín về mặt khoa học
nhưng lại thỏa mãn nhu cầu và đó là phương pháp kiểm tra tốt nhất về
giá trị và tính thỏa đáng của kết quả.
Trong nghiên cứu tham dự, nhiều phương pháp và thủ tục được kết hợp
với nhau để hệ thống hóa tri thức mới theo trình độ nhận thức và khả
năng hiểu được các dạng văn bản có lời hoặc hình ảnh.
Cho đến nay có một số loại hình nghiên cứu tham dự chủ yếu như sau :
Chẩn đoán nông thôn có sự tham gia
1 DRP Diagnosis with rural participation
2 FPR Nghiên cứu có sự tham gia của trang Farmer participation research
chủ
Phương pháp nghiên cứu được tăng
3 MARP Method of accelerated research with
tốc có sự tham dự participation
4 PALM Phân tích tham dự và giáo học pháp Participatory Analysis and learning
methods
Chẩn đoán và quyết định có sự tham Diagnosis and Decision with
5 DDP
dự participation
Nghiên cứu hành động tham dự
6 PAR Participatory Action Research
Lập kế hoạch và đánh giá nông thôn PRA and planning
7 PRAP
tham dự
Đánh giá nhanh tham dự
8 PRA Participatory Rapid Appraisal
Đánh giá nhanh dân tộc học tham dự Rapid Ethnic Appraisal with
9 REAP
participation
Phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (Rapid Rural Appraisal – RRA) được đưa
ra vào những năm cuối thập niên 1970 và đã được sử dụng để đưa ra các thông tin
nhanh và chính xác cho việc nhận dạng và đánh giá các chương trình phát triển nông
thôn.
Gần đây, dựa trên kinh nghiệm có được ở An độ, RRA đã nhanh chóng trở thành
phương pháp tham dự và dẫn đến một khái niệm mới là đánh giá nhanh tham dự
(Participatory Rapid Appraisal- PRA). Khái niệm nầy mô tả các cách tiếp cận và
phương pháp tạo ra khả năng cho dân chúng địa phương được chia sẻ và nâng cao kiến
14
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
15. thức của họ về cuộc sống và phân tích các điều kiện nhằm tạo cho họ khả năng lập kế
hoạch và hành động. Một ưu thế lớn nhất của PRA là khả năng trong việc huy động
các thiết chế cộng đồng giải quyết các vấn đề nhằm tăng khả năng bảo đảm đời sống.
PRA cũng làm nâng cao nhận thức của nhóm dân cư địa phương, kể cả các nhóm phụ
nữ về các công việc cần làm, phương pháp và khả năng thực hiện chúng.
Như vậy, triết lý tham dự phát triển cộng đồng được quán triệt vào hai quan điểm
và phương pháp tham dự cơ bản : (1) Phát triển cộng đồng có sự tham dự tích cực của
người dân và (2) Phát triển cộng đồng dựa trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
tham dự. Nhìn chung, hai hình thức tham gia này thực chất là một vì đều dựa trên yêu
cầu thu hút tối đa các thành viên cộng đồng vào quá trình phát triển cộng đồng.
V. Tìm hiểu cộng đồng
1. Các phương pháp tìm hiểu cộng đồng
a. Điều tra xã hội học
b. Tìm hiểu cộng đồng qua thông tin tư liệu
c. Phỏng vấn các lãnh đạo địa phương và những người am hiểu vấn đề
d. Lân la với người dân
e. Tổ chức thảo luận trong dân
f. Điều tra từng mảng vấn đề với sự tham gia chủ động của người dân
2. Tìm hiểu những gì ở cộng đồng
a. Tổng quan về cộng đồng, bao gồm :
Địa lý : vị trí, đất đai, tài nguyên thiên nhiên
Dân số : tổng số dân, giới tính, độ tuổi, độ tuổi lao động, số trẻ em, người
già, thanh niên...
Kinh tế : cơ cấu ngành nghề (công – nông – thương mại dịch vụ), khoa
học kỹ thuật phục vụ kinh tế, tiềm năng phát triển...
Văn hóa xã hội, y tế (trình độ dân trí, vấn đề mù chữ, bỏ học, lớp phổ
cập, cơ sở trường học, bệnh viện, đời sống giáo viên, sức khỏe , môi
trường, phong tục tập quán, tín ngưỡng....)
b. Nhu cầu và các vấn đề của cộng đồng
Nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, việc làm, thu nhập....
Các vấn đề nổi cộm khác : trẻ thiếu chăm sóc, bị lạm dụng, gia đình rạn
nứt, tệ nạn xã hội...
c. Tiềm năng và hạn chế của cộng đồng
d. Các mối quan hệ trong cộng đồng
VI. Phát hiện, phát huy và tổ chức tiềm năng của cộng đồng
1. Phát hiện tiềm năng của cộng đồng như thế nào ?
a. Tiềm năng cộng đồng là gì ?
Khả năng, năng lực, tài nguyên còn tiềm ẩn, bị bỏ quên hay bị gạt ra
ngoài
Đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ xưởng, trình độ văn hóa
tay nghề, khả năng tổ chức, kinh nhgiệm, sức khỏe, tuổi trẻ, hay các tổ
chức phi chính thức tích cực; là sức mạnh tinh thần như nền văn hóa, ước
vọng, tấm lòng, sự nhiệt tình, tinh thần hợp tác, ý chí vươn lên của một
cộng đồng.
15
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
16. Tiềm năng quan trọng nhất là con người.
b. Phát hiện tài nguyên như thế nào ?
Thông qua quá trình “tìm hiểu cộng đồng”, cuộc điều tra tổng hợp ban
đầu.
Qua lân la thăm dò, tác viên sẽ phát hiện những người có uy tín, những
lãnh tụ tự nhiên, các nhóm phi chính thức...
Qua các buổi thảo luận nhóm phát hiện người có ý kiến tốt, sáng tạo...
2. Phát huy tiềm năng của cộng đồng
Đào tạo, huấn luyện là hoạt động cơ bản để xây dựng năng lực cho cộng
đồng.
Kỹ năng tổ chức, quản lý
VII. Mâu thuẫn trong cộng đồng
1. Mâu thuẫn là bình thường
Giữa bất cứ cá nhân, nhóm hay cộng đồng nào cũng có những điểm tương đồng
hay bất đồng về mục đích, quyền lợi, sở thích...
Không có sự tăng trưởng nào mà không trải qua khủng hoảng.
Nền văn hóa VN có xu hướng tránh né sự va chạm, che giấu mâu thuẫn.
Cần đưa ra ánh sáng những ý kiến chưa tương đồng để đạt chân lý cao hơn.
2. Những khó khăn gặp phải trong phát triển cộng đồng trong bối cảnh hiện nay.
Không tổ chức xã hội nào là hoàn hảo, không cá nhân nào là hoàn thiện. Có người
đặt nặng tư lợi trên lợi ích chung.
PTCĐ là phương pháp còn mới mẽ ở nước ta.
3. Phải có thái độ nào và làm gì đối với khó khăn, mâu thuẫn.
Trước tiên phải xem đó là chuyện bình thường, có mâu thuẫn và xử lý mâu thuẩn
mới có tăng trưởng.
Phải làm cho mâu thuẫn tự bộc lộ để có cách xử lý.
4. Nguyên nhân của mâu thuẫn :
Tranh giành quyền lợi với ý muốn thống trị, kiểm soát người khác.
Tranh giành quyền lợi, tài nguyên với mục đích đạt đến sự thỏa mãn nhu cầu nhiều
hơn.
Do quan điểm, nhận thức, nhân cách, cá tính khác nhau. Mâu thuẫn torng trường
hợp nầy nhằm đạt đến cái tôi.
5. Các cách và cấp độ giải quyết mâu thuẫn và vai trò của tác viên.
Các cách và cấp độ giải quyết mâu thuẫn và vai trò của tác viên PTCĐ
Tùy tính chất của mâu Cách làm Hình thức can thiệp của tác
thuẫn mà hai bên có thể viên và kết quả
Tương tác tạo sự thay đổi Tham vấn cung cấp thêm
thông tin xoa dịu, giáo dục,
Hợp tác
tác động. Từ đó tạo điều kiện
cho hai bên thương lượng.
Các bên cùng tham gia bàn Đề ra giải pháp tốt nhất để
bạc tìm giải pháp cùng hợp tác.
16
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
17. Dù có nhiều bất đồng nhưng Cả hai bên cùng thấy mình
cố gắng tìm giải pháp tốt nhất thắng lợi.
để hợp tác.
Có vài mục tiêu tương đồng Tham vấn, cải tiến mối quan
hệ, hòa giải hay thương lượng
để bàn bạc các quyền lợi.
Thương lượng
Có sự đấu tranh đòi lợi ích, Hình thành sức mạnh mỗi bên
ngấm ngầm xuyên tạc nhau, để đưa ra người đại diện
che dấu ý đồ đè bẹp bên kia. chung của tổ chức, mỗi bên
đều cảm thấy thắng lợi một ít.
- Hai bên phân định rõ bên Tác viên làm trung gian phân
đối đầu, không thể thỏa xử, hòa giải, phân tích mâu
hiệp. thuẫn, ngăn chặn bạo lực.
- Xuyên tạc nhau mạnnh và
Đối đầu âm mưu phá nhau.
Có biểu hiện mất bình tĩnh, Một bên thắng thế, nắm
thiếu sự tự chủ. quyền – một bên xuống nước
nhượng bộ – cuối cùng có kẻ
thua người thắng.
Mỗi người đều có ý quyết
thắng, không còn quan tâm
đến giải pháp tốt.
VIII. Giáo dục cộng đồng
Giáo dục cộng đồng không chỉ đơn thuần là giáo dục công dân hay không chỉ gây ý
thức cho những cá nhân riêng lẻ. GDCĐ là giúp cho một cộng đồng được trang bị đầy
đủ để hành động chung, hành động như một cộng đồng, để giải quyết những vấn đề
của mình.
Hai khái niệm chủ yếu trong GDCĐ là xây dựng năng lực (capacity building) và tạo
sức mạnh (empowerment) cho người dân. GDCĐ là để biến đổi CĐ, biến đổi xã hội.
1. Trong giáo dục tráng niên, GDCĐ, học không chỉ để biết, để nâng cao kiến thức
suông, mà để giải quyết một vấn đề của cuộc sống. Do đó nội dung xuất phát từ
nhu cầu cụ thể của một địa phương, của một nhóm đối tượng cụ thể.
2. Đối tượng học là bất cứ ai tham gia vào chương trình phát triển, nhưng học viên
cần được chọn lọc và triệu tập đúng với yêu cầu của chương trình. Có những lớp
cho thanh niên, cho các bà mẹ, phụ lão, các lãnh tụ cộng đồng...
3. Mấy thập kỷ giáo dục phi chính quy đã rút ra các kết luận quan trọng về tâm lý học
tập.
17
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
18. Chúng ta nhớ Những gì chúng ta
Đọc
10%
20% Nghe
30% Thấy
50% Nghe và thấy
80% Nói
90% Nói và làm
4. Học là hành, học bằng hành
CHƯƠNG II
THIẾT KẾ DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
IX.
Dự án PTCĐ là một kế hoạch hành động có sự phối hợp của nhiều lực lượng xã
hội nhằm huy động các nguồn lực, phân bổ chúng một cách hợp lý để tạo ra sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ xã hội, từ đó, tạo ra những chuyển biến xã hội tại cộng
đồng.
Quy trình thiết kế được đi theo một lôgích gồm 5 bước : Nhận diện cộng đồng, xác
định nhu cầu, xác định nguồn lực và trở ngại, xây dựng kế hoạch hoạt động.
Với sư tham gia của người dân trong quá trình thiết kế, không những dự án có
được những căn cứ thực tiễn màcòn là cơ hội để người dân có thể sở hữu ngay từ
đầu dự án. Cộng đồng phải là tác giả tập thể của bản dự án.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG LÀ MỘT LOẠI DỰ ÁN ĐẶC BIỆT
1- Các vấn đề chung
a) Các dự án PTCĐ được ra đời sau thế chiến thứ hai trong các cộng đồng dân định
cư ở đô thị châu Au. Vào thập kỷ 50, 60 , tại đây thường xảy ra xung đột nên các
dự án PTCĐ được xây dựng hướng vào các khu dân cư thiệt thòi, huy động người
dân, sự tham gia của giới nghiên cứu nhằm tìm hiểu và hỗ trợ các hoạt động tập
thể tại chính các nhóm thiệt thòi đó.
b) Dự án là một danh từ được dùng tương đối rộng rãi ở nuớc ta trong những năm
gần đây. Có nhiều loại dự án và cấp làm dự án (dự án cấp xã, huyện, tỉnh, quốc
gia; dự án do cá nhân, tổ chức xã hội, chính phủ, chính quyền các cấp…thực hiện).
c) Nhìn chung, dự án được hiểu như một kế hoạch can thiệp để giúp một cộng đồng
dân cư hoặc cá nhân cải thiện điều kiện sống trên một địa bàn nhất định.
d) Dự án PTCĐ là một loại dự án hướng vào đối tượng là các cộng đồng với mục
đích cuối cùng là tạo ra những chuyển biến xã hội tại cộng đồng. Đây là một kế
hoạch hành động có sự phối hợp của nhiều lực lượng xã hội bên trong và bên
ngoài vì mục tiêu phát triển. Mục tiêu của dự án không phải là mang tiền bạc vật
chất đến cho cộng đồng mà nhằm phát huy sự tham gia của người dân trong cộng
đồng, giúp cho cộng đồng xác định những nhu cầu đích thực của họ cần giải quyết,
giúp họ tự lực, gây ý thức, nghĩa là mang lại cho họ quyền lực để tự giải quyết
những vấn đề của cộng đồng.
18
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
19. Phải làm cho cộng đồng “sở hữu dự án ngay từ đầu đến cuối”, bởi vì khi dự án kết
e)
thúc, chính cộng đồng sẽ duy trì và phát huy hơn nữa những thành quả dự án. Tính
bền vững của dự án được đo bằng kết quả là khi kết thúc dự án, năng lực tổ chức
và duy trì các hoạt động tiếp theo bằng nguồn lực tại chỗ. Mang lại sự biến đổi xã
hội theo hướng tích cực là mục tiêu
f) Dự án PTCĐ được hình thành nhằm tạo ra những điều kiện về kinh tế và xã hội
cho cộng đồng, chú trọng đến tầm quan trọng của việc tham gia của quần chúng,
biết định hướng nhu cầu, tự lực nâng cao ý thức. Loại dự án này xuất phát từ nhu
cầu của cơ sở, qua đó, tăng quyền lực cho cộng đồng. Trọng tâm của các dự án
PTCĐ làm tăng tính hội nhập và bền vững. Một cách lý tưởng, dự án là nơi các
thành viên trong cộng đồng tự tổ chức lại một cách dân chủ để xác định nhu cầu,
các khó khăn và vấn đề, xây dựng kế hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu này, với sự
tham gia tối đa của cộng đồng.
g) Dự án PTCĐ có mục tiêu nhằm giải quyết một hay một vài vấn đề hay đáp ứng các
nhu cầu có thực của cộng đồng. Nếu bên ngoài (Chính phủ, tổ chức xã hội, cá
nhân trong và ngoài nước) có ý định đầu tư và bên trong có nhu cầu nhưng lại
không có khả năng về nguồn lực tài chính, nhân lực, vật lực thì không thể xây
dựng được một dự án. Do đó dự án PTCĐ phải là điểm hội tụ giữa ý định, nhu cầu
và khả năng. Đây là một điểm khác biệt cơ bản giữa dự án PTCĐ và các loại dự án
khác, đặc biệt là so với các dự án mang tính cứu trợ, giải quyết tình huống khẩn
cấp. Sự gặp nhau vì mục tiêu phát triển, sự thống nhất về triết lý và phương pháp
hành động, đó là cơ sở quan trọng để cho các dự án PTCĐ có thể triển khai tại
cộng đồng. Sơ đồ sau đây minh họa cho các vấn đề nói trên.
Nhu cầu
Y định của
của người
chúng ta
dân
DỰ ÁN
Khả năng
của chúng
ta
Ở hầu hết các cộng đồng tại các nước đang phát triển, PTCĐ là một trong những chiến
lược cơ bản để cải thiện điều kiện sống của người dân, nhất là những nhóm bị thiệt
thòi. Nỗ lực PTCĐ ở những nước nầy thường do các tổ chức có mục tiêu và nhiệm vụ
khác nhau khởi xướng, đỡ đầu hay khuyến khích, thuộc 4 nhóm chủ yếu sau :
19
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
20. Các cơ quan thuộc Trung ương, tỉnh, thành phố hoặc địa phương.
Các tổ chức phát triển quốc tế hay các tổ chức tài trợ ở các nước phát triển.
Các tổ chức từ thiện tư nhân bản xứ hoặc các tổ chức phi chính phủ.
Các tổ chức cộng đồng hoặc các nhóm cộng đồng địa phương.
Hoạt động PTCĐ rất đa dạng về hình thức :
Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng chủ yếu là hệ thống giao thông nông thôn, điện,
thủy lợi, chuyển giao công nghệ thích hợp.
Phát triển hệ thống thiết chế xã hội cơ bản như giáo dục, y tế và chăm sóc sức
khỏe (chăm sóc sức khỏe ban đầu, dinh dưỡng, nước sạch và vệ sinh môi trường,
sức khỏe sinh sản… là những vấn đề ưu tiên).
Phát triển năng lực quản lý.
Xây dựng hệ thống tín dụng nông thôn.
Xóa đói giảm nghèo.
Bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa, phát triển các loại hình nghệ thuật.
Hạ tầng cơ Tín dụng & xoá Chăm sóc sức Phát triển
khoẻ ban đầu
đói giảm nghèo
sở năng lực quản
(PHC) lý
Dinh dưỡng Bảo vệ nguồn
tài nguyên
DỰ
Giáo dục CD
ÁN
và xóa mù An sinh xã hội
PHÁT
chữ
TRIỂN
Bảo tồn di sản
Tạo việc làm
văn hóa
Nước sạch vệ Chuyển giao
sinh môi công nghệ
trường
Mục tiêu của các can thiệp do dự án đem lại là tạo ra sự thay đổi trong nhận thức và
hành động tập thể của cộng đồng, nhờ đó, các lực lượng xã hội bên trong và bên ngoài
cộng đồng quyết tâm thực hiện các kế hoạch hành động nhằm nag lại sự thay đổi về
điều kiện/môi trường sống. Từ đó, nhận thức, năng lực và kỹ năng tổ chức các hoạt
động được nâng cao, tạo cơ sở cho việc hình thành những dự án mới, nhờ vậy tình
trạng xã hội của CĐ lại được cải thiện ở mức cao hơn.
Hệ quả có tính liên tục của dự án phát triển cộng đồng.
20
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
21. Bên
ngoài
Nhận thức về
các hành động
Tình Tình Tình
tập thể được
trạng trạng trạng
xã xã nâng cao hơn xã
DỰ
DỰ
hội hội hội
ÁN
ÁN được được
chậm MỚ
Năng lực và kỹ
phát cải cải
I
năng tổ chức thiện
triển thiện
các hoạt động hơn
tập thể được
Bên nữa
DỰ
nâng lên
trong
ÁN
MỚ
I
CAN CÁC HỆ QUẢ CỦA DỰ ÁN
THIỆP PTCĐ
2- Định nghĩa : Dự án là gì ?
2.1 Từ điển Xã hội học của David Jary và Julia Jary đưa ra định nghĩa như sau :
Những kế hoạch của địa phương được thiết lập với mục đích hỗ trợ các hành động
cộng đồng và phát triển cộng đồng.
2.2 Theo Nguyễn thị Oanh :
Dự án là sự can thiệp một cách có kế hoạch nhằm đạt một hay một số mục tiêu
cùng hoàn thành những chỉ báo thực hiện đã định trước tại một địa bàn và
trong một khoảng thời gian nhất định, có huy động sự tham gia thực sự của
những tác nhân và tổ chức cụ thể.
Dự án là một tổng thể có kế hoạch những hoạt động (công việc) nhằm đạt một
số mục tiêu cụ thể trong một khoảng thời gian và trong khuôn khổ chi phí nhất
định.
Dự án nhánh (sub-project) là những dự án nhỏ nằm trong một dự án, và
thường được thực hiện trên một địa bàn hay với một cộng đồng.
Chương trình (program) là tổ hợp các dự án có cùng một mục đích hay
chủ đề. Chương trình là một loạt những dự án làm cùng một việc tại một
nơi và trong một khoảng thời gian nhất định. Chương trình cũng có thể chỉ
ra một số mục tiêu và tiêu chuẩn chung, con các dự án được thực hiện ở
nhiều nơi khác nhau (trong phạm vi một vùng, một nước hay cả thế giới)
vào những thời điểm khác nhau. Chương trình có thể bao gồm nhiều dự án
có liên quan với nhau và lồng ghép trong một tổng thể.
21
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
22. Ví dụ : tổ chức X lo về an sinh trẻ em có chương trình “Hỗ trợ trẻ em trong
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”, chương trình này có một số dự án như dự án
“trẻ đường phố”, dự án “trẻ mại dâm”, dự án “phòng chống trẻ bị lạm dụng
tình dục”, dự án “hỗ trợ thu nhập cho gia đình của một hoặc cả ba nhóm trẻ
nói trên”, v.v…
2.3 Định nghĩa : Dự án PTCĐ là một loại dự án phát triển nhằm giải quyết một hay
một số các vấn đề của cộng đồng với sự tham gia tích cực của nhiều lực lượng xã hội
(bên trong và bên ngoài, chính thức và phi chính thức), thể hiện bằng một kế hoạch
can thiệp hay một chương trình hành động được xác định bởi một khung thời gian,
nhân lực, tài chính và các vấn đề quản lý khác.
THIẾT KẾ DỰ ÁN
Xây dựng dự án PTCĐ có nhiều mô hình khác nhau. Mô hình sau đây hỗ trợ
những người làm công tác phát triển, những người lãnh đạo cộng đồng và những
người tham gia có thể dựa vào đây để xây dựng kế hoạch thực hiện hoặc lượng giá
những dự án quy mô nhỏ trong các lĩnh vực khác nhau. Trình tự có thể thay đổi hay
điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
Có ba giai đoạn chủ yếu của một chu trình dự án :
Giai đoạn 1 : Thiết kế dự án
- Nhận diện cộng đồng
- Xác định nhu cầu
- Xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể
- Đánh giá nguồn lực và các cản trở
- Hoạch định các hoạt động
Giai đoạn 2 : Thực hiện
Giai đoạn 3 : Đánh giá (lượng giá)
1- Giai đoạn 1 :
1.1. Nhận diện cộng đồng : Nhận diện cộng đồng là bước khởi động đầu tiên.
Hiểu biết có hệ thống tình trạng hiện nay của CĐ sẽ giúp xác định và làm cơ sở cho
quá trình xây dựng một dự án phản ánh đúng tình hình thực tiễn, có tính khả thi. Quá
trình tìm hiểu cộng đồng có thể có nhiều tên gọi như chẩn đoán cộng đồng, nhận diện
cộng đồng, phân tích cộng đồng…. Nhưng nhìn chung đều phải bao quát nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống cộng đồng. Đó là :
Các hoạt động kinh tế
Kết cấu cơ sở hạ tầng
Cơ cấu chính trị hiện hành
Đặc điểm dân số – lao động
Sự phân tầng xã hội và các mối tương quan quyền lực
Các tổ chức trong cộng đồng, chức năng, nhiệm vụ và các hoạt động
Phương thức lãnh đạo và ảnh hưởng của phương thức này
Những khía cạnh văn hóa hay truyền thống
22
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com
23. Tình trạng sức khoẻ, vệ sinh và dinh dưỡng
Các vấn đề về giáo dục, các vấn đề xã hội, tệ nạn xã hội
Những vấn đề cấp thiết và những vấn đề cần phải xử lý, giải quyết.
Đây là các thông tin chung mà mỗi dự án cần phải thu thập. Tùy vào mục tiêu, nội
dung và phạm vi can thiệp mà mỗi dự án sẽ chọn một hướng thu thập thông tin riêng,
ví dụ, một dự án văn hóa cộng đồng ngoài việc phải thu thập một số thông tin chung ở
trên, có thể cần phải thu thập thêm các thông tin sau :
Các sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Các sinhhoạt văn hóa tại gia đình : cưới, tang ma, các lễ kỷ niệm, các hình thức
thờ tự…
Các thiết chế văn hóa cổ truyền : đình, chùa, miếu…
Phong tục tập quán cổ truyền, hệ giá trị, chuẩn mực hiện đại…
Các chuyển đổi văn hóa
Quan hệ trong gia đình
Quan hệ họ tộc
Quan hệ láng giềng
Quan hệ với cộng đồng khác
Hệ thống thiết chế truyền tải văn hóa
Hệ thống tổ chức và quản lý văn hóa
Các hình thức sáng tạo văn hóa nghệ thuật
Các nhóm sáng tạo văn hóa nghệ thuật
Nguồn văn hóa được hưởng thụ
Các hình thức hưởng thụ nghệ thuật : thời gian, địa điểm, loại hình …
Các nguồn lực tại chỗ
Các nhóm xã hội liên quan tới công việc của dự án
Các mạnh thường quân.
Việc phân tích tình hình có thể là một công việc phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian. Các
dự án lớn thường tiến hành một cuộc nghiên cứu, có thể là điều tra định lượng, có thể
là nghiên cứu định tính. Việc phân tích tình hình ở giai đoạn này có một ý nghĩa :
Phân tích tình hình giúp xác định bối cảnh hoạt động của dự án, hiểu biết về điều
kiện kinh tế xã hội, văn hóa, chính trị của CĐ.
Giúp CĐ nhận diện được những vấn đề ảnh hưởng tới người dân và thấy được nhu
cầu cần phải được hành động để đem lại những thay đổi như mong muốn.
Tạo cơ hội ban đầu huy động người dân trong CĐ tham gia xác định những khó
khăn và những vấn đề cần phải giải quyết, là cơ hội thúc đẩy sự hướng tới các hoạt
động tập thể bên trong CĐ.
Cung cấp cơ sở dữ liệu xây dựng nội dung cũng như hoạt động giám sát, lượng giá
tác động cuối cùng của dự án.
23
PDF created with pdfFactory trial version www.pdffactory.com