Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ NGÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ "DUY TÌNH"
TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ
CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO TẠI VIỆT NAM
MÃ TÀI LIỆU: 81222
ZALO: 0917.193.864
Dịch vụ viết bài điểm cao :luanvantrust.com
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Hà Nội – 2013
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ NGÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ "DUY TÌNH"
TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ
CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO TẠI VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền
Hà Nội – 2013
3. 5
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU...........................................................................7
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................8
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................8
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................12
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................13
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ...........................................13
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..............................................................15
7. Cấu trúc luận văn.............................................................................19
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ YẾU TỐ “DUY TÌNH” TRONG VĂN
HÓA PHƢƠNG ĐÔNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN
QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VỚI NHÀ BÁO...........................................20
1.1 Yếu tố “duy tình” trong văn hóa phương Đông .............................20
1.1.1 Khái niệm “duy tình”....................................................................20
1.1.2 Những biểu hiện của yếu tố “duy tình” ........................................22
1.2 Mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo...............................26
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của mối quan hệ...........................................26
1.2.2 Ảnh hưởng của yếu tố ”duy tình” tới mối quan hệ giữa nhân viên
QHCC và nhà báo...................................................................................33
Tiểu kết chương 1.........................................................................................41
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ “DUY
TÌNH” TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ
CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO TẠI VIỆT NAM...................................43
2.1 Quá trình thiết kế nghiên cứu.........................................................43
4. 6
2.2 Kết quả khảo sát về ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam.......................48
2.2.1 Biểu hiện của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên
QHCC và nhà báo...................................................................................48
2.2.2 Mức độ ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo ..................................................................53
Tiểu kết chương 2.........................................................................................68
CHƢƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ TÌNH
CẢM GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO
................................................................................................................... 70
3.1 Cách xây dựng và duy trì tính tích cực của yếu tố “duy tình” trong
mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo .....................................70
3.1.1 Duy trì việc gặp gỡ và liên lạc thường xuyên giữa hai nhóm .......70
3.1.2 Xây dựng sự tin tưởng, kiểm soát, cam kết, hài lòng và thể diện
trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo............................78
3.1.3 Tôn trọng và thấu hiểu tính chất nghề nghiệp của hai bên............80
3.1.4 Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của nhân viên QHCC...83
3.1.5 Sự thiện chí của lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan báo chí.........84
3.2 Cách tiết chế ảnh hưởng tiêu cực của yếu tố "duy tình" trong quan
hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo......................................................87
Tiểu kết chương 3.........................................................................................90
KẾT LUẬN..................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................96
PHỤ LỤC...................................................................................................104
5. 7
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Nhận diện dạng tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo
Bảng 2.2: Đánh giá về nguồn gốc của yếu tố tình cảm trong mối quan hệ
giữa nhân viên QHCC và nhà báo
Bảng 2.3: Biểu hiện thường thấy của yếu tố tình cảm trong mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo
Bảng 2.4: Quan điểm về hình thức tặng quà bằng phong bì đối với nhà báo
Bảng 2.5: Đánh giá về lợi ích trong công việc khi nhân viên QHCC và nhà
báo xây dựng được mối quan hệ thân thiết
Bảng 2.6: Đánh giá về lợi ích có được nguồn tin nhanh và chính xác khi xây
dựng mối quan hệ tốt giữa nhân viên QHCC và nhà báo
Bảng 2.7: Nhân viên QHCC được ưu ái trong xử lý khủng hoảng khi xây
dựng mối quan hệ tốt với nhà báo
Bảng 2.8: Quan điểm về việc hình thành mẫu quan hệ truyền thông tích cực
khi xây dựng mối quan hệ có tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo
Bảng 3.1: Quan điểm về việc nhân viên QHCC nên duy trì việc tặng quà nhà
báo
Bảng 3.2: Các hoạt động khác cần duy trì để tăng cường mối quan hệ thân
thiết giữa nhân viên QHCC và nhà báo
Bảng 3.3: Cách thức để nhân viên QHCC và nhà báo cảm nhận được tình
cảm lẫn nhau
Bảng 3.4: Giải pháp tiết chế để giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân viên
QHCC và nhà báo
6. 8
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông hiện nay thì các mối
quan hệ truyền thông cũng được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau.
Đặc biệt, mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC luôn được quan tâm
và nghiên cứu ở nhiều khía cạnh. Không phải ngẫu nhiên mà trong một nghiên
cứu về quan hệ truyền thông đã khẳng định: “Mối quan hệ giữa nhân viên
quan hệ công chúng (QHCC) và nhà báo đóng vai trò quan trọng cho sự thành
công của quan hệ truyền thông” (Shin & Kim, 2002).
Ở cả góc độ lý thuyết và thực tiễn, mối quan hệ này thể hiện vai trò rất
quan trọng đối với quan hệ xã hội nói chung và quan hệ truyền thông nói riêng.
Tại Việt Nam, quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo ngày càng phát triển
ở mức sâu rộng. Dễ dàng bắt gặp những tờ báo, những hoạt động tài trợ, những
chương trình truyền hình, thậm chí là những tin tức hàng ngày đều có bóng
dáng của hoạt động QHCC. Cho nên, ở khía cạnh nào đó, có thể nói báo chí
hiện nay gần như không thể tách rời hoàn toàn với hoạt động truyền thông của
các công ty truyền thông, các phòng QHCC, nhân viên làm QHCC của các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, các bộ, ngành… [52].
Trên thế giới, mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo cũng được
quan tâm và khai thác từ lâu, thể hiện qua hàng loạt các nghiên cứu có giá trị
như: Relationship management in Public Relations: Dimensions of an
Organization Public Relationship (John A. Ledingham and Stephen D.
Bruning, 1998), A Cross – Cultural, Multiple – Item Scale for Measuring
Organization Public Relationship (Yi-Hui Huang, 1997), Face and favor: the
Chinese power game (Hwang, K. 1987), Journal of Public Relations
7. 9
research (Broom, G., Casey, C. & Ritchey, J. 1997), Media relations in Korea
Cheong between journalist and PR (Dan Berkowitz, Jonghyuk Lee, 2004)….
Có một điểm chung trong các nghiên cứu này, đó là các mối quan hệ truyền
thông đều được xây dựng trên nền tảng văn hóa vùng miền, môi trường truyền
thông… của từng quốc gia cụ thể. Thực tiễn cũng cho thấy, ở Mỹ và nhiều
nước phương Tây khác, mối quan hệ giữa các nhân viên QHCC và nhà báo
được coi là không tốt, thiếu sự tin tưởng và thậm chí coi thường nhau, với một
mức độ nhất định của khoảng cách xã hội tồn tại giữa 2 nhóm (Cameron, G.
T., Sallot, L. M.,&Curtin, P. A, 1997).
Ngược lại, đối với văn hóa phương Đông, sự lấn át của quan hệ cá nhân
đang ảnh hưởng tới mối quan hệ đặc biệt giữa nhân viên QHCC và nhà báo.
Cụ thể như, một phương diện của văn hóa Hàn Quốc, được gọi là “Cheong”
đã tạo nên một đặc điểm chung của mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và
nhà báo, mang 2 nhóm lại gần nhau hơn mà không làm ảnh hưởng đến đẳng
cấp chuyên nghiệp của hai ngành [23]. Cũng như vậy, ở Trung Quốc, người
ta dùng 4 nguyên tắc vàng là Guanxi, Mianzi, Renqing và Bao làm nền tảng
cho sự ứng xử giữa báo chí với doanh nghiệp (Kwang-kuo Hwang, 1987). Ở
các nước châu Á cũng có những nghiên cứu dựa trên các nền văn hóa độc đáo
của họ như các nghiên cứu của Hanpongpandh (2002); Huang (2000); Kelly,
Masumoto & Gibson (2002). Các nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng, mối quan hệ
thành công giữa nhân viên QHCC và nhà báo tương ứng với từng tình hình
văn hóa cụ thể, vẽ nên sắc thái cho phong cách văn hóa của việc tương tác
giữa người với người, chứ không hẳn là được chuẩn hóa trong các xã hội và
hệ thống báo chí [33].
Nằm trong vùng văn hóa phương Đông, nền văn hóa Việt Nam có bản
sắc đậm đà và được khái quát bằng chữ “Tình” hay còn gọi là “duy tình”
8. 10
theo chữ của Trần Quốc Vượng [19]. Người Việt Nam đặt yếu tố “duy tình”
lên trên tất cả các mối quan hệ ứng xử trong xã hội, và mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo không nằm ngoài điều đó. Duy tình là đặc trưng văn
hóa giao tiếp của người Việt thông qua các biểu hiện như coi trọng tình cảm,
coi trọng cộng đồng, biết giữ thể diện cho nhau… Mặt khác, khái niệm về
Quan hệ công chúng (Public relation) có nguồn gốc từ nước ngoài, nhưng khi
vào Việt Nam đã được “Việt hóa” theo văn hóa bản địa. Để hiểu đúng và vận
dụng đúng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo cần phải nghiên
cứu nó trong bối cảnh truyền thông và văn hóa của Việt Nam.Từ góc nhìn
quan trọng này, người nghiên cứu đã phát hiện ra một vấn đề khá thú vị và
mới mẻ cần được nghiên cứu dưới góc nhìn liên ngành báo chí và QHCC. Đó
là đề tài : “Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam”.
Có thể nói, mối quan hệ nghề nghiệp bao hàm luôn quan hệ công việc
và mối quan hệ tình cảm. Trong đó, quan hệ công việc chịu ảnh hưởng nhiều
hơn của yếu tố “duy lý” – một yếu tố đương nhiên trong mối quan hệ nghề
nghiệp. Tuy nhiên, ở góc độ quan hệ tình cảm lại chịu sự chi phối của yếu tố
“duy tình” – yếu tố “mềm” có ảnh hưởng ít nhiều tới mối quan hệ nghề nghiệp,
nhất là mối quan hệ dựa trên một nền văn hóa như Việt Nam. Việc đưa yếu tố
“duy tình” vận dụng hiệu quả trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và
nhà báo thì hầu như các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam chưa nhắc đến.
Từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Ảnh hưởng
của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo
tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài
ra, việc lựa chọn nghiên cứu “Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong
9. 11
mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam” sẽ giúp giải đáp
được câu hỏi: có thực sự tồn tại yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ này hay
không? Nếu có, nó đã và đang tồn tại ở mức độ nào? Những mặt tích cực và
tiêu cực của nó? Nếu muốn vận dụng yếu tố “duy tình” này trong mối quan
hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo thì nên vận dụng và tiết chế ra sao? Lời
đáp cho các câu hỏi trên sẽ giúp chúng ta tìm thấy được giải pháp xây dựng
mối quan hệ hai chiều giữa nhân viên QHCC và nhà báo đạt hiệu quả tốt nhất.
Điều này rất hữu ích cho cả nhà báo, nhân viên QHCCvà sự phát triển của
ngành truyền thông ở Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
QHCC là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong nghiên cứu về truyền
thông đại chúng. Trong thực tiễn, đây cũng là bộ phận rất được các doanh
nghiệp chú trọng và được đặt riêng cho sứ mệnh quảng bá, xây dựng thương
hiệu cho doanh nghiệp. Một trong những nhiệm vụ sống còn của QHCC đó là
xây dựng mối quan hệ tốt với báo chí hay cụ thể hơn là với các nhà báo, bởi
các doanh nghiệp không thể xây dựng thương hiệu của mình một cách thuận
lợi nếu thiếu đi sự trợ giúp từ các phương tiện truyền thông đại chúng nói
chung và các nhà báo nói riêng. Tuy nhiên, xây dựng mối quan hệ này ở mức
độ thân thiết, hiệu quả bằng cách vận dụng văn hóa “duy tình” của người Việt
thì không hề dễ dàng bởi ranh giới giữa tính tích cực và tiêu cực của nó rất
mỏng manh.
Luận văn đã kết hợp giữa hệ thống lý thuyết về QHCC hiện đại thực tiễn
QHCC tại Việt Nam để khảo sát mức độ tình cảm đang tồn tại mối quan hệ
giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam, những biểu hiện và ảnh hưởng
từ mối quan hệ này tới nghề nghiệp của hai bên. Từ đó, luận văn đưa ra những
nhận xét, đánh giá và đề xuất những giải pháp để phát triển một
10. 12
cách tích cực yếu tố “duy tình” giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Những kết
quả này đóng góp tích cực vào hoạt động xây dựng quan hệ báo chí tại các
doanh nghiệp hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo trong thực tiễn.
Cụ thể, trong nội dung nghiên cứu luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tổng hợp các cơ sở lý luận về các vấn đề xây dựng và phát triển mối
quan hệ nói chung, mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo
nói riêng và những tác động của mối quan hệ này.
Tìm hiểu thực trạng mối quan hệ giữa nhà báo và QHCC tại Việt
Nam hiện nay
Khám phá ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam nói chung, của yếu tố
tình cảm cá nhân (ở đây là yếu tố “duy tình”) trong văn hóa Việt
Nam nói riêng đến mối quan hệ của nhân viên QHCC và nhà báo
Đề xuất phương pháp xây dựng, duy trì và phát triển mối quan hệ 2
chiều giữa 2 nhóm: nhân viên QHCC và nhà báo một cách có hiệu
quả cao nhất cho lợi ích của hai bên
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo dưới sự ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong văn
hóa Việt Nam, trong bối cảnh truyền thông được phát triển mạnh mẽ tại
các doanh nghiệp, tổ chức.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào hai nhóm đối tượng sau:
11. 13
- Nhân viên QHCC đang làm việc trong bộ phận QHCC của các
doanh nghiệp có uy tín tại Việt Nam và có mối quan hệ với các
phóng viên, nhà báo.
- Nhà báo Việt Nam làm việc tại các cơ quan báo in, đài phát thanh,
truyền hình, báo mạng internet, thông tấn xã..., có mối quan hệ với
các nhân viên QHCC thuộc các doanh nghiệp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng khoa
học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta. Đồng thời, luận văn được nghiên cứu dựa trên kế thừa hệ thống lý thuyết
về truyền thông, QHCC liên quan đến đề tài đã được công bố.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể sẽ bao gồm cả nghiên cứu định tính và
định lượng. Cụ thể, luận văn sẽ tiến hành bằng bảng hỏi với 2 nhóm đối
tượng là nhân viên QHCC đang làm việc tại các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp và nhà báo đang làm việc tại các cơ quan báo chí….về quan điểm
của họ về sự tồn tại và các biểu hiện của yếu tố “duy tình” trong mối quan
hệ giữa 2 nhóm đối tượng, đóng góp ý kiến để xây dựng mối quan hệ này.
Đồng thời, luận văn kết hợp phỏng vấn sâu với các cặp nhân viên QHCC
và nhà báo để làm rõ hơn thái độ, hành vi, cách thức…xây dựng mối quan
hệ trở nên thân thiết, có “Tình” giữa họ.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Có thể nói, mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên
QHCC là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong lý thuyết về QHCC
và truyền thông đại chúng hiện đại. Trong những năm qua, các nhà nghiên
12. 14
cứu về truyền thông thế giới đã dày công tìm hiểu, nghiên cứu và đưa ra những
công trình lý luận về vấn đề này.
Trong những năm gần đây, QHCC (PR) đã trở thành một lĩnh vực thu hút
được sự quan tâm rất lớn tại Việt Nam, năm 2007, nghề QHCC được xếp hạng
là 10 nghề “nóng” nhất trên thị trường [8, tr.28]. Nhiều công ty liên doanh,
công ty nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cũng như các cơ
quan nhà nước, các tổ chức phi chính phủ đã có sự quan tâm hơn đến việc
phát triển các phòng, ban, bộ phận hay sử dụng dịch vụ QHCC trong tổ chức
của mình. Thực tế này cũng đòi hỏi những người làm trong ngành QHCC tại
Việt Nam cần có những nghiên cứu sâu về lĩnh vực này để có một hệ thống
lý thuyết vững chắc cho các hoạt động nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, hoạt
động nghiên cứu về QHCC còn rất mới mẻ ở Việt Nam, số lượng công trình
nghiên cứu sâu còn rất ít. Luận văn là tài liệu tổng quan về mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo, về những phương thức xây dựng, duy trì, và
phát triển mối quan hệ thân thiết mang lại lợi ích nghề nghiệp giữa hai nhóm
này. Với ý nghĩa đó, luận văn có thể góp phần xây dựng hệ thống lý luận về
QHCC nói chung qua việc nghiên cứu cụ thể về hoạt động QHCC từ bối cảnh
thực tiễn của Việt Nam. Những vấn đề lý luận mà luận văn đề cập, phân tích,
đúc kết sẽ giúp những người đào tạo, nghiên cứu có thêm tài liệu tham khảo.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn là một đề tài nghiên cứu mang tính ứng dụng
cao trong giai đoạn hiện nay. Thông qua những khảo sát, đánh giá cụ thể, luận
văn xây dựng một tài liệu có hệ thống về thực trạng mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo. Đồng thời, luận văn khảo sát được mức độ tình cảm,
những biểu hiện cũng như ảnh hưởng mối quan hệ giữa họ hiện nay, cũng như
chỉ ra những nhóm giải pháp để duy trì tính tích cực, tiết chế
13. 15
tính tiêu cực và vận dụng hiệu quả mối quan hệ này trong công việc của cả
hai nhóm. Một khi đã nhận diện được rõ ràng bản chất của chữ Tình và các
giải pháp để vận dụng vào thực tiễn thì nó sẽ giúp ích rất nhiều cho người học
về QHCC, cho nhà báo, cho các tổ chức – cơ quan – doanh nghiệp, cho sự
phát triển của ngành truyền thông tại Việt Nam. Nó cũng giúp cho các nhân
viên thực hành QHCC hiểu được những vấn đề cốt lõi trong mối quan hệ với
báo chí, áp dụng các phương pháp để xây dựng mối quan hệ nghề nghiệp với
nhà báo nói riêng và các nhóm công chúng khác nói chung. Bên cạnh đó, luận
văn cũng có thể là tài liệu tham khảo có giá trị ứng dụng dành cho những ai
quan tâm đến lĩnh vực QHCC nói chung, QHCC ở Việt Nam nói riêng.
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự liên hệ giữa các ngành nghề với nhau như bác sĩ với nhân viên quan
hệ công chúng, y tá với bác sĩ… đều là những đề tài được khoa học trên thế
giới phát hiện và khai thác. Đặc biệt, mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và
nhà báo thì được quan tâm hơn khi các học giả, các nhà nghiên cứu và thậm
chí là cả giới QHCC và nhà báo cũng đã bắt tay vào tìm hiểu từ nhiều khía
cạnh khác nhau. Cho đến nay, những vấn đề nghiên cứu xuất phát từ mối
quan hệ này vẫn không ngừng được khai thác. Điều này được lý giải bởi sự
thay đổi của môi trường xã hội, môi trường truyền thông diễn ra từng ngày và
mối quan hệ giữa giới báo chí và QHCC cũng dần thay đổi để thích nghi với
thực tế hơn. Do đó, luôn phải nghiên cứu để có cái nhìn mới nhất, cách vận
dụng mới nhất quan hệ truyền thông này tạo hiệu quả tốt nhất cho nghề nghiệp
của cả hai nhóm.
Trên thế giới, có thể kể đến một số nghiên cứu điển hình như việc khái
quát các chiến lược khác nhau để một tổ chức tiếp cận và xây dựng,
14. 16
phát triển mối quan hệ với các nhóm công chúng (Cutlip, 2000) hay Sriramesh
và Yi-Hui Huang đi sâu nghiên cứu các thang đo mức độ thân thiết của các
mối quan hệ, và các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các bên, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh các yếu tố nền như bối cảnh văn hóa, chính trị, xã hội;
Samsup Jo và Yungwook Kim (2004) thì quan tâm đến mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo ở các nền văn hóa phương Đông…Ngoài ra, còn có
một số tác phẩm nghiên cứu cụ thể như:
Using Role theory to study cross perceptions of journalist and PR
practitioner (Andrew Belz, Albert D. Talbott, Kenneth Starek): Các
tác giả đã sử dụng lý thuyết Role để nghiên cứu về mối quan hệ giữa
nhà báo và nhân viên QHCC.
The Excellence Theory (James E. Grunig, Larissa A. Grunig and
D.M. Dozier, 2002): Đây là lý thuyết về phòng QHCC chuyên nghiệp,
các tác giả đã khái quát mô hình các mối quan hệ giữa một tổ chức
với các nhóm công chúng mục tiêu của nó.
Image of “Hong Bo (PR)” and PR in Korean newspaper (Jongmin
Park, 2001): Công trình này nghiên cứu những đặc điểm của khái
niệm “Hong Bo” và QHCC trên báo chí Hàn Quốc.
On Deadline: Management Media Relations (Management Media
Relations, 2000): Công trình nghiên cứu về quản lý quan hệ truyền
thông.
Effective PR (Scott M.Cutlip, AllenH.Center, Glen M.Broom, 2001):
Công trình nghiên cứu về hiệu quả của quan hệ công chúng
15. 17
The Chinese Concepts of Guanxi, Mianzi, Renqing and Bao Their
Interrelationships and Implications for International Business (Alvin
M. Chan, 2002): nghiên cứu về 4 khái niệm có sự ảnh hưởng trong
quan hệ làm ăn ở Trung Quốc là Quan hệ, Thể diện, Thiện ý và Sự
báo đáp.
The Roles of Xinyong and Guanxi in Chinese Relationship marketing
(Leung, Lai, Chan, Wong, 2005): Nghiên cứu về mối quan hệ của Sự
tin cậy và Mối quan hệ trong tiếp thị tại Trung Quốc…
Ở Việt Nam, một trong những nghiên cứu đầu tiên về QHCC là luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Huyền (2001) về “Quan hệ công chúng và báo
chí ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận văn này đã bước
đầu xây dựng hệ thống khái niệm về QHCC, và chỉ ra các đặc điểm trong mối
quan hệ giữa QHCC và báo chí ở Việt Nam, tuy nhiên, chưa đề cập đến các
phương thức cụ thể để xây dựng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và các
nhà báo. Năm 2009, Nguyễn Thị Thanh Huyền tiếp tục công bố kết quả nghiên
cứu đồng định hướng (co-orientation study) về mối quan hệ giữa nhân viên
QHCC và nhà báo ở Việt Nam thông qua luận án tiến sĩ bảo vệ tại Hàn Quốc
(Huyen, 2009). Trong luận án đó, ngoài các nội dung nghiên cứu khác, tác giả
đã sử dụng các thang đo mối quan hệ của Yi-Hui Huang (2001) và mô hình
nghiên cứu của Sriramesh (1986) để đánh giá mức độ hiểu biết, tin tưởng, hài
lòng, và cam kết hợp tác giữa nhân viên QHCC và nhà báo ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu khác về QHCC được công bố tại Việt Nam
như: “PR kiến thức cơ bản và đạo đức nghề nghiệp” (2007), “Ngành PR tại
Việt Nam” (2010), “PR lý luận và ứng dụng” (2010) của PGS. TS. Đinh Thị
16. 18
Thúy Hằng gần như là khung lý thuyết cơ bản và đầu tiên cho các học viên
của ngành. Năm 2010, TS. Đỗ Thị Thu Hằng cũng cho ra mắt cuốn sách “PR
– công cụ phát triển báo chí” xoay quanh các kỹ năng thực hiện, quản trị và
giải pháp thực thi nhằm phát triển PR của các cơ quan báo chí ở nước ta hiện
nay Tuy nhiên, các công trình này mới tập trung vào các vấn đề của ngành
QHCC chứ chưa đi sâu vào khía cạnh “mối quan hệ” cũng như chưa đưa ra
phương thức cụ thể để xây dựng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà
báo hiện nay.
Trong các luận văn thạc sĩ bên dưới, các tác giả đã bước đầu đề cập đến
một vài khía cạnh liên quan đến đề tài của luận văn này: “Tác động của báo
chí với doanh nghiệp” (Nguyễn Thanh Hương, luận văn thạc sĩ, Trường Đại
học KHXH & NV, 2010), “Hiện trạng và giải pháp về hoạt động quan hệ công
chúng trong các ngân hàng tại Việt Nam” (Đặng Thị Châu Giang, luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học KHXH & NV, 2006), “Vai trò của báo chí trong việc
xây dựng và quảng bá thương hiệu doanh nghiệp hiện nay, khảo sát trên báo
Thời báo Kinh tế Việt Nam, báo Lao Động và Diễn đàn Doanh nghiệp năm
2008 – 2010” (Trần Thị Tú Mai, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học KHXH &
NV, 2010), “Mối quan hệ giữa PR và báo chí, khảo sát một số doanh nghiệp
và cơ quan báo chí giai đoạn 2006 – 2008” (Nguyễn Thị Nhuận, luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học KHXH & NV, 2008), “Vai trò của báo chí trong việc phát
triển thương hiệu” (Đỗ Thị Hoa Quỳnh, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học
KHXH & NV, 2009)…
Các luận văn nói trên đã đem đến nhiều góc nhìn sinh động về thực
trạng mối quan hệ giữa doanh nghiệp và báo chí, nhưng đều chưa lý giải được
mối quan hệ đó từ góc nhìn lý luận QHCC, và trong một số trường hợp còn tỏ
ra nhầm lẫn về quan niệm QHCC như một chức năng quản trị thương
17. 19
hiệu tổ chức/ doanh nghiệp thay vì chỉ là công cụ đánh bóng tên tuổi của tổ
chức/ doanh nghiệp trên báo chí mà thôi.
Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Phương thức xây dựng và phát triển mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo trong các doanh nghiệp Việt Nam”
của Vũ Thu Hà (2012) đã làm sáng tỏ hơn mối quan hệ truyền thông này bằng
các lý thuyết QHCC, đưa ra các phương thức xây dựng mối quan hệ hai
chiều… Tuy nhiên, hướng nghiên cứu về sự tác động của yếu tố văn hóa tới
mối quan hệ này thì hầu như chưa có nghiên cứu nào trước đó đề cập đến một
cách kỹ lưỡng. Như vậy, đề tài “Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam” là một hướng nghiên
cứu mới mẻ và không hề trùng lặp, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần vào việc
xây dựng quan hệ truyền thông nước nhà ngày càng phát triển.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về yếu tố “duy tình” trong văn hóa phương Đông
và mối quan hệ giữa nhân viên QHCC với nhà báo
Chương 2: Phân tích sự ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam
Chương 3: Các biện pháp xây dựng mối quan hệ tình cảm giữa nhân
viên QHCC với nhà báo
18. 20
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ YẾU TỐ “DUY TÌNH” TRONG VĂN
HÓAPHƢƠNG ĐÔNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN
QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VỚI NHÀ BÁO
Yếu tố “duy tình” trong văn hóa phƣơng Đông
1.1.1 Khái niệm “duy tình”
Văn hoá “duy tình” là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu nhắc
đến khi nghiên cứu về văn hoá Việt Nam. Khái niệm này nhằm nhấn mạnh
một trong những đặc điểm của người Việt là coi trọng tình cảm. Tâm lí coi
trọng tình cảm và hành vi ứng xử thiên về tình cảm của người Việt được thể
hiện trong tất cả các mối quan hệ: với xã hội, với thiên nhiên ...
Nói về lối sống duy tình, từ rất sớm, tác giả Đào Duy Anh đã nhắc đến
trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương”: “Ở trong gia tộc và con ăn ở với
nhau chỉ cốt cảm tính ..trong việc giao thiệp với người dưng hàng xứ cũng chỉ
trọng cảm tình, chỉ căn cứ vào lòng tín nghĩa” [1, tr. 327]. Trong các nghiên
cứu về văn hóa Việt Nam sau này, lối sống trọng cảm tình đó được các nhà
nghiên cứu gọi tên là “duy tình” hay “trọng tình”.
Trong khi xem xét môi trường xã hội Việt Nam với 4 yếu tố, giáo sư
Trần Quốc Vượng đã dùng chữ “duy tình” ở yếu tố thứ tư "văn hóa Việt Nam
có đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước, mang tính chất tiểu nông, duy
tình với cơ cấu tĩnh (tương đối)…" [19, tr.42]. Cũng trong cuốn Cơ sở văn
hóa Việt Nam này, tác giả tiếp tục gọi tên lối sống của người Việt ta bằng khái
niệm “trọng tình”: “Về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp
ưa tổ chức xã hội theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định với nhau
nên phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận, lấy tình nghĩa làm đầu” [19, tr. 71].
19. 21
Cũng với ý nghĩa phản ánh về lối sống “lấy tình cảm làm nguyên tắc
ứng xử”, tác giả Trần Ngọc Thêm đã sử dụng thuật ngữ “lối sống trọng tình”
[17, tr.158]. Hoặc khi bàn về nghệ thuật ngôn từ của người Việt, tác giả cũng
dùng thuật ngữ “văn hóa trọng tình”. Trần Ngọc Thêm cũng khẳng định “đặc
trưng của văn hóa nông nghiệp là sống trọng tình” [17, tr.296].
Như vậy, cùng một văn hóa giao tiếp nhưng có 2 cách gọi tên là “duy
tình” và “trọng tình”. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chọn sử dụng
thuật ngữ “duy tình” vì nó gợi mở đến thuật ngữ “duy lý”. “Duy tình” và “duy
lý” là hai biểu hiện đặc trưng của văn hóa phương Đông và phương Tây. Lối
sống “duy tình” này trái ngược với lối sống “duy lý” của phương Tây. Trong
khi “duy tình” đặt chữ Tình lên trên mọi mối quan hệ và lấy đó làm nguyên
tắc ứng xử với các mối quan hệ trong xã hội thì “duy lý” luôn coi trọng quy
luật khách quan, coi trọng lý trí và tư duy logic. Theo tác giả Trần Ngọc Thêm,
tư duy “trọng tình” có nguồn gốc từ nền văn hóa gốc nông nghiệp. Về nguyên
tắc tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức theo nguyên tắc
trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống
hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “một bồ cái lý không bằng một tí
cái tình” (tục ngữ). Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức,
trọng văn, trọng phụ nữ. Ngược lại, duy lý có nguồn gốc từ văn hóa du mục
với nguyên tắc tổ chức cộng đồng là trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng
nam giới [17].
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa gốc nông nghiệp, xã hội Việt Nam
hàng ngàn năm nay là một xã hội nông nghiệp. Vì thế, căn tính nông dân và
văn hóa tiểu nông đã ăn sâu trong đời sống, tiềm thức, lối sinh hoạt và ứng xử
của con người Việt Nam, trong đó, các giá trị gia đình và cộng đồng luôn được
đặt lên trên các giá trị cá nhân. Văn hóa “duy tình” được thể hiện qua
20. 22
tâm lý coi trọng tình cảm, qua hành vi, qua cách ứng xử của người Việt trong
tất cả các mối quan hệ với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội trong đó có
quan hệ ứng xử giữa người với người. Đó là lối sống, là cách ứng xử, giao
tiếp thiên về khuynh hướng tình cảm, thân mật. Bên cạnh đó là tính cộng đồng,
trọng nghĩa, trọng tình, giữ thể diện cho nhau. Lịch sử hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta cũng ghi nhận lối sống, cách cư xử khéo léo,
hòa hảo trong ngoại giao với các nước láng giềng đặc biệt là sự khoan dung,
cách giữ thể diện của người Việt ngay cả đối với kẻ thù đã bị thua trận. Như
vậy, “duy tình” là một đặc trưng về lối sống được người Việt sử dụng trong
toàn bộ quá trình giao tiếp, ứng xử của mình.
Tuy nhiên, yếu tố “duy tình” không chỉ tồn tại trong văn hóa Việt Nam
mà có trong nhiều nước chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đông như Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Ví dụ, ở Trung Quốc, không có mối quan
hệ nào đơn thuần chỉ là mối quan hệ mà giữa chúng luôn tồn tại một sợi dây
liên hệ nào đó. Guanxi, Mianzi, Renqing và Bao cũng chính là những khái
niệm văn hóa cơ bản của người Trung Quốc, được vận dụng sâu sắc trong các
mối quan hệ xã hội nói chung và quan hệ giao thương nói riêng. Trong văn
hóa Hàn Quốc, tình “Cheong” là một yếu tố không thể thiếu trong nền tảng
các mối quan hệ trong gia đình cũng như ngoài xã hội…
1.1.2 Những biểu hiện của yếu tố “duy tình”
Lấy chữ “Tình” làm nguyên tắc ứng xử
Đối với văn hóa phương Đông, xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước,
những người trong làng sống nương tựa vào nhau, vì nhau, sống theo tinh
thần cộng đồng, do đó họ đối xử với nhau rất có tình cảm. Mọi vấn đề
nảy sinh đều được giải quyết bằng tình nghĩa họ hàng, bà con, láng giềng
21. 23
một cách mềm dẻo. Có người ví văn hoá ứng xử phương Đông mềm dẻo và
linh hoạt như nước. Vì vậy mềm dẻo, trọng tình thực sự là một đặc trưng của
văn hoá ứng xử phương Đông. Người ta sống với nhau bằng tình cảm thương
yêu, bằng tinh thần cộng đồng, vì vậy sẵn sàng giúp đỡ nhau trong những lúc
hoạn nạn, khó khăn, theo tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Văn hóa “duy tình”
của người Việt được thể hiện qua tâm lý coi trọng tình cảm, qua hành vi, qua
cách ứng xử của người Việt trong tất cả các mối quan hệ với môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội trong đó có quan hệ ứng xử giữa người với người...
Đó là lối sống, là cách ứng xử, giao tiếp thiên về khuynh hướng tình cảm, thân
mật. Bên cạnh đó là tính cộng đồng, trọng nghĩa, trọng tình, giữ thể diện cho
nhau.
Xuất phát từ văn hóa gốc nông nghiệp với đặc điểm “trọng tình” (Trần
Ngọc Thêm, 2000) đó đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm, lấy sự yêu
sự ghét làm nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp, từ đó người Việt dễ dàng dựa
trên tình cảm mà bỏ qua cho nhau những lỗi lầm hay những bất đồng trong
cuộc sống: “Yêu nhau chín bỏ làm mười”, “Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét
nhau bồ hòn cũng méo” hay “Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả
tông ti họ hàng”, “Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm
mười”, “Yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Người Việt
ứng xử trong các mối quan hệ xã hội của mình bằng cái tình, khi cần cân nhắc
giữa tình với lý thì tình được đặt cao hơn lý: “Một bồ cái lý không bằng một
tý cái tình”.
Điều này dẫn đến thói quen và tư duy “đi cửa sau”. Đây là sản phẩm
của lối sống duy tình, người Việt ít khi vận dụng tính chất duy lý vào giải
22. 24
quyết công việc mà muốn dùng tình cảm, mối quan hệ để giải quyết vấn đề.
Điều này được cho là thuận lợi và nhanh chóng được việc hơn.
Người Việt Nam cũng có tính thích được tặng quà và nhận quà. Tặng
quà cho mọi người vào dịp lễ, tết được coi như một nét đẹp trong văn hóa của
người Việt, Chúng ta thường tặng quà cho ông bà, cha mẹ, chị em, bạn bè, đối
tác… Tặng quà ngày tết đem lại niềm vui cho cả người tặng và người nhận.
Trong việc thể hiện tình cảm giữa người với người, việc trao tặng quà đã từ
lâu trở thành một nét việc làm hết sức cần thiết. Người ta tặng quà cho nhau
nhân ngày sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới, tặng dịp lễ tết, tặng nhân ngày tân
gia, mừng cấp trên thăng chức, tặng quà lưu niệm giữa các đối tác… Việc
tặng quà chỉ đơn thuần là giúp gắn kết tình cảm giữa người với người.
Bên cạnh đó, người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Đã là những
người có mối quan hệ thân thiết thì cho dù hàng ngày có gặp nhau ở đâu, bao
nhiêu lần đi nữa, những lúc rảnh rỗi, họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng nhau
đây không còn là nhu cầu công việc mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa,
có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ. Điều này rất khác so với văn hóa của
người phương Tây, họ thường chỉ đi thăm viếng những người mà bình thường
mình ít có điều kiện gặp gỡ. Bên cạnh đó, người Việt Nam cũng có tính hiếu
khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo
khó đến đâu, cũng cố gắng tiếp đón một cách chu đáo và tiếp đãi một cách
thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, các đồ ăn ngon nhất: “Khách
đến nhà chẳng gà thì gỏi”, bởi lẽ “đói năm, không ai đói bữa” (tục ngữ).
Coi trọng cộng đồng
Trong quan hệ giữa người với người, văn hoá phương Đông nặng về
tính cộng đồng và cách ứng xử tình cảm, mềm dẻo. Cả hai phẩm chất này,
23. 25
suy cho cùng, cũng là do loại hình văn hoá gốc nông nghiệp chi phối. Trong
sản xuất nông nghiệp, các gia đình nông dân cùng canh tác trên một cánh
đồng, ruộng đất nhà này tiếp giáp ruộng đất nhà kia. Để có được năng suất,
những người nông dân trong làng không thể không liên kết với nhau. Chỉ có
đoàn kết con người mới chống được thiên tai. “Lụt thì lút cả làng” - vì vậy chỉ
có sự đồng tâm hiệp lực của cả làng, cả xã thì mới đắp được đập, được đê
ngăn nước. Muốn chống hạn, diệt sâu bệnh, chuột bọ... cũng cần sức mạnh
của cả làng. Môi trường canh tác mang tính tập thể như thế chính là cơ sở để
nảy sinh tính cộng đồng [17].
Đặc trưng này của văn hoá phương Đông khiến mỗi người khi hành
động luôn luôn phải nghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, xã hội. Trong làng,
người dân thường tránh những việc làm phương hại đến tập thể. Từ đây nảy
sinh quan điểm sống vì tập thể. Vì tập thể, người ta sẵn sàng hi sinh lợi ích cá
nhân. Cũng vì thế mà người phương Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách
nhiệm (trong khi phương Tây thì coi trọng quyền lợi). Quả thực, trong việc
chống chọi với thiên tai, địch hoạ, nếu không có tinh thần trách nhiệm được
đề lên thành nghĩa vụ thì không thể có được chiến thắng.
Giữ thể diện cho nhau
Trong truyền thống của người Việt Nam, thể diện, danh dự là điều vô
cùng quan trọng. Tâm lý trọng danh dự đã ăn sâu vào trong suy nghĩ, lối sống
của dân tộc ta: “Tốt danh hơn lành áo”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”,
“Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”. Chính vì quá coi trọng danh dự mà
người Việt mắc bệnh sĩ diện. Ở thôn làng, thói sĩ diễn thể hiện càng rõ ràng,
trầm trọng, nhất là tục chia phần “một miếng giữa làng bằng một sàng xó
bếp”.
24. 26
Người Trung quốc từng có câu “con người cần thể diện như cây cần có
vỏ”. Ở Trung Quốc, trong các mối quan hệ, việc giữ thể diện cho nhau rất
được coi trọng bởi đặc trưng văn hóa của người Trung Quốc luôn trong danh
dự, giữ gìn danh tiếng cho người đối thoại hoặc bên liên quan.
Việc tạo dựng và giữ gìn thể diện đối với người phương Đông xưa mà
nói, còn quý hơn cả mạng sống. Có thể nói, thể diện được xem như là một
trong những yếu tố quan trọng làm nên một mối quan hệ xã hội và tác động
đến việc xây dựng thành công mối quan hệ này. Thời gian và những biến động
xã hội đã khiến giá trị của thể diện giảm đi nhiều, để đạt được mục đích người
ta dám từ bỏ nhiều thứ, trong đó có thể diện. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
được sự quan trọng của nó trong các yếu tố của đời sống [19].
Mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của mối quan hệ
Khái niệm mối quan hệ
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2009, tr.799, Nxb. Đà
Nẵng, Trung tâm Từ điển học) thì: “Quan hệ là sự gắn liền về mặt nào đó
giữa hai hay nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có sự biến đổi, thay đổi
thì có thể tác động đến sự sự vật kia”. Định nghĩa này đề cập đến sự tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các bên trong mối quan hệ, nhưng lại chỉ nhấn mạnh
mối quan hệ của các “sự vật”, mà không đề cập đến mối quan hệ giữa con
người với nhau.
Mối quan hệ (Relationship) trong từ điển tiếng Anh có nghĩa là mối
liên hệ, mối quan hệ, đồng thời nó cũng biểu thị sự giao thiệp hay liên lạc với
ai đó.
25. 27
Trong lĩnh vực QHCC, rất nhiều chuyên gia cho rằng, việc xây dựng,
duy trì, phát triển mối quan hệ (relationship) là một trong những chức năng
chính của nghề này. Ferguson (1984) là học giả đầu tiên trong lĩnh vực QHCC
kêu gọi việc coi mối quan hệ là đơn vị nghiên cứu trọng tâm của lĩnh vực
QHCC. Khảo sát 171 bản tóm tắt và các nghiên cứu toàn văn trên tạp chí khoa
học “Public Relations Review” từ năm 1975 đến năm 1984, Ferguson đã đề
nghị phải có một định nghĩa thống nhất về mối quan hệ, và gợi ý có thể phân
tích một mối quan hệ dựa trên các yếu tố như: động/ tĩnh, mở/ đóng, hài lòng/
không hài lòng… (Huyen, 2009).
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ferguson, hàng loạt các nhà khoa học về
QHCC đã bắt tay tìm kiếm các định nghĩa về mối quan hệ - đơn vị nghiên cứu
được coi là quan trọng nhất của lĩnh vực QHCC. Có rất nhiều góc độ tiếp cận
khác nhau được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành. Chẳng hạn, tiếp cận
từ góc độ ảnh hưởng của mối quan hệ, Ledingham and Bruning (1998) định
nghĩa mối quan hệ là “tình trạng tồn tại giữa một tổ chức và các nhóm công
chúng chủ yếu của nó trong đó hành động của mỗi bên đều ảnh hưởng đến
kinh tế, xã hội, chính trị hoặc đời sống văn hóa của bên kia”. Trong khi đó, từ
góc độ đặc điểm của mối quan hệ, Huang (1998) thì cho rằng mối quan hệ là
“mức độ mà một tổ chức và công chúng của nó tin tưởng lẫn nhau, chấp nhận
việc bên nào có quyền gây ảnh hưởng đến bên kia nhiều hơn, mức độ hài lòng
về nhau, và cam kết hợp tác với nhau”. Những yếu tố trong định nghĩa này đã
được Huang (1998) xác định thang đo lường, đánh giá mức độ cụ thể. Định
nghĩa này cũng được giới nghiên cứu đánh giá rất cao và liên tục sử dụng
trong nhiều công trình nghiên cứu QHCC về sau.
Đặc điểm Mối quan hệ
26. 28
Mối quan hệ nhà báo – nhân viên QHCC được hình thành qua quá trình
hợp tác, làm việc cùng nhau. Cả hai bên, đặc biệt là nhân viên QHCC luôn
muốn xây dựng mối quan hệ này theo hướng hợp tác, cởi mở, bình đẳng, hai
bên cùng có lợi. Trong quá trình nghiên cứu về mối quan hệ nói chung, các
nghiên cứu của phương Tây đã đưa ra bốn yếu tố đóng vai trò như một cấu
trúc cơ bản trong quan hệ truyền thông, đó là: sự tin tưởng, sự kiểm soát lẫn
nhau, sự hài lòng và cam kết với nhau trong mối quan hệ. Chúng ta có thể tìm
thấy 4 yếu tố này được trình bày rất rõ trong nghiên cứu của J. E. Grunig &
Huang (2000). Bên cạnh đó, những đặc điểm liên quan này xuất hiện thường
xuyên và thống nhất trong các nghiên cứu về các mối quan hệ giữa người với
người và mối quan hệ giữa các tổ chức: Tin tưởng (L. A. Grunig, J. E. Grunig,
& Ehling, 1992; Stafford & Canary, 1991), Kiểm soát lẫn nhau (Burgoon &
Hale, 1984, 1987; Canary & Spitzberg, 1989; Canary & Stafford, 1992;
Ferguson, 1984; Stafford & Canary, 1991), Cam kết, trách nhiệm với nhau
(Aldrich, 1975, 1979; Burgoon & Hale, 1984, 1987; Canary & Spitzberg,
1989; Canary & Stafford, 1992), và Sự hài lòng (Ferguson, 1984; L. A. Grunig
et al., 1992). Ngoài ra, từ những nghiên cứu của Bond & Hwang (1986)
Hwang, (1987) Yang (1981) về mối quan hệ trong xã hội Trung Hoa, Huang
(2001) đã khái quát lại những đặc điểm của mối quan hệ thành 5 đặc điểm cơ
bản sau đây:
Sự tin tƣởng lẫn nhau
Khi tìm hiểu về mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC, Canary
và Cupach (1988) đã quan niệm sự tin tưởng như là “một sự sẵn sàng thử
thách bản thân mình bởi vì các đối tác quan hệ được coi là nhân từ và trung
thực”. Còn Morgan và Hunt (1994) lại xác định sự tin tưởng là “hiện tại, khi
một bên có sự tự tin về độ đáng tin cậy và tính toàn vẹn của
27. 29
đối tác trao đổi”. Tổng hợp lại, trong mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên
QHCC, sự tin tưởng thể hiện ra ở sự tự tin và sự sẵn sàng mở rộng chính mình
để giao tiếp một cách công bằng và thẳng thắn với bên kia. Vì vậy, Hon và J.
E. Grunig (1999) xác định sự tin tưởng là “mức độ tự tin và sẵn sàng của một
bên để cởi mở bản thân mình với bên kia”.
Niềm tin luôn là một cấu trúc quan trọng trong lĩnh vực QHCC. Bruning
và Ledingham (1999) đã khái quát sự tin tưởng như là 1 trong 9 khía cạnh
trong hoạt động QHCC trong tổ chức, doanh nghiệp (Organizational Public
Relations – OPR). Tương tự như vậy, L. A. Grunig,
J. E. Grunig và Ehling (1992) nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tin tưởng và
sự tín nhiệm, bởi vì chính sự tin tưởng từ công chúng cho phép một tổ chức
tồn tại.
Sự tin tưởng cũng là một khái niệm quan trọng trong mối quan hệ giữa
các cá nhân (Canary & Cupach, 1988) và giữa các tổ chức. Một vài nghiên
cứu đã xem xét sự tin tưởng và thiếu tin tưởng trong các mối quan hệ. Nghiên
cứu cửa Huang (1999) đã chứng minh rằng ngoài sự kiểm soát lẫn nhau, sự
tin tưởng là yếu tố quan trọng thứ hai trong OPRA (Đánh giá QHCC trong tổ
chức, doanh nghiệp): Niềm tin giữa một tổ chức và công chúng của tổ chức
ấy có thể gián tiếp điều chỉnh hiệu quả của các chiến lược giải quyết xung đột
trong QHCC. Để cụ thể hơn, các dữ liệu thực nghiệm đã cho thấy rằng việc
sử dụng truyền thông hai chiều cân xứng kể trên có thể tạo nên và củng cố sự
tin tưởng trong OPR.
Mức độ kiểm soát lẫn nhau
Hai nhà nghiên cứu Stafford và Canary (1991) đã định nghĩa sự kiểm
soát lẫn nhau trong mối quan hệ giữa con người hoặc giữa các nhóm người là
mức độ mà người ta thỏa thuận xem ai là người nên quyết định các mục
28. 30
tiêu của mối quan hệ và phép ứng xử. Khái niệm kiểm soát lẫn nhau cũng
tương tự như các khái niệm khác được đánh giá là rất quan trọng trong giao
tiếp như khái niệm “có đi có lại” trong nghiên cứu của Aldrich (1975, 1979),
“sự phân chia quyền lực trong mối quan hệ” của Ferguson’s (1984), và “sự
trao quyền” trong khái niệm của Moore (1986). Hon và J. E. Grunig (1999)
xác định sự kiểm soát lẫn nhau là “mức độ mà các bên đồng ý về (những)
người có quyền lực hợp pháp để ảnh hưởng đến ngưới khác”. Về bản chất, ý
thức kiểm soát lẫn nhau giữa các bên đối lập nhau trong một mối quan hệ là
rất quan trọng đối với tính phụ thuộc và tính ổn định trong mối quan hệ
(Stafford & Canary, 1991). Hơn nữa, khái niệm về sự kiểm soát lẫn nhau là
sự phù hợp trong việc thực hiện các mối quan hệ nằm trong QHCC, đặc biệt
trong việc xây dựng quan hệ với giới truyền thông hoặc đạo đức nghề nghiệp
của nhân viên QHCC.
Nghiên cứu của Huang (1999) đã chỉ ra rằng sự kiểm soát lẫn nhau là
một trong hai yếu tố chính tác động gián tiếp đến QHCC trong chiến lược giải
quyết xung đột (yếu tố chính khác là sự tin tưởng). Cụ thể hơn, Huang đã
chứng minh rằng việc sử dụng truyền thông hai chiều cân xứng (two- ways
symmetrical communication) có thể tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau một cách
hiệu quả trong các mối quan hệ. Sự kiểm soát lẫn nhau có thể tạo cảm hứng
cho công chúng đối lập tìm kiếm các giải pháp sáng tạo và cùng có lợi hoặc
tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên thứ ba để giải quyết cuộc xung đột. Tóm lại, để một
mối quan hệ ổn định, tích cực, việc kiểm soát lẫn nhau giữa các bên nên tồn
tại ở một mức độ nào đó.
Mức độ cam kết hợp tác trong mối quan hệ
Quan hệ cam kết (Relational commitment) trong mối quan hệ nhà báo
và nhân viên QHCC được Hon và J. E. Grunig (1999) định nghĩa là “mức độ
29. 31
mà một bên tin tưởng và cảm thấy rằng mối quan hệ là xứng đáng để để duy
trì và thúc đẩy”. Trong nghiên cứu này, hai khía cạnh của sự cam kết cho một
OPR đã được nhấn mạnh: cam kết tình cảm và cam kết duy trì. Morgan và
Hunt (1994) định nghĩa sự cam kết trong quan hệ là một đối tác trao đổi tin
rằng một mối quan hệ đang diễn ra với người khác là rất quan trọng để đảm
bảo những nỗ lực tối đa trong việc duy trì nó, có nghĩa là các bên cam kết tin
rằng mối quan hệ đó đáng để thúc đẩy và giữ gìn để đảm bảo rằng nó tồn tại
lâu dài. Họ cũng trích dẫn Moorman, Zaltman, và Deshpande (1992), nhấn
mạnh rằng sự cam kết cho một mối quan hệ là “một mong muốn lâu dài để
duy trì một mối quan hệ có giá trị”, và kết luận rằng sự cam kết là trung tâm
đối với mối quan hệ tổ chức và các đối tác khác nhau của nó.
Tương tự, sự cam kết được xem xét như là một chỉ số hiệu quả của các
mối quan hệ nội bộ trong việc thiết lập các mối quan hệ. Ví dụ, sự cam kết lúc
nào cũng gắn chặt với công dân có tính tổ chức cao, việc tuyển dụng và tiến
hành đào tạo và việc hỗ trợ tổ chức (Morgan & Hunt, 1994). Trong các mối
quan hệ dịch vụ, Berry và Parasuraman (1991) đã khẳng định rằng các mối
quan hệ được xây dựng trên nền tảng là sự cam kết lẫn nhau. Morgan và Hunt
quan niệm về lòng trung thành với thương hiệu như là một hình thức cam kết.
Mức độ hài lòng trong mối quan hệ
Không giống như sự kiểm soát lẫn nhau và sự tin tưởng vốn xuất phát
từ nhận thức của con người, sự hài lòng về mối quan hệ (relational
satisfaction) trong mối quan hệ giữa con người nói chung, giữa nhà báo và
nhân viên QHCC nói riêng gắn với tình cảm và cảm xúc. Hon và J. E. Grunig
(1999) đã định nghĩa sự hài lòng của các mối quan hệ là “mức độ mà một bên
cảm thấy thỏa mãn với các bên khác do sự kỳ vọng theo hướng tích
30. 32
cực về mối quan hệ được tăng cường”. Tương tự như vậy, Hecht (1978) quan
niệm sự hài lòng cũng giống như sự phản ứng của tình cảm một cách thuận
lợi để làm tăng cường những mong muốn, suy nghĩ tích cực trong một hoàn
cảnh thực tế nhất định. Họ cũng chỉ ra rằng việc nhận thức được sự duy trì
cách cư xử của các đối tác làm tăng sự hài lòng của người đó với mối quan
hệ, và do đó, họ kết luận sự hài lòng trong quan hệ có thể là dấu hiệu duy trì
quan hệ hiệu quả.
Tầm quan trọng của sự hài lòng trong mối quan hệ nói chung và mối
quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC nói riêng là một đặc tính quan trọng
quyết định đến tính thân mật, gắn kết của mối mối quan hệ, điều này đã được
thừa nhận rộng rãi (Ferguson, 1984; Millar & Rogers, 1976; Stafford &
Canary, 1991). Theo đề nghị của Hendrick (1988), sự hài lòng của các mối
quan hệ là một trong những lĩnh vực chính của việc đánh giá mối quan hệ, với
nhiều biện pháp để đánh giá cảm xúc, suy nghĩ, hoặc hành vi trong các mối
quan hệ thân tình.
Giữ thể diện cho nhau
Đặc điểm thứ 5 phản ánh mức độ gắn kết, thân thiết trong mối quan hệ
giữa giữa tổ chức và các nhóm công chúng của nó nói chung, giữa nhân viên
QHCC của doanh nghiệp và nhà báo nói riêng là việc giữ gìn thể diện hoặc sĩ
diện, danh dự cho nhau. Đặc điểm này ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ
trong không gian văn hóa phương Đông.
Như trên đã đề cập, Huang (2001) đã khái quát lên đặc điểm thứ 5 này
thông qua các công trình nghiên cứu của Bond và Hwang (1986), Hwang
(1987), Yang (1981) về mối quan hệ trong xã hội Trung Hoa, cũng từ đó
Huang khẳng định rằng những đặc trưng về quan hệ xã hội của các nền văn
hóa nói chung, của nền văn hóa phương Đông nói riêng có ảnh hưởng đến
31. 33
tính chất của các mối quan hệ ít nhiều. Những kết luận đó được minh chứng
qua các nghiên cứu về quan hệ xã hội trong nền văn minh Trung Hoa, một
trong những nền văn minh có ảnh hưởng lớn trong khu vực châu Á nói chung,
Việt Nam nói riêng.
Cụ thể, qua phân tích tâm lý xã hội của người dân Trung Hoa, Bond và
Hwang đã nhận thấy ảnh hưởng từ các yếu tố, giáo lý của Nho giáo trong các
mối quan hệ xã hội cũng như trong suy nghĩ, lối sống và tâm lý của người
Trung Hoa. Họ nhận thấy rằng trong xã hội Trung Hoa, con người tồn tại
thông qua và được xác định bởi các quan hệ của họ với những người khác.
Những mối quan hệ này được cấu trúc một cách có thứ bậc, tôn ti, và trật tự
xã hội được đảm bảo thông qua những yêu cầu về sự tôn trọng vai trò của mỗi
bên trong các mối quan hệ.
Nghiên cứu này của Hwang cũng cho thấy rằng, muốn xây dựng mối
quan hệ với người khác thì tình cảm là thứ cần được cho đi, và một trong
những điều quan trọng nhất của việc giữ gìn và phát triển mối quan hệ đó là
giữ thể diện, danh dự cho đối tác. Đó là những điểm mấu chốt để tạo dựng
một mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội Trung Quốc nói riêng, cũng như một số
nước phương Đông nói chung, trong đó có Việt Nam chúng ta.
1.2.2 Ảnh hƣởng của yếu tố ”duy tình” tới mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo
Có rất nhiều yếu tố khác nhau gây ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa
các nhóm người trong xã hội. Từ góc nhìn lý luận về QHCC, các nhà nghiên
cứu đã đề cập đến các yếu tố cơ bản có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ
giữa tổ chức và các nhóm công chúng của nó. Cụ thể là các yếu tố văn hóa,
chính trị, xã hội, môi trường truyền thông, cấu trúc của tổ chức
(organizational structure)… QHCC là một bộ phận không thể tách rời và
32. 34
đồng thời cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng, tác động của các yếu tố
chính trị, kinh tế, xã hội và đặc biệt là văn hóa... Hoạt động truyền thông của
các doanh nghiệp, tổ chức trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều chịu ảnh
hưởng, tác động của nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài chính vì vậy
việc xây dựng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo cũng chịu tác
động lớn bởi các yếu tố này. Các yếu tố này có tác động gián tiếp đến việc
xây dựng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Nó có thể thúc đẩy
hay kìm hãm việc xây dựng, phát triển mối quan hệ này.
Mọi mối quan hệ của con người trong xã hội đều bị chi phối bởi các đặc
trưng văn hóa trong xã hội mà con người ta đang sống. Vì vậy, muốn tìm hiểu
về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo thì không thể bỏ qua những
đặc trưng văn hóa ảnh hưởng đến mối quan hệ này, hay nói một cách khác hơn
thì mối quan hệ này cần được nghiên cứu, tìm hiểu dưới góc nhìn văn hóa.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “văn hóa là một chỉnh thể phức
hợp bao gồm các kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, phong tục và các
năng lực, thói quen mà một con người tạo ra trong xã hội ” [33, page. 1]. Theo
định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một, nó bao gồm tất cả những lĩnh
vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật,
đạo đức, pháp luật… Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản cuốn
sách “Culture a critical review of concepts and definitions”. Trong đó hai tác
giả đã trích dẫn ra khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa
ra ở nhiều nước khác nhau, từ đó có thể nhận thấy “văn hóa” là một khái niệm
rất phức tạp và có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong cuốn sách này, A.L.
Kroeber và Kluckhohn cũng đưa ra một định nghĩa: “Văn hóa là những mô
hình hành động minh thị và ám thị được
33. 35
truyền đạt dựa trên những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng
nhóm người… Hệ thống văn hóa vừa là kết quả của một hành vi vừa trở thành
nguyên nhân tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo” [28].
Tại Việt Nam, văn hóa cũng được nhiều học giả định nghĩa rất khác
nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [19, tr.21]. Với cách hiểu này, văn
hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Còn
cố chủ tịch Phạm Văn Đồng thì cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh
vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là
thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát
triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống
giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự
nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh
của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không
ngừng lớn mạnh” [19, tr.22].
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả
ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa
do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo
hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức
hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng,
miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương
mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người,
34. 36
những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”, còn hiểu theo
nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi
phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc
thù riêng” [19, tr.22].
Sở dĩ văn hóa có nhiều cách hiểu và được nhiều học giả nghiên cứu đến
vậy bởi những ảnh hưởng to lớn của nó đến mọi mặt trong đời sống xã hội
của con người, trong cách ăn, mặc, ở, đi lại, đối xử, giao tiếp... Mọi mối
quan hệ trong xã hội của con người đều cần được nhìn dưới góc nhìn văn hóa,
truyền thống để thấy rõ được những đặc trưng, ảnh hưởng đến mối quan hệ
đó và mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC trong doanh nghiệp cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012) đã khẳng
định: “Văn hóa là một biến số quan trọng trong nghiên cứu về quan hệ công
chúng” [40, tr.157]
Giữa xã hội phương Đông và phương Tây còn có sự khác biệt về các
nhìn nhận vai trò của cá nhân trong xã hội. Phương Đông coi trọng vai trò của
cộng đồng, phương Tây coi trọng vai trò của cá nhân. Văn hóa Việt Nam là
nền văn hóa gốc nông nghiệp, xã hội Việt Nam hàng ngàn năm nay là một xã
hội nông nghiệp. Vì thế, căn tính nông dân và văn hóa tiểu nông đã ăn sâu
trong đời sống, tiềm thức, lối sinh hoạt và ứng xử của con người Việt Nam,
trong đó, các giá trị gia đình và cộng đồng luôn được đặt lên trên các giá trị
cá nhân... Một trong những đặc trưng văn hóa của người Việt Nam đó là văn
hóa “duy tình” (Trần Quốc Vượng, 2005). Trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt
Nam”, tác giả Trần Quốc Vượng đã nhận định: “Con người vừa là chủ thể
nhưng vừa là khách thể của văn hóa. Có nhìn nhận văn hóa như một chỉnh
thể thống nhất, chúng ta mới lý giải được mối quan hệ hữu cơ giữa con người
với con người, giữa con người với xã hội, giữa
35. 37
con người với tự nhiên...”. Như vậy, các mối quan hệ của con người trong xã
hội trong đó có QHCC đều bị chi phối, ảnh hưởng bởi văn hóa.
Phải đến cuối thế kỷ XX, QHCC chuyên nghiệp mới chính thức có mặt
tại Việt Nam, nhưng những hoạt động cơ bản của QHCC đã được hiện hữu
trong đời sống của cha ông ta từ xa xưa, đặc biệt là trong văn hóa giao tiếp
của người Việt [40]. Cha ông ta đã ý thức được tác dụng thay đổi nhận thức
của con người thông qua giao tiếp, và đã được đúc kết thành các câu thành
ngữ như: “nói ngọt lọt đến xương”, “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà
nói cho vừa lòng nhau”, “nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu
rồi lại bay”... Rõ ràng, văn hóa ngàn đời nay của người Việt Nam luôn coi
trong việc giao tiếp, ứng xử một cách khéo léo để xây dựng mối quan hệ tốt
đẹp giữa người với người, xây dựng một mối quan hệ hợp tác tốt đẹp, sự gắn
kết giữa một cộng đồng hòa thuận. Trong các mối quan hệ xã hội của mình,
người Việt Nam thường “nhìn trước ngó sau”, “ăn ở như bát nước đầy”...
Đồng thời, người Việt Nam sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ
gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng. Chính tính cộng
đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao
tiếp. Sự giao tiếp tạo ra mối quan hệ và củng cố tình thân.
Từ những đặc trưng trong văn hóa và tính cách của người Việt đã có
những ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ truyền thông tại Việt Nam nói chung và
quan hệ giữa nhà báo – nhân viên QHCC nói riêng. Khi xây dựng được một
mối quan hệ thân thiết, bền chặt với nhà báo, yếu tố tình cảm của mối quan
hệ này sẽ giúp cho công việc của cả nhân viên QHCC và nhà báo gặp nhiều
thuận lợi hơn. Nhà báo có thể vì cái tình với nhân viên QHCC mà cố tình nhắc
đến tên doanh nghiệp trong những tin bài của mình hay cố tình bỏ
36. 38
qua, làm ngơ hoặc “giơ cao đánh khẽ” đối với những vụ bê bối, khủng hoảng
hay những vấn đề khúc mắc mà doanh nghiệp đang gặp phải. Và cũng vì cái
tình của mối quan hệ, vì muốn giữ thể diện cho nhau nên nhà báo đi dự họp
báo của doanh nghiệp, tham gia các hoạt động khai trương, động thổ, các ngày
kỷ niệm quan trọng của doanh nghiệp và đưa tin, bài. Có thể nói, tại mỗi quốc
gia, vùng miền với môi trường văn hóa, xã hội đặc trưng thì lại có những đặc
trưng riêng để xây dựng các mối quan hệ xã hội trong đó có quan hệ nhà báo
và nhân viên QHCC.
Các nước phương Tây, với đặc trưng văn hóa “duy lý” các mối quan hệ
nhà báo và nhân viên QHCC được xây dựng dựa trên sự tin tưởng, hài lòng,
cam kết, kiểm soát lẫn nhau. Tuy nhiên tại các nước phương Đông, thì ngoài
những yếu tố trên, việc giữ thể diện, danh dự, uy tín cho nhau, và đặc biệt là
tình cảm với nhau lại là yếu tố quan trọng có tính quyết định đến việc xây
dựng và phát triển các mối quan hệ, trong đó có quan hệ nhà báo và nhân viên
QHCC. Hơn thế nữa, trong mỗi một quốc gia với những đặc trưng văn hóa và
môi trường xã hội khác nhau thì việc xây dựng mối quan hệ lại có những sự
khác biệt riêng đòi hỏi những người làm việc trong ngành QHCC phải am hiểu
về văn hóa và xã hội để có thể xây dựng, duy trì và phát triển tốt đẹp các mối
quan hệ.
Mối quan hệ nhân viên QHCC – nhà báo là một vấn đề rất được quan
tâm trong lĩnh vực QHCC nói chung và khi nghiên cứu về quan hệ truyền
thông nói riêng nó trở thành đề tài nghiên cứu của rất nhiều học giả truyền
thông nổi tiếng thế giới như: J.E.Grunig, Cutlip, Dozier, Hunt, Curtin, Yi- Hui
Huang, Samsup Jo... Trong những công trình nghiên cứu của mình, các học
giả này đã chỉ ra được bản chất, những đặc trưng, đặc điểm cũng như phương
thức xây dựng lên mối quan hệ nhân viên QHCC – nhà báo. Tuy
37. 39
nhiên, do những ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa, chính trị nên các đặc
trưng, đặc điểm và phương thức xây dựng quan hệ nhà báo – nhân viên QHCC
tại các quốc gia được nghiên cứu cũng có những điểm khác biệt. Ví dụ như ở
Hoa Kỳ cũng như các nước phương Tây, mối quan hệ giữa các nhà báo và
nhân viên QHCC được coi là không tốt, thiếu sự tin tưởng và thậm chí là coi
thường nhau. Ở một mức độ nhất định có khoảng cách xã hội tồn tại giữa hai
nhóm này [21, p.431]. Tuy nhiên ở các nước phương Đông, mối quan hệ này
lại có nhiều khác biệt do bối cảnh của văn hóa. Tại Việt Nam và một số nước
khác trong khu vực (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…), hiện trạng mối
quan hệ nhân viên QHCC - nhà báo có những đặc trưng riêng do bối cảnh
xuất hiện của ngành QHCC, môi trường truyền thông và đặc trưng của văn
hóa bản địa...
Xuất phát từ việc chịu ảnh hưởng của đặc trưng văn hóa phương Đông
đó, ở nhiều nước châu Á khác cũng tồn tại chữ Tình trong mối quan hệ xã hội
nói chung và quan hệ giữa nhân viên QHCC nói riêng. Ở Hàn Quốc, có một
đặc trưng trong văn hóa được gọi là “Cheong” (tương tự chữ “tình” trong tiếng
Việt) đã tạo nên một đặc điểm chung của mối quan hệ giữa nhà báo và nhân
viên QHCC. “Cheong” có thể được coi là sợi dây tinh thần, hình thành vô
thức qua những tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp và qua sự trải nghiệm chung
(Kim, 1995). Như vậy, “Cheong” nảy sinh khi có sự tiếp xúc, gặp gỡ thường
xuyên giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Nó làm cho mối quan hệ trở nên
thân thiết hơn, tạo nên những thuận lợi trong công việc của cả hai nhóm và
đặc biệt nó không hề làm ảnh hưởng đến sự chuyên nghiệp trong công việc
của hai nhóm đối tượng này [23]. “Cheong” cũng là nền tảng cho các mối
quan hệ giữa người Hàn với nhau (Choi, 2000), mối quan hệ gắn bó thân thiết
giữa vợ chồng, giữa các thành viên trong gia đình,
38. 40
giữa bạn bè, giữa những người hàng xóm được hình thành và củng cố qua tình
cảm duy nhất này.
Cũng như vậy, ở Trung Quốc, người ta sẽ dùng 4 nguyên tắc vàng là
Guanxi, Mianzi, Renqing và Bao làm nền tảng cho sự ứng xử giữa báo chí với
doanh nghiệp (Kwang-kuo Hwang, 1987). Cụm từ "Guanxi" (mối quan hệ)
trong tiếng Trung Quốc được cấu thành bởi 2 ký tự. Ngoài nghĩa là “mối quan
hệ” ra, âm tiết “guan” còn có nghĩa là cửa, hoặc rào, và âm tiết “xi” dùng để
chỉ sợi dây, một quan hệ hay một liên hệ nào đó. Do vậy, “Guanxi” nghĩa gốc
có nghĩa là “qua cửa và gắn kết với nhau” (Lee và Dawes, 2005). Khái niệm
Guanxi dùng để chỉ những mối liên hệ tương hỗ nhau trong hầu hết các lĩnh
vực của cuộc sống trong văn hóa Trung Hoa, từ tình ruột thịt đến bạn bè và từ
chính trị đến thương mại.
Mối quan hệ giữa nhân viên QHCC – nhà báo là vấn đề đã được các
học giả về truyền thông trên thế giới nghiên cứu trong nhiều năm qua và vẫn
còn tiếp tục được nghiên cứu do những biến đổi của nó theo những xu thế
mới. Tại mỗi quốc gia, do đặc trưng về văn hóa, môi trường truyền thông, thể
chế chính trị... mà mối quan hệ này có những đặc trưng riêng biệt cần được
nghiên cứu. Tại Việt Nam, mối quan hệ truyền thông giữa nhân viên QHCC
và nhà báo hiện nay đã bắt đầu được các doanh nghiệp quan tâm chú trọng,
nhiều doanh nghiệp đã xây dựng hẳn một bộ phận phụ trách vấn đề xây dựng
quan hệ với báo giới. Tuy nhiên, việc xây dựng mối quan hệ này vẫn còn diễn
ra thực trạng “mạnh ai nấy làm” bởi nó chưa được nghiên cứu dưới sự ứng
dụng của hệ thống lý thuyết về truyền thông trên thế giới. Chính vì vây, hiện
trạng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo trong các doanh nghiệp
tại Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu. Đó là việc
nghiên cứu về thực trạng mối quan hệ này đang chịu sự ảnh
39. 41
hưởng từ văn hóa mà cụ thể là văn hóa “duy tình” ra sao, mức độ ảnh hưởng
tới cả nhân viên QHCC và nhà báo như thế nào, làm sao để phát huy tính tích
cực của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ để tăng thêm hiệu quả công việc
và thỏa mãn nghề nghiệp ở mức độ cao nhất cho cả hai bên…Kết quả nghiên
cứu này sẽ giúp cho những người thực hành QHCC nhận diện được hiện trạng
của mối quan hệ này từ đó có những chiến lược xây dựng, duy trì và phát triển
mối quan hệ với nhà báo cởi mở, tin tưởng và hiệu quả hơn.
Tiểu kết chƣơng 1
Nội dung chương 1 đã phần nào làm rõ khái niệm “duy tình” cùng
những biểu hiện của nó trong các mối quan hệ xã hội nói chung, đó là việc lấy
chữ Tình làm trọng, giữ gìn thể diện cho nhau và coi trọng cộng đồng. Đây
không chỉ là đặc trưng của văn hóa Việt Nam nói riêng mà nó cũng tồn tại
trong văn hóa của các nước phương Đông khác như Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Ấn Độ…
Mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo cũng chịu sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của văn hóa trong hoạt động của mình, đặc biệt là văn hóa “duy
tình”. Thông qua việc phân tích yếu tố văn hóa cho thấy, mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo được đặt trong bối cảnh văn hóa nào thì sẽ mang
đặc trưng văn hóa ở bối cảnh đó.
Dựa trên hệ thống lý thuyết QHCC trên thế giới và những đặc trưng của
văn hóa “duy tình” để nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà
báo trong các doanh nghiệp tại Việt Nam nhằm khảo sát sự tồn tại và mức độ
ảnh hưởng của yếu tố duy tình tới mối quan hệ kể trên, đồng thời tìm ra những
giải pháp phù hợp để phát triển mối quan hệ đó ngày càng sâu, rộng. Kết hợp
giữa các vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa
40. 42
nhân viên QHCC và nhà báo trong chương 1, bằng khảo sát thực tiễn, chương
2 và chương 3 sẽ giải quyết các câu hỏi nghiên cứu (CHNC) sau:
CHNC 1: Có hay không sự hiện diện của yếu tố “duy tình” trong
mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam? Nếu
có thì yếu tố “duy tình” đó đang ở mức độ như thế nào?
CHNC 2: Ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của yếu tố “duy tình” trong
mối quan hệ nghề nghiệp giữa nhân viên QHCC và nhà báo thể hiện
như thế nào?
CHNC 3: Nếu cần phải tiết chế sự ảnh hưởng của yếu tố “duy tình”
đó thì cần tiết chế ra sao để giữ được hiệu quả cao nhất trong mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo?
41. 43
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ “DUY
TÌNH” TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ
CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO TẠI VIỆT NAM
2.1 Quá trình thiết kế nghiên cứu
QHCC là một lĩnh vực hoạt động truyền thông có tính toàn cầu nhưng
cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi các nền văn hóa bản địa của các quốc gia [39].
Do đó, trong luận văn này, hệ thống lý thuyết về QHCC trên thế giới được tác
giả tiếp thu một cách có chọn lọc và điều chỉnh theo môi trường văn hóa và
môi trường truyền thông tại Việt Nam để đảm bảo được sự phù hợp nhằm thu
được những kết quả nghiên cứu tốt nhất.
Trên cơ sở đó, bảng hỏi cho việc phỏng vấn sâu được thiết kế dựa trên
việc kế thừa kết quả nghiên cứu năm 2004 của Dan Berkowitz (Khoa Báo chí
và Truyền thông, Đại học Iowa, Thành phố Iowa, Hoa Kỳ) và Jonghyuk Lee
(Viện cố vấn quan hệ công chúng, Tạp chí “Prain and Rhee”, Seoul, Hàn
Quốc) có nhan đề: “Media relations in Korea: Cheong between journalist and
public relations practioner” (tạm dịch: Yếu tố tình cảm trong mối quan hệ
giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Hàn Quốc). Nghiên cứu này được đăng
tải trên tạp chí Public Relations Review – một tạp chí khoa học hàng đầu về
chuyên ngành QHCC trên thế giới.
Nghiên cứu này đã vận dụng khái niệm của từ “Cheong” - nền tảng
vững chắc cho các mối quan hệ của người Hàn - để phân tích mối quan hệ
giữa các nhân viên QHCC và nhà báo ở Hàn Quốc. Khái niệm “Cheong” và
“Tình” rất gần gũi với nhau vì nó cùng được sinh ra từ các nền văn hóa có
tính tương đồng cao. Nghiên cứu này nhằm khám phá vấn đề: làm sao có thể
vận dụng từ “Cheong” để xem xét lại mối quan hệ giữa nhà báo và nhân
viên QHCC nói chung, và tìm hiểu thêm về quan hệ truyền thông ở Hàn
42. 44
Quốc nói riêng. Nghiên cứu phân tích các cuộc phỏng vấn sâu được thực hiện
với 10 nhà báo từ các báo lớn của Hàn Quốc và 10 nhân viên QHCC từ các
công ty lớn trên Hàn Quốc về mối quan hệ giữa họ.
Có 3 câu hỏi nghiên cứu được sử dụng để chỉ ra tính chất của quan hệ
truyền thông giữa nhà báo và nhân viên QHCC liên quan đến chữ “Cheong”:
Câu hỏi 1: Các nhà báo và nhân viên QHCC cảm thấy sự tồn tại của
tình cảm giữa họ ở mức độ nào? Họ cảm thấy sao về điều đó?
Câu hỏi 2: Nếu thực sự tồn tại một tình cảm giữa hai bên thì nó được
biểu hiện như thế nào trong các hoạt động về nghề nghiệp của họ?
Câu hỏi 3: Khi hình thành nên tình cảm giữa nhà báo và nhân viên
QHCC thì sẽ tạo ra những hiệu quả nào?
Câu hỏi nghiên cứu đầu tiên rằng các nhà báo và nhân viên QHCC có
cho rằng tồn tại tình cảm “Cheong” giữa họ không. Đa số những người được
phỏng vấn đều cảm thấy nó có tồn tại, và nó phát triển một cách tự nhiên qua
những giao thiệp công việc, mặc dù nó cũng xuất hiện trong các phương diện
văn hóa khác của Hàn Quốc. Câu hỏi nghiên cứu thứ 2 về việc làm thế nào
mà tình cảm “Cheong” biểu hiện trong các hoạt động nghề nghiệp. Các cuộc
phỏng vấn cho thấy rằng tình cảm “Cheong” hình thành nên âm điệu của các
mối quan hệ chứ không phải nội dung tin tức mà nó cung cấp. Câu hỏi nghiên
cứu thứ 3 về tác động và hiệu quả mà nó tình cảm “Cheong” mang lại. Các
cuộc phỏng vấn đã giúp phát hiện ra rằng tình cảm “Cheong” không gây ra
tham nhũng ở giới báo chí mà hiệu quả là cả 2 phía đều có thể phân định khía
cạnh riêng tư và khía cạnh công việc khi họ gặp nhau. Do đó, nghiên cứu này
chỉ ra rằng mối quan hệ được thấy giữa các nhà báo với các nhân viên QHCC
dựa trên tình cảm “Cheong” có thể ảnh hưởng tích cực đến
43. 45
quan hệ truyền thông. Một đóng góp quan trọng của nghiên cứu này là nó đã
làm nổi bật lên một mẫu quan hệ truyền thông tích cực hơn mà không có bất
kỳ sự nghi ngờ nào thường thấy trong quan hệ truyền thông phương Tây.
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của công trình trên,
tác giả tiến hành phỏng vấn sâu với 10 nhân viên QHCC của các doanh nghiệp
có thương hiệu và 10 nhà báo đến từ các cơ quan báo chí uy tín, được sắp xếp
theo từng cặp có mối quan hệ với nhau. Tiêu chuẩn trong việc chọn người
phỏng vấn là có ít nhất một năm kinh nghiệm làm việc tại vị trí nhà báo hoặc
nhân viên QHCC, am hiểu về lĩnh vực chuyên môn, và nhiệt tình trong việc
trả lời câu hỏi. Bảng hỏi được thiết kế thông qua việc ứng dụng những kết quả
nghiên cứu của Dan Berkowitz, cũng như qua thực tiễn tìm hiểu về mối quan
hệ giữa nhân viên QHCC trong các doanh nghiệp tại Việt Nam và nhà báo.
Ngoài ra, luận văn còn dùng phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng
hỏi (survey) với 100 nhân viên QHCC và nhà báo. Nội dung bảng hỏi được
xây dựng dựa trên việc tham khảo về nội dung bảng hỏi trong nghiên cứu của
Yi-Hui Huang, (giảng viên Khoa Quảng cáo và Quan hệ công chúng, Trường
đại học Chính trị quốc gia Đài Loan) có nhan đề: “OPRA: A Cross-Cultural,
multiple item scale for measuring organization public relationhips” (Huang,
2001). (Tạm dịch là: “OPRA: Thang đo đa hạng mục, liên văn hóa để đánh
giá những mối quan hệ với các nhóm công chúng của một tổ chức”). Nghiên
cứu này được đăng tải trên tạp chí Journal of Public Relations Research – một
tạp chí khoa học hàng đầu và dah tiếng cao về chuyên ngành QHCC trên thế
giới.
Bảng hỏi sử dụng các câu hỏi định tính và thang đo likert mức độ 5 từ
Hoàn toàn đúng, đúng, trung lập, không đúng, hoàn toàn không đúng để
44. 46
khảo sát ý kiến người trả lời về các mức độ ảnh hưởng của yếu tố “duy tình”
tới mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Đồng thời, tác giả cũng để
nhiều câu hỏi mở với phần “ý kiến khác” để người trả lời có thể bày tỏ nhiều
hơn quan điểm của mình. Trước khi tiến hành đưa vào khảo sát thực tế, bảng
hỏi cũng đã được gửi cho 2 nhà báo và 2 nhân viên QHCC đọc và góp ý về
nội dung cũng như cách diễn đạt.
Khảo sát “Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam” được thực hiện từ ngày 12/5
đến 30/6/2012. Đây là hình thức khảo sát trên mạng được tạo từ ứng dụng
của Google docs tại đường link
https://docs.google.com/spreadsheet/formResponse?formkey=dDNMYUdq
TnpyOFBCbjV2b3QwbVh3VkE6MQ&theme=0AX42CRMsmRFbUy1iOD
QwMzFlYi1iZjJhLTRmNmUtODQ0My1iNjJmYTUzNjQ2ZWE&ifq.
Đường link này được gửi tới người khảo sát qua qua email , đăng trên một số
diễn đàn chuyên môn, đăng trên facebook. Người khảo sát chỉ cần nhấp chuột
vào đường dẫn và thực hiện khảo sát, sau đó kết quả được tổng hợp trên bảng
Excel.
Danh sách người trả lời do tác giả tự tập hợp dựa trên danh sách các
nhà báo và nhân viên QHCC mà tác giả có quan hệ công việc và có mối quan
hệ cá nhân. Ngoài ra, tác giả còn tận dụng phương pháp “snowball” (bông
tuyết lăn) để nhận được sự gợi ý và giới thiệu của họ tới các đối tượng khác
phù hợp cùng tham gia thực hiện khảo sát.
Đã có 100 người tham gia trả lời, trong số đó có 7 phần trả lời không
hợp lệ do bị sai đối tượng và thiếu nhiều thông tin. Kết quả có 93 phần trả lời
hợp lệ được sử dụng làm dữ liệu cho nghiên cứu. Trong đó có 64,5% người
làm khảo sát hiện đang làm trong lĩnh vực Báo chí – truyền thông, 35,5% còn
lại làm việc trong lĩnh vực QHCC. Những người thực hiện khảo sát đến từ các
tòa soạn báo (26,9%), đài truyền hình (6,5%), đài tiếng nói (4,3%), doanh
nghiệp tư nhân (44,1%), doanh nghiệp nhà nước (18,3%).
45. 47
Trong 93 người tham gia khảo sát có 16,1% có trình độ sau đại học, 73,1% là
trình độ đại học, còn lại là trình độ cao đẳng và thấp hơn. Điều này cho thấy
sự đa dạng về trình độ, thành phần của đối tượng tham gia khảo sát, góp phần
nâng tính chính xác, khách quan của kết quả mà khảo sát thu được.
Song song với việc thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi, các cuộc phỏng
vấn sâu cũng được tiến hành từ ngày 15/5 đến 15/7/2012 và được thực hiện
độc lập với nhau, thời gian và thời lượng cuộc phỏng vấn cũng không cố định.
Việc phỏng vấn được diễn ra qua email, điện thoại, qua chat (yahoo, skype,
gtalk) hoặc gặp mặt trao đổi trực tiếp. Các đối tượng này sẽ được ghép thành
cặp (1 nhân viên QHCC và 1 nhà báo), với điều kiện là giữa họ có mối quan
hệ làm việc tối thiểu là 1 năm. Tiêu chuẩn này rất quan trọng bởi phải mất ít
nhất 1 năm thì tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo mới có thể đủ mạnh
để đánh giá về yếu tố “duy tình” ảnh hưởng đến họ hay nói cách khác thời
gian này đủ ngưỡng “cho phép họ đạt tới mức tích lũy trạng thái tình cảm cần
thiết” (Choi, Kim, & Kim, 2000).
Đối với một nhân viên QHCC đặc biệt là nhân viên QHCC làm việc
trong bộ phận QHCC của doanh nghiệp thì việc có xây dựng được một mối
quan hệ tốt đẹp với giới truyền thông hay không có ảnh hưởng rất lớn đến sự
thành công trong công việc của họ. Thậm chí đây còn được coi là yếu tố sống
còn của những người theo nghề QHCC tại Việt Nam. Trong thời đại bùng nổ
thông tin như hiện nay, nhân viên QHCC trở thành cánh tay phải của báo chí,
là đầu mối trong việc thu thập thông tin. Ngược lại với người làm nghề QHCC,
báo chí chính là kênh truyền tải thông tin hữu hiệu nhất đến công chúng mục
tiêu của họ. Nói cách khác quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo là mối
quan hệ không thể thiếu được với cả doanh nghiệp và cơ quan báo chí. Đây là
mối quan hệ tương hỗ hay còn gọi là quan hệ cho và nhận, hai bên cùng có
lợi.
46. 48
2.2 Kết quả khảo sát về ảnh hƣởng của yếu tố “duy tình” trong mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam
2.2.1 Biểu hiện của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo
100% người được hỏi đều cho rằng thực sự tồn tại một dạng tình cảm
giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Thực tế, sự tồn tại của tình cảm cá nhân
trong mối quan hệ giữa 2 nhóm đối tượng này không phải là yếu tố mới mẻ
tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà báo đã được nhắc đến
trong nhiều nghiên cứu ở Việt Nam, trong đó, các nghiên cứu đều chỉ ra các
tính chất cơ bản của mối quan hệ này đó là sự phụ thuộc lẫn nhau nhưng cũng
ngày càng bình đẳng với nhau, tính tôn ti – trật tự, tính mâu thuẫn – đối lập…
Nhưng khi xem xét ở một mối quan hệ cụ thể là giữa các nhân viên QHCC
(làm trong các doanh nghiệp) với nhà báo thì hầu như chưa có nghiên cứu nào
mô tả cụ thể dạng tình cảm đang tồn tại giữa hai phía.
Nhận diện dạng tình cảm giữa nhân
viên QHCC và nhà báo
Số lƣợng phiếu Tỷ lệ
Là một dạng tình cảm cá nhân 5 5,4%
Từ quan hệ trong công việc mà hình
thành nên
30 32,3%
Tình cảm phải có để duy trì lợi ích
công việc của cả 2 bên
25 26,9%
Cả ba đáp án trên 33 35,5%
Tổng số 93 100,0 %
Bảng 2.1: Nhận diện dạng tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo
47. 49
Hầu hết những người được khảo sát đều đồng ý mối quan hệ tình cảm
giữa nhà báo và nhân viên QHCC đều là sự tổng hòa từ 3 yếu tố (cả ba đáp án
trên): tình cảm cá nhân, quan hệ từ công việc hình thành nên và đây là tình
cảm phải có để duy trì lợi ích cho công việc của cả 2 (35,5%). Điều này cho
thấy nhận thức về mối quan hệ đang tồn tại trong công việc hàng ngày của họ
đã ngày càng tiến bộ và hiện đại hơn. Họ đã nhìn nhận mối quan hệ này ở
nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ này chỉ nhỉnh hơn so
với những người có quan điểm cho rằng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC
và nhà báo thực chất là xuất phát từ công việc và nó được xây dựng lên để
phục vụ cho công việc của đôi bên (32,3%). Như vậy, trên thực tế, quan điểm
về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo hầu như chưa có sự thống
nhất mà vẫn có nhiều quan điểm khác nhau. Thậm chí, có rất ít người (5,4%)
cho rằng tình cảm đang tồn tại giữa hai bên còn ẩn chứa tình cảm cá nhân.
Thông qua phỏng vấn sâu, 10/10 cặp đôi đều công nhận có mối liên hệ
tình cảm nào đó giữa họ với nhà báo hoặc với nhân viên QHCC. Các cặp số
1, số 2 và số 8 thì cảm thấy mối liên hệ giữa họ được xuất phát từ công việc
và cũng duy trì để phục vụ công việc nhiều hơn là việc nảy sinh một tình cảm
thân thiết nào đó. Các cặp còn lại thì cảm thấy tình cảm này rõ rệt hơn thông
qua việc họ hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và ý thức xây dựng mối quan hệ
lâu dài. Thêm nữa, số ít cặp còn lại có mối liên hệ tình cảm xuất phát từ tình
bạn/tình đồng hương nên các tương tác giữa họ trở nên thuận lợi hơn.
Nguồn gốc của yếu tố tình cảm trong mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo
Số lƣợng
phiếu
Tỷ lệ
Du nhập từ nước ngoài vào 7 7,5%
Văn hóa VN với đặc trưng “duy tình” 25 26,9%
Nhu cầu cần thiết của xã hội 32 34,4%
Cả ba đáp án trên 28 30,1%
Khác 1 1,1%
Tổng số 93 100,0%
Bảng 2.2: Đánh giá về nguồn gốc của yếu tố tình cảm trong
mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo