SlideShare a Scribd company logo
1 of 53
Download to read offline
MẠNG LƯỚI CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VỀ 
THỰC THI LÂM LUẬT, QUẢN TRỊ RỪNG VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN 
(VNGO-FLEGT) 
BÁO CÁO 
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG TIỀM TÀNG CỦA VPA ĐẾN 
SINH KẾ CỦA NHÓM ĐỐI TƯỢNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG 
Hà Nội, Tháng 3 năm 2014 
1
MỤC LỤC 
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................... 3 
CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................................................. 4 
I. GIỚI THIỆU CHUNG ............................................................................................................. 5 
1.1. Mở đầu ................................................................................................................................. 5 
1.2. Tổng quan phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7 
1.3. Các thành viên tham gia nghiên cứu ................................................................................. 10 
1.4. Cấu trúc và nội dung của Báo cáo tóm tắt ......................................................................... 11 
II. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CÁC BÊN LIÊN QUAN VÀ PHÂN TÍCH THỂ CHẾ ........... 12 
2.1 NHÓM HỘ SẢN XUẤT CHẾ BIẾN GỖ NHỎ LẺ .......................................................... 12 
2.1.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ ......................................... 12 
2.1.2. Hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ và các vấn đề của họ ................................................ 13 
2.1.3. Một số tác động của VPA đến nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ ........................ 17 
2.2. NHÓM HỘ GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ SỐNG PHỤ THUỘC VÀO RỪNG ...... 19 
2.2.1. Đặc trưng chính của nhóm đối tượng nghiên cứu ...................................................... 19 
2.2.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA ...................... 20 
2.2.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải và tác động của VPA ......... 21 
2.3. NHÓM HỘ TRỒNG RỪNG TRÊN ĐẤT ĐƯỢC GIAO NHƯNG KHÔNG CÓ SỔ ĐỎ 
..................................................................................................................................................25 
2.3.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ gia đình trồng rừng trên đất được giao ....................... 25 
2.3.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA ...................... 26 
2.3.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải ............................................ 27 
2.3.4 Tác động của VPA tới nhóm đối tượng nghiên cứu .................................................... 29 
III. PHÂN TÍCH KÊNH TRUYỀN TẢI .................................................................................. 30 
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................................. 39 
4.1. KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 39 
4.1.1 Kết luận chung............................................................................................................. 39 
4.1.2 Khoảng trống dữ liệu và thông tin trong việc chuẩn bị VPA ...................................... 41 
4.1.3 Khác biệt theo khu vực ................................................................................................ 42 
4.2. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT ............................................................................................. 42 
4.2.1 Kiến nghị về Tính hợp pháp của gỗ và Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ ...... 42 
4.2.2. Các vấn đề về đảm bảo an toàn xã hội và kiến nghị .................................................. 44 
4.2.3 Kiến nghị về giáo dục và thông tin đại chúng (phụ lục VPA ) ................................... 45 
4.2.4 Kiến nghị về kiểm soát, giám sát VPA ....................................................................... 46 
PHỤ LỤC .................................................................................................................................... 48 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................... 49 
2
LỜI CẢM ƠN 
Mạng lưới Các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam về Thực thi Lâm luật, Quản trị 
rừng và Thương mại lâm sản (VNGO-FLEGT) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tác 
động tiềm tàng của VPA đến các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương sống phụ thuộc vào 
rừng. Với sự nỗ lực hợp tác của Nhóm nghiên cứu và các bên liên quan, báo cáo đã 
được hoàn thành sau 9 tháng triển khai gồm, tập huấn, nghiên cứu bàn giấy, thu thập 
thông tin điển hình tại một số địa bàn nghiên cứu, tổng hợp, phân tích số liệu, viết báo 
cáo, hội thảo phản hồi và hoàn thiện báo cáo. 
Thay mặt Ban điều hành Mạng lưới, xin trân trọng cảm ơn Cơ quan Hợp tác 
Phát triển Vương quốc Anh – DFID, tổ chức FERN và Forest Trend đã tài trợ kinh phí 
để Mạng lưới có thể thực hiện được nghiên cứu này. Mạng lưới xin gửi lời cảm ơn đặc 
biệt tới ông Michael Richards, bà Mary Hobley và ông Edwin Shanks đã hỗ trợ, hướng 
dẫn kỹ thuật cho các thành viên trong suốt các giai đoạn triển khai nghiên cứu. 
Để nghiên cứu được thực hiện, không thể không nhắc tới sự nỗ lực của các 
thành viên tham gia nghiên cứu. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Nhóm nghiên cứu 
và các cơ quan đã tạo điều kiện cho cán bộ của cơ quan mình tham gia thực hiện 
nghiên cứu này bao gồm: Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD), Trung tâm 
Phát triển Nông thôn miền Trung (CRD), Trung tâm Nghiên cứu Rừng và Đất ngập 
nước (ForWet), Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Viện Quản lý rừng 
Bền vững và Chứng chỉ rừng (FSMI), Trung tâm Môi trường và Phát triển cộng đồng 
(CECoD), Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Quản lý tài nguyên (CORENARM), 
Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng, Chuyển giao khoa học và công nghệ Tây Bắc 
(CARTEN), Hợp tác xã Phát triển Nông thôn Quan Hóa (CRD) và Trung tâm Phát 
triển cộng đồng và Ứng phó biến đổi khí hậu Tây Nguyên (CCHC). 
Cuối cùng chúng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các bên liên quan là các nhóm 
đối tượng dễ bị tổn thương, cơ quan địa phương, các cá nhân, tổ chức đã cung cấp 
thông tin dữ liệu, hỗ trợ và tạo điều kiện giúp đỡ các thành viên Mạng lưới trong quá 
trình thực hiện và hoàn thiện báo cáo này. 
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng trước một phương pháp khá mới và vấn 
đề chưa xảy ra, báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên 
cứu và biên soạn. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các quý độc giả để tiếp tục 
bổ sung và hoàn thiện báo cáo này. 
Trân trọng cảm ơn, 
Vũ Thị Bích Hợp 
Trưởng Ban điều hành Mạng lưới VNGO-FLEGT 
Giám đốc Trung tâm SRD 
3
4 
CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
Ban QLRPH Ban Quản lý Rừng phòng hộ 
Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 
CSOs Các Tổ chức xã hội 
DFID Cơ quan hợp tác phát triển Vương quốc Anh 
DTTS Dân tộc thiểu số 
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng 
ĐKKD Đăng ký kinh doanh 
EU Liên minh Châu Âu 
FLEGT Chương trình Thực thi lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại 
lâm sản 
KTXH Kinh tế xã hội 
LD Định nghĩa gỗ hợp pháp 
LIA Đánh giá tác động tiềm tàng của VPA tới sinh kế của các nhóm 
dễ bị tổn thương 
LSNG Lâm sản ngoài gỗ 
PCCC Phòng cháy chữa cháy 
QLBVR Quản lý Bảo vệ rừng 
QLTT Quản lý Thị trường 
QSDĐ Quyền sử dụng đất 
TCA Phân tích kênh truyền tải 
TLAS Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ 
TN&MT Tài nguyên và Môi trường 
UBND Ủy ban Nhân dân 
TCLN Tổng cục lâm nghiệp 
VNGO-FLEGT Mạng lưới các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam về 
Thực thi lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản 
VPA Hiệp định đối tác tự nguyện
5 
I. GIỚI THIỆU CHUNG 
1.1. Mở đầu 
Việt Nam hiện đang trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán để tiến tới ký 
kết Hiệp định đối tác tự nguyện (VPA) với Liên minh châu Âu (EU) như là một phần 
của Kế hoạch hành động Thực thi Lâm Luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản 
(FLEGT), nhằm mục đích bảo đảm thương mại gỗ hợp pháp và quản trị rừng hiệu quả. 
Báo cáo này nhằm cung cấp một bản tóm tắt phương pháp, những kết quả và khuyến 
nghị chính của nghiên cứu “Đánh giá tác động tiềm tàng của VPA đến sinh kế của 
các nhóm dễ bị tổn thương (LIA)” đã được tiến hành bởi Mạng VNGO-FLEGT trong 
năm 2013. 
Hiệp định Đối tác tự nguyện (VPA), và các tiến trình được phát triển theo đó, 
có tiềm năng mang lại những cải cách chính sách vì người nghèo và có thể dẫn đến 
việc trao quyền cho các nhóm cộng đồng dễ bị tổn thương. Với việc thực thi VPA, 
ngành sản xuất gỗ và công nghiệp chế biến gỗ phải thích ứng với những thay đổi của 
thị trường và các quy định xuất khẩu, và một kế hoạch hành động để đảm bảo tính hợp 
pháp của gỗ là yêu cầu được đưa ra từ phía Việt Nam. Kế hoạch hành động này phải 
tập trung vào nâng cao nhận thức, rà soát và bổ sung pháp luật, khuyến khích doanh 
nghiệp nhập khẩu gỗ có giấy phép, phát triển và thực thi một hệ thống đảm bảo tính 
hợp pháp của gỗ, và tăng cường hợp tác quốc tế với các nước xuất khẩu gỗ như Lào và 
Cam-pu-chia và với các thị trường ở các nước EU. 
Để hỗ trợ cho tiến trình này và đảm bảo rằng tiếng nói của người dân địa 
phương được lắng nghe, các Tổ chức xã hội (CSOs) và các Tổ chức Phi chính phủ Việt 
Nam (VNGOs) đã thành lập Mạng lưới VNGO-FLEGT vào tháng 1 năm 2012, Mạng 
lưới hiện nay bao gồm hơn 40 tổ chức thành viên phân bổ trên khắp 3 miền Bắc Trung 
Nam của Việt Nam. Ban điều hành của Mạng lưới bao gồm bốn tổ chức: Trung tâm 
Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD) - Trưởng ban, Trung tâm Nghiên cứu Rừng và 
Đất ngập nước (ForWet), Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), và Trung 
tâm Phát triển Nông thôn miền Trung Việt Nam (CRD). Mạng lưới hiện đang tham gia 
triển khai ba dự án liên quan đến FLEGT, với hai dự án cấp khu vực do DFID và EU 
tài trợ qua FERN và một dự án cấp quốc gia quy mô nhỏ được tài trợ bởi Chương trình 
EU-FAO FLEGT. Mạng lưới cũng đã có những đóng góp có giá trị cho tiến trình đàm 
phán VPA như triển khai đợt tham vấn cộng đồng tại sáu tỉnh về tính hợp pháp của gỗ, 
đồng thời lấy ý kiến của các tổ chức thành viên trong Mạng lưới cho Dự thảo về định 
nghĩa gỗ hợp pháp (LD) và Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ (TLAS) và gửi ý 
kiến tổng hợp tới Tổng cục Lâm nghiệp (TCLN). Bên cạnh đó, Mạng lưới cũng đã tích
cực tham gia các cuộc họp, hội thảo, hội nghị, tập huấn liên quan đến VPA / FLEGT 
được tổ chức bởi TCLN và các tổ chức có liên quan tại Việt Nam, cũng như các nước 
trong khu vực và tại Châu Âu. Việc chia sẻ các hoạt động và thông tin về tiến trình 
FLEGT/VPA cũng được thực hiện thông qua nhiều kênh truyền thông như Website và 
cập nhật thường xuyên qua Email. 
VPA được dự đoán sẽ có nhiều tác động tích cực và mang lại nhiều lợi ích cho 
thị trường gỗ Việt Nam. Việc cải thiện quản trị và các quy định của ngành lâm nghiệp 
sẽ dẫn đến triển vọng mới cho nền kinh tế thị trường, bao gồm những cơ hội thị trường 
có liên quan trong việc thay đổi môi trường thương mại gỗ toàn cầu, đảm bảo khả năng 
tiếp cận thị trường EU đối với các sản phẩm được cấp phép FLEGT và cơ hội kinh tế 
cho những nhà chế biến và xuất khẩu gỗ. Tuy nhiên, quá trình của việc chính thức và 
hợp pháp hoá, cộng với việc thực thi nghiêm ngặt pháp luật và các quy định VPA cũng 
có khả năng tác động tiêu cực đến những người có sinh kế phụ thuộc vào rừng. Những 
hệ quả không thể tránh khỏi của quá trình đàm phán và thực thi VPA là sẽ dẫn đến việc 
người thắng và kẻ thua, và có thể sẽ là một loạt các hiệu ứng xã hội, một số sẽ có tác 
động tích cực còn một số khác thì ngược lại. Quyền quản lý và sử dụng đất ở Việt 
Nam đã dần dần phát triển trong các giai đoạn khác nhau, các văn kiện khác nhau tồn 
tại là cơ sở pháp lý cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sử dụng 
rừng. Tuy nhiên, hiện đang có sự thiếu hụt các văn bản pháp luật có liên quan để cung 
cấp các chứng cứ cần thiết và đảm bảo một sự hiểu biết rõ ràng một số khía cạnh của 
tính hợp pháp. Các biện pháp để tích hợp các chiến lược xác minh Hệ thống đám bảo 
tính hợp pháp của gỗ (TLAS) của chính quyền địa phương vẫn phải được cải thiện và 
một vấn đề đang được quan tâm hiện nay là giấy chứng nhận hàng nhập khẩu từ các 
nước xuất khẩu gỗ. 
Để có cái nhìn sâu sắc và rõ ràng hơn, Mạng lưới VNGO-FLEGT đã tiến hành 
nghiên cứu những tác động tiềm tàng của VPA tới các nhóm dễ bị tổn thương (LIA). 
Tại Việt Nam, VPA vẫn trong quá trình đàm phán, tức là LIA đã được thực hiện trước 
khi các văn bản VPA được hoàn tất, và do đó mục tiêu của đánh giá là chỉ ra tác động 
tiềm tàng có thể xảy ra của VPA tới các bên liên quan dễ bị tổn thương. Nghiên cứu 
LIA có thể đóng góp có giá trị vào việc xây dựng VPA, bao gồm việc xác định các vấn 
đề liên quan tới an toàn xã hội và câu trả lời cho vấn đề này, đồng thời tìm kiếm cơ hội 
để nâng cao hiệu quả sinh kế. Nghiên cứu LIA sẽ tìm hiểu về tác động của VPA đối 
với sinh kế của các nhóm dễ bị tổn thương và xem xét các quy định và luật pháp có 
liên quan một cách toàn diện và kỹ lưỡng. 
6
7 
1.2. Tổng quan phương pháp nghiên cứu 
Quá trình đánh giá LIA bao gồm một chuỗi các hội thảo, với rất nhiều phân 
tích: phân tích các bên liên quan, phân tích thể chế và phân tích các kênh truyền tải. 
Đánh giá LIA gồm bốn giai đoạn: Giai đoạn 1 xác định các nhóm liên quan dễ bị tổn 
thương; Giai đoạn 2 nghiên cứu những hạn chế và các vấn đề VPA có thể gây ra đối 
với sinh kế, và những khó khăn hiện tại mà các bên liên quan đang phải đối mặt; Giai 
đoạn 3 phát triển lý thuyết của sự thay đổi và chiến lược đảm bảo các kết quả là tích 
cực; và Giai đoạn 4 xây dựng một kế hoạch giám sát với các chỉ số thích hợp. Chi tiết 
của bốn giai đoạn đánh giá LIA được mô tả trong Bảng 1 dưới đây. 
Trong hội thảo khởi động được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 3 
năm 2013, với sự hỗ trợ kỹ thuật của 2 chuyên gia nước ngoài đến từ tổ chức Forest 
Trends, các thành viên mạng lưới đã chia sẻ những hiểu biết và đã thảo luận các vấn đề 
quan trọng liên quan đến các tác động tiềm tàng của VPA đến các bên liên quan chủ 
chốt. Hai chuyên gia kỹ thuật đã cung cấp cho các thành viên tham dự một sự hiểu biết 
toàn diện về lý thuyết và thực hành LIA, hỗ trợ việc xác định các bên liên quan chủ 
chốt, và cùng các thành viên tham dự phát triển một kế hoạch thực hiện LIA cho các 
nhóm liên quan dễ bị tổn thương bởi VPA của Việt Nam. Các thành viên tham gia đã 
xác định và lập bản đồ các nhóm liên quan dễ bị tổn thương quan trọng ở miền Nam, 
miền Trung và miền Bắc Việt Nam và xây dựng được một kế hoạch để thực hiện LIA. 
Hội thảo khởi động thể hiện sự cam kết cao của các Tổ chức xã hội Việt Nam vào quá 
trình FLEGT/VPA, với mục đích đảm bảo rằng các quyền của cộng đồng phụ thuộc 
vào rừng địa phương được tôn trọng đầy đủ. 
Tại hội thảo khởi động, ba nhóm hộ liên quan có khả năng bị ảnh hưởng đáng 
kể bởi VPA được xác định, bao gồm: 
• Nhóm 1: Nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ trong các làng nghề gỗ 
• Nhóm 2: Nhóm hộ gia đình dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng 
nhưng không có đất rừng và rừng. 
• Nhóm 3: Nhóm hộ gia đình trồng rừng, cung cấp gỗ cho ngành công 
nghiệp gỗ, nhưng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trồng rừng 
(sổ đỏ); 
Sau Hội thảo khởi động, các thành viên của Mạng lưới đã tiến hành các nghiên 
cứu bàn giấy để phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế (giai đoạn 1 LIA ). 
Kết quả các phân tích đã được trình bày tại hội thảo LIA lần thứ hai được tổ chức tại 
Huế vào tháng 9 năm 2013 với sự tham dự của 30 đại biểu, bao gồm các thành viên 
của Mạng lưới VNGO-FLEGT và đại diện 3 nhóm dễ bị tổn thương được xác định ở
trên. Tại hội thảo LIA lần thứ hai các thành viên tham gia đã chia sẻ và thảo luận về 
các kết quả chính từ báo cáo phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế, và cung 
cấp cơ hội quý giá để tiếp tục cải thiện và điều chỉnh các kết quả phân tích. Phần lý 
thuyết và thực hành của giai đoạn 2 LIA (phân tích kênh truyền tải) đã được một 
chuyên gia nước ngoài đến từ tổ chức Mandala giới thiệu trong hội thảo này và các 
thành viên tham gia hội thảo cũng đã xây dựng các kênh truyền tải cho ba nhóm liên 
quan trong quá trình làm việc nhóm. 
Hội thảo LIA lần thứ ba, được tổ chức tại thành phố Vĩnh Phúc vào tháng 11 
năm 2013, hội thảo đã sử dụng kết quả phân tích các bên liên quan và phân tích kênh 
truyền tải để phát triển Lý thuyết về sự thay đổi và kế hoạch hành động để đóng góp 
cho các cuộc đàm phán VPA. Hội thảo có 33 thành viên tham dự, bao gồm các đại 
diện từ Mạng lưới VNGO-FLEGT, TCLN, các NGO quốc tế, ngoài ra còn có sự hỗ trợ 
kỹ thuật của các chuyên gia nước ngoài đến từ Forest Trends, Mandala và FERN. Hội 
thảo LIA lần thứ ba là bước quan trọng để có thể kết luận thành công của phân tích 
LIA. Đầu tiên, các nhóm nghiên cứu đã trình bày và thống nhất về kết quả phân tích 
kênh truyền tải cho ba nhóm các bên liên quan. Các nhóm sau đó thực hành xây dựng 
cây vấn đề, chuỗi kết quả, phân tích khả năng và mức độ nghiêm trọng của rủi ro để đề 
xuất một lý thuyết về sự thay đổi với các chiến lược và các biện pháp giảm thiểu rủi ro. 
Các thành viên tham gia hội thảo cùng đồng ý rằng những kết quả và khuyến nghị từ 
nghiên cứu LIA của Mạng lưới có thể cung cấp đầu vào quan trọng và có giá trị cho 
việc xây dựng các chỉ số thích hợp để giám sát VPA/FLEGT tại Việt Nam, và các 
thành viên Mạng lưới cũng có thể tham gia tích cực trong quá trình giám sát độc lập 
sau này. 
Bảng 1: Tổng quan về phương pháp LIA 
Giai đoạn 1: Phân tích thể chế và phân tích các bên liên quan 
Giai đoạn đầu tiên của nghiên cứu LIA là phân tích các bên liên quan và phân tích thể 
chế. Mục tiêu chính của việc phân tích các bên liên quan là để đạt được một sự hiểu 
biết về những người có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi VPA. Phân tích các bên liên 
quan thường bao gồm các mô tả đặc điểm của các nhóm liên quan dễ bị tổn thương và 
phân tích về giới. Phân tích nền kinh tế chính trị và thể chế cũng là rất cần thiết, và 
tập trung vào những tác động có thể xảy ra bởi VPA và các động cơ hành vi về các 
nhóm liên quan, đặc biệt là các nhóm quyền lực có thể phản đối các chiến lược quan 
trọng của VPA. 
8
Giai đoạn 2: Phân tích kênh truyền tải 
Kênh truyền tải là cách thức mà qua đó một chính sách, ví dụ như VPA, ảnh hưởng 
đến các bên liên quan dễ bị tổn thương. Phân tích các kênh truyền tải là một công cụ 
cốt lõi trong bộ công cụ PSIA của Ngân hàng Thế giới. Sáu kênh truyền tải chính 
thường được xem xét là: việc làm, giá cả, phí, các loại thuế, quyền lực, tài sản, và khả 
năng tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ. Phân tích các kênh truyền tải sẽ giúp xác định 
các ảnh hưởng trực tiếp của VPA (ảnh hưởng “vòng một”), ví dụ những thay đổi về 
quyền lực chính trị và thực thi pháp luật sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và 
thu nhập của công nhân khai thác rừng như thế nào? Thông qua đó có thể dự đoán 
một số ảnh hưởng gián tiếp của VPA (ảnh hưởng “vòng hai”). 
Giai đoạn 3: Lý thuyết của sự thay đổi có sự tham gia 
Lý thuyết của sự thay đổi là một giả thuyết làm như thế nào để can thiệp nhằm đảm 
bảo sinh kế cho nhóm dễ bị tổn thương trước VPA. Lý thuyết của sự thay đổi dựa trên 
một tập hợp các giả định nguyên nhân và kết quả đáng tin cậy mà được những người 
đề xuất hy vọng sẽ trở thành sự thật. Định nghĩa về lý thuyết của sự thay đổi liên 
quan đến việc đặt ra và theo dõi một tập hợp các "chuỗi kết quả" liên kết với chiến 
lược của một sự can thiệp và các hoạt động với các đầu ra, kết quả, các tác động, và 
phân tích các giả định nguyên nhân và kết quả giữa chúng. 
Giai đoạn 4: Xây dựng kế hoạch giám sát với một tập hợp các chỉ số 
Một khía cạnh quan trọng của LIA là phát triển một quá trình giám sát những tác 
động của việc thực thi VPA tới sinh kế. Điều này đòi hỏi việc xác định các chỉ số 
thích hợp. Một chỉ số lý tưởng sẽ thấy quá trình giữa đầu vào, hoạt động, đầu ra, kết 
quả, tác động, và sẽ được bắt nguồn từ các mục tiêu SMART (cụ thể, có thể đo lường 
được, có khả năng thực thi, thực tế và có thời gian rõ ràng) được xây dựng từ các kết 
quả quan trọng trong chuỗi kết quả. Từ các mục tiêu SMART, các chỉ số có thể được 
xây dựng để theo dõi và đánh giá tiến độ. Một khi các chỉ số được phát triển, kế 
hoạch giám sát có thể được tạo ra. Kế hoạch giám sát vạch ra những dữ liệu cần thiết, 
và cách thức thu thập như thế nào đối với mỗi chỉ số. 
9
10 
1.3. Các thành viên tham gia nghiên cứu 
Bảng 2: Thông tin chung của nhóm nghiên cứu các bên liên quan 
Nghiên cứu 
các bên liên 
quan 
Địa điểm 
nghiên 
cứu điển 
hình 
Thành viên nhóm 
nghiên cứu (tên, tổ 
chức) 
Chi tiết liên lạc 
Nhóm 1: 
Nhóm hộ sản 
xuất chế biến 
gỗ nhỏ lẻ 
trong các làng 
nghề gỗ 
Đồng Nai, 
Lâm Đồng 
-Phan Triều Giang 
(HCM UAF) 
-Nguyễn Chí Thành 
(ForWet) 
-Đinh Văn Tài 
(ForWet) 
trieugiang.phan@gmail.com 
thanh.wetland@gmail.com 
dinhtai51@yahoo.com.vn 
Nhóm 2: 
Nhóm hộ gia 
đình dân tộc 
thiểu số sống 
phụ thuộc vào 
rừng nhưng 
không có đất 
rừng và rừng 
Thừa 
Thiên Huế 
-Trương Quang Hoàng 
(CRD-Huế), 
-Trần Nam Thắng 
(CORENARM) 
hoangtranghue@gmail.com 
trannamthang@huaf.edu.vn 
Nhóm 3: 
Nhóm hộ gia 
đình trồng 
rừng trên đất 
không có sổ 
đỏ 
Đắk Lắk, 
Thanh 
Hóa, Phú 
Thọ, Hòa 
Bình 
-Dương Thị Liên 
(SFMI) 
-Đặng Ngọc Toàn 
(CHCC) 
-Nguyễn Kim Trọng 
(CARTEN) 
-Lê Thanh Yên (CRD-Thanh 
Hóa) 
duongtlien@yahoo.com 
dngoctoandaklak@gmail.com 
trong.hadeva@gmail.com 
lethanhyenldp@gmail.com 
Nhóm nghiên cứu phân tích thể chế (bao gồm: GS. Tô Đình Mai - CECoD, ông 
Nguyễn Xuân Lãm - PanNature, ông Phạm Anh Tuấn - SRD) đã phối hợp chặt chẽ với 
nhóm nghiên cứu các bên liên quan để đảm bảo rằng tất cả các thông tin và nhận định 
từ phân tích các bên liên quan đều được đưa vào phân tích thể chế một cách đầy đủ. 
Nghiên cứu LIA được điều phối bởi Trung tâm SRD và do bà Phạm Thị Bích 
Ngọc (Trưởng phòng Biến đổi khí hậu) làm trưởng nhóm, cùng với 2 chuyên gia đến 
từ tổ chức Forest Trend (TS. Michael Richards và TS. Mary Hobley) và 2 chuyên gia 
đến từ tổ chức Mandala (ông Edwin Shanks và ông Dương Quốc Hùng) và 2 tình 
nguyện viên nước ngoài của Trung tâm SRD (TS. Juliane Sander và bà Stephanie
Higgs) đã hỗ trợ về chuyên môn kỹ thuật cũng như tư vấn cho các thành viên Mạng 
lưới trong suốt quá trình của nghiên cứu LIA. 
11 
1.4. Cấu trúc và nội dung của Báo cáo tóm tắt 
Báo cáo tóm tắt LIA được chia thành năm phần chính: 
Phần 1 - Giới thiệu chung; 
Phần 2 - Tóm tắt phần phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế; 
Phần 3 - Tóm tắt phần phân tích kênh truyền tải; 
Phần 4 - Tổng hợp các khuyến nghị quan trọng cho đoàn đám phán của Tổng 
cục Lâm nghiệp và EU dựa trên những phát hiện từ các nghiên cứu của các nhóm 
nghiên cứu và đánh giá thể chế. 
Phần cuối cùng là danh sách các phụ lục bao gồm các báo cáo đầy đủ của các 
nhóm nghiên cứu.
12 
II. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CÁC BÊN LIÊN QUAN VÀ PHÂN 
TÍCH THỂ CHẾ 
2.1 NHÓM HỘ SẢN XUẤT CHẾ BIẾN GỖ NHỎ LẺ 
2.1.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ 
Hộ gia đình chế biến gỗ là một bên liên quan quan trọng vì đây là một nhóm lớn 
về số lượng cung cấp sản phẩm gỗ truyền thống cho người dân, đặc biệt là trong các 
khu vực ngoài đô thị trên cả nước. Hiện nay không có số liệu chính thức về số lượng 
các hộ sản xuất nhỏ lẻ. Các số liệu chính thức của Bộ NN&PTNT chỉ thu thập trên các 
cơ sở có công suất hoạt động trên 200m3 gỗ tròn/năm (Bộ NN&PTNT 2011), mà 
không có số liệu chắc chắn về các hộ nhỏ lẻ. Số liệu về hộ sản xuất chế biến nhỏ 
(<200m3/năm) không được thống kê và có nhiều khác biệt. Bộ NN&PTNT (2011) ước 
tính hiện tại có khoảng 10,000 hộ, 201 làng nghề gỗ ở Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), 
5 làng nghề gỗ ở duyên hải Nam Trung Bộ. Theo Tô Xuân Phúc (2012, dẫn nguồn 
HRPC 2009) có 20,000 hộ và 302 làng nghề cả nước. 
Các cơ sở sản xuất tiêu thụ khoảng 1 triệu m3 gỗ/năm. Trong đó 350.000 - 
400.000 m3 dùng trong làng nghề, khoảng 400.000 m3 sử dụng trong các cụm công 
nghiệp chế biến gỗ không phải làng nghề và 200.000 m3 gỗ sử dụng bởi các hộ nhỏ lẻ 
(Tô Xuân Phúc, 2012). Các hộ sản xuất nhỏ thường sử dụng gỗ quý hiếm nhập khẩu 
hoặc địa phương. Số liệu chính xác về số lượng và nguồn gốc gỗ đầu vào của các hộ 
gia đình nhỏ không rõ ràng ở cấp quốc gia. 
Về tình trạng kinh tế, không có số liệu chính thống về tình trạng nghèo đói của 
nhóm hộ sản xuất gỗ nhỏ. Tuy vậy, nhìn chung họ có thu nhập khá cao so với mặt 
bằng lao động. Thu nhập trung bình của lao động nghề mộc từ 2-4,5 triệu đồng, chủ hộ 
có thu nhập từ 10-13 triệu đồng/tháng. Lực lượng lao động chính ở các hộ sản xuất 
nhỏ hầu hết là người trong gia đình hoặc họ hàng. Nhìn chung nam giới có vai trò ưu 
thế ở các khâu sản xuất do có sức khỏe, kiến thức và nắm kỹ thuật. Đa phần nam giới 
có quyền lực cao hơn trong việc ra các quyết định quan trọng. Ở các hộ sản xuất nhỏ tỉ 
lệ lao động nữ rất thấp. Lao động nữ thu nhập thường ít hơn nam giới do họ thường 
làm những công việc đơn giản, nhẹ nhàng. Mặc dù nữ giới và trẻ em thường chỉ tham 
gia một số việc nhẹ nhàng, nhóm này thường mẫn cảm hơn với môi trường. Sức khỏe 
của phụ nữ và trẻ em bị ảnh hưởng xấu do điều kiện sản xuất ô nhiễm. Lao động làm 
thuê thường thuê trọ quanh khu làm việc với điều kiện sống tạm bợ, khó khăn.
13 
2.1.2. Hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ và các vấn đề của họ 
Nghiên cứu ở Lâm Đồng và Đồng Nai cho thấy nhìn chung có bốn nhóm hộ sản 
xuất mộc quan trọng bao gồm i) Hộ sản xuất cho thị trường xuất khẩu; ii) Hộ gia công 
công nghiệp; iii) Hộ sản xuất cho thị trường trong nước theo cách công nghiệp; iv) Hộ 
sản xuất, gia công nhỏ lẻ. Các vấn đề mà các nhóm hộ này đang phải đối mặt được mô 
tả sơ lược trong sơ đồ 1- Sơ đồ cây vấn đề dưới đây. 
Các hộ sản xuất chế biến, kinh doanh gỗ chịu sự theo dõi, quản lý nhà nước trực 
tiếp của UBND phường, xã đồng thời chịu sự quản lý, kiểm tra, cấp phép của các cơ 
quan chức năng trên địa bàn như: UBND phường, xã; Phòng Kinh tế (tham mưu cho 
UBND cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh (ĐKKD) cho hộ), Phòng Tài nguyên Môi 
trường, Chi cục Thuế, Phòng Thống kê, Chi cục Quản lý thị trường (trực tiếp là Đội 
QLTT), Hạt Kiểm lâm, Cảnh sát môi trường, Cảnh sát PCCC, Công an kinh tế, cơ 
quan có liên quan SXKD như Ngân hàng, Quỹ tín dung, v.v.. Tuy vậy, nhìn chung việc 
quản lý giám sát sự tuân thủ các quy định pháp luật tại các hộ sản xuất nhỏ lẻ lỏng lẻo, 
chưa có sự phối hợp thống nhất giữa các cơ quan liên quan. 
Rất nhiều hộ kinh doanh, đặc biệt các hộ sản xuất nhỏ lẻ không có giấy phép ở 
địa phương, và không báo cáo nhập lượng, sản lượng, doanh thu. Một số hộ của nhóm 
này chỉ phải trả thuế cố định thuế mỗi tháng và chỉ đến chi cục thuế mua hóa đơn khi 
cần. Ở làng nghề Hố Nai (Đồng Nai), số hộ gia công có ĐKKD chỉ chiếm 12.5% tổng 
số hộ gia công. Hầu hết các hộ nhỏ lẻ không thể cung cấp hóa đơn bán hay gia công 
cho khách hàng. Theo báo cáo nghiên cứu các làng nghề phía Bắc 30% đến 78% số hộ 
bán sản phẩm mà không có hồ sơ sản phẩm cho khách hàng (Forest Trends, 2012). Lý 
do của việc này là một phần để hộ tránh thuế, phần khác do năng lực, quy mô sản xuất 
của hộ quá nhỏ, không phù hợp với các ràng buộc kềnh càng của luật pháp. Các hộ sản 
xuất nhỏ cũng thường không tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Sơ đồ 1: Các vấn đề mà các nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẽ đang phải đối mặt 
Giá gỗ nguyên 
liệu tăng 
Chi phí thủ tục, tiêu 
cực phí tăng 
Thiếu vốn, thiếu liên 
kết để trang bị máy 
móc 
Sản xuất nhỏ lẻ 
manh mún Thu nhập các 
Thiếu trang thiết bị 
phù hợp, hiệu quả 
Hộ SX không đủ năng 
lực, quy mô để xin giấy 
phép 
Viên chức 
nhũng nhiễu 
Giám sát, thực thi 
pháp luật chưa tốt 
Thiếu hóa đơn giấy tờ cần 
thiết GPKD, hợp đồng LĐ… 
Hàng khó 
bán 
Điều luật cồng 
kềnh 
Chi phí chế biến 
nhập khẩu gỗ hợp 
pháp cao 
Không đủ năng lực thiếu lao 
động, sản xuất lớn 
hộ sản xuất nhỏ 
giảm (bỏ nghề) 
Chi phí sản 
xuất tăng 
Sản lượng kém 
Hiểu biết của dân 
về luật kém 
Sản phẩm không đồng bộ về 
chất lượng, không kịp thời 
về mẫu mã 
Năng lực kỹ thuật về mẫu 
mã, tìm kiếm đánh giá thị 
trường kém 
Thiếu thông tin 
Thiếu liên kết & 
kênh thông tin 
Vấn đề cốt lõi 
Vấn đề trực tiếp 
Vấn đề trung gian 
14
Nguồn nguyên liệu của các hộ sản xuất nhỏ phức tạp, đa phần được mua trôi 
nổi trên thị trường từ sơn tràng, đầu nậu do giá gỗ lậu thường rẻ hơn có thể đến 50% ở 
những khu vực gần rừng (Phan, 2012). Ở Đồng Nai, nguồn nguyên liệu của các hộ cá 
thể chủ yếu là mua từ gỗ nhập khẩu (mua lại từ các đầu nậu trung gian), chiếm đến 
70% (gồm các loại như gõ đỏ, giáng hương, căm xe, xoan đào, dầu đỏ, sồi, tần bì, 
thông,…). Một phần từ gỗ rừng trồng trong nước, chủ yếu là gỗ keo lá tràm, tếch, cao 
su (chiếm 28%), số còn lại (2%) là gỗ bao bì tận dụng, trụ tiêu, và gỗ trôi nổi trên thị 
trường. Ở Lâm Đồng, nguồn gỗ đặc được mua từ các cơ sở kinh doanh hợp pháp lẫn từ 
sơn tràng, đầu nậu. Gỗ lậu thường được sơn tràng chặt hạ từ rừng rồi kéo về bán cho 
các xưởng xẻ ở gần rừng. Gỗ kéo từ rừng về thường được đẽo thành bi với kích thước 
thông thường từ 2-3m dài với bề mặt từ 30-40cm. Do việc lấy gỗ không phép khó khăn 
do đó, sơn tràng thường lấy gỗ tốt hoặc quý như dổi, huỳnh đàn, cẩm lai, căm xe, 
hương, sao, kiền kiền, chiêu liêu. Một số xưởng xẻ thường không tập trung gỗ một chỗ 
mà thường phân tán tản mát ở các nhà quen, bà con trong vùng. Nhìn chung, nguồn gỗ 
lậu được đưa vào chuỗi cung qua nhiều cách thức tinh vi, khó kiểm soát. Một hộ sản 
xuất nhỏ với 2-3 công nhân thường sử dụng khoảng 10-20 khối gỗ một năm. 
Quy mô nhà xưởng, trang thiết bị của các nhóm khác nhau thì khác nhau. Ở 
Đồng Nai, do tính chất sản xuất khá lớn, đa số các hộ sản xuất có diện tích nhà xưởng 
dao động từ 200-1000m2. Các hộ sản xuất nhỏ lẻ có mặt bằng sản xuất trung bình 
khoảng 50 m2. Tuy vậy, đa số các hộ có thêm diện tích kho nguyên liệu khoảng từ vài 
đến vài chục mét vuông. Đối với các hộ sản xuất nhỏ, phương tiện, máy móc sản xuất 
cũng không phức tạp, chủ yếu ở tầm công cụ cá nhân thường gồm cưa đĩa, cưa lộng, 
máy bào, máy làm mộng, máy thổi PU, máy bắn đinh. Trang thiết bị trong các hộ này 
mỗi loại chỉ từ 1 đến 2 cái. Đối với các hộ gia công công nghiệp, vì không phải thực 
hiện toàn bộ các công đoạn của quá trình sản xuất nên trang bị cũng đơn giản, tuy vậy 
mang tính chuyên nghiệp cao. Một số hộ có thể xẻ gỗ tròn bằng cưa CD được đặt ở 
những nơi xa khu dân cư. Theo một số hộ sản xuất nhỏ, đa phần các trang thiết bị có 
giá dưới 15 triệu và đều là máy sản xuất tại Việt Nam hoặc Trung Quốc. Tuy nhiên, 
trang thiết bị các hộ quy mô lớn là khá hiện đại với một số khâu bố trí theo dây 
chuyền. 
Quan hệ giữa chủ hộ sản xuất và người lao động ít ràng buộc. Nguồn lao động 
phổ thông là dồi dào trong khi đó nguồn lao động có tay nghề là hiếm. Điều này tạo 
môi trường dễ dàng hơn cho các hộ sản xuất công nghiệp, trong khi đó các hộ sản xuất 
nhỏ lẻ cần nhân lực ít nhưng tay nghề cao thường gặp khó khăn. Các hộ sản xuất nhỏ 
lẻ có số lao động từ 2-10 người tùy theo mùa. Tuy vậy, ngoại trừ ở các cơ sở lớn, các 
công nhân thường được ăn lương theo tháng và một số có hợp đồng lao động, đa số 
15
người lao động, kể cả thợ cả ở các hộ sản xuất nhỏ ăn lương tuần và không có hợp 
đồng, bảo hiểm lao động, bảo hiểm xã hội. Do quan hệ giữa hộ và người lao động ít bị 
ràng buộc bởi hợp đồng mà chỉ là thỏa thuận miệng, vì thế người lao động phải tự chịu 
khi có sự cố xảy ra trong quá trình lao động. Khi mùa thấp điểm đến, nhiều lao động 
được cho nghỉ việc dễ dàng. Những người lao động không có tay nghề dễ bị mất việc 
nhất. Tuy vậy, hình thức hợp đồng miệng được cả chủ và người lao động ưa chuộng vì 
tính linh động của nó. Người lao động có thể nhảy việc khi tìm được nơi khác có giá 
cao hơn trong khi chủ thuê lại có thể tuyển lựa được người vừa ý và giảm chi phí. 
Hình thức “buôn có bạn bán có phường” cũng quan sát được ở các hộ sản xuất 
nhỏ ở các cấp độ khác nhau chặt chẽ hơn ở Đồng Nai nhưng cũng không thành hệ 
thống như ở các làng nghề phía Bắc. Ở hộ gia công, sản xuất dây chuyền, quan hệ giữa 
hộ sản xuất và hộ vệ tinh, hộ kinh doanh trong chuỗi sản phẩm là khá chặt. Giao dịch 
giữa các hộ nhóm này thường không có giấy tờ chính thống mà thường chỉ là các cam 
kết viết tay, cam kết miệng để không phải đóng thuế, giảm chi phí sản xuất. 
Các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ thường rất độc lập mặc dù họ có biết một vài cơ sở 
khác cùng địa bàn hoặc có bà con họ hàng. Các hộ này chỉ trao đổi thông tin thông 
thường như giá cả nguyên liệu, giá ngày công, đầu vào nguyên liệu, không có các hình 
thức trao đổi khác như thợ, máy móc, khách hàng hay các hợp tác khác. Như vậy, 
tương tự nhận định ở làng nghề phía Bắc, hầu như không có liên kết nào được hình 
thành giữa các hộ đã dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm dẫn đến những hạn chế lớn về 
cạnh tranh, về năng lực phát triển nghề nghiệp và thị trường. 
Vấn đề về môi trường là vấn đề mang lại rất nhiều bức xúc đặc biệt khi các hộ 
sản xuất tọa lạc ở khu vực dân cư. Trong sản xuất, bụi gỗ và sơn là tác nhân ảnh hưởng 
xấu đến sức khỏe công nhân, đặc biệt là phụ nữ. Những nhà dân xung quanh dù đóng 
cửa kín vẫn ngửi thấy mùi sơn. Tại các hộ sản xuất nhỏ lẻ chưa có trang thiết bị xử lí 
bụi gỗ và sơn. Tại nhiều công đoạn lượng bụi không lớn nhưng kích cỡ hạt bụi rất nhỏ, 
dễ phát tán trong không khí. Các hộ nhỏ thường không thực hiện tốt vệ sinh môi 
trường và chấp nhận chịu phạt vì lợi nhuận so ra vẫn còn cao hơn so với việc đầu tư cơ 
sở vật chất, môi trường lao động. Tình trạng ô nhiễm kéo dài gây bất bình cho người 
dân, dẫn đến khiếu kiện phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh trật tự chung, và làm mất 
lòng tin của người dân vào cơ quan chức năng. Một số người dân cho rằng công tác 
quản lý của nhà nước chưa tốt, đã xuất hiện tiêu cực, một số cơ quan địa phương đã lờ 
đi để các hộ sản xuất vi phạm luật. Thêm vào đó, các hộ sản xuất có nhiều công nhân 
làm việc, sản phẩm nhiều, thường để ngổn ngang chắn hết lối đi trong khi đó trang 
thiết bị phòng cháy chữa cháy còn sơ sài chỉ mang tính hình thức đưa đến những nguy 
cơ cao về cháy, nổ. Về vấn đề vệ sinh, môi trường và phòng chữa cháy, đa số các hộ 
16
“mạnh ai nấy làm” không được hướng dẫn, tập huấn và cũng không tuân thủ các quy 
định. 
Chủng loại sản phẩm của các hộ sản xuất nhỏ đa dạng gồm bàn ghế, salon, tủ 
thờ, tủ áo, giường, đồ gỗ văn phòng, kệ, tủ bếp, tủ đứng, tay vịn cầu thang, trụ cầu 
thang, ván sàn, lam ri trần nhà, vách nhà. Ở một số nơi còn có nhiều loại sản phẩm 
trang trí nội thất, mỹ nghệ (thần tài, tượng, đồng hồ, v.v..). Đa phần các hộ nhỏ sản 
xuất sản phẩm cung cấp cho thị trường địa phương. Một số nhỏ các hộ gia công cho 
các công ty xuất khẩu như các hộ ở khu vực tỉnh Đồng Nai. Ở các làng nghề phía Bắc, 
hàng hóa được đưa đi tiêu thu khắp cả nước với hơn 83% được tiêu thụ trong nước và 
hơn 16% được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Riêng ở làng nghề Đồng Kỵ, có 
đến 33,3% số công ty và 42,8% số hộ gia đình có xuất hàng đi thị trường Trung Quốc 
(Forest Trends 2012). Tuy vậy, số liệu chính xác về sản lượng, loại gỗ của các hộ sản 
xuất nhỏ cho thị trường và các ngành công nghiệp khác trong nước và quốc tế là không 
chính thức kể cả ở tầm quốc gia hay địa phương. 
Trong khi nhiều hộ sản xuất lớn thường có quan hệ thân mật, chặt chẽ với Kiểm 
lâm, phòng kinh tế, quản lý thị trường, các hộ sản xuất nhỏ thường có rất ít liên hệ với 
các cơ quan nhà nước và không nắm rõ các quy định pháp luật liên quan. Nhiều hộ vận 
hành thông qua các cách thức phi chính thống. Các định chế không chính thống quan 
sát được bao gồm các quan hệ của hộ với nguồn cung cấp gỗ, một số cán bộ chức 
năng, người lao động, cộng đồng dân cư, nguồn vay vốn. Các quan hệ không chính 
thống giúp nhiều hộ đi xuyên qua nhiều quy định, ràng buộc của luật pháp để duy trì 
sản xuất. Theo quy định, hộ có trách nhiệm báo cáo xuất nhập gỗ định kỳ cho kiểm 
lâm sở tại, hoặc khi gỗ về tới xưởng, đặc biệt khi nhập gỗ rừng tự nhiên, hộ phải báo 
ngay. Nhưng thực tế, các hộ không ghi chép thường xuyên cũng không báo cáo, và cơ 
quan kiểm lâm cũng không kiểm tra thường xuyên đặc biệt là đối với các cơ sở nhỏ. 
Tuy vậy, kiểm lâm sở tại thường nắm rõ các hộ sản xuất mộc trong địa bàn. Do điều 
kiện pháp lý chưa được thông suốt, nhiều hộ nhỏ sản xuất trong điều kiện khó khăn, 
dấu diếm. Một số nơi, hộ khóa cửa ngoài và hoạt động bên trong, hoặc làm xưởng kín, 
khuất sau nhà để tránh bị cơ quan chức kiểm tra. 
2.1.3. Một số tác động của VPA đến nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ 
Nhìn chung, trong bốn nhóm hộ phân tích không có nhóm nào có ảnh hưởng 
đến VPA một cách trực tiếp, đáng kể. Các hộ chỉ biết các thông tin rất sát sườn với 
mình mà không có thông tin gì về VPA/FLEGT. Ngược lại tác động của VPA đến các 
nhóm hộ này là hiện hữu và khác nhau. 
17
Trong tương lai, việc áp dụng các quy định nghiêm ngặt mới có thể làm tăng 
quyền lực của cơ quan chức năng liên quan như Sở KH&ĐT (liên quan đến cấp đăng 
ký), Hạt kiểm lâm, Sở TN&MT. Điều này có thể làm môi trường sản xuất khó khăn 
hơn nếu tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu quan sát được ở nhiều nơi không được cải 
thiện. Để tránh tình trạng này, cần phải có cơ chế phối hợp để kiểm soát, giám sát việc 
sử dụng quyền lực của các cơ quan thực thi pháp luật. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật 
cũng cần được tinh gọn, rõ ràng và hiểu biết về pháp luật của người sản xuất cũng cần 
được nâng lên. 
Mặc dù sẽ phải gặp một số khó khăn lúc ban đầu, nhiều nhóm sẽ hưởng lợi ích 
từ VPA ở các mức độ khác nhau bao gồm việc chuẩn hóa các quy định, luật lệ, nếu 
được thực thi tốt sẽ làm dễ dàng hơn, tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho sản 
xuất. Đối với các nhóm sản xuất và gia công xuất khẩu, do năng lực quản lý của nhóm 
này khá tốt, VPA có thể giúp họ mở rộng và ổn định thị trường. Nhiều nhóm cũng sẽ 
nâng cao được năng lực sản xuất theo yêu cầu của VPA. Khó khăn phổ biến mà các hộ 
nhóm này sẽ gặp phải là chi phí sản xuất có thể sẽ tăng, lợi nhuận hay sức cạnh tranh 
sẽ giảm do chi phí ban đầu để chuẩn hóa lại bộ máy sản xuất sẽ tăng bao gồm việc mua 
gỗ hợp pháp, việc trang bị bảo vệ môi trường, phòng chữa cháy và việc bảo đảm an 
sinh xã hội cho người lao động. 
Các hộ sản xuất cho thị trường trong nước hoạt động như một doanh nghiệp 
thường có đăng ký kinh doanh, không bị tác động trực tiếp từ VPA nhưng có thể bị 
ảnh hưởng bởi việc thực thi lâm luật, quản lý lâm sản trong nước. Nhiều hộ sử dụng 
một phần nguồn gỗ tự nhiên trôi nổi, bao bì, trụ tiêu, sẽ gặp khó khăn khi phải chứng 
minh tính hợp pháp của nguồn gỗ. Bên cạnh đó, một số hộ có tiềm lực lớn có mua gỗ 
qua đấu thầu khai thác, tận thu, tỉa thưa hay mua gỗ vi phạm qua đấu giá hợp pháp có 
thể không còn tiếp cận với nguồn này dễ dàng như trước. Các hộ nhóm này thường có 
môi trường làm việc ô nhiễm, không đảm bảo an toàn lao động cũng như phòng chữa 
cháy, và quyền lợi của người lao động. Việc thực thi các quy định trong VPA, có thể 
sẽ làm tăng chi phí sản xuất của nhóm này. Tuy vậy, do quy mô sản xuất, vốn lớn, các 
hộ này sẽ không khó thích nghi. 
Việc thực thi VPA một cách nghiêm túc và hiệu quả sẽ có tác động lớn nhất đến 
nhóm hộ sản xuất nhỏ lẻ. Các thay đổi về đòi hỏi các hộ sản xuất gia công nhỏ phải 
đáp ứng các yêu cầu về giấy phép, thuế, vệ sinh môi trường, hợp đồng lao động. Trong 
khi đó đa số các hộ sản xuất gia công nhỏ có vốn ít, không có giấy phép kinh doanh, 
không có năng lực làm sổ sách kế toán, thuế, và không có ký kết hợp đồng lao động 
với nhân công do tính mùa vụ của nó. Do đó các yêu cầu về các vấn đề này sẽ làm các 
hộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải rời bỏ nghề, nếu họ không được hỗ trợ, cải thiện 
18
năng lực thích đáng. Sự thành công của VPA sẽ không trọn vẹn nếu một số nhóm bị 
đẩy vào kết cục này do đây là nhóm lớn trên bình diện cả nước, là nguồn cung cấp sản 
phẩm mộc truyền thống ở các vùng ngoài đô thị. 
19 
2.2. NHÓM HỘ GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ SỐNG PHỤ THUỘC 
VÀO RỪNG 
2.2.1. Đặc trưng chính của nhóm đối tượng nghiên cứu 
Theo đánh giá, nhóm đối tượng nghiên cứu có những đặc điểm chung hoặc 
những đặc trưng cụ thể như sau: 
- Dân tộc thiểu số (DTTS): Phần lớn là đồng bào thiểu số, có thể có người 
kinh. 
- Sống gần rừng hoặc trong rừng tự nhiên (đặc dụng, phòng hộ, sản xuất) 
- Người bản địa hoặc di cư 
- Sinh kế phần lớn phụ thuộc và gắn với thu nhập từ rừng: khai thác rừng, lâm 
sản ngoài gỗ (LSNG) 
- Phần lớn là người nghèo, điều kiện sống khó khăn, nguồn lực cho phát triển 
hạn chế. 
- Mức độ/khả năng tiếp cận dịch vụ công và thị trường hạn chế. 
- Dân trí thấp 
- Có hệ thống luật tục/văn hóa liên quan đến rừng. 
- Gia đình đông con, không được giao rừng tự nhiên 
- Tham gia vào quản lý rừng cộng đồng chính thống và không chính thống. 
Với những khó khăn và những đặc điểm đặc thù cản trở sự phát triển, nhóm đối 
tượng này là đối tượng chính của đói nghèo do những nguyên nhân cụ thể như sau: 
- Cơ sở hạ tầng sản xuất ít phát triển hoặc ít được đầu tư, thiếu đất sản xuất 
- Đông con nhưng lại thiếu lao động, thu nhập thấp, phụ thuộc nhiều vào sự 
hỗ trợ từ chính sách xã hội 
- Kiến thức quản lý chi tiêu không có hoặc rất hạn chế 
- Ít am hiểu về khoa học kỹ thuật. 
Nhóm đồng bào dân tộc ít người ở Thừa Thiên Huế (nơi triển khai nghiên cứu 
thực địa/nghiên cứu trường hợp) phân bố chủ yếu ở hai huyện Nam Đông và A Lưới, 
một số ít ở các huyện Phú Lộc và Phong Điền và thị xã Hương Trà. Các nhóm người 
dân tộc chính theo thứ tự số lượng là Pa kô, Cơ tu, Ta Ôi, Vân Kiều và Pa hy. Đa phần
các nhóm dân tộc này sử dụng hệ thống canh tác du cư không sử dụng hệ thống thủy 
lợi (Rerkasem, 2009). 
Theo báo cáo mới nhất về điều tra thực trạng Kinh tế Xã hội (KTXH) ở Thừa 
Thiên Huế cho thấy, hộ nghèo toàn tỉnh có 11,16% thì miền núi có 18,9%, vùng DTTS 
có 28,57%. Hộ cận nghèo toàn tỉnh có 6,83% thì vùng DTTS có 14,72%. Tất cả 18 xã 
có tỷ lệ hộ nghèo >25% đều thuộc vùng DTTS và miền núi. Số liệu thống kê hằng năm 
cho thấy, nguy cơ tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới ở vùng này rất cao (Ban Dân 
tộc Thừa Thiên Huế, 2013). 
Với người dân tộc địa phương ở khu vực Thừa Thiên Huế, rừng và sản phầm 
rừng đóng vai trò rất quan trọng với cuộc sống của họ. Theo khảo sát của các nghiên 
cứu thì sản phẩm rừng đóng góp tỷ lệ khá lớn vào thu nhập của người dân địa phương, 
đặc biệt là các hộ đồng bào dân tộc (Wetterwald et al, 2004). Theo một số nghiên cứu 
đánh giá về mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng của người dân địa phương khu vực 
Nam Đông, A Lưới, mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng của nhóm đồng bào người 
dân tộc trung bình chiếm từ 30%-50% (thậm chí có một số gia đình có mức phụ thuộc 
đến 70%) vào những năm 2004 – 2005 (Thắng, 2004) và sau đó giảm dần xuống 18% 
vào thời điểm 2009 (Thắng, 2010). 
Đặc biệt là trong thời gian vừa qua (2010, 2011), sự mở rộng của các khu bảo 
vệ (mở rộng vườn quốc gia Bạch Mã, thành lập mới Khu bảo tồn Sao La Quảng Nam 
và Thừa Thiên Huế) đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của đồng bào. 
Các diện tích rừng trước kia thuộc sự quản lý của các Công ty lâm nghiệp, Ban quản lý 
rừng phòng hộ thì các sản phẩm như lâm sản ngoài gỗ (LSNG) người dân vẫn được 
phép thu hái. Nhưng khi mở rộng/thành lập mới khu bảo tồn, về nguyên tắc tất cả các 
sản phẩm này đều không được phép khai thác. Các diện tích đất canh tác của người 
dân địa phương (nương rẫy) đều không được triển khai, thực hiện. 
2.2.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA 
Đây là một nhóm đối tượng có thể nói không thật sự liên quan trong việc cung 
cấp gỗ, chế biến sản phẩm gỗ cho các thị trường xuất khẩu, quy mô về số lượng của họ 
cũng không lớn. Tuy nhiên, họ là những cộng đồng dân tộc ít người có truyền thống 
lịch sử và cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tài nguyên rừng, chính vì thế, những tác 
động của VPA, FLEGT lên tài nguyên rừng sẽ gián tiếp tác động đến họ, họ dễ bị tổn 
thương và mức độ bị tổn thương của họ rất nghiêm trọng. 
Bên cạnh đó, phần lớn các nhóm dân tộc ít người là các nhóm có điều kiện kinh 
tế và mức sống thấp so với mặt bằng chung của xã hội, ở đây họ lại là đối tượng không 
20
được giao/khoán rừng tự nhiên trong khi họ có truyền thống rất lâu đời trong quản lý, 
sử dụng tài nguyên rừng. Chính vì thế tác động của VPA, FLEGT lên cuộc sống của 
họ sẽ là rất lớn. 
Ngoài ra, việc thực hiện VPA, FLEGT là nhằm mục đích tạo ra công bằng 
chung cho toàn xã hội, nên việc tác động của tiến trình này lên một nhóm người thiểu 
số, bị lề hóa và yếu thế sẽ là một trong những yêu cầu đầu tiên cần phải giải quyết và 
tạo ra sự công bằng cho xã hội cũng như mục tiêu của chính tiến trình này. 
VPA/FLEGT quan tâm đến lợi ích của người dân sống phụ thuộc vào rừng cũng 
như các tác động môi trường. Mối quan tâm này có thể bắt buộc các chủ rừng phải 
thực hiện trách nhiệm đền bù những thiệt hại cho người dân do họ gây ra khi khai thác 
và sử dụng rừng. Hơn nữa, mục tiêu sâu xa của VPA/FLET là cải thiện quản trị rừng, 
vì vậy sẽ giúp cho rừng phát triển tốt, dẫn đến sinh kế của những hộ gia đình dân tộc 
sống phụ thuộc vào rừng sẽ có cơ hội được cải thiện. Để có thể ký kết VPA, cả nhà 
nước, các doanh nghiệp phải cải thiện điều kiện làm việc, môi trường sống cũng như 
tất cả các lĩnh vực liên quan đến nhóm đối tượng này. 
2.2.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải và tác động 
của VPA 
Các vấn đề mà các nhóm hộ này đang phải đối mặt được mô tả sơ lược tại Sơ 
21 
đồ 2 - Sơ đồ cây vấn đề dưới đây. 
Mất đất sản xuất: Tiến trình VPA/FLEGT có thể gây ra mất đất sản xuất cho 
nhóm đối tương nghiên cứu thông qua những tác động có thể diễn ra như: 
- Quy hoạch quản lý đất đai kém (năng lực của cán bộ quy hoạch, ưu tiên của 
lãnh đạo địa phương), không quan tâm đến quyền sở hữu và luật tục truyền thống của 
người dân địa phương. 
- Người dân địa phương bị dụ dỗ bán đất cho đối tượng bên ngoài: các đồn điền 
và công ty lâm nghiệp có nguồn lực kinh tế mạnh tìm cách thu mua đất rừng, làm thiệt 
hại cho nông dân thiểu số.
Sơ đồ 2: Các vấn đề mà các nhóm hộ DTTS sống phu thuộc vào rừng đang phải đối mặt 
Năng lực của cán bộ 
quy hoạch Chuyển đổi sử dụng 
đất NN sang LN Quy hoạch và quản 
lý quy hoạch đất 
đai kém 
Mất đất sản 
xuất 
Ưu tiên của lãnh đạo 
Gỗ nhập địa phương 
khẩu bất 
hợp pháp 
giảm 
Phát triển rừng 
trồng 
Bị dụ dỗ bán đất 
Thiếu sự tham gia 
trong quy hoạch Rừng tự nhiên bị 
thu hẹp 
Giao rừng ngoài 
cộng đồng 
Mất quyền 
thu hái lâm 
sản phụ 
Lợi nhuận từ gỗ tăng 
VPA 
Cơ chế chia sẻ lợi 
ích không hiệu quả 
Thực hiện quy định 
chưa chặt chẽ 
Nhu cầu 
gỗ tăng 
Chủ rừng lớn thâu 
tóm đất rừng 
Người dân 
bị loại trừ 
về kinh tế- 
VHXH 
Luật tục trong 
QLTNR không 
được tôn trọng 
Luật tục không 
được pháp luật 
côn 
Không được đào tạo Tâm lý ngại thay 
đổi 
g nhận 
Năng lực 
quản lý vốn 
kém 
Ít sự lựa chọn sinh 
Nghèo đói Tay nghề lao động 
thấp 
kế 
Không công 
bằng trong tiếp 
cận thị trường 
lao động 
Tiếp cận vốn vay hạn 
chế 
Cạnh tranh lao động 
Thiếu vốn đầu tư 
Năng lực truyền thông 
kém 
Phương tiện nội dung 
chưa phù hợp 
Thủ tục phức tạp 
Truyền thông chưa 
hiệu quả 
Nhận thức chưa cao 
Ít chính sách ưu tiên 
lao động tại chỗ 
Năng lực tiếp cận 
kém 
Không nắm rõ 
thủ tục của VPA 
Vấn đề cốt lõi 
Vấn đề trực tiếp 
Vấn đề trung gian 
22
- Chuyển đổi mục đích sử dụng đất: 
+ Kết quả tích cực là diện tích đất sản xuất nông nghiệp cho hiệu quả kinh tế 
thấp được chuyển sang trồng rừng kinh tế có hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều này có thể 
làm tăng hiệu quả sử dụng đất, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các 
hộ gia đình dân tộc thiểu số. Hơn nữa, hiệu quả sử dụng đất tăng, tức là thu nhập và lợi 
nhuận trên một đơn vị diện tích tang, có thể làm giảm bớt nhu cầu về đất đai và do đó 
làm giảm tình trạng lấn chiếm đất rừng. 
+ Kết quả tiêu cực là tạo ra hệ thống canh tác độc canh, thay thế hệ thống canh 
tác đa canh trước đây của các hộ gia đình (Hoang, 2011). Trong hệ thống canh tác độc 
canh, sinh kế của các hộ gia đình phụ thuộc chủ yếu vào gỗ rừng trồng. Nhưng trồng 
rừng chịu nhiều rủi ro như hư hại do thiên tai, rớt giá do biến động thị trường. Những 
rủi ro này ngày càng lớn trong điều kiện biến đổi khí hậu và thị trường tiêu thụ sản 
phẩm không ổn định. Trong khi đó, khả năng đối phó với rủi ro của các hộ gia đình 
này có thể thấp đi một khi các lựa chọn sinh kế của hộ gia đình bị hẹp lại do tiếp cận 
của họ với rừng bị hạn chế. Hơn nữa, các hộ dân tộc sống phụ thuộc vào rừng thường 
là các hộ nghèo và họ không đủ vốn nên phải vay mượn để đầu tư trồng rừng. Một khi 
rủi ro xảy ra sẽ tạo cho họ một gánh nặng nợ nần, và do đó hạn chế khả năng tiếp cận 
vốn vay để khôi phục sản xuất và ổn định đời sống. Cách giải quyết rủi ro này của các 
hộ gia đình dân tộc ít người thường là khai thác lâm sản trái phép và lấn chiếm đất 
rừng để sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sinh kế của gia đình. 
Luật tục trong quản lý tài nguyên không được tôn trọng 
Thừa nhận quyền theo luật tục đối với rừng và đất rừng của đồng bào dân tộc 
thiểu số: cộng đồng dân tộc ít người đã và đang quản lý rừng theo truyền thống và luật 
tục sẽ có được những quyền hợp pháp nhất định đối với rừng và đất rừng, thông qua 
việc nhà nước giao rừng hoặc thông qua hình thức đồng quản lý với các đơn vị chủ 
rừng nhà nước. Như vậy họ có thể trở thành chủ rừng và được hưởng quyền và lợi ích 
theo luật định. Một khi cộng đồng được xem là chủ thể pháp lý và họ được phép khai 
thác gỗ từ rừng do họ quản lý nhằm mục đích thương mại thì gỗ này sẽ được thừa nhận 
là gỗ hợp pháp để có thể tham gia vào thị trường xuất khẩu sang Châu Âu. Điều này có 
thể giúp cho các hộ gia đình dân tộc ít người sống phụ thuộc vào rừng có thu nhập tốt 
hơn từ rừng tự nhiên mà họ đã gắn bó bao đời nay. 
Có thể có hai hình thức xảy ra: 
Giao cho các đơn vị, tổ chức ngoài cộng đồng (Ban QLRPH, Nông Lâm trường, 
Công ty lâm nghiệp, ...): Một khi giao cho các đơn vị, tổ chức này, rừng có thể bị quản 
lý nghiêm ngặt hơn, và cùng với phương pháp quản lý thiếu sự tham gia sẽ hạn chế sự 
23
tiếp cận rừng và đất rừng của các hộ gia đình dân tộc ít người có sinh kế phụ thuộc vào 
rừng được giao. Những hoạt động sinh kế của hộ gia đình dân tộc phụ thuộc vào rừng 
như khai hoang đất để sản xuất nông nghiệp, khai thác lâm sản từ rừng sẽ bị hạn chế 
và dẫn đến giảm nguồn thu nhập cũng như giảm đi sự đa dạng sinh kế của những hộ 
gia đình này. 
Giao cho hộ gia đình, các tổ chức trong cộng đồng: ba nhóm đối tượng được 
giao là cộng đồng, nhóm hộ và hộ gia đình. Việc giao rừng với những quyền lợi hợp 
pháp khẳng định quyền tiếp cận với rừng và đất rừng của người dân địa phương. 
Mất quyền thu hái lâm sản phụ 
VPA/FLEGT tạo cơ hôi tốt hơn để Việt Nam xuất khẩu gỗ sang thị trường châu 
Âu, cùng với dân số tăng và rừng phục hồi chậm hoặc có xu hướng suy giảm ở một số 
nước, sẽ làm cho nhu cầu gỗ ở Việt Nam ngày càng tăng, thị trường gỗ ngày càng mở 
rộng, và theo đó giá gỗ tăng cao, tạo ra lợi nhuận hấp dẫn từ gỗ. Điều này có thể thúc 
đẩy các chủ rừng (đơn vị, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được giao rừng) mở rộng diện 
tích rừng trồng. Nhất là các chủ rừng là các công ty lâm nghiệp, mối quan quan tâm 
chính yếu của họ là lợi nhuận hơn là bảo tồn tài nguyên rừng, vì vậy họ càng tập trung 
nhiều hơn vào việc phát triển rừng trồng. Mở rộng rừng trồng có thể dẫn đến nhiều 
diện tích rừng tự nhiên bị lấn chiếm và thay thế bằng các rừng trồng. Những diện tích 
rừng tự nhiên, cho dù được xem là nghèo kiệt hiện nay (về trữ lượng gỗ), cũng cung 
cấp một lượng lâm sản phi gỗ đáng kể và vì vậy có vai trò quan trọng đối với sinh kế 
của hộ gia đình dân tộc sống phụ thuộc vào rừng. Một khi rừng tự nhiên bị thu hẹp, 
nguồn lâm sản phi gỗ từ rừng cũng bị giảm đi, làm mất đi nguồn sống quan trọng đối 
với những cộng đồng và hộ gia đình dân tộc ít người sống phụ thuộc vào rừng. 
Khó khăn khi tiếp cận thị trường lao động 
Như đã trình bày ở trên, VPA có thể thúc đẩy quá trình giao rừng và điều này sẽ 
làm hạn chế tiếp cận rừng và đất rừng của các hộ gia đình dân tộc thiểu số. VPA cũng 
có thể thúc đẩy phát triển rừng trồng, làm giảm đi diện tích rừng tự nhiên nơi mà hộ 
gia đình dân tộc ít người khai thác lâm sản tự nhiên. Khi đó các lựa chọn sinh kế của 
các hộ gia đình dân tộc ít người sẽ bị hẹp dần và họ có thể phải làm thuê cho các công 
ty lâm nghiệp hoạt động tại địa phương. Điều này, cùng với đặc điểm của người đồng 
bào dân tộc ít người là có trình độ nhận thức thấp, trình độ học vấn hạn chế, bất đồng 
ngôn ngữ …, sẽ làm giảm khả năng thương lượng của các hộ gia đình này với đơn vị 
thuê mướn lao động về chế độ lương bổng. Hậu quả là họ có thể bị chèn ép và chịu 
nhiều thiệt thòi. 
24
Không nắm rõ thông tin, thủ tục liên quan đến VPA/FLEGT 
Do điều kiện thực tế là nhóm đối tượng phần lớn là người nghèo, điều kiện sống 
khó khăn, nguồn lực cho phát triển hạn chế; mức độ/khả năng tiếp cận dịch vụ công và 
thị trường hạn chế; dân trí thấp nên khả năng tiếp cận với thông tin liên quan đến thị 
trường, các thông tin liên quan đến VPA/FLEGT rất hạn chế. Người dân sẽ không nắm 
được những yêu cầu, đòi hỏi của VPA/FLEGT để có thể áp dụng, triển khai vào hoạt 
động sản xuât kinh doanh. Đây cũng chính là một trong những khó khăn người dân 
gặp phải. 
Tóm lại: Có khả năng là VPA sẽ đẩy nhóm dân tộc thiểu số có sinh kế phụ 
thuộc vào tài nguyên rừng ra bên lề và tăng bất bình đẳng về kinh tế bằng một số các 
tác động cụ thể lên nhóm như: (1) làm mất đất sản xuất, (2) không tôn trọng luật tục 
trong quản lý tài nguyên rừng, (3) làm mất quyền thu hái LSNG, (4) gây khó khăn 
trong tiếp cận thị trường tuyển dụng lao động, và (5) không nắm rõ thông tin, hiểu rõ 
các vấn đề liên quan đến VPA/FLEGT để có thể tham gia và hưởng lợi từ tiến trình 
này. 
25 
2.3. NHÓM HỘ TRỒNG RỪNG TRÊN ĐẤT ĐƯỢC GIAO NHƯNG 
KHÔNG CÓ SỔ ĐỎ 
Trong quá trình tìm các tài liệu và dữ liệu của các ngành, bài báo, các nghiên 
cứu công bố v.v. về đối tượng này, cho thấy hiện nay chưa tìm ra một tài liệu, một báo 
cáo hay công bố nào về diện tích đất lâm nghiệp đã giao cho hộ gia đình nhưng chưa 
được cấp sổ đỏ theo các vùng sinh thái lâm nghiệp mà chỉ công bố về diện tích đất lâm 
nghiệp đã giao cho hộ gia đình theo vùng (nguồn: Kết qủa kiểm kê đất đai toàn quốc 
năm 2010 của Bộ TN&MT) và số diện tích đất lâm nghiệp đã được cấp sổ đỏ cho hộ 
gia đình theo vùng còn diện tích đất lâm nghiệp giao cho các hộ nhưng chưa được cấp 
sổ đỏ thì không có. Do vậy nhóm chỉ nêu các hộ gia đình nói chung. 
2.3.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ gia đình trồng rừng trên đất được giao 
Phân bố địa lý: nằm theo 8 vùng sinh thái lâm nghiệp thì thây rõ tỷ lệ số hộ 
được giao đất lâm nghiệp tập trung ở vùng núi Đông bắc, Tây bắc (62,74% và 61,77%) 
và bắc Trung bộ (36,62%) cao hơn mức bình quân của các vùng là (29,13%), thấp nhất 
Tây nguyên (Tây nguyên giao đất lâm nghiệp cho tổ chức nhiều hơn) rồi đến vùng 
đồng bằng. Các hộ gia đình được giao đất lâm nghiệp thường tập trung ở các vùng núi 
là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau; 
Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo: vùng Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất chiếm 
tỷ lệ 33,02%; hộ cận nghèo chiếm 12,08%, miền núi Đông Bắc có số hộ nghèo chiếm
21,01% và hộ cận nghèo chiếm 9,58%; ngoài ra Khu IV cũ có số hộ nghèo chiếm 
18,28% và hộ cận nghèo chiếm 12,38% so với tỷ lệ bình quân toàn quôc là 11,76% đối 
với hộ nghèo và 6,98%. Hơn nữa các hộ gia đình trồng rừng có trình độ dân trí hạn 
chế phần lớn cấp I, II như phân tích trong báo cáo, kinh tế chậm phát triển vì hạ tầng 
cơ sở giao thông đi lại không thuận tiện để thông thương buôn bán với với vùng đồng 
bằng. Đời sống còn nhiều khó khăn, cuộc sống chủ yếu dựa vào rừng, nông nghiệp và 
chăn nuôi, không có ngành công nghiệp trên miền núi. 
Về góc độ giới: qua thực tế khảo sát, 57,09% hoạt động trồng rừng là do người 
vợ đảm nhiệm, chồng chỉ đảm nhiệm 42,91% ; tuy nhiên các công việc nặng như khai 
thác thì chồng lại làm phần lớn (90%), trong khi đó vợ chỉ làm khoảng 10%, đặc biệt 
các công việc liên quan tới giao dịch với bên ngoài, chồng là đảm nhiệm chính, ví dụ: 
liên hệ mua cây giống chồng 85%, vợ 15% hay liên hệ bán cây chồng 90%, vợ 10%. 
Người vợ làm các công việc được xem là nhẹ nhàng hơn, như: làm vườn ươm (vợ 
chiếm 76%, chồng chiếm 24%); hay chăm sóc bảo vệ, trồng cây v.v.. (vợ làm nhiều 
hơn chồng). Người vợ ít tham gia các hoạt động hội họp, tập huấn, dẫn đến nhận thức 
và kiến thức khoa học kỹ thuật hạn chế nhưng họ lại phải tham gia nhiều hoạt động 
mang tính kỹ thuật như: làm đất, trồng cây…vì vậy hiệu quả không cao. Thêm nữa, khi 
phụ nữ không tham gia các hoạt động hội họp, truyền thông cũng đồng nghĩa với việc 
không có các thông tin về chính sách, pháp luật thì khi triển khai VPA họ sẽ không 
hiểu biết về VPA, có nghĩa là không hiểu về nguồn gốc gỗ, không hiểu về các chính 
sách lâm nghiệp, pháp luật. 
Trong chuỗi cung ứng gỗ ra thị trường: Hiện chu kỳ của rừng trồng thường 
khoảng 5 – 7 năm, do vậy gỗ khai thác thường có cấp kính nhỏ, hầu hết chỉ được sử 
dụng làm nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy chế biến bột giấy, dăm gỗ xuất khẩu 
hoặc làm ván nhân tạo. Các nhà máy bột giấy, chế biến dăm, và ván nhân tạo cũng 
nằm rải rác theo các vùng sinh thái có rừng nguyên liệu là rừng trồng. Có thể nói nhóm 
hộ này đóng góp đáng kể cho ngành công nghiệp chế biến gỗ. 
2.3.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA 
Ảnh hưởng: Khi cơ sở pháp lý về quyền sử dụng rừng và đất rừng bị đòi hỏi thì 
sinh kế của nhóm hộ trồng rừng không có sổ đỏ sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp, gỗ của họ có 
thể bị coi là không hợp pháp. Họ thiếu thông tin về thị trường, sản phẩm, không hiểu 
biết về nguồn gốc gỗ hợp pháp và sản phẩm gỗ hợp pháp, năng lực hạn chế,‘tiếng nói’ 
yếu không gây ảnh hưởng mạnh đến chính sách, trong việc tạo điều kiện hoặc thúc đẩy 
cải cách chính sách liên quan đến VPA. 
Tầm quan trọng: Nhóm này có số lượng người đông, sống gần rừng và am 
hiểu về rừng và địa bàn/địa phương, vì vậy họ sẽ là người phát hiện nhanh và chính 
xác những sai phạm trong lâm nghiệp (đặc biệt là khâu khai thác và vận chuyển tại 
nguồn), do đó họ có tầm quan trọng trong việc giám sát thực thi VPA. 
26
Lợi ích: Khi VPA ký kết, có thể việc cấp sổ đỏ cho nhóm hộ này sẽ được đẩy 
nhanh hơn, các bên liên quan sẽ quan tâm hơn tới việc nâng cao nhận thức và năng lực 
cho họ. Như thế họ sẽ yên tâm hơn trong phát triển sản xuất và khai thác hợp pháp 
đúng kỹ thuật các sản phẩm từ rừng và bán ra thị trường với giá cả phù hợp. 
Rủi ro: VPA đòi hỏi gỗ có nguồn gốc thi mới được lưu thông ra thị trường, làm 
tổn thương đến sinh kế của nhóm hộ này gây ảnh hưởng đến đời sống, đa số là những 
hộ nghèo nay họ lại trở nên nghèo hơn. Họ bị thua thiệt khi bán gỗ có thể không được 
lưu thông trên thị trường có thể bán gỗ chui, vì không có giấy tờ hợp pháp 
2.3.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải 
Các vấn đề mà các nhóm hộ này đang phải đối mặt được mô tả sơ lược tại Sơ 
27 
đồ 3 - cây vấn đề dưới đây. 
Những nguyên nhân dẫn đến những vấn đề mà nhóm hộ trồng rừng chưa được 
cấp sổ đỏ gặp phải đó là: 
Sự phối hợp của cơ quan đo đạc đất đai (thuộc cơ quan tài nguyên và môi 
trường) và đo đạc rừng (thuộc cơ quan kiểm lâm) còn hạn chế. Công tác rà soát đất 
đai, xác định ranh giới, mốc giới, giải quyết tranh chấp, vi phạm pháp luật đất đai chưa 
được triển khai hiệu quả, triệt để. Nhiều diện tích rừng được giao cho hộ nhưng chưa 
xác định ranh giới, lập hồ sơ, dẫn đến tranh chấp hoặc cấp trùng giấy. Có nhiều lý do 
chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng này, gồm cả việc tranh chấp diễn ra giữa 
các hộ dân và công ty lâm nghiệp ở một số địa phương; các công ty lâm nghiệp trả lại 
đất cho xã và người dân nhận đất giao mà chưa có giấy tờ chính thức; hoặc các hộ dân 
từ xưa thiếu đất đầu tư vào các diện tích trên đất của công ty lâm nghiệp có sổ đỏ chưa 
được giải quyết. Cần nhiều nỗ lực để giải quyết các bất ổn này để đảm bảo các hộ dân 
trồng rừng có tư cách pháp lý cần thiết như những nhà sản xuất gỗ theo khuôn khổ 
VPA. 
Tổn thương tiềm tàng thứ hai nhóm này gặp phải là nhu cầu về các sản phẩm gỗ 
sản xuất hợp pháp trong nước ngày càng tăng có thể dẫn đến việc tập trung đất rừng 
vào một số trang trại và công ty lâm nghiệp có nguồn lực mạnh, dẫn đến thiệt hại cho 
các hộ trồng rừng không có quyền sử dụng đất ổn định.
Sơ đồ 3: Các vấn đề mà các nhóm hộ trồng rừng trên đất được giao không có sổ đỏ đang phải đối mặt 
Năng lực gi ải quyết các Thiếu phương tiện đo đạc 
vấn đề pháp lý yếu 
Khả năng quản lý đấy 
của người dân kém 
Công ty lâm nghiệp 
không muốn lấy sổ đỏ 
Khả năng quản trị đất 
của CT Lâm nghiệp 
Thiếu văn bản hướng 
dẫn rõ ràng của tỉnh về 
QLĐD với CTLN 
Người dân nghèo đói 
Ý thức chấp hành pháp 
luật 
Người dân thiếu đất 
Công ty lâm nghiệp 
nhiều đất không sử 
Giám sát của địa phương 
kém 
Tham nhũng gây chậm trễ 
cấp sổ đỏ 
Thiếu vốn 
Trình độ cán bộ thực thi 
ế 
Thiếu cán bộ thực hiện đo 
đạc, cấp sổ đỏ 
Các trường hợp đất còn 
tranh chấp 
Lấn chiếm đất lâm nghiệp 
Nhận thực của người dân 
kém 
Người dân thiếu tiền làm 
sổ đỏ 
Sự khác biệt giữa các vùng 
miền 
Không có giấy tờ hợp 
pháp khi VPA/FLEGT 
được áp dụng 
Trồng cây thay thế giá 
thấp 
Không bán được gỗ 
Giá gỗ thấp/ bị ép giá 
Bán đất rừng giá thấp 
Chi phí giao dịch tăng 
Hộ trồng rừng 
không có giấy tờ 
hợp lệ bị tổn hại về 
kinh tế 
Vấn đề cốt lõi 
Vấn đề trực tiếp 
Vấn đề trung gian 
28
29 
2.3.4 Tác động của VPA tới nhóm đối tượng nghiên cứu 
Quyền sử dụng đất 
Theo dự thảo Định nghĩa tính hợp pháp (LD) và Hệ thống đảm bảo tính hợp 
pháp của gỗ (TLAS), bên cạnh giấy chứng nhận sử dụng đất chính thức, sổ xanh và 
các quyết định giao đất giao rừng của chính quyền địa phương là giấy tờ pháp lý đạt 
yêu cầu cho việc sản xuất và cung ứng gỗ hợp pháp. Tuy nhiên, điều quan trọng là chỉ 
các hộ có giấy chứng nhận sử dụng đất chính thức mới có quyền theo các điều khoản 
trong Luật đất đai, bao gồm quyền sử dụng đất như tài sản thế chấp để vay tiền cho sản 
xuất. Thêm nữa, các giấy chứng nhận sử dụng đất được xem là đảm bảo an toàn hơn về 
dài hạn cho các nhà sản xuất, đây là điều căn bản với sản xuất và cung ứng gỗ bền 
vững. 
Nhận thức cho các hộ gia đình tham gia trồng rừng 
Hiện nay các hộ gia đình sản xuất gỗ cho thị trường không hiểu biết về gỗ và 
các sản phẩm gỗ hợp pháp, các thủ tục khi khai thác gỗ phải làm những việc gì, do vậy 
họ đều bán qua thương lái, và phải trả tiền phí dịch vụ ảnh hưởng đến sinh kế của họ.
30 
III. PHÂN TÍCH KÊNH TRUYỀN TẢI 
Là một phần trong tiến trình Phân tích tác động sinh kế (LIA), Phân tích kênh 
truyền tải (TCA) được nhóm nghiên cứu tiến hành nhằm chỉ ra những tác động tiềm ẩn 
của VPA đối với một số nhóm liên quan dễ bị tổn thương, trong đó bao gồm các hộ gia 
đình trồng rừng không có sổ đỏ, các hộ làm nghề chế biến gỗ và các hộ dân tộc thiểu 
số sống lệ thuộc vào rừng. 
Sơ đồ 4 dưới đây đưa ra khái quát về phương pháp Phân tích TCA và kết quả 
phân tích được trình bày trong bảng 3. 
Định nghĩa và phương pháp 
Kênh truyền tải được định nghĩa là những con đường mà qua đó một chính sách 
hoặc một can thiệp, hỗ trợ có ảnh hưởng tới các bên liên quan. Phân tích kênh truyền 
tải (TCA) là một công cụ để dự báo và chỉ ra mối liên kết giữa những tác động phái 
sinh tiềm ẩn của một chính sách hay một chương trình can thiệp đối với sinh kế của 
(các) bên liên quan. Những tác động nêu trên có thể bao gồm: (i) tác động sơ cấp – 
những tác động trực tiếp hay ngắn hạn; và (ii) tác động thứ cấp– những tác động gián 
tiếp hay trung hạn được tạo ra từ những thay đổi trong hành vi của các bên liên quan 
trước một hỗ trợ, can thiệp hoặc chính sách đưa ra. Những tác động phái sinh có thể 
mang tính tích cực hoặc tiêu cực xét từ những cách thức chúng ảnh hưởng tới sinh kế 
của các bên liên quan. 
Đối với VPA, việc đánh giá tác động tiềm tàng đã được thực hiện cho ba nhóm 
liên quan dễ bị tổn thương khi các quy định của nhà nước và yêu cầu tuân thủ được 
đưa ra áp dụng (cụ thể như qua áp dụng Hệ thống Đảm bảo tính pháp lý gỗ - TLAS). 
Phân tích TCA đã ước định những tác động phái sinh tiềm tàng nói trên dựa trên sáu 
nhân tố: chi phí và giá cả; việc làm; tài sản sinh kế (vốn tự nhiên); tiếp cận hàng hóa và 
dịch vụ; phí và thuế; các mối quan hệ quyền lực. 
Một số câu hỏi có thể dùng làm gợi ý hướng dẫn cho việc đánh giá, cụ thể như 
sau: 
1) Chi phí và giá cả 
• Khi áp dụng những quy định chặt chẽ hơn về tính pháp lý gỗ, khả năng sẽ có 
những tác động nào lên chi phí gỗ nguyên liệu và chi phí sản xuất của người 
chế biến gỗ? 
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên chi phí sản xuất và giá sản phẩm tại gốc 
đối với người trồng rừng nội địa?
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên chi phí giao dịch, bao gồm cả các giao 
dịch chính thống và không chính thống đối với người trồng rừng và chế biến 
gỗ? 
• Những tác động tiềm ẩn nói trên có thể khác nhau như thế nào giữa những 
người trồng rừng nội địa, người chế biến gỗ quy mô nhỏ với người trồng rừng 
nội địa, người chế biến gỗ quy mô lớn? 
31 
2) Việc làm 
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên cấu trúc ngành sản xuất và chế biến gỗ 
trong nước và những tác động đó ảnh hưởng thế nào tới vấn đề việc làm? 
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào đối với lượng việc làm trong lĩnh vực sản 
xuất và chế biến gỗ, bao gồm cả việc làm chính thức và không chính thức? 
• Cơ hội việc làm cho phụ nữ và lao động từ các hộ nghèo có thể bị ảnh hưởng 
như thế nào? 
• Liệu lao động có thể chuyển sang các lĩnh vực việc làm khác có liên quan tới 
rừng hoặc các ngành khác khi điều kiện trong lĩnh vực của mình bị thay đổi? 
3) Tài sản sinh kế 
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên nhu cầu thị trường đối với nguồn cung 
cấp gỗ hợp pháp nội địa? 
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên nhu cầu đất trồng rừng và điều đó có 
thể ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề an ninh đất sử dụng của người trồng rừng 
quy mô nhỏ? 
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên cấu trúc sử dụng đất lâm nghiệp và khả 
năng tiếp cận đất lâm nghiệp, tiếp cận tài nguyên rừng đối với các hộ nghèo? 
4) Tiếp cận hàng hóa và dịch vụ 
• Sẽ có những tác động nào lên nhu cầu cung cấp dịch vụ công (vd: cấp giấy 
chứng nhận sử dụng đất và các dịch vụ khác)? 
5) Phí và thuế 
• Khi áp dụng những quy định chặt chẽ hơn, sẽ có những tác động tiềm tàng nào 
lên mức phí và thuế đối với người trồng rừng và chế biến gỗ? 
6) Quan hệ quyền lực 
• Khi áp dụng những quy định pháp lý chặt chẽ hơn, sẽ có những thay đổi như thế 
nào đối với các mối quan hệ quyền lực trong ngành lâm nghiệp? 
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào đối với gánh nặng thủ tục hành chính cho 
người trồng rừng, người chế biến gỗ và các cơ quan hành chính liên quan?
• Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên vai trò và quyền lực của những người 
32 
trung gian (VD: thương lái, vận chuyển, buôn bán, đại lý gỗ)? 
• Những thay đổi nói trên trong các mối quan hệ quyền lực có thể ảnh hưởng như 
thế nào tới hiện trạng của các hộ nghèo và nhất là tới các hộ trồng rừng và chế 
biến gỗ quy mô nhỏ? 
Trong phân tích này, các tác động thứ cấp được định nghĩa là những tác động 
gián tiếp hoặc trung hạn tạo ra từ những thay đổi trong hành vi của các bên liên quan 
đứng trước một chính sách hay một hỗ trợ, can thiệp. Bởi vậy, những tác động thứ cấp 
nói trên một phần được quyết định bởi tiềm lực của các bên liên quan trong việc ứng 
phó trước tình hình mới. Chúng ta phải cân nhắc nhiều khía cạnh của ‘tiềm lực’ để có 
thể hiểu được những ứng phó vừa đề cập, cụ thể là: 
• Tiềm lực kinh tế– Ví dụ: tiềm lực kinh tế của người chế biến gỗ và người sản 
xuất đồ mộc trong vay vốn và đầu tư vào các loại hình sản xuất mới đáp ứng 
nhu cầu và điều kiện thay đổi của thị trường; hoặc tiềm lực của người sản xuất, 
chế biến gỗ trong việc đáp ứng những gia tăng trong chi phí sản xuất và chi phí 
giao dịch. 
• Tiềm lực con người – Ví dụ: khả năng các hộ chế biến gỗ có thể thích nghi và 
duy trì việc làm trước tình hình có những thay đổi, biến động trong cấu trúc của 
ngành chế biến gỗ. 
• Tiềm lực chính trị– Ví dụ: khả năng người chế biến gỗ nhỏ được đại diện và 
ảnh hưởng tới việc thực thi các chính sách của nhà nước liên quan. 
• Tiềm lực văn hóa-xã hội– Ví dụ: khả năng để người trồng rừng và người chế 
biến gỗ quy mô nhỏ cộng tác với nhau lập ra các tổ chức hội, các hợp tác xã về 
thị trường, về sản phẩm nhằm gia tăng khả năng ngã giá của mình. 
• Tiềm năng về bảo trợ pháp lý và bảo trợ xã hội– bao gồm năng lực của các 
hộ, của những người làm nghề lâm nghiệp có thể tiếp cận với các dạng bảo trợ 
xã hội hòng giảm nhẹ nguy cơ tổn thương và tăng khả năng chịu đựng trước các 
cú sốc kinh tế. 
Phân tích kênh truyền tải (TCA) là một công cụ dự báo tác động tiềm tàng của 
một chính sách hay hỗ trợ, can thiệp. Chính vì vậy, bản thân nó mang nhiều tính chủ 
quan và có một số hạn chế. Ví dụ, khó để có thể đưa vào trong phân tích những yếu tố 
thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng tới vấn đề thương mại gỗ toàn 
cầu, hoặc đưa vào trong nó những yếu tố thay đổi về nhu cầu sản phẩm gỗ của các 
quốc gia thành viên EU. Tuy vậy, Phân tích TCA là một công cụ hữu hiệu trong việc 
xác định các tác động tiềm tàng từ đó làm cơ sở phân tích định lượng chi tiết hơn cho 
những nghiên cứu tiếp theo.
Sơ đồ 4 - Phương pháp phân tích Kênh truyền tải 
Tiềm lực của các bên 
liên quan dễ bị tổn 
thương 
Những thay đổi trong 
hành vi của các bên liên 
quan trước chính sách, 
hỗ trợ can thiệp và tác 
động sơ cấp 
Chính sách 
hoặc hỗ trợ 
can thiệp 
Kênh truyền tải 
Giá cả (sản xuất, tiêu 
dùng, nhân công) 
Việc làm (chính thức và 
không chính thức) 
Tài sản sinh kế của các 
bên tham gia 
Tiếp cận thị trường, 
hàng hóa và dịch vụ 
Nguồn thu, chuyển ngân 
sách, thuế, phí 
Quyền lực (luật, c.sách, 
q.hệ quyền lực vv..) 
Tác động sơ cấp 
(t.tiếp/n.hạn) 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
Kinh tế 
Con người 
Văn hóa – xã hội 
Chính trị 
Bảo trợ Xã hội và 
Luật pháp 
Tác động thứ cấp 
(g.tiếp / t.hạn) 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
• 
Tác động tích cực 
hoặc tiêu cực 
Tác động tích cực 
hoặc tiêu cực 
33
Bảng 3 - Phân tích kênh truyền tải – tác động tiềm tàng của VPA lên các bên 
liên quan dễ tổn thương 
Kênh 
truyền 
tải 
Tác động sơ cấp 
(Tác động trực tiếp và ngắn hạn) 
Tác động thứ cấp 
(Tác động gián tiếp và trung hạn – bao 
gồm những thay đổi trong hành vi của 
các bên liên quan trước một chính sách 
đưa ra) 
Mô tả C 
Cấp 
độ 
Mô tả 
Cấp 
độ 
Giá cả và chi phí 
Đối với 
những hộ 
trồng 
rừng có 
tiềm lực 
để đáp 
ứng đầy 
đủ các 
yêu cầu 
trở thành 
hộ trồng 
rừng hợp 
lệ (khả 
năng chi 
trả) 
►Nhu cầu cung cấp gỗ hợp 
pháp gia tăng cho những người 
trồng rừng. 
+ 
►Về lâu dài có cơ hội đầu tư 
+ 
trồng rừng với giá trị cao hơn, có 
thị trường ổn định hơn và nâng 
+ ►Tăng chi phí cơ hội và chi 
cao thu nhập, sinh kế. phí giao dịch để đáp ứng yêu 
cầu trở thành người sản xuất gỗ 
►Có khả năng chính quyền địa 
hợp lệ bao gồm các chi phí 
phương và các cơ quan thanh, 
‘chính thức’ và ‘không chính 
kiểm soát sẽ áp đặt thêm các loại 
thức’ để lấy được sổ đỏ (đối với 
_ 
phí lên người trồng rừng (phí 
những hộ không có sổ) và 
không chính thức). 
chuẩn bị hồ sơkhai thác gỗ, xác 
- 
minh, thẩm định và nhận được 
- 
giấy phép khai thác vv.. 
Đối với 
những hộ 
trồng 
rừng 
không có 
tiềm lực 
để đáp 
ứng đầy 
đủ các 
yêu cầu 
trở thành 
hộ trồng 
rừng hợp 
lệ (khả 
năng chi 
►Chuyển sang trồng các loại 
cây có giá trị thấp hơn cho thị 
trường trong vùng (vd: gỗ cọc, 
gỗ củi) hoặc các loại cây khác. _ 
- 
►Thu nhập bị giảm, mất khả 
năng lựa chọn sinh kế lâu dài và 
tài sản sinh kế. - 
►Giảm chất lượng và giá trị 
rừng trồng cũng như các nguồn 
cung cấp gỗ. - 
►Giảm giá thành một số loại gỗ 
cho thị trường trong nước. +/- 
►Bán đất rừng với giá thấp 
- 
►Thu nhập bị giảm và mất khả 
năng lựa chọn sinh kế lâu dài 
cũng như tài sản sinh kế. 
►Có khả năng tập trung đất đai 
trong tay một số người và làm 
34
trả) 
gia tăng sự bất bình đẳng trong 
phân bổ đất. 
Giá gỗ tại 
gốc đối 
với các 
hộ trồng 
rừng 
►Giá của gỗ trên đất có giấy tờ 
và đất không có giấy tờ khác 
nhau (hiện tại không có sự phân 
biệt giá cả theo thực trạng pháp 
lý của đất đang trồng rừng). 
+ 
+/- 
►Giá gỗ hợp pháp tăng và về 
trung hạn cũng như lâu dài lợi 
nhuận cho người sản xuất gỗ hợp 
lệ tăng. 
+ 
►Có khả năng các công ty chế 
biến và thương lái sẽ ép và áp giá 
bán gỗ tại gốc. - 
►Tăng sự bất bình đẳng trong 
việc tiếp cận thị trường gỗ. - 
Chi phí 
gỗ 
nguyên 
liệu cho 
người chế 
biến 
►Giá gỗ nguyên liệu hợp lệ 
tăng dẫn tới tăng chi phí sản 
xuất các sản phẩm đồ mộc. 
- 
- 
►Tăng sự cạnh tranh giữa các 
hộ làm nghề để mua gỗ nguyên 
liệu có nguồn gốc hợp lệ. 
►Các hộ làm nghề quy mô nhỏ 
gặp khó khăn trong việc tìm 
nguồn cung cấp gỗ nguyên liệu 
hợp lệ và đáp ứng trước sự gia 
tăng của giá gỗ nguyên liệu đầu 
vào. 
- 
Chi phí 
giao dịch 
cho 
người chế 
biến gỗ 
►Chi phí giao dịch tăng do 
việc thực hiện nghiêm ngặt các 
quy định, yêu cầu mà hộ làm 
nghề phải tuân thủ (đăng ký 
kinh doanh, bảo vệ môi trường, 
thuế vv…). 
- 
- 
►Giảm nguồn thu nhập. Các hộ 
gia đình làm nghề có thể gặp khó 
khăn khi phải đáp ứng các quy 
định, yêu cầu và đảm bảo chi trả 
cho chi phí giao dịch bị tăng lên. 
- 
Giá thành 
sản 
phẩmcho 
người chế 
biến gỗ 
►Tăng giá cả các mặt hàng đồ 
gỗ có giá trị trong thị trường 
trong nước và xuất khẩu. + 
+ 
►Cơ hội thành công lâu dài cho 
các hộ làm nghề tập trung vào thị 
trường gỗ có nguồn gốc hợp lệ. + 
Việc làm 
Việc làm 
cho nhân 
công trên 
các khu 
rừng 
trồng 
(khu vực 
ngoài nhà 
nước) 
►Lượng nhân công được thuê 
làm việc trên các khu rừng 
trồng bị thay đổi, một số nơi 
tăng lên và một số nơi bị giảm 
đi. + 
+/- 
►Giảm thu nhập đối với một số 
hộ gia đình phụ thuộc vào làm 
thuê theo thời vụ trong các lâm 
trại. Một số hộ khác lại có cơ hội 
tốt hơn 
+/- 
35
Việc làm 
cho lao 
động 
người 
dân tộc 
thiểu số 
►Sẽ có những thay đổi khác 
nhau trong lượng lao động trả 
công được thuê làm việc trong 
các khu rừng trồng (bao gồm 
rừng của các hộ gia đình và của 
các doanh nghiệp). 
►Có khả năng ở một số nơi cơ 
hội việc làm gia tăng và ở nơi 
khác cơ hội việc làm bị suy 
giảm. 
+ 
+/- 
►Tăng sự phụ thuộc của hộ gia 
đình dân tộc thiểu số vào việc 
làm thuê kiếm sống (vd: ở những 
khu vcwj như Tây Nguyên, ven 
biển Trung bộ) 
►Lao động người dân tộc thiểu 
số ít có khả năng tiếp cận thị 
trường lao động 
+/- 
Việc làm 
cho nhân 
công 
trong 
ngành 
chế biến 
gỗ (khu 
vực ngoài 
nhà 
nước) 
►Có khả năng giảm việc làm 
đối với những hộ làm nghề khó 
thích nghi với các điều kiện thị 
trường mới. - 
- 
►Thu nhập giảm và khả năng 
tổn thương gia tăng đối với một 
số hộ làm nghề. Ghi chú: hầu hết 
các hộ làm nghề và những công 
nhân làm việc ở đó không thuộc 
diện hộ nghèo nên không được 
hưởng các hỗ trợ về bảo trợ xã 
hội (vd: hỗ trợ bảo hiểm y tế 
vv..). 
- 
Việc làm 
cho nhân 
công 
trong 
ngành 
chế biến 
gỗ (khu 
vực nhà 
nước) 
►Có khả năng giảm tạm thời 
lực lượng lao động trong các 
doanh nghiệp chế biến quy mô 
lớn do họ phải thích ứng trước 
những thay đổi trong điều kiện 
thị trường mới. 
- 
- 
►Mất việc làm và thu nhập đối 
với một số công nhân làm nghề 
chế biến gỗ. - 
►Có khả năng tăng lượng việc 
làm tạm thời (không có hợp 
đồng) và dẫn đến tăng khả năng 
tổn thương đối với công nhân 
- 
làm nghề. 
►Áp dụng chặt chẽ hơn các 
tiêu chuẩn, quy đinh về lao 
động trong lĩnh vực chế biến gỗ 
(luật lao động, bảo hiểm xã hội, 
bảo hiểm y tế). 
+ 
+ 
►Điều kiện làm việc tốt hơn cho 
công nhân làm việc trong lĩnh 
vực chế biến gỗ. 
+ 
Tài sản sinh kế 
Tài sản 
đất rừng 
và các 
khu rừng 
trồng 
hiện có 
của các 
hộ trồng 
►Không chắc chắn về tính 
pháp lý và giá trị kinh tế của 
các khu rừng trồng của các hộ 
hiện tại (cả với những hộ có và 
không có sổ đỏ). 
- 
- 
►Các hộ trở thành người sản 
xuất gỗ hợp lệ gặt hái thành 
công, mở rộng sản xuất và thích 
nghi với tình hình mới. + 
►Có các tác động khác nhau 
tùy theo tiềm lực của hộ trong +►Có khả năng đất sẽ bị tập 
36
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong
Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong

More Related Content

Similar to Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong

Dmc voi quy hoach phat trien rung vn
Dmc voi quy hoach phat trien rung vnDmc voi quy hoach phat trien rung vn
Dmc voi quy hoach phat trien rung vntienquangdn
 
Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...
Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...
Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...Minh Vu
 
Tna assessment for sme vn version
Tna assessment for sme vn versionTna assessment for sme vn version
Tna assessment for sme vn versionMinh Vu
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...NuioKila
 
Bản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_final
Bản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_finalBản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_final
Bản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_finalMinh Vu
 
Chuong trinh ii wwf danang-06.2016
Chuong trinh ii   wwf danang-06.2016Chuong trinh ii   wwf danang-06.2016
Chuong trinh ii wwf danang-06.2016Minh Vu
 
Vu anhminhced binhdinh01062015
Vu anhminhced binhdinh01062015Vu anhminhced binhdinh01062015
Vu anhminhced binhdinh01062015Minh Vu
 
Ced flegt project brief. v
Ced flegt project brief. vCed flegt project brief. v
Ced flegt project brief. vMinh Vu
 
Eia mekong vietnamese_online_2
Eia mekong vietnamese_online_2Eia mekong vietnamese_online_2
Eia mekong vietnamese_online_2TunAnh346
 
Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018
Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018
Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018PHAM THI HAI YEN
 
Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7
Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7
Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7Minh Vu
 
Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...
Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...
Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...Minh Vu
 
Chuong trinh tap huan ii final june24
Chuong trinh tap huan ii   final june24 Chuong trinh tap huan ii   final june24
Chuong trinh tap huan ii final june24 Thành Nguyễn
 
đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...
đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...
đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Chương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPA
Chương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPAChương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPA
Chương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPAMinh Vu
 
Luan Van Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te Thuy
Luan Van  Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te ThuyLuan Van  Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te Thuy
Luan Van Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te ThuyForeign company
 

Similar to Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong (20)

Dmc voi quy hoach phat trien rung vn
Dmc voi quy hoach phat trien rung vnDmc voi quy hoach phat trien rung vn
Dmc voi quy hoach phat trien rung vn
 
Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...
Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...
Toàn văn báo cáo đánh giá nhu cầu cung cấp thông tin Doanh nghiệp gỗ về FLEGT...
 
Tna assessment for sme vn version
Tna assessment for sme vn versionTna assessment for sme vn version
Tna assessment for sme vn version
 
Luận văn: Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
Bản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_final
Bản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_finalBản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_final
Bản tin tiến độ dự án flegt số 2 quý iii&iv năm 1_final
 
1 thuc day thuong mai ghp va qtr hieu qua hue 7.9.2018
1 thuc day thuong mai ghp va qtr hieu qua hue 7.9.20181 thuc day thuong mai ghp va qtr hieu qua hue 7.9.2018
1 thuc day thuong mai ghp va qtr hieu qua hue 7.9.2018
 
Đề tài nghiên cứu khoa học Giảm nghèo ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức
Đề tài nghiên cứu khoa học Giảm nghèo ở Việt Nam: Thành tựu và thách thứcĐề tài nghiên cứu khoa học Giảm nghèo ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức
Đề tài nghiên cứu khoa học Giảm nghèo ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức
 
Chuong trinh ii wwf danang-06.2016
Chuong trinh ii   wwf danang-06.2016Chuong trinh ii   wwf danang-06.2016
Chuong trinh ii wwf danang-06.2016
 
Vu anhminhced binhdinh01062015
Vu anhminhced binhdinh01062015Vu anhminhced binhdinh01062015
Vu anhminhced binhdinh01062015
 
Ced flegt project brief. v
Ced flegt project brief. vCed flegt project brief. v
Ced flegt project brief. v
 
Eia mekong vietnamese_online_2
Eia mekong vietnamese_online_2Eia mekong vietnamese_online_2
Eia mekong vietnamese_online_2
 
Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018
Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018
Bao cao khao sat crd final_vietnamese_nov2018
 
Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7
Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7
Chuong trinh hoi thao flegt dieu chinh 4 7
 
Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...
Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...
Chương trình dự kiến hội thảo flegt-vpa tại Hà nội, 9/7 tại khách sạng Green ...
 
Chuong trinh tap huan ii final june24
Chuong trinh tap huan ii   final june24 Chuong trinh tap huan ii   final june24
Chuong trinh tap huan ii final june24
 
đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...
đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...
đáNh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại địa bàn huyện võ n...
 
2 he thong dam bao go hop phap cua vietnam hue 7.9.2018
2 he thong dam bao go hop phap cua vietnam hue 7.9.20182 he thong dam bao go hop phap cua vietnam hue 7.9.2018
2 he thong dam bao go hop phap cua vietnam hue 7.9.2018
 
Chương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPA
Chương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPAChương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPA
Chương trình Hội Thảo Tổng kết Dự án FLEGT VPA
 
Luan Van Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te Thuy
Luan Van  Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te ThuyLuan Van  Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te Thuy
Luan Van Tot Nghiep Thac Sy Kinh Te Thuy
 

More from tienquangdn

Chuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu cat
Chuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu catChuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu cat
Chuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu cattienquangdn
 
2014 tech glossary 24 april 2014
2014 tech glossary 24 april 20142014 tech glossary 24 april 2014
2014 tech glossary 24 april 2014tienquangdn
 
424 qd-tcln-khhtqt
424 qd-tcln-khhtqt424 qd-tcln-khhtqt
424 qd-tcln-khhtqttienquangdn
 
423 qd-tcln-khhtqt
423 qd-tcln-khhtqt423 qd-tcln-khhtqt
423 qd-tcln-khhtqttienquangdn
 
Tom tat ket qua khao sat dn cua ced
Tom tat ket qua khao sat dn cua cedTom tat ket qua khao sat dn cua ced
Tom tat ket qua khao sat dn cua cedtienquangdn
 
Tinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___final
Tinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___finalTinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___final
Tinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___finaltienquangdn
 
Quy che 995_ec_vn_1
Quy che 995_ec_vn_1Quy che 995_ec_vn_1
Quy che 995_ec_vn_1tienquangdn
 
Quy che go eu cong uoc cites
Quy che go eu cong uoc citesQuy che go eu cong uoc cites
Quy che go eu cong uoc citestienquangdn
 
Luat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vn
Luat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vnLuat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vn
Luat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vntienquangdn
 
Bao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vn
Bao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vnBao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vn
Bao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vntienquangdn
 

More from tienquangdn (10)

Chuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu cat
Chuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu catChuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu cat
Chuoi hanh trinh san pham fsc tai lieu cat
 
2014 tech glossary 24 april 2014
2014 tech glossary 24 april 20142014 tech glossary 24 april 2014
2014 tech glossary 24 april 2014
 
424 qd-tcln-khhtqt
424 qd-tcln-khhtqt424 qd-tcln-khhtqt
424 qd-tcln-khhtqt
 
423 qd-tcln-khhtqt
423 qd-tcln-khhtqt423 qd-tcln-khhtqt
423 qd-tcln-khhtqt
 
Tom tat ket qua khao sat dn cua ced
Tom tat ket qua khao sat dn cua cedTom tat ket qua khao sat dn cua ced
Tom tat ket qua khao sat dn cua ced
 
Tinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___final
Tinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___finalTinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___final
Tinh hop phap_cua_go_va_san_pham_go___final
 
Quy che 995_ec_vn_1
Quy che 995_ec_vn_1Quy che 995_ec_vn_1
Quy che 995_ec_vn_1
 
Quy che go eu cong uoc cites
Quy che go eu cong uoc citesQuy che go eu cong uoc cites
Quy che go eu cong uoc cites
 
Luat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vn
Luat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vnLuat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vn
Luat lacey sua_doi_anh_huong_den_cac_nha_xuat_khau_lam_san_vn
 
Bao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vn
Bao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vnBao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vn
Bao cao qua_trinh_xay_dung_va_tham_van_ld._vn
 

Bao cao tac dong tiem tang cua vpa den sinh ke cua nhom doi tuong de bi ton thuong

  • 1.
  • 2. MẠNG LƯỚI CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VỀ THỰC THI LÂM LUẬT, QUẢN TRỊ RỪNG VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN (VNGO-FLEGT) BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG TIỀM TÀNG CỦA VPA ĐẾN SINH KẾ CỦA NHÓM ĐỐI TƯỢNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG Hà Nội, Tháng 3 năm 2014 1
  • 3. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................... 3 CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................................................. 4 I. GIỚI THIỆU CHUNG ............................................................................................................. 5 1.1. Mở đầu ................................................................................................................................. 5 1.2. Tổng quan phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7 1.3. Các thành viên tham gia nghiên cứu ................................................................................. 10 1.4. Cấu trúc và nội dung của Báo cáo tóm tắt ......................................................................... 11 II. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CÁC BÊN LIÊN QUAN VÀ PHÂN TÍCH THỂ CHẾ ........... 12 2.1 NHÓM HỘ SẢN XUẤT CHẾ BIẾN GỖ NHỎ LẺ .......................................................... 12 2.1.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ ......................................... 12 2.1.2. Hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ và các vấn đề của họ ................................................ 13 2.1.3. Một số tác động của VPA đến nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ ........................ 17 2.2. NHÓM HỘ GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ SỐNG PHỤ THUỘC VÀO RỪNG ...... 19 2.2.1. Đặc trưng chính của nhóm đối tượng nghiên cứu ...................................................... 19 2.2.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA ...................... 20 2.2.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải và tác động của VPA ......... 21 2.3. NHÓM HỘ TRỒNG RỪNG TRÊN ĐẤT ĐƯỢC GIAO NHƯNG KHÔNG CÓ SỔ ĐỎ ..................................................................................................................................................25 2.3.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ gia đình trồng rừng trên đất được giao ....................... 25 2.3.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA ...................... 26 2.3.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải ............................................ 27 2.3.4 Tác động của VPA tới nhóm đối tượng nghiên cứu .................................................... 29 III. PHÂN TÍCH KÊNH TRUYỀN TẢI .................................................................................. 30 IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................................. 39 4.1. KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 39 4.1.1 Kết luận chung............................................................................................................. 39 4.1.2 Khoảng trống dữ liệu và thông tin trong việc chuẩn bị VPA ...................................... 41 4.1.3 Khác biệt theo khu vực ................................................................................................ 42 4.2. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT ............................................................................................. 42 4.2.1 Kiến nghị về Tính hợp pháp của gỗ và Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ ...... 42 4.2.2. Các vấn đề về đảm bảo an toàn xã hội và kiến nghị .................................................. 44 4.2.3 Kiến nghị về giáo dục và thông tin đại chúng (phụ lục VPA ) ................................... 45 4.2.4 Kiến nghị về kiểm soát, giám sát VPA ....................................................................... 46 PHỤ LỤC .................................................................................................................................... 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................... 49 2
  • 4. LỜI CẢM ƠN Mạng lưới Các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam về Thực thi Lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản (VNGO-FLEGT) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tác động tiềm tàng của VPA đến các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương sống phụ thuộc vào rừng. Với sự nỗ lực hợp tác của Nhóm nghiên cứu và các bên liên quan, báo cáo đã được hoàn thành sau 9 tháng triển khai gồm, tập huấn, nghiên cứu bàn giấy, thu thập thông tin điển hình tại một số địa bàn nghiên cứu, tổng hợp, phân tích số liệu, viết báo cáo, hội thảo phản hồi và hoàn thiện báo cáo. Thay mặt Ban điều hành Mạng lưới, xin trân trọng cảm ơn Cơ quan Hợp tác Phát triển Vương quốc Anh – DFID, tổ chức FERN và Forest Trend đã tài trợ kinh phí để Mạng lưới có thể thực hiện được nghiên cứu này. Mạng lưới xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới ông Michael Richards, bà Mary Hobley và ông Edwin Shanks đã hỗ trợ, hướng dẫn kỹ thuật cho các thành viên trong suốt các giai đoạn triển khai nghiên cứu. Để nghiên cứu được thực hiện, không thể không nhắc tới sự nỗ lực của các thành viên tham gia nghiên cứu. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Nhóm nghiên cứu và các cơ quan đã tạo điều kiện cho cán bộ của cơ quan mình tham gia thực hiện nghiên cứu này bao gồm: Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD), Trung tâm Phát triển Nông thôn miền Trung (CRD), Trung tâm Nghiên cứu Rừng và Đất ngập nước (ForWet), Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Viện Quản lý rừng Bền vững và Chứng chỉ rừng (FSMI), Trung tâm Môi trường và Phát triển cộng đồng (CECoD), Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Quản lý tài nguyên (CORENARM), Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng, Chuyển giao khoa học và công nghệ Tây Bắc (CARTEN), Hợp tác xã Phát triển Nông thôn Quan Hóa (CRD) và Trung tâm Phát triển cộng đồng và Ứng phó biến đổi khí hậu Tây Nguyên (CCHC). Cuối cùng chúng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các bên liên quan là các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, cơ quan địa phương, các cá nhân, tổ chức đã cung cấp thông tin dữ liệu, hỗ trợ và tạo điều kiện giúp đỡ các thành viên Mạng lưới trong quá trình thực hiện và hoàn thiện báo cáo này. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng trước một phương pháp khá mới và vấn đề chưa xảy ra, báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và biên soạn. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các quý độc giả để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện báo cáo này. Trân trọng cảm ơn, Vũ Thị Bích Hợp Trưởng Ban điều hành Mạng lưới VNGO-FLEGT Giám đốc Trung tâm SRD 3
  • 5. 4 CÁC CHỮ VIẾT TẮT Ban QLRPH Ban Quản lý Rừng phòng hộ Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn CSOs Các Tổ chức xã hội DFID Cơ quan hợp tác phát triển Vương quốc Anh DTTS Dân tộc thiểu số ĐBSH Đồng bằng sông Hồng ĐKKD Đăng ký kinh doanh EU Liên minh Châu Âu FLEGT Chương trình Thực thi lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản KTXH Kinh tế xã hội LD Định nghĩa gỗ hợp pháp LIA Đánh giá tác động tiềm tàng của VPA tới sinh kế của các nhóm dễ bị tổn thương LSNG Lâm sản ngoài gỗ PCCC Phòng cháy chữa cháy QLBVR Quản lý Bảo vệ rừng QLTT Quản lý Thị trường QSDĐ Quyền sử dụng đất TCA Phân tích kênh truyền tải TLAS Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ TN&MT Tài nguyên và Môi trường UBND Ủy ban Nhân dân TCLN Tổng cục lâm nghiệp VNGO-FLEGT Mạng lưới các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam về Thực thi lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản VPA Hiệp định đối tác tự nguyện
  • 6. 5 I. GIỚI THIỆU CHUNG 1.1. Mở đầu Việt Nam hiện đang trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán để tiến tới ký kết Hiệp định đối tác tự nguyện (VPA) với Liên minh châu Âu (EU) như là một phần của Kế hoạch hành động Thực thi Lâm Luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản (FLEGT), nhằm mục đích bảo đảm thương mại gỗ hợp pháp và quản trị rừng hiệu quả. Báo cáo này nhằm cung cấp một bản tóm tắt phương pháp, những kết quả và khuyến nghị chính của nghiên cứu “Đánh giá tác động tiềm tàng của VPA đến sinh kế của các nhóm dễ bị tổn thương (LIA)” đã được tiến hành bởi Mạng VNGO-FLEGT trong năm 2013. Hiệp định Đối tác tự nguyện (VPA), và các tiến trình được phát triển theo đó, có tiềm năng mang lại những cải cách chính sách vì người nghèo và có thể dẫn đến việc trao quyền cho các nhóm cộng đồng dễ bị tổn thương. Với việc thực thi VPA, ngành sản xuất gỗ và công nghiệp chế biến gỗ phải thích ứng với những thay đổi của thị trường và các quy định xuất khẩu, và một kế hoạch hành động để đảm bảo tính hợp pháp của gỗ là yêu cầu được đưa ra từ phía Việt Nam. Kế hoạch hành động này phải tập trung vào nâng cao nhận thức, rà soát và bổ sung pháp luật, khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu gỗ có giấy phép, phát triển và thực thi một hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ, và tăng cường hợp tác quốc tế với các nước xuất khẩu gỗ như Lào và Cam-pu-chia và với các thị trường ở các nước EU. Để hỗ trợ cho tiến trình này và đảm bảo rằng tiếng nói của người dân địa phương được lắng nghe, các Tổ chức xã hội (CSOs) và các Tổ chức Phi chính phủ Việt Nam (VNGOs) đã thành lập Mạng lưới VNGO-FLEGT vào tháng 1 năm 2012, Mạng lưới hiện nay bao gồm hơn 40 tổ chức thành viên phân bổ trên khắp 3 miền Bắc Trung Nam của Việt Nam. Ban điều hành của Mạng lưới bao gồm bốn tổ chức: Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD) - Trưởng ban, Trung tâm Nghiên cứu Rừng và Đất ngập nước (ForWet), Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), và Trung tâm Phát triển Nông thôn miền Trung Việt Nam (CRD). Mạng lưới hiện đang tham gia triển khai ba dự án liên quan đến FLEGT, với hai dự án cấp khu vực do DFID và EU tài trợ qua FERN và một dự án cấp quốc gia quy mô nhỏ được tài trợ bởi Chương trình EU-FAO FLEGT. Mạng lưới cũng đã có những đóng góp có giá trị cho tiến trình đàm phán VPA như triển khai đợt tham vấn cộng đồng tại sáu tỉnh về tính hợp pháp của gỗ, đồng thời lấy ý kiến của các tổ chức thành viên trong Mạng lưới cho Dự thảo về định nghĩa gỗ hợp pháp (LD) và Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ (TLAS) và gửi ý kiến tổng hợp tới Tổng cục Lâm nghiệp (TCLN). Bên cạnh đó, Mạng lưới cũng đã tích
  • 7. cực tham gia các cuộc họp, hội thảo, hội nghị, tập huấn liên quan đến VPA / FLEGT được tổ chức bởi TCLN và các tổ chức có liên quan tại Việt Nam, cũng như các nước trong khu vực và tại Châu Âu. Việc chia sẻ các hoạt động và thông tin về tiến trình FLEGT/VPA cũng được thực hiện thông qua nhiều kênh truyền thông như Website và cập nhật thường xuyên qua Email. VPA được dự đoán sẽ có nhiều tác động tích cực và mang lại nhiều lợi ích cho thị trường gỗ Việt Nam. Việc cải thiện quản trị và các quy định của ngành lâm nghiệp sẽ dẫn đến triển vọng mới cho nền kinh tế thị trường, bao gồm những cơ hội thị trường có liên quan trong việc thay đổi môi trường thương mại gỗ toàn cầu, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường EU đối với các sản phẩm được cấp phép FLEGT và cơ hội kinh tế cho những nhà chế biến và xuất khẩu gỗ. Tuy nhiên, quá trình của việc chính thức và hợp pháp hoá, cộng với việc thực thi nghiêm ngặt pháp luật và các quy định VPA cũng có khả năng tác động tiêu cực đến những người có sinh kế phụ thuộc vào rừng. Những hệ quả không thể tránh khỏi của quá trình đàm phán và thực thi VPA là sẽ dẫn đến việc người thắng và kẻ thua, và có thể sẽ là một loạt các hiệu ứng xã hội, một số sẽ có tác động tích cực còn một số khác thì ngược lại. Quyền quản lý và sử dụng đất ở Việt Nam đã dần dần phát triển trong các giai đoạn khác nhau, các văn kiện khác nhau tồn tại là cơ sở pháp lý cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng. Tuy nhiên, hiện đang có sự thiếu hụt các văn bản pháp luật có liên quan để cung cấp các chứng cứ cần thiết và đảm bảo một sự hiểu biết rõ ràng một số khía cạnh của tính hợp pháp. Các biện pháp để tích hợp các chiến lược xác minh Hệ thống đám bảo tính hợp pháp của gỗ (TLAS) của chính quyền địa phương vẫn phải được cải thiện và một vấn đề đang được quan tâm hiện nay là giấy chứng nhận hàng nhập khẩu từ các nước xuất khẩu gỗ. Để có cái nhìn sâu sắc và rõ ràng hơn, Mạng lưới VNGO-FLEGT đã tiến hành nghiên cứu những tác động tiềm tàng của VPA tới các nhóm dễ bị tổn thương (LIA). Tại Việt Nam, VPA vẫn trong quá trình đàm phán, tức là LIA đã được thực hiện trước khi các văn bản VPA được hoàn tất, và do đó mục tiêu của đánh giá là chỉ ra tác động tiềm tàng có thể xảy ra của VPA tới các bên liên quan dễ bị tổn thương. Nghiên cứu LIA có thể đóng góp có giá trị vào việc xây dựng VPA, bao gồm việc xác định các vấn đề liên quan tới an toàn xã hội và câu trả lời cho vấn đề này, đồng thời tìm kiếm cơ hội để nâng cao hiệu quả sinh kế. Nghiên cứu LIA sẽ tìm hiểu về tác động của VPA đối với sinh kế của các nhóm dễ bị tổn thương và xem xét các quy định và luật pháp có liên quan một cách toàn diện và kỹ lưỡng. 6
  • 8. 7 1.2. Tổng quan phương pháp nghiên cứu Quá trình đánh giá LIA bao gồm một chuỗi các hội thảo, với rất nhiều phân tích: phân tích các bên liên quan, phân tích thể chế và phân tích các kênh truyền tải. Đánh giá LIA gồm bốn giai đoạn: Giai đoạn 1 xác định các nhóm liên quan dễ bị tổn thương; Giai đoạn 2 nghiên cứu những hạn chế và các vấn đề VPA có thể gây ra đối với sinh kế, và những khó khăn hiện tại mà các bên liên quan đang phải đối mặt; Giai đoạn 3 phát triển lý thuyết của sự thay đổi và chiến lược đảm bảo các kết quả là tích cực; và Giai đoạn 4 xây dựng một kế hoạch giám sát với các chỉ số thích hợp. Chi tiết của bốn giai đoạn đánh giá LIA được mô tả trong Bảng 1 dưới đây. Trong hội thảo khởi động được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 3 năm 2013, với sự hỗ trợ kỹ thuật của 2 chuyên gia nước ngoài đến từ tổ chức Forest Trends, các thành viên mạng lưới đã chia sẻ những hiểu biết và đã thảo luận các vấn đề quan trọng liên quan đến các tác động tiềm tàng của VPA đến các bên liên quan chủ chốt. Hai chuyên gia kỹ thuật đã cung cấp cho các thành viên tham dự một sự hiểu biết toàn diện về lý thuyết và thực hành LIA, hỗ trợ việc xác định các bên liên quan chủ chốt, và cùng các thành viên tham dự phát triển một kế hoạch thực hiện LIA cho các nhóm liên quan dễ bị tổn thương bởi VPA của Việt Nam. Các thành viên tham gia đã xác định và lập bản đồ các nhóm liên quan dễ bị tổn thương quan trọng ở miền Nam, miền Trung và miền Bắc Việt Nam và xây dựng được một kế hoạch để thực hiện LIA. Hội thảo khởi động thể hiện sự cam kết cao của các Tổ chức xã hội Việt Nam vào quá trình FLEGT/VPA, với mục đích đảm bảo rằng các quyền của cộng đồng phụ thuộc vào rừng địa phương được tôn trọng đầy đủ. Tại hội thảo khởi động, ba nhóm hộ liên quan có khả năng bị ảnh hưởng đáng kể bởi VPA được xác định, bao gồm: • Nhóm 1: Nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ trong các làng nghề gỗ • Nhóm 2: Nhóm hộ gia đình dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng nhưng không có đất rừng và rừng. • Nhóm 3: Nhóm hộ gia đình trồng rừng, cung cấp gỗ cho ngành công nghiệp gỗ, nhưng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trồng rừng (sổ đỏ); Sau Hội thảo khởi động, các thành viên của Mạng lưới đã tiến hành các nghiên cứu bàn giấy để phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế (giai đoạn 1 LIA ). Kết quả các phân tích đã được trình bày tại hội thảo LIA lần thứ hai được tổ chức tại Huế vào tháng 9 năm 2013 với sự tham dự của 30 đại biểu, bao gồm các thành viên của Mạng lưới VNGO-FLEGT và đại diện 3 nhóm dễ bị tổn thương được xác định ở
  • 9. trên. Tại hội thảo LIA lần thứ hai các thành viên tham gia đã chia sẻ và thảo luận về các kết quả chính từ báo cáo phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế, và cung cấp cơ hội quý giá để tiếp tục cải thiện và điều chỉnh các kết quả phân tích. Phần lý thuyết và thực hành của giai đoạn 2 LIA (phân tích kênh truyền tải) đã được một chuyên gia nước ngoài đến từ tổ chức Mandala giới thiệu trong hội thảo này và các thành viên tham gia hội thảo cũng đã xây dựng các kênh truyền tải cho ba nhóm liên quan trong quá trình làm việc nhóm. Hội thảo LIA lần thứ ba, được tổ chức tại thành phố Vĩnh Phúc vào tháng 11 năm 2013, hội thảo đã sử dụng kết quả phân tích các bên liên quan và phân tích kênh truyền tải để phát triển Lý thuyết về sự thay đổi và kế hoạch hành động để đóng góp cho các cuộc đàm phán VPA. Hội thảo có 33 thành viên tham dự, bao gồm các đại diện từ Mạng lưới VNGO-FLEGT, TCLN, các NGO quốc tế, ngoài ra còn có sự hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia nước ngoài đến từ Forest Trends, Mandala và FERN. Hội thảo LIA lần thứ ba là bước quan trọng để có thể kết luận thành công của phân tích LIA. Đầu tiên, các nhóm nghiên cứu đã trình bày và thống nhất về kết quả phân tích kênh truyền tải cho ba nhóm các bên liên quan. Các nhóm sau đó thực hành xây dựng cây vấn đề, chuỗi kết quả, phân tích khả năng và mức độ nghiêm trọng của rủi ro để đề xuất một lý thuyết về sự thay đổi với các chiến lược và các biện pháp giảm thiểu rủi ro. Các thành viên tham gia hội thảo cùng đồng ý rằng những kết quả và khuyến nghị từ nghiên cứu LIA của Mạng lưới có thể cung cấp đầu vào quan trọng và có giá trị cho việc xây dựng các chỉ số thích hợp để giám sát VPA/FLEGT tại Việt Nam, và các thành viên Mạng lưới cũng có thể tham gia tích cực trong quá trình giám sát độc lập sau này. Bảng 1: Tổng quan về phương pháp LIA Giai đoạn 1: Phân tích thể chế và phân tích các bên liên quan Giai đoạn đầu tiên của nghiên cứu LIA là phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế. Mục tiêu chính của việc phân tích các bên liên quan là để đạt được một sự hiểu biết về những người có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi VPA. Phân tích các bên liên quan thường bao gồm các mô tả đặc điểm của các nhóm liên quan dễ bị tổn thương và phân tích về giới. Phân tích nền kinh tế chính trị và thể chế cũng là rất cần thiết, và tập trung vào những tác động có thể xảy ra bởi VPA và các động cơ hành vi về các nhóm liên quan, đặc biệt là các nhóm quyền lực có thể phản đối các chiến lược quan trọng của VPA. 8
  • 10. Giai đoạn 2: Phân tích kênh truyền tải Kênh truyền tải là cách thức mà qua đó một chính sách, ví dụ như VPA, ảnh hưởng đến các bên liên quan dễ bị tổn thương. Phân tích các kênh truyền tải là một công cụ cốt lõi trong bộ công cụ PSIA của Ngân hàng Thế giới. Sáu kênh truyền tải chính thường được xem xét là: việc làm, giá cả, phí, các loại thuế, quyền lực, tài sản, và khả năng tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ. Phân tích các kênh truyền tải sẽ giúp xác định các ảnh hưởng trực tiếp của VPA (ảnh hưởng “vòng một”), ví dụ những thay đổi về quyền lực chính trị và thực thi pháp luật sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và thu nhập của công nhân khai thác rừng như thế nào? Thông qua đó có thể dự đoán một số ảnh hưởng gián tiếp của VPA (ảnh hưởng “vòng hai”). Giai đoạn 3: Lý thuyết của sự thay đổi có sự tham gia Lý thuyết của sự thay đổi là một giả thuyết làm như thế nào để can thiệp nhằm đảm bảo sinh kế cho nhóm dễ bị tổn thương trước VPA. Lý thuyết của sự thay đổi dựa trên một tập hợp các giả định nguyên nhân và kết quả đáng tin cậy mà được những người đề xuất hy vọng sẽ trở thành sự thật. Định nghĩa về lý thuyết của sự thay đổi liên quan đến việc đặt ra và theo dõi một tập hợp các "chuỗi kết quả" liên kết với chiến lược của một sự can thiệp và các hoạt động với các đầu ra, kết quả, các tác động, và phân tích các giả định nguyên nhân và kết quả giữa chúng. Giai đoạn 4: Xây dựng kế hoạch giám sát với một tập hợp các chỉ số Một khía cạnh quan trọng của LIA là phát triển một quá trình giám sát những tác động của việc thực thi VPA tới sinh kế. Điều này đòi hỏi việc xác định các chỉ số thích hợp. Một chỉ số lý tưởng sẽ thấy quá trình giữa đầu vào, hoạt động, đầu ra, kết quả, tác động, và sẽ được bắt nguồn từ các mục tiêu SMART (cụ thể, có thể đo lường được, có khả năng thực thi, thực tế và có thời gian rõ ràng) được xây dựng từ các kết quả quan trọng trong chuỗi kết quả. Từ các mục tiêu SMART, các chỉ số có thể được xây dựng để theo dõi và đánh giá tiến độ. Một khi các chỉ số được phát triển, kế hoạch giám sát có thể được tạo ra. Kế hoạch giám sát vạch ra những dữ liệu cần thiết, và cách thức thu thập như thế nào đối với mỗi chỉ số. 9
  • 11. 10 1.3. Các thành viên tham gia nghiên cứu Bảng 2: Thông tin chung của nhóm nghiên cứu các bên liên quan Nghiên cứu các bên liên quan Địa điểm nghiên cứu điển hình Thành viên nhóm nghiên cứu (tên, tổ chức) Chi tiết liên lạc Nhóm 1: Nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ trong các làng nghề gỗ Đồng Nai, Lâm Đồng -Phan Triều Giang (HCM UAF) -Nguyễn Chí Thành (ForWet) -Đinh Văn Tài (ForWet) trieugiang.phan@gmail.com thanh.wetland@gmail.com dinhtai51@yahoo.com.vn Nhóm 2: Nhóm hộ gia đình dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng nhưng không có đất rừng và rừng Thừa Thiên Huế -Trương Quang Hoàng (CRD-Huế), -Trần Nam Thắng (CORENARM) hoangtranghue@gmail.com trannamthang@huaf.edu.vn Nhóm 3: Nhóm hộ gia đình trồng rừng trên đất không có sổ đỏ Đắk Lắk, Thanh Hóa, Phú Thọ, Hòa Bình -Dương Thị Liên (SFMI) -Đặng Ngọc Toàn (CHCC) -Nguyễn Kim Trọng (CARTEN) -Lê Thanh Yên (CRD-Thanh Hóa) duongtlien@yahoo.com dngoctoandaklak@gmail.com trong.hadeva@gmail.com lethanhyenldp@gmail.com Nhóm nghiên cứu phân tích thể chế (bao gồm: GS. Tô Đình Mai - CECoD, ông Nguyễn Xuân Lãm - PanNature, ông Phạm Anh Tuấn - SRD) đã phối hợp chặt chẽ với nhóm nghiên cứu các bên liên quan để đảm bảo rằng tất cả các thông tin và nhận định từ phân tích các bên liên quan đều được đưa vào phân tích thể chế một cách đầy đủ. Nghiên cứu LIA được điều phối bởi Trung tâm SRD và do bà Phạm Thị Bích Ngọc (Trưởng phòng Biến đổi khí hậu) làm trưởng nhóm, cùng với 2 chuyên gia đến từ tổ chức Forest Trend (TS. Michael Richards và TS. Mary Hobley) và 2 chuyên gia đến từ tổ chức Mandala (ông Edwin Shanks và ông Dương Quốc Hùng) và 2 tình nguyện viên nước ngoài của Trung tâm SRD (TS. Juliane Sander và bà Stephanie
  • 12. Higgs) đã hỗ trợ về chuyên môn kỹ thuật cũng như tư vấn cho các thành viên Mạng lưới trong suốt quá trình của nghiên cứu LIA. 11 1.4. Cấu trúc và nội dung của Báo cáo tóm tắt Báo cáo tóm tắt LIA được chia thành năm phần chính: Phần 1 - Giới thiệu chung; Phần 2 - Tóm tắt phần phân tích các bên liên quan và phân tích thể chế; Phần 3 - Tóm tắt phần phân tích kênh truyền tải; Phần 4 - Tổng hợp các khuyến nghị quan trọng cho đoàn đám phán của Tổng cục Lâm nghiệp và EU dựa trên những phát hiện từ các nghiên cứu của các nhóm nghiên cứu và đánh giá thể chế. Phần cuối cùng là danh sách các phụ lục bao gồm các báo cáo đầy đủ của các nhóm nghiên cứu.
  • 13. 12 II. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CÁC BÊN LIÊN QUAN VÀ PHÂN TÍCH THỂ CHẾ 2.1 NHÓM HỘ SẢN XUẤT CHẾ BIẾN GỖ NHỎ LẺ 2.1.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ Hộ gia đình chế biến gỗ là một bên liên quan quan trọng vì đây là một nhóm lớn về số lượng cung cấp sản phẩm gỗ truyền thống cho người dân, đặc biệt là trong các khu vực ngoài đô thị trên cả nước. Hiện nay không có số liệu chính thức về số lượng các hộ sản xuất nhỏ lẻ. Các số liệu chính thức của Bộ NN&PTNT chỉ thu thập trên các cơ sở có công suất hoạt động trên 200m3 gỗ tròn/năm (Bộ NN&PTNT 2011), mà không có số liệu chắc chắn về các hộ nhỏ lẻ. Số liệu về hộ sản xuất chế biến nhỏ (<200m3/năm) không được thống kê và có nhiều khác biệt. Bộ NN&PTNT (2011) ước tính hiện tại có khoảng 10,000 hộ, 201 làng nghề gỗ ở Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), 5 làng nghề gỗ ở duyên hải Nam Trung Bộ. Theo Tô Xuân Phúc (2012, dẫn nguồn HRPC 2009) có 20,000 hộ và 302 làng nghề cả nước. Các cơ sở sản xuất tiêu thụ khoảng 1 triệu m3 gỗ/năm. Trong đó 350.000 - 400.000 m3 dùng trong làng nghề, khoảng 400.000 m3 sử dụng trong các cụm công nghiệp chế biến gỗ không phải làng nghề và 200.000 m3 gỗ sử dụng bởi các hộ nhỏ lẻ (Tô Xuân Phúc, 2012). Các hộ sản xuất nhỏ thường sử dụng gỗ quý hiếm nhập khẩu hoặc địa phương. Số liệu chính xác về số lượng và nguồn gốc gỗ đầu vào của các hộ gia đình nhỏ không rõ ràng ở cấp quốc gia. Về tình trạng kinh tế, không có số liệu chính thống về tình trạng nghèo đói của nhóm hộ sản xuất gỗ nhỏ. Tuy vậy, nhìn chung họ có thu nhập khá cao so với mặt bằng lao động. Thu nhập trung bình của lao động nghề mộc từ 2-4,5 triệu đồng, chủ hộ có thu nhập từ 10-13 triệu đồng/tháng. Lực lượng lao động chính ở các hộ sản xuất nhỏ hầu hết là người trong gia đình hoặc họ hàng. Nhìn chung nam giới có vai trò ưu thế ở các khâu sản xuất do có sức khỏe, kiến thức và nắm kỹ thuật. Đa phần nam giới có quyền lực cao hơn trong việc ra các quyết định quan trọng. Ở các hộ sản xuất nhỏ tỉ lệ lao động nữ rất thấp. Lao động nữ thu nhập thường ít hơn nam giới do họ thường làm những công việc đơn giản, nhẹ nhàng. Mặc dù nữ giới và trẻ em thường chỉ tham gia một số việc nhẹ nhàng, nhóm này thường mẫn cảm hơn với môi trường. Sức khỏe của phụ nữ và trẻ em bị ảnh hưởng xấu do điều kiện sản xuất ô nhiễm. Lao động làm thuê thường thuê trọ quanh khu làm việc với điều kiện sống tạm bợ, khó khăn.
  • 14. 13 2.1.2. Hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ và các vấn đề của họ Nghiên cứu ở Lâm Đồng và Đồng Nai cho thấy nhìn chung có bốn nhóm hộ sản xuất mộc quan trọng bao gồm i) Hộ sản xuất cho thị trường xuất khẩu; ii) Hộ gia công công nghiệp; iii) Hộ sản xuất cho thị trường trong nước theo cách công nghiệp; iv) Hộ sản xuất, gia công nhỏ lẻ. Các vấn đề mà các nhóm hộ này đang phải đối mặt được mô tả sơ lược trong sơ đồ 1- Sơ đồ cây vấn đề dưới đây. Các hộ sản xuất chế biến, kinh doanh gỗ chịu sự theo dõi, quản lý nhà nước trực tiếp của UBND phường, xã đồng thời chịu sự quản lý, kiểm tra, cấp phép của các cơ quan chức năng trên địa bàn như: UBND phường, xã; Phòng Kinh tế (tham mưu cho UBND cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh (ĐKKD) cho hộ), Phòng Tài nguyên Môi trường, Chi cục Thuế, Phòng Thống kê, Chi cục Quản lý thị trường (trực tiếp là Đội QLTT), Hạt Kiểm lâm, Cảnh sát môi trường, Cảnh sát PCCC, Công an kinh tế, cơ quan có liên quan SXKD như Ngân hàng, Quỹ tín dung, v.v.. Tuy vậy, nhìn chung việc quản lý giám sát sự tuân thủ các quy định pháp luật tại các hộ sản xuất nhỏ lẻ lỏng lẻo, chưa có sự phối hợp thống nhất giữa các cơ quan liên quan. Rất nhiều hộ kinh doanh, đặc biệt các hộ sản xuất nhỏ lẻ không có giấy phép ở địa phương, và không báo cáo nhập lượng, sản lượng, doanh thu. Một số hộ của nhóm này chỉ phải trả thuế cố định thuế mỗi tháng và chỉ đến chi cục thuế mua hóa đơn khi cần. Ở làng nghề Hố Nai (Đồng Nai), số hộ gia công có ĐKKD chỉ chiếm 12.5% tổng số hộ gia công. Hầu hết các hộ nhỏ lẻ không thể cung cấp hóa đơn bán hay gia công cho khách hàng. Theo báo cáo nghiên cứu các làng nghề phía Bắc 30% đến 78% số hộ bán sản phẩm mà không có hồ sơ sản phẩm cho khách hàng (Forest Trends, 2012). Lý do của việc này là một phần để hộ tránh thuế, phần khác do năng lực, quy mô sản xuất của hộ quá nhỏ, không phù hợp với các ràng buộc kềnh càng của luật pháp. Các hộ sản xuất nhỏ cũng thường không tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
  • 15. Sơ đồ 1: Các vấn đề mà các nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẽ đang phải đối mặt Giá gỗ nguyên liệu tăng Chi phí thủ tục, tiêu cực phí tăng Thiếu vốn, thiếu liên kết để trang bị máy móc Sản xuất nhỏ lẻ manh mún Thu nhập các Thiếu trang thiết bị phù hợp, hiệu quả Hộ SX không đủ năng lực, quy mô để xin giấy phép Viên chức nhũng nhiễu Giám sát, thực thi pháp luật chưa tốt Thiếu hóa đơn giấy tờ cần thiết GPKD, hợp đồng LĐ… Hàng khó bán Điều luật cồng kềnh Chi phí chế biến nhập khẩu gỗ hợp pháp cao Không đủ năng lực thiếu lao động, sản xuất lớn hộ sản xuất nhỏ giảm (bỏ nghề) Chi phí sản xuất tăng Sản lượng kém Hiểu biết của dân về luật kém Sản phẩm không đồng bộ về chất lượng, không kịp thời về mẫu mã Năng lực kỹ thuật về mẫu mã, tìm kiếm đánh giá thị trường kém Thiếu thông tin Thiếu liên kết & kênh thông tin Vấn đề cốt lõi Vấn đề trực tiếp Vấn đề trung gian 14
  • 16. Nguồn nguyên liệu của các hộ sản xuất nhỏ phức tạp, đa phần được mua trôi nổi trên thị trường từ sơn tràng, đầu nậu do giá gỗ lậu thường rẻ hơn có thể đến 50% ở những khu vực gần rừng (Phan, 2012). Ở Đồng Nai, nguồn nguyên liệu của các hộ cá thể chủ yếu là mua từ gỗ nhập khẩu (mua lại từ các đầu nậu trung gian), chiếm đến 70% (gồm các loại như gõ đỏ, giáng hương, căm xe, xoan đào, dầu đỏ, sồi, tần bì, thông,…). Một phần từ gỗ rừng trồng trong nước, chủ yếu là gỗ keo lá tràm, tếch, cao su (chiếm 28%), số còn lại (2%) là gỗ bao bì tận dụng, trụ tiêu, và gỗ trôi nổi trên thị trường. Ở Lâm Đồng, nguồn gỗ đặc được mua từ các cơ sở kinh doanh hợp pháp lẫn từ sơn tràng, đầu nậu. Gỗ lậu thường được sơn tràng chặt hạ từ rừng rồi kéo về bán cho các xưởng xẻ ở gần rừng. Gỗ kéo từ rừng về thường được đẽo thành bi với kích thước thông thường từ 2-3m dài với bề mặt từ 30-40cm. Do việc lấy gỗ không phép khó khăn do đó, sơn tràng thường lấy gỗ tốt hoặc quý như dổi, huỳnh đàn, cẩm lai, căm xe, hương, sao, kiền kiền, chiêu liêu. Một số xưởng xẻ thường không tập trung gỗ một chỗ mà thường phân tán tản mát ở các nhà quen, bà con trong vùng. Nhìn chung, nguồn gỗ lậu được đưa vào chuỗi cung qua nhiều cách thức tinh vi, khó kiểm soát. Một hộ sản xuất nhỏ với 2-3 công nhân thường sử dụng khoảng 10-20 khối gỗ một năm. Quy mô nhà xưởng, trang thiết bị của các nhóm khác nhau thì khác nhau. Ở Đồng Nai, do tính chất sản xuất khá lớn, đa số các hộ sản xuất có diện tích nhà xưởng dao động từ 200-1000m2. Các hộ sản xuất nhỏ lẻ có mặt bằng sản xuất trung bình khoảng 50 m2. Tuy vậy, đa số các hộ có thêm diện tích kho nguyên liệu khoảng từ vài đến vài chục mét vuông. Đối với các hộ sản xuất nhỏ, phương tiện, máy móc sản xuất cũng không phức tạp, chủ yếu ở tầm công cụ cá nhân thường gồm cưa đĩa, cưa lộng, máy bào, máy làm mộng, máy thổi PU, máy bắn đinh. Trang thiết bị trong các hộ này mỗi loại chỉ từ 1 đến 2 cái. Đối với các hộ gia công công nghiệp, vì không phải thực hiện toàn bộ các công đoạn của quá trình sản xuất nên trang bị cũng đơn giản, tuy vậy mang tính chuyên nghiệp cao. Một số hộ có thể xẻ gỗ tròn bằng cưa CD được đặt ở những nơi xa khu dân cư. Theo một số hộ sản xuất nhỏ, đa phần các trang thiết bị có giá dưới 15 triệu và đều là máy sản xuất tại Việt Nam hoặc Trung Quốc. Tuy nhiên, trang thiết bị các hộ quy mô lớn là khá hiện đại với một số khâu bố trí theo dây chuyền. Quan hệ giữa chủ hộ sản xuất và người lao động ít ràng buộc. Nguồn lao động phổ thông là dồi dào trong khi đó nguồn lao động có tay nghề là hiếm. Điều này tạo môi trường dễ dàng hơn cho các hộ sản xuất công nghiệp, trong khi đó các hộ sản xuất nhỏ lẻ cần nhân lực ít nhưng tay nghề cao thường gặp khó khăn. Các hộ sản xuất nhỏ lẻ có số lao động từ 2-10 người tùy theo mùa. Tuy vậy, ngoại trừ ở các cơ sở lớn, các công nhân thường được ăn lương theo tháng và một số có hợp đồng lao động, đa số 15
  • 17. người lao động, kể cả thợ cả ở các hộ sản xuất nhỏ ăn lương tuần và không có hợp đồng, bảo hiểm lao động, bảo hiểm xã hội. Do quan hệ giữa hộ và người lao động ít bị ràng buộc bởi hợp đồng mà chỉ là thỏa thuận miệng, vì thế người lao động phải tự chịu khi có sự cố xảy ra trong quá trình lao động. Khi mùa thấp điểm đến, nhiều lao động được cho nghỉ việc dễ dàng. Những người lao động không có tay nghề dễ bị mất việc nhất. Tuy vậy, hình thức hợp đồng miệng được cả chủ và người lao động ưa chuộng vì tính linh động của nó. Người lao động có thể nhảy việc khi tìm được nơi khác có giá cao hơn trong khi chủ thuê lại có thể tuyển lựa được người vừa ý và giảm chi phí. Hình thức “buôn có bạn bán có phường” cũng quan sát được ở các hộ sản xuất nhỏ ở các cấp độ khác nhau chặt chẽ hơn ở Đồng Nai nhưng cũng không thành hệ thống như ở các làng nghề phía Bắc. Ở hộ gia công, sản xuất dây chuyền, quan hệ giữa hộ sản xuất và hộ vệ tinh, hộ kinh doanh trong chuỗi sản phẩm là khá chặt. Giao dịch giữa các hộ nhóm này thường không có giấy tờ chính thống mà thường chỉ là các cam kết viết tay, cam kết miệng để không phải đóng thuế, giảm chi phí sản xuất. Các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ thường rất độc lập mặc dù họ có biết một vài cơ sở khác cùng địa bàn hoặc có bà con họ hàng. Các hộ này chỉ trao đổi thông tin thông thường như giá cả nguyên liệu, giá ngày công, đầu vào nguyên liệu, không có các hình thức trao đổi khác như thợ, máy móc, khách hàng hay các hợp tác khác. Như vậy, tương tự nhận định ở làng nghề phía Bắc, hầu như không có liên kết nào được hình thành giữa các hộ đã dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm dẫn đến những hạn chế lớn về cạnh tranh, về năng lực phát triển nghề nghiệp và thị trường. Vấn đề về môi trường là vấn đề mang lại rất nhiều bức xúc đặc biệt khi các hộ sản xuất tọa lạc ở khu vực dân cư. Trong sản xuất, bụi gỗ và sơn là tác nhân ảnh hưởng xấu đến sức khỏe công nhân, đặc biệt là phụ nữ. Những nhà dân xung quanh dù đóng cửa kín vẫn ngửi thấy mùi sơn. Tại các hộ sản xuất nhỏ lẻ chưa có trang thiết bị xử lí bụi gỗ và sơn. Tại nhiều công đoạn lượng bụi không lớn nhưng kích cỡ hạt bụi rất nhỏ, dễ phát tán trong không khí. Các hộ nhỏ thường không thực hiện tốt vệ sinh môi trường và chấp nhận chịu phạt vì lợi nhuận so ra vẫn còn cao hơn so với việc đầu tư cơ sở vật chất, môi trường lao động. Tình trạng ô nhiễm kéo dài gây bất bình cho người dân, dẫn đến khiếu kiện phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh trật tự chung, và làm mất lòng tin của người dân vào cơ quan chức năng. Một số người dân cho rằng công tác quản lý của nhà nước chưa tốt, đã xuất hiện tiêu cực, một số cơ quan địa phương đã lờ đi để các hộ sản xuất vi phạm luật. Thêm vào đó, các hộ sản xuất có nhiều công nhân làm việc, sản phẩm nhiều, thường để ngổn ngang chắn hết lối đi trong khi đó trang thiết bị phòng cháy chữa cháy còn sơ sài chỉ mang tính hình thức đưa đến những nguy cơ cao về cháy, nổ. Về vấn đề vệ sinh, môi trường và phòng chữa cháy, đa số các hộ 16
  • 18. “mạnh ai nấy làm” không được hướng dẫn, tập huấn và cũng không tuân thủ các quy định. Chủng loại sản phẩm của các hộ sản xuất nhỏ đa dạng gồm bàn ghế, salon, tủ thờ, tủ áo, giường, đồ gỗ văn phòng, kệ, tủ bếp, tủ đứng, tay vịn cầu thang, trụ cầu thang, ván sàn, lam ri trần nhà, vách nhà. Ở một số nơi còn có nhiều loại sản phẩm trang trí nội thất, mỹ nghệ (thần tài, tượng, đồng hồ, v.v..). Đa phần các hộ nhỏ sản xuất sản phẩm cung cấp cho thị trường địa phương. Một số nhỏ các hộ gia công cho các công ty xuất khẩu như các hộ ở khu vực tỉnh Đồng Nai. Ở các làng nghề phía Bắc, hàng hóa được đưa đi tiêu thu khắp cả nước với hơn 83% được tiêu thụ trong nước và hơn 16% được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Riêng ở làng nghề Đồng Kỵ, có đến 33,3% số công ty và 42,8% số hộ gia đình có xuất hàng đi thị trường Trung Quốc (Forest Trends 2012). Tuy vậy, số liệu chính xác về sản lượng, loại gỗ của các hộ sản xuất nhỏ cho thị trường và các ngành công nghiệp khác trong nước và quốc tế là không chính thức kể cả ở tầm quốc gia hay địa phương. Trong khi nhiều hộ sản xuất lớn thường có quan hệ thân mật, chặt chẽ với Kiểm lâm, phòng kinh tế, quản lý thị trường, các hộ sản xuất nhỏ thường có rất ít liên hệ với các cơ quan nhà nước và không nắm rõ các quy định pháp luật liên quan. Nhiều hộ vận hành thông qua các cách thức phi chính thống. Các định chế không chính thống quan sát được bao gồm các quan hệ của hộ với nguồn cung cấp gỗ, một số cán bộ chức năng, người lao động, cộng đồng dân cư, nguồn vay vốn. Các quan hệ không chính thống giúp nhiều hộ đi xuyên qua nhiều quy định, ràng buộc của luật pháp để duy trì sản xuất. Theo quy định, hộ có trách nhiệm báo cáo xuất nhập gỗ định kỳ cho kiểm lâm sở tại, hoặc khi gỗ về tới xưởng, đặc biệt khi nhập gỗ rừng tự nhiên, hộ phải báo ngay. Nhưng thực tế, các hộ không ghi chép thường xuyên cũng không báo cáo, và cơ quan kiểm lâm cũng không kiểm tra thường xuyên đặc biệt là đối với các cơ sở nhỏ. Tuy vậy, kiểm lâm sở tại thường nắm rõ các hộ sản xuất mộc trong địa bàn. Do điều kiện pháp lý chưa được thông suốt, nhiều hộ nhỏ sản xuất trong điều kiện khó khăn, dấu diếm. Một số nơi, hộ khóa cửa ngoài và hoạt động bên trong, hoặc làm xưởng kín, khuất sau nhà để tránh bị cơ quan chức kiểm tra. 2.1.3. Một số tác động của VPA đến nhóm hộ sản xuất chế biến gỗ nhỏ lẻ Nhìn chung, trong bốn nhóm hộ phân tích không có nhóm nào có ảnh hưởng đến VPA một cách trực tiếp, đáng kể. Các hộ chỉ biết các thông tin rất sát sườn với mình mà không có thông tin gì về VPA/FLEGT. Ngược lại tác động của VPA đến các nhóm hộ này là hiện hữu và khác nhau. 17
  • 19. Trong tương lai, việc áp dụng các quy định nghiêm ngặt mới có thể làm tăng quyền lực của cơ quan chức năng liên quan như Sở KH&ĐT (liên quan đến cấp đăng ký), Hạt kiểm lâm, Sở TN&MT. Điều này có thể làm môi trường sản xuất khó khăn hơn nếu tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu quan sát được ở nhiều nơi không được cải thiện. Để tránh tình trạng này, cần phải có cơ chế phối hợp để kiểm soát, giám sát việc sử dụng quyền lực của các cơ quan thực thi pháp luật. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật cũng cần được tinh gọn, rõ ràng và hiểu biết về pháp luật của người sản xuất cũng cần được nâng lên. Mặc dù sẽ phải gặp một số khó khăn lúc ban đầu, nhiều nhóm sẽ hưởng lợi ích từ VPA ở các mức độ khác nhau bao gồm việc chuẩn hóa các quy định, luật lệ, nếu được thực thi tốt sẽ làm dễ dàng hơn, tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho sản xuất. Đối với các nhóm sản xuất và gia công xuất khẩu, do năng lực quản lý của nhóm này khá tốt, VPA có thể giúp họ mở rộng và ổn định thị trường. Nhiều nhóm cũng sẽ nâng cao được năng lực sản xuất theo yêu cầu của VPA. Khó khăn phổ biến mà các hộ nhóm này sẽ gặp phải là chi phí sản xuất có thể sẽ tăng, lợi nhuận hay sức cạnh tranh sẽ giảm do chi phí ban đầu để chuẩn hóa lại bộ máy sản xuất sẽ tăng bao gồm việc mua gỗ hợp pháp, việc trang bị bảo vệ môi trường, phòng chữa cháy và việc bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động. Các hộ sản xuất cho thị trường trong nước hoạt động như một doanh nghiệp thường có đăng ký kinh doanh, không bị tác động trực tiếp từ VPA nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi việc thực thi lâm luật, quản lý lâm sản trong nước. Nhiều hộ sử dụng một phần nguồn gỗ tự nhiên trôi nổi, bao bì, trụ tiêu, sẽ gặp khó khăn khi phải chứng minh tính hợp pháp của nguồn gỗ. Bên cạnh đó, một số hộ có tiềm lực lớn có mua gỗ qua đấu thầu khai thác, tận thu, tỉa thưa hay mua gỗ vi phạm qua đấu giá hợp pháp có thể không còn tiếp cận với nguồn này dễ dàng như trước. Các hộ nhóm này thường có môi trường làm việc ô nhiễm, không đảm bảo an toàn lao động cũng như phòng chữa cháy, và quyền lợi của người lao động. Việc thực thi các quy định trong VPA, có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất của nhóm này. Tuy vậy, do quy mô sản xuất, vốn lớn, các hộ này sẽ không khó thích nghi. Việc thực thi VPA một cách nghiêm túc và hiệu quả sẽ có tác động lớn nhất đến nhóm hộ sản xuất nhỏ lẻ. Các thay đổi về đòi hỏi các hộ sản xuất gia công nhỏ phải đáp ứng các yêu cầu về giấy phép, thuế, vệ sinh môi trường, hợp đồng lao động. Trong khi đó đa số các hộ sản xuất gia công nhỏ có vốn ít, không có giấy phép kinh doanh, không có năng lực làm sổ sách kế toán, thuế, và không có ký kết hợp đồng lao động với nhân công do tính mùa vụ của nó. Do đó các yêu cầu về các vấn đề này sẽ làm các hộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải rời bỏ nghề, nếu họ không được hỗ trợ, cải thiện 18
  • 20. năng lực thích đáng. Sự thành công của VPA sẽ không trọn vẹn nếu một số nhóm bị đẩy vào kết cục này do đây là nhóm lớn trên bình diện cả nước, là nguồn cung cấp sản phẩm mộc truyền thống ở các vùng ngoài đô thị. 19 2.2. NHÓM HỘ GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ SỐNG PHỤ THUỘC VÀO RỪNG 2.2.1. Đặc trưng chính của nhóm đối tượng nghiên cứu Theo đánh giá, nhóm đối tượng nghiên cứu có những đặc điểm chung hoặc những đặc trưng cụ thể như sau: - Dân tộc thiểu số (DTTS): Phần lớn là đồng bào thiểu số, có thể có người kinh. - Sống gần rừng hoặc trong rừng tự nhiên (đặc dụng, phòng hộ, sản xuất) - Người bản địa hoặc di cư - Sinh kế phần lớn phụ thuộc và gắn với thu nhập từ rừng: khai thác rừng, lâm sản ngoài gỗ (LSNG) - Phần lớn là người nghèo, điều kiện sống khó khăn, nguồn lực cho phát triển hạn chế. - Mức độ/khả năng tiếp cận dịch vụ công và thị trường hạn chế. - Dân trí thấp - Có hệ thống luật tục/văn hóa liên quan đến rừng. - Gia đình đông con, không được giao rừng tự nhiên - Tham gia vào quản lý rừng cộng đồng chính thống và không chính thống. Với những khó khăn và những đặc điểm đặc thù cản trở sự phát triển, nhóm đối tượng này là đối tượng chính của đói nghèo do những nguyên nhân cụ thể như sau: - Cơ sở hạ tầng sản xuất ít phát triển hoặc ít được đầu tư, thiếu đất sản xuất - Đông con nhưng lại thiếu lao động, thu nhập thấp, phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ từ chính sách xã hội - Kiến thức quản lý chi tiêu không có hoặc rất hạn chế - Ít am hiểu về khoa học kỹ thuật. Nhóm đồng bào dân tộc ít người ở Thừa Thiên Huế (nơi triển khai nghiên cứu thực địa/nghiên cứu trường hợp) phân bố chủ yếu ở hai huyện Nam Đông và A Lưới, một số ít ở các huyện Phú Lộc và Phong Điền và thị xã Hương Trà. Các nhóm người dân tộc chính theo thứ tự số lượng là Pa kô, Cơ tu, Ta Ôi, Vân Kiều và Pa hy. Đa phần
  • 21. các nhóm dân tộc này sử dụng hệ thống canh tác du cư không sử dụng hệ thống thủy lợi (Rerkasem, 2009). Theo báo cáo mới nhất về điều tra thực trạng Kinh tế Xã hội (KTXH) ở Thừa Thiên Huế cho thấy, hộ nghèo toàn tỉnh có 11,16% thì miền núi có 18,9%, vùng DTTS có 28,57%. Hộ cận nghèo toàn tỉnh có 6,83% thì vùng DTTS có 14,72%. Tất cả 18 xã có tỷ lệ hộ nghèo >25% đều thuộc vùng DTTS và miền núi. Số liệu thống kê hằng năm cho thấy, nguy cơ tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới ở vùng này rất cao (Ban Dân tộc Thừa Thiên Huế, 2013). Với người dân tộc địa phương ở khu vực Thừa Thiên Huế, rừng và sản phầm rừng đóng vai trò rất quan trọng với cuộc sống của họ. Theo khảo sát của các nghiên cứu thì sản phẩm rừng đóng góp tỷ lệ khá lớn vào thu nhập của người dân địa phương, đặc biệt là các hộ đồng bào dân tộc (Wetterwald et al, 2004). Theo một số nghiên cứu đánh giá về mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng của người dân địa phương khu vực Nam Đông, A Lưới, mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng của nhóm đồng bào người dân tộc trung bình chiếm từ 30%-50% (thậm chí có một số gia đình có mức phụ thuộc đến 70%) vào những năm 2004 – 2005 (Thắng, 2004) và sau đó giảm dần xuống 18% vào thời điểm 2009 (Thắng, 2010). Đặc biệt là trong thời gian vừa qua (2010, 2011), sự mở rộng của các khu bảo vệ (mở rộng vườn quốc gia Bạch Mã, thành lập mới Khu bảo tồn Sao La Quảng Nam và Thừa Thiên Huế) đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của đồng bào. Các diện tích rừng trước kia thuộc sự quản lý của các Công ty lâm nghiệp, Ban quản lý rừng phòng hộ thì các sản phẩm như lâm sản ngoài gỗ (LSNG) người dân vẫn được phép thu hái. Nhưng khi mở rộng/thành lập mới khu bảo tồn, về nguyên tắc tất cả các sản phẩm này đều không được phép khai thác. Các diện tích đất canh tác của người dân địa phương (nương rẫy) đều không được triển khai, thực hiện. 2.2.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA Đây là một nhóm đối tượng có thể nói không thật sự liên quan trong việc cung cấp gỗ, chế biến sản phẩm gỗ cho các thị trường xuất khẩu, quy mô về số lượng của họ cũng không lớn. Tuy nhiên, họ là những cộng đồng dân tộc ít người có truyền thống lịch sử và cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tài nguyên rừng, chính vì thế, những tác động của VPA, FLEGT lên tài nguyên rừng sẽ gián tiếp tác động đến họ, họ dễ bị tổn thương và mức độ bị tổn thương của họ rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó, phần lớn các nhóm dân tộc ít người là các nhóm có điều kiện kinh tế và mức sống thấp so với mặt bằng chung của xã hội, ở đây họ lại là đối tượng không 20
  • 22. được giao/khoán rừng tự nhiên trong khi họ có truyền thống rất lâu đời trong quản lý, sử dụng tài nguyên rừng. Chính vì thế tác động của VPA, FLEGT lên cuộc sống của họ sẽ là rất lớn. Ngoài ra, việc thực hiện VPA, FLEGT là nhằm mục đích tạo ra công bằng chung cho toàn xã hội, nên việc tác động của tiến trình này lên một nhóm người thiểu số, bị lề hóa và yếu thế sẽ là một trong những yêu cầu đầu tiên cần phải giải quyết và tạo ra sự công bằng cho xã hội cũng như mục tiêu của chính tiến trình này. VPA/FLEGT quan tâm đến lợi ích của người dân sống phụ thuộc vào rừng cũng như các tác động môi trường. Mối quan tâm này có thể bắt buộc các chủ rừng phải thực hiện trách nhiệm đền bù những thiệt hại cho người dân do họ gây ra khi khai thác và sử dụng rừng. Hơn nữa, mục tiêu sâu xa của VPA/FLET là cải thiện quản trị rừng, vì vậy sẽ giúp cho rừng phát triển tốt, dẫn đến sinh kế của những hộ gia đình dân tộc sống phụ thuộc vào rừng sẽ có cơ hội được cải thiện. Để có thể ký kết VPA, cả nhà nước, các doanh nghiệp phải cải thiện điều kiện làm việc, môi trường sống cũng như tất cả các lĩnh vực liên quan đến nhóm đối tượng này. 2.2.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải và tác động của VPA Các vấn đề mà các nhóm hộ này đang phải đối mặt được mô tả sơ lược tại Sơ 21 đồ 2 - Sơ đồ cây vấn đề dưới đây. Mất đất sản xuất: Tiến trình VPA/FLEGT có thể gây ra mất đất sản xuất cho nhóm đối tương nghiên cứu thông qua những tác động có thể diễn ra như: - Quy hoạch quản lý đất đai kém (năng lực của cán bộ quy hoạch, ưu tiên của lãnh đạo địa phương), không quan tâm đến quyền sở hữu và luật tục truyền thống của người dân địa phương. - Người dân địa phương bị dụ dỗ bán đất cho đối tượng bên ngoài: các đồn điền và công ty lâm nghiệp có nguồn lực kinh tế mạnh tìm cách thu mua đất rừng, làm thiệt hại cho nông dân thiểu số.
  • 23. Sơ đồ 2: Các vấn đề mà các nhóm hộ DTTS sống phu thuộc vào rừng đang phải đối mặt Năng lực của cán bộ quy hoạch Chuyển đổi sử dụng đất NN sang LN Quy hoạch và quản lý quy hoạch đất đai kém Mất đất sản xuất Ưu tiên của lãnh đạo Gỗ nhập địa phương khẩu bất hợp pháp giảm Phát triển rừng trồng Bị dụ dỗ bán đất Thiếu sự tham gia trong quy hoạch Rừng tự nhiên bị thu hẹp Giao rừng ngoài cộng đồng Mất quyền thu hái lâm sản phụ Lợi nhuận từ gỗ tăng VPA Cơ chế chia sẻ lợi ích không hiệu quả Thực hiện quy định chưa chặt chẽ Nhu cầu gỗ tăng Chủ rừng lớn thâu tóm đất rừng Người dân bị loại trừ về kinh tế- VHXH Luật tục trong QLTNR không được tôn trọng Luật tục không được pháp luật côn Không được đào tạo Tâm lý ngại thay đổi g nhận Năng lực quản lý vốn kém Ít sự lựa chọn sinh Nghèo đói Tay nghề lao động thấp kế Không công bằng trong tiếp cận thị trường lao động Tiếp cận vốn vay hạn chế Cạnh tranh lao động Thiếu vốn đầu tư Năng lực truyền thông kém Phương tiện nội dung chưa phù hợp Thủ tục phức tạp Truyền thông chưa hiệu quả Nhận thức chưa cao Ít chính sách ưu tiên lao động tại chỗ Năng lực tiếp cận kém Không nắm rõ thủ tục của VPA Vấn đề cốt lõi Vấn đề trực tiếp Vấn đề trung gian 22
  • 24. - Chuyển đổi mục đích sử dụng đất: + Kết quả tích cực là diện tích đất sản xuất nông nghiệp cho hiệu quả kinh tế thấp được chuyển sang trồng rừng kinh tế có hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều này có thể làm tăng hiệu quả sử dụng đất, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các hộ gia đình dân tộc thiểu số. Hơn nữa, hiệu quả sử dụng đất tăng, tức là thu nhập và lợi nhuận trên một đơn vị diện tích tang, có thể làm giảm bớt nhu cầu về đất đai và do đó làm giảm tình trạng lấn chiếm đất rừng. + Kết quả tiêu cực là tạo ra hệ thống canh tác độc canh, thay thế hệ thống canh tác đa canh trước đây của các hộ gia đình (Hoang, 2011). Trong hệ thống canh tác độc canh, sinh kế của các hộ gia đình phụ thuộc chủ yếu vào gỗ rừng trồng. Nhưng trồng rừng chịu nhiều rủi ro như hư hại do thiên tai, rớt giá do biến động thị trường. Những rủi ro này ngày càng lớn trong điều kiện biến đổi khí hậu và thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định. Trong khi đó, khả năng đối phó với rủi ro của các hộ gia đình này có thể thấp đi một khi các lựa chọn sinh kế của hộ gia đình bị hẹp lại do tiếp cận của họ với rừng bị hạn chế. Hơn nữa, các hộ dân tộc sống phụ thuộc vào rừng thường là các hộ nghèo và họ không đủ vốn nên phải vay mượn để đầu tư trồng rừng. Một khi rủi ro xảy ra sẽ tạo cho họ một gánh nặng nợ nần, và do đó hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay để khôi phục sản xuất và ổn định đời sống. Cách giải quyết rủi ro này của các hộ gia đình dân tộc ít người thường là khai thác lâm sản trái phép và lấn chiếm đất rừng để sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sinh kế của gia đình. Luật tục trong quản lý tài nguyên không được tôn trọng Thừa nhận quyền theo luật tục đối với rừng và đất rừng của đồng bào dân tộc thiểu số: cộng đồng dân tộc ít người đã và đang quản lý rừng theo truyền thống và luật tục sẽ có được những quyền hợp pháp nhất định đối với rừng và đất rừng, thông qua việc nhà nước giao rừng hoặc thông qua hình thức đồng quản lý với các đơn vị chủ rừng nhà nước. Như vậy họ có thể trở thành chủ rừng và được hưởng quyền và lợi ích theo luật định. Một khi cộng đồng được xem là chủ thể pháp lý và họ được phép khai thác gỗ từ rừng do họ quản lý nhằm mục đích thương mại thì gỗ này sẽ được thừa nhận là gỗ hợp pháp để có thể tham gia vào thị trường xuất khẩu sang Châu Âu. Điều này có thể giúp cho các hộ gia đình dân tộc ít người sống phụ thuộc vào rừng có thu nhập tốt hơn từ rừng tự nhiên mà họ đã gắn bó bao đời nay. Có thể có hai hình thức xảy ra: Giao cho các đơn vị, tổ chức ngoài cộng đồng (Ban QLRPH, Nông Lâm trường, Công ty lâm nghiệp, ...): Một khi giao cho các đơn vị, tổ chức này, rừng có thể bị quản lý nghiêm ngặt hơn, và cùng với phương pháp quản lý thiếu sự tham gia sẽ hạn chế sự 23
  • 25. tiếp cận rừng và đất rừng của các hộ gia đình dân tộc ít người có sinh kế phụ thuộc vào rừng được giao. Những hoạt động sinh kế của hộ gia đình dân tộc phụ thuộc vào rừng như khai hoang đất để sản xuất nông nghiệp, khai thác lâm sản từ rừng sẽ bị hạn chế và dẫn đến giảm nguồn thu nhập cũng như giảm đi sự đa dạng sinh kế của những hộ gia đình này. Giao cho hộ gia đình, các tổ chức trong cộng đồng: ba nhóm đối tượng được giao là cộng đồng, nhóm hộ và hộ gia đình. Việc giao rừng với những quyền lợi hợp pháp khẳng định quyền tiếp cận với rừng và đất rừng của người dân địa phương. Mất quyền thu hái lâm sản phụ VPA/FLEGT tạo cơ hôi tốt hơn để Việt Nam xuất khẩu gỗ sang thị trường châu Âu, cùng với dân số tăng và rừng phục hồi chậm hoặc có xu hướng suy giảm ở một số nước, sẽ làm cho nhu cầu gỗ ở Việt Nam ngày càng tăng, thị trường gỗ ngày càng mở rộng, và theo đó giá gỗ tăng cao, tạo ra lợi nhuận hấp dẫn từ gỗ. Điều này có thể thúc đẩy các chủ rừng (đơn vị, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được giao rừng) mở rộng diện tích rừng trồng. Nhất là các chủ rừng là các công ty lâm nghiệp, mối quan quan tâm chính yếu của họ là lợi nhuận hơn là bảo tồn tài nguyên rừng, vì vậy họ càng tập trung nhiều hơn vào việc phát triển rừng trồng. Mở rộng rừng trồng có thể dẫn đến nhiều diện tích rừng tự nhiên bị lấn chiếm và thay thế bằng các rừng trồng. Những diện tích rừng tự nhiên, cho dù được xem là nghèo kiệt hiện nay (về trữ lượng gỗ), cũng cung cấp một lượng lâm sản phi gỗ đáng kể và vì vậy có vai trò quan trọng đối với sinh kế của hộ gia đình dân tộc sống phụ thuộc vào rừng. Một khi rừng tự nhiên bị thu hẹp, nguồn lâm sản phi gỗ từ rừng cũng bị giảm đi, làm mất đi nguồn sống quan trọng đối với những cộng đồng và hộ gia đình dân tộc ít người sống phụ thuộc vào rừng. Khó khăn khi tiếp cận thị trường lao động Như đã trình bày ở trên, VPA có thể thúc đẩy quá trình giao rừng và điều này sẽ làm hạn chế tiếp cận rừng và đất rừng của các hộ gia đình dân tộc thiểu số. VPA cũng có thể thúc đẩy phát triển rừng trồng, làm giảm đi diện tích rừng tự nhiên nơi mà hộ gia đình dân tộc ít người khai thác lâm sản tự nhiên. Khi đó các lựa chọn sinh kế của các hộ gia đình dân tộc ít người sẽ bị hẹp dần và họ có thể phải làm thuê cho các công ty lâm nghiệp hoạt động tại địa phương. Điều này, cùng với đặc điểm của người đồng bào dân tộc ít người là có trình độ nhận thức thấp, trình độ học vấn hạn chế, bất đồng ngôn ngữ …, sẽ làm giảm khả năng thương lượng của các hộ gia đình này với đơn vị thuê mướn lao động về chế độ lương bổng. Hậu quả là họ có thể bị chèn ép và chịu nhiều thiệt thòi. 24
  • 26. Không nắm rõ thông tin, thủ tục liên quan đến VPA/FLEGT Do điều kiện thực tế là nhóm đối tượng phần lớn là người nghèo, điều kiện sống khó khăn, nguồn lực cho phát triển hạn chế; mức độ/khả năng tiếp cận dịch vụ công và thị trường hạn chế; dân trí thấp nên khả năng tiếp cận với thông tin liên quan đến thị trường, các thông tin liên quan đến VPA/FLEGT rất hạn chế. Người dân sẽ không nắm được những yêu cầu, đòi hỏi của VPA/FLEGT để có thể áp dụng, triển khai vào hoạt động sản xuât kinh doanh. Đây cũng chính là một trong những khó khăn người dân gặp phải. Tóm lại: Có khả năng là VPA sẽ đẩy nhóm dân tộc thiểu số có sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên rừng ra bên lề và tăng bất bình đẳng về kinh tế bằng một số các tác động cụ thể lên nhóm như: (1) làm mất đất sản xuất, (2) không tôn trọng luật tục trong quản lý tài nguyên rừng, (3) làm mất quyền thu hái LSNG, (4) gây khó khăn trong tiếp cận thị trường tuyển dụng lao động, và (5) không nắm rõ thông tin, hiểu rõ các vấn đề liên quan đến VPA/FLEGT để có thể tham gia và hưởng lợi từ tiến trình này. 25 2.3. NHÓM HỘ TRỒNG RỪNG TRÊN ĐẤT ĐƯỢC GIAO NHƯNG KHÔNG CÓ SỔ ĐỎ Trong quá trình tìm các tài liệu và dữ liệu của các ngành, bài báo, các nghiên cứu công bố v.v. về đối tượng này, cho thấy hiện nay chưa tìm ra một tài liệu, một báo cáo hay công bố nào về diện tích đất lâm nghiệp đã giao cho hộ gia đình nhưng chưa được cấp sổ đỏ theo các vùng sinh thái lâm nghiệp mà chỉ công bố về diện tích đất lâm nghiệp đã giao cho hộ gia đình theo vùng (nguồn: Kết qủa kiểm kê đất đai toàn quốc năm 2010 của Bộ TN&MT) và số diện tích đất lâm nghiệp đã được cấp sổ đỏ cho hộ gia đình theo vùng còn diện tích đất lâm nghiệp giao cho các hộ nhưng chưa được cấp sổ đỏ thì không có. Do vậy nhóm chỉ nêu các hộ gia đình nói chung. 2.3.1 Đặc trưng chính của nhóm hộ gia đình trồng rừng trên đất được giao Phân bố địa lý: nằm theo 8 vùng sinh thái lâm nghiệp thì thây rõ tỷ lệ số hộ được giao đất lâm nghiệp tập trung ở vùng núi Đông bắc, Tây bắc (62,74% và 61,77%) và bắc Trung bộ (36,62%) cao hơn mức bình quân của các vùng là (29,13%), thấp nhất Tây nguyên (Tây nguyên giao đất lâm nghiệp cho tổ chức nhiều hơn) rồi đến vùng đồng bằng. Các hộ gia đình được giao đất lâm nghiệp thường tập trung ở các vùng núi là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau; Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo: vùng Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất chiếm tỷ lệ 33,02%; hộ cận nghèo chiếm 12,08%, miền núi Đông Bắc có số hộ nghèo chiếm
  • 27. 21,01% và hộ cận nghèo chiếm 9,58%; ngoài ra Khu IV cũ có số hộ nghèo chiếm 18,28% và hộ cận nghèo chiếm 12,38% so với tỷ lệ bình quân toàn quôc là 11,76% đối với hộ nghèo và 6,98%. Hơn nữa các hộ gia đình trồng rừng có trình độ dân trí hạn chế phần lớn cấp I, II như phân tích trong báo cáo, kinh tế chậm phát triển vì hạ tầng cơ sở giao thông đi lại không thuận tiện để thông thương buôn bán với với vùng đồng bằng. Đời sống còn nhiều khó khăn, cuộc sống chủ yếu dựa vào rừng, nông nghiệp và chăn nuôi, không có ngành công nghiệp trên miền núi. Về góc độ giới: qua thực tế khảo sát, 57,09% hoạt động trồng rừng là do người vợ đảm nhiệm, chồng chỉ đảm nhiệm 42,91% ; tuy nhiên các công việc nặng như khai thác thì chồng lại làm phần lớn (90%), trong khi đó vợ chỉ làm khoảng 10%, đặc biệt các công việc liên quan tới giao dịch với bên ngoài, chồng là đảm nhiệm chính, ví dụ: liên hệ mua cây giống chồng 85%, vợ 15% hay liên hệ bán cây chồng 90%, vợ 10%. Người vợ làm các công việc được xem là nhẹ nhàng hơn, như: làm vườn ươm (vợ chiếm 76%, chồng chiếm 24%); hay chăm sóc bảo vệ, trồng cây v.v.. (vợ làm nhiều hơn chồng). Người vợ ít tham gia các hoạt động hội họp, tập huấn, dẫn đến nhận thức và kiến thức khoa học kỹ thuật hạn chế nhưng họ lại phải tham gia nhiều hoạt động mang tính kỹ thuật như: làm đất, trồng cây…vì vậy hiệu quả không cao. Thêm nữa, khi phụ nữ không tham gia các hoạt động hội họp, truyền thông cũng đồng nghĩa với việc không có các thông tin về chính sách, pháp luật thì khi triển khai VPA họ sẽ không hiểu biết về VPA, có nghĩa là không hiểu về nguồn gốc gỗ, không hiểu về các chính sách lâm nghiệp, pháp luật. Trong chuỗi cung ứng gỗ ra thị trường: Hiện chu kỳ của rừng trồng thường khoảng 5 – 7 năm, do vậy gỗ khai thác thường có cấp kính nhỏ, hầu hết chỉ được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy chế biến bột giấy, dăm gỗ xuất khẩu hoặc làm ván nhân tạo. Các nhà máy bột giấy, chế biến dăm, và ván nhân tạo cũng nằm rải rác theo các vùng sinh thái có rừng nguyên liệu là rừng trồng. Có thể nói nhóm hộ này đóng góp đáng kể cho ngành công nghiệp chế biến gỗ. 2.3.2 Tầm quan trọng, ảnh hưởng của nhóm đối tượng nghiên cứu tới VPA Ảnh hưởng: Khi cơ sở pháp lý về quyền sử dụng rừng và đất rừng bị đòi hỏi thì sinh kế của nhóm hộ trồng rừng không có sổ đỏ sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp, gỗ của họ có thể bị coi là không hợp pháp. Họ thiếu thông tin về thị trường, sản phẩm, không hiểu biết về nguồn gốc gỗ hợp pháp và sản phẩm gỗ hợp pháp, năng lực hạn chế,‘tiếng nói’ yếu không gây ảnh hưởng mạnh đến chính sách, trong việc tạo điều kiện hoặc thúc đẩy cải cách chính sách liên quan đến VPA. Tầm quan trọng: Nhóm này có số lượng người đông, sống gần rừng và am hiểu về rừng và địa bàn/địa phương, vì vậy họ sẽ là người phát hiện nhanh và chính xác những sai phạm trong lâm nghiệp (đặc biệt là khâu khai thác và vận chuyển tại nguồn), do đó họ có tầm quan trọng trong việc giám sát thực thi VPA. 26
  • 28. Lợi ích: Khi VPA ký kết, có thể việc cấp sổ đỏ cho nhóm hộ này sẽ được đẩy nhanh hơn, các bên liên quan sẽ quan tâm hơn tới việc nâng cao nhận thức và năng lực cho họ. Như thế họ sẽ yên tâm hơn trong phát triển sản xuất và khai thác hợp pháp đúng kỹ thuật các sản phẩm từ rừng và bán ra thị trường với giá cả phù hợp. Rủi ro: VPA đòi hỏi gỗ có nguồn gốc thi mới được lưu thông ra thị trường, làm tổn thương đến sinh kế của nhóm hộ này gây ảnh hưởng đến đời sống, đa số là những hộ nghèo nay họ lại trở nên nghèo hơn. Họ bị thua thiệt khi bán gỗ có thể không được lưu thông trên thị trường có thể bán gỗ chui, vì không có giấy tờ hợp pháp 2.3.3 Những vấn đề mà nhóm đối tượng nghiên cứu gặp phải Các vấn đề mà các nhóm hộ này đang phải đối mặt được mô tả sơ lược tại Sơ 27 đồ 3 - cây vấn đề dưới đây. Những nguyên nhân dẫn đến những vấn đề mà nhóm hộ trồng rừng chưa được cấp sổ đỏ gặp phải đó là: Sự phối hợp của cơ quan đo đạc đất đai (thuộc cơ quan tài nguyên và môi trường) và đo đạc rừng (thuộc cơ quan kiểm lâm) còn hạn chế. Công tác rà soát đất đai, xác định ranh giới, mốc giới, giải quyết tranh chấp, vi phạm pháp luật đất đai chưa được triển khai hiệu quả, triệt để. Nhiều diện tích rừng được giao cho hộ nhưng chưa xác định ranh giới, lập hồ sơ, dẫn đến tranh chấp hoặc cấp trùng giấy. Có nhiều lý do chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng này, gồm cả việc tranh chấp diễn ra giữa các hộ dân và công ty lâm nghiệp ở một số địa phương; các công ty lâm nghiệp trả lại đất cho xã và người dân nhận đất giao mà chưa có giấy tờ chính thức; hoặc các hộ dân từ xưa thiếu đất đầu tư vào các diện tích trên đất của công ty lâm nghiệp có sổ đỏ chưa được giải quyết. Cần nhiều nỗ lực để giải quyết các bất ổn này để đảm bảo các hộ dân trồng rừng có tư cách pháp lý cần thiết như những nhà sản xuất gỗ theo khuôn khổ VPA. Tổn thương tiềm tàng thứ hai nhóm này gặp phải là nhu cầu về các sản phẩm gỗ sản xuất hợp pháp trong nước ngày càng tăng có thể dẫn đến việc tập trung đất rừng vào một số trang trại và công ty lâm nghiệp có nguồn lực mạnh, dẫn đến thiệt hại cho các hộ trồng rừng không có quyền sử dụng đất ổn định.
  • 29. Sơ đồ 3: Các vấn đề mà các nhóm hộ trồng rừng trên đất được giao không có sổ đỏ đang phải đối mặt Năng lực gi ải quyết các Thiếu phương tiện đo đạc vấn đề pháp lý yếu Khả năng quản lý đấy của người dân kém Công ty lâm nghiệp không muốn lấy sổ đỏ Khả năng quản trị đất của CT Lâm nghiệp Thiếu văn bản hướng dẫn rõ ràng của tỉnh về QLĐD với CTLN Người dân nghèo đói Ý thức chấp hành pháp luật Người dân thiếu đất Công ty lâm nghiệp nhiều đất không sử Giám sát của địa phương kém Tham nhũng gây chậm trễ cấp sổ đỏ Thiếu vốn Trình độ cán bộ thực thi ế Thiếu cán bộ thực hiện đo đạc, cấp sổ đỏ Các trường hợp đất còn tranh chấp Lấn chiếm đất lâm nghiệp Nhận thực của người dân kém Người dân thiếu tiền làm sổ đỏ Sự khác biệt giữa các vùng miền Không có giấy tờ hợp pháp khi VPA/FLEGT được áp dụng Trồng cây thay thế giá thấp Không bán được gỗ Giá gỗ thấp/ bị ép giá Bán đất rừng giá thấp Chi phí giao dịch tăng Hộ trồng rừng không có giấy tờ hợp lệ bị tổn hại về kinh tế Vấn đề cốt lõi Vấn đề trực tiếp Vấn đề trung gian 28
  • 30. 29 2.3.4 Tác động của VPA tới nhóm đối tượng nghiên cứu Quyền sử dụng đất Theo dự thảo Định nghĩa tính hợp pháp (LD) và Hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ (TLAS), bên cạnh giấy chứng nhận sử dụng đất chính thức, sổ xanh và các quyết định giao đất giao rừng của chính quyền địa phương là giấy tờ pháp lý đạt yêu cầu cho việc sản xuất và cung ứng gỗ hợp pháp. Tuy nhiên, điều quan trọng là chỉ các hộ có giấy chứng nhận sử dụng đất chính thức mới có quyền theo các điều khoản trong Luật đất đai, bao gồm quyền sử dụng đất như tài sản thế chấp để vay tiền cho sản xuất. Thêm nữa, các giấy chứng nhận sử dụng đất được xem là đảm bảo an toàn hơn về dài hạn cho các nhà sản xuất, đây là điều căn bản với sản xuất và cung ứng gỗ bền vững. Nhận thức cho các hộ gia đình tham gia trồng rừng Hiện nay các hộ gia đình sản xuất gỗ cho thị trường không hiểu biết về gỗ và các sản phẩm gỗ hợp pháp, các thủ tục khi khai thác gỗ phải làm những việc gì, do vậy họ đều bán qua thương lái, và phải trả tiền phí dịch vụ ảnh hưởng đến sinh kế của họ.
  • 31. 30 III. PHÂN TÍCH KÊNH TRUYỀN TẢI Là một phần trong tiến trình Phân tích tác động sinh kế (LIA), Phân tích kênh truyền tải (TCA) được nhóm nghiên cứu tiến hành nhằm chỉ ra những tác động tiềm ẩn của VPA đối với một số nhóm liên quan dễ bị tổn thương, trong đó bao gồm các hộ gia đình trồng rừng không có sổ đỏ, các hộ làm nghề chế biến gỗ và các hộ dân tộc thiểu số sống lệ thuộc vào rừng. Sơ đồ 4 dưới đây đưa ra khái quát về phương pháp Phân tích TCA và kết quả phân tích được trình bày trong bảng 3. Định nghĩa và phương pháp Kênh truyền tải được định nghĩa là những con đường mà qua đó một chính sách hoặc một can thiệp, hỗ trợ có ảnh hưởng tới các bên liên quan. Phân tích kênh truyền tải (TCA) là một công cụ để dự báo và chỉ ra mối liên kết giữa những tác động phái sinh tiềm ẩn của một chính sách hay một chương trình can thiệp đối với sinh kế của (các) bên liên quan. Những tác động nêu trên có thể bao gồm: (i) tác động sơ cấp – những tác động trực tiếp hay ngắn hạn; và (ii) tác động thứ cấp– những tác động gián tiếp hay trung hạn được tạo ra từ những thay đổi trong hành vi của các bên liên quan trước một hỗ trợ, can thiệp hoặc chính sách đưa ra. Những tác động phái sinh có thể mang tính tích cực hoặc tiêu cực xét từ những cách thức chúng ảnh hưởng tới sinh kế của các bên liên quan. Đối với VPA, việc đánh giá tác động tiềm tàng đã được thực hiện cho ba nhóm liên quan dễ bị tổn thương khi các quy định của nhà nước và yêu cầu tuân thủ được đưa ra áp dụng (cụ thể như qua áp dụng Hệ thống Đảm bảo tính pháp lý gỗ - TLAS). Phân tích TCA đã ước định những tác động phái sinh tiềm tàng nói trên dựa trên sáu nhân tố: chi phí và giá cả; việc làm; tài sản sinh kế (vốn tự nhiên); tiếp cận hàng hóa và dịch vụ; phí và thuế; các mối quan hệ quyền lực. Một số câu hỏi có thể dùng làm gợi ý hướng dẫn cho việc đánh giá, cụ thể như sau: 1) Chi phí và giá cả • Khi áp dụng những quy định chặt chẽ hơn về tính pháp lý gỗ, khả năng sẽ có những tác động nào lên chi phí gỗ nguyên liệu và chi phí sản xuất của người chế biến gỗ? • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên chi phí sản xuất và giá sản phẩm tại gốc đối với người trồng rừng nội địa?
  • 32. • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên chi phí giao dịch, bao gồm cả các giao dịch chính thống và không chính thống đối với người trồng rừng và chế biến gỗ? • Những tác động tiềm ẩn nói trên có thể khác nhau như thế nào giữa những người trồng rừng nội địa, người chế biến gỗ quy mô nhỏ với người trồng rừng nội địa, người chế biến gỗ quy mô lớn? 31 2) Việc làm • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên cấu trúc ngành sản xuất và chế biến gỗ trong nước và những tác động đó ảnh hưởng thế nào tới vấn đề việc làm? • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào đối với lượng việc làm trong lĩnh vực sản xuất và chế biến gỗ, bao gồm cả việc làm chính thức và không chính thức? • Cơ hội việc làm cho phụ nữ và lao động từ các hộ nghèo có thể bị ảnh hưởng như thế nào? • Liệu lao động có thể chuyển sang các lĩnh vực việc làm khác có liên quan tới rừng hoặc các ngành khác khi điều kiện trong lĩnh vực của mình bị thay đổi? 3) Tài sản sinh kế • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên nhu cầu thị trường đối với nguồn cung cấp gỗ hợp pháp nội địa? • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên nhu cầu đất trồng rừng và điều đó có thể ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề an ninh đất sử dụng của người trồng rừng quy mô nhỏ? • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên cấu trúc sử dụng đất lâm nghiệp và khả năng tiếp cận đất lâm nghiệp, tiếp cận tài nguyên rừng đối với các hộ nghèo? 4) Tiếp cận hàng hóa và dịch vụ • Sẽ có những tác động nào lên nhu cầu cung cấp dịch vụ công (vd: cấp giấy chứng nhận sử dụng đất và các dịch vụ khác)? 5) Phí và thuế • Khi áp dụng những quy định chặt chẽ hơn, sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên mức phí và thuế đối với người trồng rừng và chế biến gỗ? 6) Quan hệ quyền lực • Khi áp dụng những quy định pháp lý chặt chẽ hơn, sẽ có những thay đổi như thế nào đối với các mối quan hệ quyền lực trong ngành lâm nghiệp? • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào đối với gánh nặng thủ tục hành chính cho người trồng rừng, người chế biến gỗ và các cơ quan hành chính liên quan?
  • 33. • Sẽ có những tác động tiềm tàng nào lên vai trò và quyền lực của những người 32 trung gian (VD: thương lái, vận chuyển, buôn bán, đại lý gỗ)? • Những thay đổi nói trên trong các mối quan hệ quyền lực có thể ảnh hưởng như thế nào tới hiện trạng của các hộ nghèo và nhất là tới các hộ trồng rừng và chế biến gỗ quy mô nhỏ? Trong phân tích này, các tác động thứ cấp được định nghĩa là những tác động gián tiếp hoặc trung hạn tạo ra từ những thay đổi trong hành vi của các bên liên quan đứng trước một chính sách hay một hỗ trợ, can thiệp. Bởi vậy, những tác động thứ cấp nói trên một phần được quyết định bởi tiềm lực của các bên liên quan trong việc ứng phó trước tình hình mới. Chúng ta phải cân nhắc nhiều khía cạnh của ‘tiềm lực’ để có thể hiểu được những ứng phó vừa đề cập, cụ thể là: • Tiềm lực kinh tế– Ví dụ: tiềm lực kinh tế của người chế biến gỗ và người sản xuất đồ mộc trong vay vốn và đầu tư vào các loại hình sản xuất mới đáp ứng nhu cầu và điều kiện thay đổi của thị trường; hoặc tiềm lực của người sản xuất, chế biến gỗ trong việc đáp ứng những gia tăng trong chi phí sản xuất và chi phí giao dịch. • Tiềm lực con người – Ví dụ: khả năng các hộ chế biến gỗ có thể thích nghi và duy trì việc làm trước tình hình có những thay đổi, biến động trong cấu trúc của ngành chế biến gỗ. • Tiềm lực chính trị– Ví dụ: khả năng người chế biến gỗ nhỏ được đại diện và ảnh hưởng tới việc thực thi các chính sách của nhà nước liên quan. • Tiềm lực văn hóa-xã hội– Ví dụ: khả năng để người trồng rừng và người chế biến gỗ quy mô nhỏ cộng tác với nhau lập ra các tổ chức hội, các hợp tác xã về thị trường, về sản phẩm nhằm gia tăng khả năng ngã giá của mình. • Tiềm năng về bảo trợ pháp lý và bảo trợ xã hội– bao gồm năng lực của các hộ, của những người làm nghề lâm nghiệp có thể tiếp cận với các dạng bảo trợ xã hội hòng giảm nhẹ nguy cơ tổn thương và tăng khả năng chịu đựng trước các cú sốc kinh tế. Phân tích kênh truyền tải (TCA) là một công cụ dự báo tác động tiềm tàng của một chính sách hay hỗ trợ, can thiệp. Chính vì vậy, bản thân nó mang nhiều tính chủ quan và có một số hạn chế. Ví dụ, khó để có thể đưa vào trong phân tích những yếu tố thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng tới vấn đề thương mại gỗ toàn cầu, hoặc đưa vào trong nó những yếu tố thay đổi về nhu cầu sản phẩm gỗ của các quốc gia thành viên EU. Tuy vậy, Phân tích TCA là một công cụ hữu hiệu trong việc xác định các tác động tiềm tàng từ đó làm cơ sở phân tích định lượng chi tiết hơn cho những nghiên cứu tiếp theo.
  • 34. Sơ đồ 4 - Phương pháp phân tích Kênh truyền tải Tiềm lực của các bên liên quan dễ bị tổn thương Những thay đổi trong hành vi của các bên liên quan trước chính sách, hỗ trợ can thiệp và tác động sơ cấp Chính sách hoặc hỗ trợ can thiệp Kênh truyền tải Giá cả (sản xuất, tiêu dùng, nhân công) Việc làm (chính thức và không chính thức) Tài sản sinh kế của các bên tham gia Tiếp cận thị trường, hàng hóa và dịch vụ Nguồn thu, chuyển ngân sách, thuế, phí Quyền lực (luật, c.sách, q.hệ quyền lực vv..) Tác động sơ cấp (t.tiếp/n.hạn) • • • • • • • • • • • • Kinh tế Con người Văn hóa – xã hội Chính trị Bảo trợ Xã hội và Luật pháp Tác động thứ cấp (g.tiếp / t.hạn) • • • • • • • • • • • • Tác động tích cực hoặc tiêu cực Tác động tích cực hoặc tiêu cực 33
  • 35. Bảng 3 - Phân tích kênh truyền tải – tác động tiềm tàng của VPA lên các bên liên quan dễ tổn thương Kênh truyền tải Tác động sơ cấp (Tác động trực tiếp và ngắn hạn) Tác động thứ cấp (Tác động gián tiếp và trung hạn – bao gồm những thay đổi trong hành vi của các bên liên quan trước một chính sách đưa ra) Mô tả C Cấp độ Mô tả Cấp độ Giá cả và chi phí Đối với những hộ trồng rừng có tiềm lực để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trở thành hộ trồng rừng hợp lệ (khả năng chi trả) ►Nhu cầu cung cấp gỗ hợp pháp gia tăng cho những người trồng rừng. + ►Về lâu dài có cơ hội đầu tư + trồng rừng với giá trị cao hơn, có thị trường ổn định hơn và nâng + ►Tăng chi phí cơ hội và chi cao thu nhập, sinh kế. phí giao dịch để đáp ứng yêu cầu trở thành người sản xuất gỗ ►Có khả năng chính quyền địa hợp lệ bao gồm các chi phí phương và các cơ quan thanh, ‘chính thức’ và ‘không chính kiểm soát sẽ áp đặt thêm các loại thức’ để lấy được sổ đỏ (đối với _ phí lên người trồng rừng (phí những hộ không có sổ) và không chính thức). chuẩn bị hồ sơkhai thác gỗ, xác - minh, thẩm định và nhận được - giấy phép khai thác vv.. Đối với những hộ trồng rừng không có tiềm lực để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trở thành hộ trồng rừng hợp lệ (khả năng chi ►Chuyển sang trồng các loại cây có giá trị thấp hơn cho thị trường trong vùng (vd: gỗ cọc, gỗ củi) hoặc các loại cây khác. _ - ►Thu nhập bị giảm, mất khả năng lựa chọn sinh kế lâu dài và tài sản sinh kế. - ►Giảm chất lượng và giá trị rừng trồng cũng như các nguồn cung cấp gỗ. - ►Giảm giá thành một số loại gỗ cho thị trường trong nước. +/- ►Bán đất rừng với giá thấp - ►Thu nhập bị giảm và mất khả năng lựa chọn sinh kế lâu dài cũng như tài sản sinh kế. ►Có khả năng tập trung đất đai trong tay một số người và làm 34
  • 36. trả) gia tăng sự bất bình đẳng trong phân bổ đất. Giá gỗ tại gốc đối với các hộ trồng rừng ►Giá của gỗ trên đất có giấy tờ và đất không có giấy tờ khác nhau (hiện tại không có sự phân biệt giá cả theo thực trạng pháp lý của đất đang trồng rừng). + +/- ►Giá gỗ hợp pháp tăng và về trung hạn cũng như lâu dài lợi nhuận cho người sản xuất gỗ hợp lệ tăng. + ►Có khả năng các công ty chế biến và thương lái sẽ ép và áp giá bán gỗ tại gốc. - ►Tăng sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận thị trường gỗ. - Chi phí gỗ nguyên liệu cho người chế biến ►Giá gỗ nguyên liệu hợp lệ tăng dẫn tới tăng chi phí sản xuất các sản phẩm đồ mộc. - - ►Tăng sự cạnh tranh giữa các hộ làm nghề để mua gỗ nguyên liệu có nguồn gốc hợp lệ. ►Các hộ làm nghề quy mô nhỏ gặp khó khăn trong việc tìm nguồn cung cấp gỗ nguyên liệu hợp lệ và đáp ứng trước sự gia tăng của giá gỗ nguyên liệu đầu vào. - Chi phí giao dịch cho người chế biến gỗ ►Chi phí giao dịch tăng do việc thực hiện nghiêm ngặt các quy định, yêu cầu mà hộ làm nghề phải tuân thủ (đăng ký kinh doanh, bảo vệ môi trường, thuế vv…). - - ►Giảm nguồn thu nhập. Các hộ gia đình làm nghề có thể gặp khó khăn khi phải đáp ứng các quy định, yêu cầu và đảm bảo chi trả cho chi phí giao dịch bị tăng lên. - Giá thành sản phẩmcho người chế biến gỗ ►Tăng giá cả các mặt hàng đồ gỗ có giá trị trong thị trường trong nước và xuất khẩu. + + ►Cơ hội thành công lâu dài cho các hộ làm nghề tập trung vào thị trường gỗ có nguồn gốc hợp lệ. + Việc làm Việc làm cho nhân công trên các khu rừng trồng (khu vực ngoài nhà nước) ►Lượng nhân công được thuê làm việc trên các khu rừng trồng bị thay đổi, một số nơi tăng lên và một số nơi bị giảm đi. + +/- ►Giảm thu nhập đối với một số hộ gia đình phụ thuộc vào làm thuê theo thời vụ trong các lâm trại. Một số hộ khác lại có cơ hội tốt hơn +/- 35
  • 37. Việc làm cho lao động người dân tộc thiểu số ►Sẽ có những thay đổi khác nhau trong lượng lao động trả công được thuê làm việc trong các khu rừng trồng (bao gồm rừng của các hộ gia đình và của các doanh nghiệp). ►Có khả năng ở một số nơi cơ hội việc làm gia tăng và ở nơi khác cơ hội việc làm bị suy giảm. + +/- ►Tăng sự phụ thuộc của hộ gia đình dân tộc thiểu số vào việc làm thuê kiếm sống (vd: ở những khu vcwj như Tây Nguyên, ven biển Trung bộ) ►Lao động người dân tộc thiểu số ít có khả năng tiếp cận thị trường lao động +/- Việc làm cho nhân công trong ngành chế biến gỗ (khu vực ngoài nhà nước) ►Có khả năng giảm việc làm đối với những hộ làm nghề khó thích nghi với các điều kiện thị trường mới. - - ►Thu nhập giảm và khả năng tổn thương gia tăng đối với một số hộ làm nghề. Ghi chú: hầu hết các hộ làm nghề và những công nhân làm việc ở đó không thuộc diện hộ nghèo nên không được hưởng các hỗ trợ về bảo trợ xã hội (vd: hỗ trợ bảo hiểm y tế vv..). - Việc làm cho nhân công trong ngành chế biến gỗ (khu vực nhà nước) ►Có khả năng giảm tạm thời lực lượng lao động trong các doanh nghiệp chế biến quy mô lớn do họ phải thích ứng trước những thay đổi trong điều kiện thị trường mới. - - ►Mất việc làm và thu nhập đối với một số công nhân làm nghề chế biến gỗ. - ►Có khả năng tăng lượng việc làm tạm thời (không có hợp đồng) và dẫn đến tăng khả năng tổn thương đối với công nhân - làm nghề. ►Áp dụng chặt chẽ hơn các tiêu chuẩn, quy đinh về lao động trong lĩnh vực chế biến gỗ (luật lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế). + + ►Điều kiện làm việc tốt hơn cho công nhân làm việc trong lĩnh vực chế biến gỗ. + Tài sản sinh kế Tài sản đất rừng và các khu rừng trồng hiện có của các hộ trồng ►Không chắc chắn về tính pháp lý và giá trị kinh tế của các khu rừng trồng của các hộ hiện tại (cả với những hộ có và không có sổ đỏ). - - ►Các hộ trở thành người sản xuất gỗ hợp lệ gặt hái thành công, mở rộng sản xuất và thích nghi với tình hình mới. + ►Có các tác động khác nhau tùy theo tiềm lực của hộ trong +►Có khả năng đất sẽ bị tập 36