SlideShare a Scribd company logo
1 of 150
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Nghi Dung
VỊ TRÍ CỦA THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ
TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Nghi Dung
VỊ TRÍ CỦA THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ
TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
DẪN NHẬP................................................................................................................1
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ ....................................11
1.1. Khái niệm thể loại ..........................................................................................11
1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì .....................................................................12
1.2.1. Đặc trưng về nội dung .............................................................................12
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật...........................................................................22
1.3. Một số tác phẩm truyền kì tiêu biểu...............................................................28
1.3.1. Thánh Tông di thảo..................................................................................28
1.3.2. Truyền kì mạn lục....................................................................................29
1.3.3. Truyền kì tân phả.....................................................................................30
1.3.4. Tân truyền kì lục......................................................................................30
1.3.5. Lan Trì kiến văn lục.................................................................................30
1.4. Quá trình phát triển của thể loại truyền kì Việt Nam.....................................31
1.4.1. Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV – giai đoạn manh nha của
thể loại truyền kì ......................................................................................31
1.4.2. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVI, giai đoạn phát triển rực
rỡ của thể loại truyền kì...........................................................................37
1.4.3. Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX: giai đoạn cáo chung
của thể loại truyền kì................................................................................41
Chương 2. TRUYỀN KÌ: CẦU NỐI GIỮA VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN
HỌC VIẾT ...........................................................................................46
2.1. Đề tài của truyền kì: khai thác đề tài từ văn học dân gian .............................46
2.1.1. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyện cổ tích..................................46
2.1.2. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyền thuyết...................................55
2.1.3. Truyền kì khai thác đề tài từ truyện ngụ ngôn.........................................61
2.2. Nghệ thuật của truyền kì: chịu ảnh hưởng của nghệ thuật văn học dân gian.64
2.2.1. Cốt truyện và kết cấu của truyền kì có nhiều nét tương đồng với cốt
truyện, kết cấu của truyện dân gian .........................................................64
2.2.2. Truyện truyền kì sử dụng những mô – tip dân gian ................................71
2.2.3. Cách xây dựng nhân vật trong truyện truyền kì có nhiều điểm giống cách
xây dựng nhân vật trong truyện dân gian ................................................73
Chương 3. TRUYỀN KÌ: THỂ LOẠI ĐÁNH DẤU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẢ VĂN HỌC
HIỆN ĐẠI.............................................................................................77
3.1. Văn xuôi Việt Nam trước khi thể loại truyền kì xuất hiện.............................77
3.2. Truyền kì đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại......................81
3.2.1. Nội dung truyền kì giàu giá trị yêu nước, đậm chất hiện thực và thấm
đẫm nhân đạo...........................................................................................81
3.2.2. Nghệ thuật của truyền kì: một bước phát triển của nghệ thuật văn xuôi
trung đại.................................................................................................102
3.3. Dấu vết của truyền kì trong văn học hiện đại...............................................130
3.3.1. Dấu vết của truyền kì trong văn học 1930 – 1945.................................130
3.3.2. Dấu vết của truyền kì trong văn học Việt nam hiện đại sau 1975.........135
KẾT LUẬN............................................................................................................141
1
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài, là nền văn học có sức sống mạnh
mẽ, bền bỉ, cũng là một nền văn học có sắc màu phong phú, phản ánh chân thật tâm
hồn, đời sống dân tộc qua mỗi thời kì, mỗi giai đoạn lịch sử. Làm nên sắc màu
phong phú của văn học dân tộc là sự góp mặt của nhiều loại hình văn học với rất
nhiều thể loại đa dạng. Có những thể loại giờ đây đã không còn phát triển nữa. Có
những thể loại xuất hiện từ rất lâu mà vẫn tồn tại, phát triển đến hôm nay. Cũng có
những thể loại dù không còn được sáng tác nữa nhưng dấu ấn của thể loại đó vẫn
còn để lại trong những tác phẩm văn học sau này. Truyền kì là thể loại thuộc dạng
cuối cùng này. Dẫu rằng tên gọi thể loại này chỉ xuất hiện trong văn học viết trung
đại, tồn tại và phát triển đến hết thời kì văn học trung đại, nhưng sự đóng góp của
truyền kì cho sự phát triển chung của loại hình tự sự trong văn học trung đại Việt
Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung là không thể phủ nhận. Các tác
phẩm truyền kì nổi tiếng của các tác giả tên tuổi như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh
Tông – (?)), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm),
Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) là những cứ liệu không thể bỏ qua khi xem xét sự
phát triển về nội dung, nghệ thuật của văn học Việt Nam ở các giai đoạn khác nhau.
Nói cách khác, nghiên cứu về truyền kì, qua những tác phẩm tiêu biểu, ta phần nào
thấy được diện mạo nền văn học Việt Nam ở cả hai mặt nội dung tư tưởng và hình
thức nghệ thuật. Chọn đề tài Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển
của văn học Việt Nam, chúng tôi muốn góp một cái nhìn khách quan, công bằng
hơn về vai trò của thể loại này đối với sự phát triển chung của văn học dân tộc, cũng
là để có cơ hội hiểu thêm về thể loại này và hiểu thêm về văn học Việt Nam.
Bên cạnh đó, với những đặc trưng của mình, các sáng tác truyền kì luôn gây cho
người đọc sự thích thú. Thế giới huyền ảo, kì lạ của truyền kì đủ sức hấp dẫn người
đọc nhiều thế hệ khác nhau và có sức sống trong dòng chảy văn học. Thế giới ấy
2
cũng cuốn hút tôi, một người học văn, dạy văn và có nhiều tình cảm với văn
chương.
Trong chương trình văn học trung đại ở hai cấp trung học cơ sở và trung học phổ
thông, cùng với thơ Đường luật, ngâm khúc, hát nói, truyện thơ, tiểu thuyết chương
hồi…, truyền kì là một thể loại được chọn giảng dạy trong chương trình, cụ thể là ở
chương trình Ngữ văn lớp 6, lớp 9 và chương trình Ngữ văn lớp 10. Là một giáo
viên môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu về thể loại truyền kì và vị trí
của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam sẽ giúp ích cho
công tác giảng dạy văn học ở trường phổ thông. Thực tế nghiên cứu sẽ giúp chúng
tôi có cái nhìn vừa toàn diện, vừa cụ thể chi tiết về thể loại này, lấy đó làm cơ sở
cho việc tìm hiểu, giảng dạy các tác phẩm truyền kì trong chương trình ngữ văn ở
các cấp học. Qua đó, có thể giúp các em học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của văn
chương trung đại (vốn không phải là một điều dễ dàng) qua một thể loại cụ thể và
trân trọng hơn văn học dân tộc mình.
Tóm lại, nhận thức được vai trò quan trọng của thể loại truyền kì trong sự phát
triển của văn học Việt Nam, niềm yêu thích đối với thể loại này và từ yêu cầu thực
tế công tác, tôi chọn đề tài Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt
Nam làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình với mong mỏi có thể góp chút
hiểu biết của mình vào hiểu biết chung về văn học nước nhà và khơi gợi sự hứng
thú của mọi người trong việc tìm hiểu về thể loại truyền kì, từ đó sẽ có thêm những
công trình nghiên cứu khoa học có giá trị về thể loại này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
những tác phẩm cụ thể thuộc thể loại truyền kì, từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục nhưng hầu như chưa có một công trình nghiên cứu
cụ thể về vị trí của thể loại này trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, với những
đóng góp quan trọng về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của thể
loại. Số lượng công trình khoa học hay những bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về
những tác phẩm truyền kì cụ thể (trên những phương diện khác nhau) khá lớn, trong
3
khi các bài viết nghiên cứu về thể loại truyền kì nói chung và vị trí của thể loại này
trong tiến trình văn học Việt Nam nói riêng chưa nhiều, cũng có nghĩa là vấn đề này
chưa nhận được sự quan tâm xứng đáng của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học
và những người quan tâm đến văn học.
Trước thế kỉ XX, nhiều tác giả Nho học đã thể hiện sự quan tâm đến thể loại
truyền kì qua những sáng tác truyền kì cụ thể. Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan
Huy Chú đều đã dành nhiều ưu ái cho Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả. Vũ
Khâm Lân trong Bạch Vân Am cư sĩ phả kí coi Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
là một “thiên cổ kì bút”. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi Truyền kì mạn
lục là “lời lẽ thanh tao, tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”. Phan Huy Chú
khen rằng Truyền kì mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia”. Trong Lịch triều
hiến chương loại chí, Phan Huy Chú nhận xét về Truyền kì tân phả: “Lời văn hoa lệ
nhưng khí chất yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ”. Như vậy các tác giả trước
thế kỉ XX quan tâm đến thể loại truyền kì qua các tác phẩm truyền kì cụ thể và về
một phương diện nào đó như văn phong, ngôn từ chứ chưa có cái nhìn bao quát về
thể loại này.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, các sáng tác truyền kì nói riêng, thể loại truyền kì nói
chung nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học hơn.
Khi điều kiện nghiên cứu hiện thời đã thuận lợi hơn, khi nhu cầu tìm về những tác
phẩm nổi tiếng của thời trung đại để xem xét giá trị của chúng trong nền văn học
ngày càng cao hơn thì những công trình khoa học về các tác phẩm truyền kì và thể
loại truyền kì xuất hiện nhiều hơn. Đặc biệt, tác phẩm Truyền kì mạn lục được chọn
làm đối tượng nghiên cứu của nhiều bài viết, công trình khoa học như:
- Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học (Con đường giải mã văn học
trung đại, NXB Giáo dục, 2006) – Nguyễn Đăng Na
- Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
(Tạp chí văn học số 7 – 1987) - Nguyễn Phạm Hùng
- Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán
(Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001) – Bùi Duy Tân
4
- Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục (Tạp chí văn học số 10/
2002) – Lại Văn Hùng
- Bàn góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục (Trang điện tử Khoa
Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm TpHCM, tháng 12, 2011) – Phạm Tuấn Vũ
- Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á (Trang điện tử của
Viện Văn học, tháng 10, 2006)– Vũ Thanh
- Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo trong Truyền kì
mạn lục (Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, tháng 6,
2009) – Nguyễn Hữu Sơn
- Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
(Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, tháng 01, 2010) -
Đoàn Lê Giang
- Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam qua Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao đẳng sư phạm Bà Rịa
Vũng Tàu, 2007)- Lê Văn Hùng
Ngoài ra, còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác phẩm
truyền kì khác như:
- Đoàn Thị Điểm và Truyền kì tân phả (Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 9 –
2010)
- Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội văn hóa dân gian (Trang điện tử
của Viện văn học, tháng 8, 2011) – Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai
- Thánh Tông di thảo – nhìn từ truyền thống truyện dân gian Việt Nam và từ
đặc điểm truyện truyền kì (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Đại học Vinh,
2008) – Vũ Thị Phương Thanh
Những bài báo, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu xem xét từng tác phẩm
truyền kì cụ thể trên những phương diện, góc nhìn khác nhau: so sánh tác phẩm với
những tác phẩm khác cùng thể loại (như bài viết Truyền kì mạn lục dưới góc độ so
sánh văn học; Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ); sự đóng góp của tác phẩm đối với sự phát triển của thể loại (như Bàn
5
góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục, Bước tiến của thể loại truyện
ngắn truyền kì Việt Nam qua Truyền kì mạn lục, Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu
của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán), ảnh hưởng của văn hóa, văn học dân
gian đến tác phẩm truyền kì (như bài Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và
những sáng tạo của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục; Mối liên hệ giữa Truyền
kì tân phả và lễ hội văn hóa dân gian); …
Với chúng tôi, những công trình, bài báo này tuy chưa cung cấp một cái nhìn
toàn diện về thể loại truyền kì và vai trò của thể loại này trong tiến trình phát triển
của văn học Việt Nam nhưng đã cho chúng tôi những gợi ý quý báu cho nội dung
của luận văn này.
Trong thế kỉ XX, XXI, ở các công trình liên quan đến văn học trung đại, thể loại
truyền kì nói chung đã được chú ý hơn so với trước đó. Tuy nhiên, xem xét thể loại
truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung, văn học trung
đại nói riêng, những nhà phê bình, nghiên cứu chưa thật sự dành sự quan tâm xứng
đáng cho thể loại này. Chúng ta có thể tìm thấy trong các công trình Lịch sử văn học
Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 1980), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam
(Trần Đình Sử, NXB ĐHQGHN, 2005), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa (Trần Nho Thìn, NXB GD, 2008) những trang viết về thể loại truyền kì.
Những phần về Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục trong chương XIV (Văn học
viết từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII) và chương XVI (Truyền kì mạn lục và những
thành tựu của văn xuôi chữ Hán) trong Lịch sử văn học Việt Nam, về truyện truyền
kì (Chương IV: Thể loại truyện chữ Hán, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam), về
thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam (Phần một: Một số vấn đề lí luận của văn
học trung đại nhìn từ góc độ văn hóa, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa) tuy không nhiều nhưng cũng giúp chúng tôi tham khảo được nhiều nội
dung quan trọng liên quan đến đề tài luận văn.
Có lẽ người đầu tiên cho ra đời một công trình quy mô, có hệ thống về truyền kì
chính là Nguyễn Huệ Chi với tuyển tập Truyện truyền kì Việt Nam gồm 3 tập do
NXB Giáo Dục Việt Nam xuất bản năm 1999. Đây là tác phẩm tuyển tập trên 200
6
truyện truyền kì và phỏng truyền kì của văn học Việt Nam trong 7 thế kỉ, từ thế kỉ
XIV đến thế kỉ XX, là một công trình thật sự có giá trị, không chỉ cung cấp cho
người đọc những truyện truyền kì cụ thể mà còn qua đó thấy được đặc điểm của thể
loại này. Công trình của tác giả Nguyễn Huệ Chi chính là một trong những nguồn tư
liệu quan trọng cho luận văn của chúng tôi. Chính từ công trình này, chúng tôi có
thể hình dung ra sự phát triển của thể loại truyền kì qua các thời kì, giai đoạn, cũng
như có cái nhìn rõ ràng, đầy đủ hơn về đặc điểm của thể loại này. Cùng với Nguyễn
Huệ Chi, tác giả Vũ Thanh dường như cũng là những học giả khá quan tâm đến
truyền kì với nhiều công trình nghiên cứu về thể loại này như: Những biến đổi của
yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kì Việt Nam (in trong Tuyển tập 40 năm
Tạp chí Văn học), Dư ba của truyện truyền kì, chí quái trong văn học hiện đại Việt
Nam (in trong Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học – Kỉ yếu hội thảo của Viện
văn học năm 2001), Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy
sinh và phát triển đến đỉnh điểm của (in trong Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX -
Những vấn đề lịch sử và lí luận, NXB GD, 2007)… Tác giả Bùi Thanh Truyền lại
thể hiện sự quan tâm của mình đối với thể loại truyện kì ảo, truyền kì trong những
công trình về thể loại này trong văn học hiện đại qua các bài viết: Sự hồi sinh của
yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam (luận án Tiến sĩ trường Đại học Sư
phạm Huế), Truyện kì ảo trong đời sống văn học Việt Nam… Tác giả Nguyễn Đăng
Na trong Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự
(NXBGD, 2007) cũng đã đề cập đến thể loại truyền kì như là một thể loại tiêu biểu
của văn học trung đại giai đoạn thế kỉ XV – XVI. Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Na
cũng là tác giả chủ biên tuyển tập Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 1,
Truyện ngắn (NXB GD, 1999). Những bài viết, công trình này đã mang đến cho
chúng tôi những ý tưởng quý giá để hoàn thiện nội dung luận văn về những đặc
điểm của thể loại truyền kì, sự ảnh hưởng của thể loại này đến văn học hiện đại.
Như vậy, tất cả các công trình trên, dù ít, dù nhiều cũng đã cung cấp cho chúng
tôi những tư liệu đáng quý để góp phần hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, điểm qua
đôi nét chúng tôi nhận thấy mặc dù các tác phẩm truyền kì nổi tiếng đều nhận được
7
nhiều sự quan tâm của người nghiên cứu phê bình văn học nhưng thể loại truyện kì
lại chưa có được vị trí tương xứng với đóng góp của nó cho sự phát triển văn học
Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đây là một trong những
nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi chọn Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình
phát triển của văn học Việt Nam làm đề tài cho luận văn cao học chuyên ngành Văn
học Việt Nam của mình.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình
phát triển của văn học, chủ yếu là văn học trung đại nhìn từ đóng góp của thể loại
này về nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật trên những phương diện cụ thể. Do
nội dung đề tài quy định, trong quá trình nghiên cứu về thể loại truyền kì nhìn từ vị
trí của nó trong tiến trình văn học, chúng tôi có so sánh thể loại này với văn học dân
gian (mảng truyện dân gian) và văn học hiện đại (mảng truyện ngắn).
Do hạn chế về tài liệu chúng tôi không có điều kiện nghiên cứu tất cả các truyện
ngắn được xếp vào thể loại truyền kì. Hơn nữa, việc xác định những truyện ngắn
nào là thật sự thuộc thể loại truyền kì không phải là một việc dễ dàng khi mà những
tiêu chí để phân biệt thể loại này với các thể loại khác vẫn còn những phức tạp.
Trong điều kiện của mình, chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại này qua những
sáng tác truyền kì tiêu biểu trong văn học trung đại, những sáng tác đã được các nhà
nghiên cứu văn học từ trước đến nay khẳng định là những tác phẩm truyền kì hoặc
bản thân tên tác phẩm đã khẳng định là thuộc thể loại này, cụ thể là các tác phẩm
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục và Lan
Trì kiến văn lục. Tổng số lượng truyện ngắn truyền kì mà chúng tôi thu thập được
qua các tuyển tập và các nguồn khác nhau để phục vụ cho đề tài này là 75 truyện
trong đó Thánh Tông di thảo: 10 truyện (Hai Phật cãi nhau, Duyên lạ xứ Hoa,
Chuyện lạ nhà thuyền chài, Người hành khất giàu, Chồng dê, Ngọc nữ về tay chân
chủ, Hai thần hiếu để, Hai gái thần, Tinh chuột và Truyện Dòng dõi con thiềm thừ),
Truyền kì mạn lục: 20 truyện (Nhà xuất bản Trẻ và Nhà xuất bản Hồng Bàng xuất
bản 2011), Truyền kì tân phả: 4 truyện (An Ấp liệt nữ, Hải khẩu linh từ, Vân Cát
8
thần nữ, Bích Câu kì ngộ), Lan Trì kiến văn lục: 39 truyện (trong tuyển tập Truyện
truyền kì Việt Nam, tập 2, NXB Giáo Dục Việt Nam xuất bản năm 2009), Tân
truyền kì lục: 2 truyện (Ve sầu và Nhặng xanh, Con chó nhà nghèo có nghĩa).
Ngoài ra, trong luận văn, người viết cũng đề cập đến những tác phẩm tuy chưa
được gọi là truyền kì nhưng ít nhiều mang màu sắc của thể loại này xuất hiện trước
hoặc sau khi thể loại này xuất hiện và cáo chung như Việt điện u linh, Thiền uyển
tập anh, Tam Tổ thực lục, Lĩnh Nam chích quái… và một số truyện ngắn giai đoạn
1930 – 1945, 1975 trở về sau.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng phối hợp những
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp loại hình: được dùng để xem xét các tác phẩm truyền kì đựa
trên đặc điểm loại hình tự sự của văn học trung đại để từ đó thấy được đóng góp của
thể loại này đối với sự phát triển về nội dung, hình thức nghệ thuật của văn xuôi tự
sự trung đại.
- Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp thống kê, chúng tôi khảo sát
sự ảnh hưởng của văn học dân gian lên các sáng tác truyền kì nhằm chứng minh
truyền kì là cầu nối giữa văn học dân gian với văn học viết; phương pháp này cũng
được sử dung khi chúng tôi xem xét những đóng góp về nghệ thuật ngôn từ của
truyền kì đối với văn xuôi tự sự trung đại.
- Phương pháp miêu tả - so sánh: cùng với phương pháp thống kê, phương
pháp này được sử dụng để xem xét vai trò của truyền kì như cầu nối giữa văn học
dân gian và văn học viết, bên cạnh đó còn nhằm chứng minh truyền kì là một bước
tiến của văn xuôi tự sự trung đại so với những tác phẩm xuất hiện trước đó.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: trong quá trình hoàn thành luận văn, để
làm rõ cho những nhận định của mình, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích
những tác phẩm truyền kì cụ thể, từ đó cũng tổng hợp, khái quát lại trên cơ sở đã
phân tích để có cái nhìn khách quan, chính xác.
9
5. Đóng góp của luận văn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm truyền kì tiêu biểu như
Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả hay Thánh Tông di thảo… nhưng hầu như
chưa có công trình nghiên cứu bao quát về thể loại này mà chỉ có những công trình
sưu tập, tuyển chọn các truyện truyền kì như bộ Tuyển tập truyện truyền kì Việt
Nam gồm 3 quyển do Nguyễn Huệ Chi chủ biên chẳng hạn. Với luận văn này,
người viết mong muốn góp một cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về thể loại này
trong việc đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của thể loại đối với sự phát triển của
văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Hiểu thêm về vị trí của thể loại truyền kì sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu, phân tích
từng tác phẩm cụ thể của thể loại, đồng thời hiểu thêm về lịch sử phát triển của văn
học dân tộc, ảnh hưởng qua lại giữa các bộ phận văn học (văn học dân gian và văn
học viết).
Việc đi sâu tìm hiểu về vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học để đi
đến một số kết luận thỏa đáng nào đó là một dịp để người viết rèn luyện khả năng
thao tác nghiên cứu khoa học, cũng là cơ hội để người viết mở rộng thêm kiến thức,
khả năng cảm thụ, phân tích, bình giá văn chương của bản thân.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được tổ chức thành 3 chương.
Ở chương 1, Khái lược về thể loại truyền kì, luận văn trình bày những vấn đề lí
thuyết liên quan đến thể loại như khái niệm truyền kì, đặc điểm của thể loại, các tác
phẩm truyền kì tiêu biểu trong văn học Việt Nam và các giai đoạn phát triển của thể
loại này.
Trong chương 2, Truyền kì: cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết,
người viết xem xét vị trí của truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam với vai trò
là chiếc cầu nối của văn học dân gian và văn học viết. Qua đó, có thể thấy được sự
ảnh hưởng và tiếp biến của văn học dân gian vào văn học viết thể hiện qua thể loại
truyền kì.
10
Với chương 3, Truyền kì: thể loại đánh dấu sự phát triển của văn xuôi trung đại
và ảnh hưởng đến cả văn học hiện đại, luận văn tiếp tục khẳng định vị trí của thể
loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam khi xem xét thể loại này với tư cách
là một thể loại đánh dấu sự phát triển của văn học trung đại và còn ảnh hưởng đến
cả văn học thời hiện đại.
11
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ
1.1. Khái niệm thể loại
Theo Từ điển Văn học, khái niệm truyền kì xuất hiện lần đầu tiên tại Trung
Quốc vào thời nhà Đường trong tên gọi thể loại tiểu thuyết truyền kì. Tiểu thuyết
truyền kì kế thừa những nhân tố của loại truyện chí quái thời Lục triều.
Tiểu thuyết truyền kì là thể văn tự sự cổ điển của Trung Quốc, có nguồn gốc từ
truyện dân gian, sử dụng những yếu tố hoang đường, kì ảo để phản ánh hiện thực
cuộc sống. Những yếu tố hoang đường kì ảo này không phải là dạng nhân vật Bụt,
tiên với vai trò là nhân vật chức năng như trong truyện cổ tích thần kì, cũng không
phải là lực lượng tự nhiên được nhân hóa như trong truyện thần thoại. Sự tham gia
của yếu tố thần kì, hoang đường trong tiểu thuyết truyền kì phần lớn ở trong hình
thức “phi nhân tính” của các nhân vật. Đó là dạng nhân vật ma, quỷ, hồ li, vật hóa
người. Truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và những nhân vật như ma
quỷ, yêu quái… cũng là sự cách điệu, phóng đại tâm lí, ẩn dụ cho một loại người
nào đó trong xã hội hiện thực. Theo tác giả Đoàn Lê Giang, chữ “kì” trong “truyền
kì” trong những tác phẩm Truyền kì của Bùi Hình, Đường Tống truyền kì (Lỗ Tấn)
không có nghĩa là kì ảo, kì dị mà phải hiểu như một quan niệm văn học, một
phương pháp sáng tác; quan niệm này xem trọng cái “lạ” trong sáng tác. Điều đó
giúp chúng ta lí giải vì sao một số truyện dù được gọi là “truyền kì” nhưng lại hiếm
hoi hoặc thậm chí không có yếu tố hoang đường, kì ảo như những truyện Oanh
Oanh truyện, Liễu Thị truyện (Trung Quốc) hay những truyện trong Lan Trì kiến
văn lục của Vũ Trinh (Việt Nam). Trong luận văn này, chúng tôi hiểu “kì” trong
“truyền kì” theo cả hai nghĩa trên. Tuy gọi là tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết truyền kì
có dung lượng ngắn, tuy nhiên không phải sự thu ngắn của kiểu truyện dài. Tiểu
thuyết truyền kì phần nào mang dáng dấp của thể loại truyện ngắn cận – hiện đại.
12
Trong văn học Trung Quốc, hai chữ “truyền kì” được khai sinh vào thời vãn
Đường với một tập sách của Bùi Hình, nhưng thể loại truyền kì đã được xác lập từ
thời sơ Đường với các truyện Cổ kính kí (Vương Độ (?) ), Bổ Giang tổng Bạch Viên
truyện (không rõ tác giả), Du tiên quật (Trương Thốc). Còn trong văn học Việt
Nam, có thể nói tên gọi truyền kì chính thức xuất hiện lần đầu trong văn học viết
vào thế kỉ XVI với tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tuy nhiên, những
đặc điểm của thể loại truyền kì đã xuất hiện khá rõ nét từ Thánh Tông di thảo (thế kỉ
XV) và nhạt hơn trong một số tác phẩm trước đó như Lĩnh Nam chích quái, Việt
điện u linh… Thậm chí, theo Vũ Thanh, truyện kì ảo của Việt Nam đã bắt đầu xuất
hiện từ thế kỉ XIII với truyện Ứng Minh trì dị sự (Chuyện lạ ở ao Ứng Minh)
[52,739]. Như vậy, có thể nói, trong lịch sử văn học Việt Nam, thể loại truyền kì đã
manh nha xuất hiện từ buổi đầu của văn học viết trong những tác phẩm ghi chép các
truyện kì lạ được lưu truyền trong dân gian như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u
linh sau đó phát triển mạnh và đạt đến đỉnh cao với những sáng tác như Thánh Tông
di thảo, Truyền kì mạn lục; đặc biệt là với Truyền kì mạn lục, thể loại truyện truyền
kì Việt Nam đã đạt được thành tựu rực rỡ, đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của văn học trung đại Việt Nam. Có thể nói, truyện truyền kì Việt Nam có
nguồn gốc từ truyền kì của Trung Quốc nhưng có một quá trình hình thành, phát
triển nội sinh, gắn liền với nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân gian và văn
xuôi lịch sử. Trong quá trình phát triển của mình, truyền kì Việt Nam chịu ảnh
hưởng của văn học các nước trong khu vực Đông Á (như Triều Tiên, Nhật Bản) và
đồng thời cũng góp phần vào sự phát triển chung của thể loại này trong văn học khu
vực thời trung đại.
1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì
1.2.1. Đặc trưng về nội dung
Truyền kì là một thể loại giàu giá trị phản ánh hiện thực. Dù thế giới trong
truyền kì là một thế giới hoang đường, kì ảo nhưng đằng sau những yếu tố hoang
đường đó là hiện thực lịch sử, xã hội cùng với những số phận con người trong
những hoàn cảnh xã hội cụ thể.
13
Đó có thể là một xã hội đầy biến động, rối ren, loạn lạc với giặc giã, trộm cướp,
với những cuộc nội chiến trong Truyền kì mạn lục hay Lan Trì kiến văn lục. Trong
hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục, có những truyện vẽ nên hình ảnh một đất
nước “binh biến rối ren” (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu), “người chết chóc
nhiều, những oan hồn không có chỗ tựa nương thường họp lại thành từng đoàn,
từng lũ” (Chuyện tướng Dạ Xoa). Lan Trì kiến văn lục cũng ghi lại một thời kì
“giặc cướp nổi lên như ong, lại thêm mất mùa, dịch bệnh” (Dốc Lôi Thủ).
Xã hội phong kiến trong các sáng tác truyền kì là một xã hội nhiều tệ lậu với
những hôn quân, những quan tham lại nhũng bè phái nhau hãm hại dân lành. Những
tên vua quan đó có khi được miêu tả trực tiếp, có khi được ẩn dụ gián tiếp qua hình
ảnh quỷ thần hoặc loài vật.
Đọc Truyền kì mạn lục, ta thấy hình ảnh những vị vua nhà Lê thời suy vong (Lê
Uy Mục, Lê Tương Dực) qua hình ảnh của vua Hồ Hán Thươnng trong Câu chuyện
đối đáp của người tiều phu núi Na. Hiện lên trong truyện ngắn này là một vị vua
“dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn kho
của để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ
rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là
được, kẻ dâng lời ngay bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng, lòng dân động
lay…” [11,tr.176]. Trong khi đó, quan lại khi quyền cao lộc hậu thì tham của đút
lót, “kêu xin chạy chọt lúc nào cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu
trong nhà chồng chất đầy rẫy”, nhờ đó mà ăn chơi xa hoa “khoản đãi khách khứa
mỗi ngày tốn phí đến hàng chuông thóc” [11,tr.199] Không những thế, như Lý Hữu
Chi trong Chuyện Lý tướng quân lại còn “dựa lũ trộm cướp coi như lòng ruột, coi
người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu
ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng
cho ruộng đất, đi kiếm những kì hoa đá lạ từ bên huyện khác đem về…” [11,tr.226]
Truyện tuy khẳng định đó là vào thời vua Giản Định Đế thời Hậu Trần nhưng thực
tế hẳn không xa lạ với xã hội thế kỉ XVI của Nguyễn Dữ. Trong Chuyện Phạm Tử
Hư lên chơi Thiên tào, Nguyễn Dữ mượn lời Tử Hư đã vẽ nên bộ mặt triều đình
14
phong kiến mục ruỗng thời bấy giờ với những tên quan lại chỉ là bọn sâu dân hại
nước: “ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm chức sư tư
mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà
dân nhiều tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà buộc tội
oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn nói thi môi mép bẻo lẻo, đến lúc trù
tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm
chí không nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng,
lớn thì làm việc bán nước như Lưu Dự, nhỏ thì làm việc dối vua của Diên
Linh.”[11,tr.145]
Có khi các tác giả truyện truyền kì mượn hình ảnh của quỷ thần, loài vật để ẩn
dụ cho bọn quan lại phong kiến thời bấy giờ. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên, hình ảnh “các đền miếu gần quanh đều ăn của đút lót” của hồn ma Bách hộ
họ Thôi mà bao che cho hắn, để hắn mặc sức hưng yêu tác quái và lời thổ thần nước
Việt vì vậy không thông đạt được lên trên phải chăng là hình ảnh bọn vua quan
phong kiến trên cõi trần thời Nguyễn Dữ sống, những tên quan lại bè phái nhau hãm
hại dân lành? Đọc Tân truyền kì lục của Phạm Quý Thích, ta thích thú với hình ảnh
Nhặng xanh và Ve sầu (truyện Ve sầu và Nhặng xanh). Cuộc đối đáp của hai côn
trùng này vẽ nên tích cách của hai loại người. Ve sầu tượng trưng cho nhà Nho quân
tử giàu lòng tự trọng, trong khi đó Nhặng xanh là hình ảnh của bọn mọt nước sâu
dân, không chút tự trọng, liêm sỉ, chỉ cần biết vơ vét cho túi tham của mình.
Trong hoàn cảnh xã hội như vậy, cuộc sống của nhân dân muôn phần khổ sở.
Quyền sống của con người không được trân trọng, hạnh phúc bị chà đạp, đặc biệt
người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh hơn cả. Người dân sống dưới ách cai trị của
những vua quan như vậy hẳn nhiên chịu cực khổ trăm bề, phải “phục dịch nhọc
nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều tai sưng vai rách, rất là
khổ sở…” [11,tr.226]. Có những gia đình nghèo khó đến nỗi chẳng có tiền làm ma
khi người thân qua đời, phải bán vợ đợ con, như trong Chuyện yêu quái ở Xương
Giang (Truyền kì mạn lục), người mẹ vì không tiền để đưa ma chồng về quê đã bán
người con gái nhỏ cho một nhà phú thương. Những người phụ nữ trong xã hội ấy,
15
dù đoan chính, dịu hiền, mẫu mực như Vũ Nương (Chuyện người thiếu phụ Nam
Xương – Truyền kì mạn lục), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu –
Truyền kì mạn lục) hay táo bạo, phá phách như Túy Tiêu (Chuyện nàng Túy Tiêu)
thì cũng đều chịu kết cục đau đớn, hoặc bị nghi oan đến phải trầm mình (Vũ
Nương), hoặc bị biến thành vật gán nợ thua bạc (Nhị Khanh) hoặc bị cướp về làm
thê thiếp (Túy Tiêu), hoặc bị ép uổng không lấy được người mình yêu để đến nỗi
đau buồn mà mất (Chuyện tình ở Thanh Trì – Lan Trì kiến văn lục).
Xã hội đó cũng là một xã hội đầy những kẻ bất nhân với những nho sĩ lừa thầy
phản bạn, kẻ phú thương hay quan lại cậy tiền của cướp vợ người. Đây là lời của
Dương Trạm, nhận xét về những người “mặc áo nhà nho” thời nhà Trần, mà có lẽ
không khác thời nhà Lê lúc Nguyễn Dữ sống là mấy: “Ngày nay những người mặc
áo nhà nho, đeo dải nhả nho thì lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên
để đi thi; hễ trượt thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì
hợm mình tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông ngạo tính tình tráo trở, thấy thầy
nghèo thì lãng tránh, gặp bạn nghèo thì làm ngơ, không biết rằng ngày thường dẫn
dắt rèn cặp phần nhiều là công đức của thầy bạn. Vả như ta ngày xưa, dạy có đến
mấy nghìn học trò, giao du ở kinh đô có rất nhiều bè bạn thế mà sau ta mất, nghe
có người đai vàng, mũ bạc, có người quan cả, ngôi cao nhưng không hề một ai tìm
đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên một vài chén rượu.” [11,tr.144] Trong Chuyện
nàng Túy Tiêu, Túy Tiêu dù đã là vợ của Nhuận Chi, nhưng vẫn bị quan Trụ quốc
họ Thân bắt cướp mang về làm của mình, dù Nhuận Chi làm đơn kiện tận triều đình
nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn nên các tòa các gác đều không dám xét xử. Như
vậy, kẻ bất nhân lại được triều đình phong kiến dung túng, mặc sức làm càn. Hay
như Đỗ Tam trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, vì ham vợ đẹp củaTrọng
Quỳ nên lấy lợi dử chàng, bày trò đánh bạc mà vật đặt cược lại là Nhị Khanh, vợ
Trọng Quỳ, nhân đó mà lấy được Nhị Khanh, đến nỗi nàng đau lòng phẫn uất mà
thắt cổ chết.
Trong Tân truyền kì lục, với truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa, Phạm Quý
Thích một mặt ca ngợi những con người sống ân nghĩa qua hình ảnh chú chó Hàn
16
Lư, mặt khác ngầm phê phán những kẻ bất nhân, đổi mặt thay lòng, không bằng
một con vật. Ví như người chủ nhà họ Nguyễn, vì chê cung cách thầy đồ Đào Cảnh
Long hèn kém nên đối xử bạc bẽo, dù đó là thầy dạy học ở nhà mình; hay như
người nhà giàu họ Trương, vì thấy chú chó Hàn Lư là con vật kì lạ, muốn lôi kéo về
với mình mà bảo Hàn Lư bỏ nghèo theo giàu, bỏ người chủ hiện thời mà theo hắn
và bị Hàn Lư đáp trả thông minh, đầy tình nghĩa khiến phải sững sờ.
Đọc Lan Trì kiến văn lục, ta đau lòng khi thấy có kẻ vì ham vợ kế đẹp đẽ mà nỡ
giết con, mang con vào rừng cho hổ dữ ăn thịt; có người chồng một phút ghen tuông
mà giết vợ; có người anh tham lam chiếm hết gia tài… Đó là hình ảnh hiện thực xã
hội phong kiến trong thời kì suy tàn.
Không chỉ giàu giá trị hiện thực, những sáng tác thuộc thể loại truyền kì còn
đầy giá trị nhân đạo và đậm chất nhân văn. Các tác phẩm truyền kì ca ngợi tài
năng và phẩm chất tốt đẹp của con người, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của các
tác giả với những số phận bất hạnh, từ đó lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh
phúc cho con người bị chà đạp trong xã hội xưa; đồng thời cũng đồng cảm với
những khát vọng chân chính của con người như khát vọng khẳng định mình, khát
vọng tình yêu, hạnh phúc.
Đọc truyện truyền kì, từ Truyền kì mạn lục đến Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến
văn lục…, ta đều có thể bắt gặp những nhân cách cao thượng đáng quý, những con
người vì dân trừ hại, đặc biệt là những người phụ nữ tài sắc, tiết nghĩa, thủy chung.
Đọc Truyền kì mạn lục , ta sẽ gặp những con người chọn cách sống nghèo khó mà
thanh bạch, không chấp nhận vào luồn ra cúi, công hầu giàu sang mà hại dân, hại
nước. Họ không màng đến bổng lộc triều đình, nếu đó là một triều đình mục ruỗng,
thối nát. Tiêu biểu cho hình tượng này là nhân vật người tiều phu trong Câu chuyện
đối đáp của người tiều phu núi Na. Khi được Trương Công, quan hầu của Hồ Hán
Thương mời về triều, đã mỉm cười trả lời: “Ta là kẻ ẩn dật trốn đời, ông lão già
lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng,
ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm
cá, quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà
17
ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn chứ có biết gì đầu ở ngoài là triều đại
nào, là vua quan nào” [11,tr.173]. Khi được Trương Công cố gắng thuyết phục, tiều
phu đáp: “Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm Tử Lăng không đem
chức giám nghị ở Đông Đô đánh đổi khói sóng Đồng Thủy, Khương Bá Hoài không
đem bức tranh vẽ của Thiên tử làm nhơ non nước Bành Thành. Tài ta tuy kém, so
với người xưa chưa bằng được. Nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Vệ
Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến, kể thì cũng được trời đất ban cho khá
nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường tiến
sĩ, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiển, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong
núi nữa. Vậy xin ông đi đi, đừng lôi thôi nữa.” [11,tr.174] Trước lời đánh giá cho
rằng tiều phu cố chấp, người ẩn sĩ trả lời: “Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét
những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình trong cái trào định trọc loạn, lại còn kéo
người khác để cùng đắm với mình.” [11,tr.178] Lời đáp của tiều phu là lời đáp của
một con người khẳng khái, cương trực, tin ở tài năng và đức độ của mình, không
thích bị trói buộc bởi lợi danh, càng chán ghét cảnh triều định trọc loạn, giữ tiết tháo
trong sạch, thanh cao.
Trong các sáng tác truyền kì, ta cũng bắt gặp không ít những nhân vật, có thể là
hàn nho, có thể là nông dân, nhưng đều không sợ gian tà, ma quái mà giúp dân trừ
hại. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trong Truyền kì mạn lục ghi lại sự việc
chàng Ngô Tử Văn vì bất bình trước việc ngôi đền nổi tiếng là linh thiêng nay lại bị
hồn ma quấy nhiễu, tác oai tác quái trong dân lành mà ra tay đốt đền, dù biết rằng
có thể gặp tai vạ. Đến khi bị bắt xuống âm ti, trước những lời lẽ vu khống của Bách
hộ họ Thôi, trước Diêm Vương đầy uy quyền và trong không khí rùng rợn của cõi
âm, chàng vẫn khẳng khái đối đáp, đấu tranh giành công lí về mình. Trong chuyện
Rồng (Lan Trì kiến văn lục), người chồng sau khi vợ mất vì bị rồng làm hại, đã tìm
cách trừ rồng, vừa trả thù cho vợ, vừa giúp dân diệt được loài vật hại người.
Đặc biệt, trong truyện truyền kì, nhân vật người phụ nữ tài sắc, có những phẩm
chất tốt đẹp xuất hiện nhiều, đánh dấu một bước phát triển của trào lưu nhân đạo
chủ nghĩa trong văn học trung đại. Họ thường được khắc họa là những người phụ
18
nữ có nhan sắc, có tài năng văn chương, đàn hát, có tình cảm thủy chung, hiếu
thuận. Đó là nàng Nhị Khanh, người nghĩa phụ đất Khoái Châu (Truyền kì mạn lục)
hiếu thảo, thủy chung, tiết nghĩa. Khi cha chồng nàng là Phùng Lập Ngôn phải đi
công cán xa nhà, vào nơi nguy hiểm, dù thương chồng, không muốn xa chồng
nhưng Nhị Khanh vẫn khuyên chồng đi theo hầu hạ, chăm sóc cho cha già, còn
mình chịu cảnh đơn chiếc nơi quê nhà. Người chồng đi nhiều năm không về, không
có tin tức, ở nhà có người giàu sang đem bạc vàng hỏi cưới, người cô của Nhị
Khanh cũng ép uổng nàng phải lấy kẻ ấy, Nhị Khanh vẫn không suy suyển, một
lòng chờ chồng, cho người bõ già đi tìm chồng để vợ chồng đoàn tụ. Thế nhưng,
Trọng Quỳ chồng nàng vì ham mê cờ bạc mà để Nhị Khanh trở thành vật gán nợ
cho Đỗ Tam. Nhị Khanh chọn cách quyên sinh chứ không làm vợ người khác. Sau
khi mất, hồn được trở về dương gian, Nhị Khanh còn dẫn hướng cho con. Nhị
Khanh là hình mẫu tiêu biểu của người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến
xưa. Đó cũng có thể là nàng Vũ Thị Thiết, đối với mẹ chồng hết mực hiếu thảo, đối
với chồng một dạ thủy chung. Ngày tiễn chồng ra trận, Vũ Nương ân cần dặn dò,
thể hiện sự quan tâm lo lắng chân thành, một tình yêu thật sự dành cho chồng. Lời
tiễn biệt của nàng cho thấy nàng không ham giàu sang, danh lợi, phong hầu chức
tước, chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó là biểu hiện của một tình cảm sâu sắc,
chân thành đáng quý. Những ngày chồng ra trận xa nhà, Vũ Nương hầu hạ mẹ
chồng hết mực chu đáo, khi mẹ chồng bệnh nàng hết sức thuốc thang, lễ bái, lấy lời
ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu ma chay tế lễ như
đối với cha mẹ ruột. Vắng chồng đằng đẵng hàng năm trời, nàng vẫn giữ tiết hạnh,
“tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Xa
chồng, nhớ chồng, nàng tự trỏ bóng mình trên vách mà bảo rằng đó là chồng nàng.
Hình ảnh ấy thể hiện tình cảm thủy chung nàng dành cho chồng, tựa hồ như tự nói
với mình hai người gắn bó như hình với bóng. Cùng với Nhị Khanh, Vũ Nương
trong Truyền kì mạn lục, ta có thể kể đến cô gái họ Trần trong Chuyện tình ở Thanh
Trì (Lan Trì kiến văn lục). Người con gái ấy một khi đã yêu thì yêu hết lòng, khi
tình yêu bị cha mình ngăn cản vì sự cách biệt giàu nghèo, nàng đã tìm cách giúp
19
Nguyễn Sinh, người nàng yêu, có thể lo liệu sính lễ. Tiếc là chàng vì phẫn chí đã bỏ
nhà đi. Đau buồn vì không đến được với người mình yêu, cô gái sinh bệnh rồi mất,
tim hóa thành một khối đỏ như son, trong như gương, búa đập không vỡ. Hình ảnh
khối đỏ như son ấy là biểu tượng cho tấm lòng thủy chung trong tình yêu của người
con gái đáng thương ấy.
Những người phụ nữ ấy không chỉ xinh đẹp, đức hạnh mà còn là những con
người tài năng. Xây dựng hình mẫu những người phụ nữ tài hoa trong một xã hội
phong kiến vốn trọng nam khinh nữ là một bước tiến của chủ nghĩa nhân đạo trong
văn học trung đại Việt Nam lúc bấy giờ. Nàng Túy Tiêu trong Chuyện nàng Túy
Tiêu là một người phụ nữ như vậy. Nàng không chỉ xinh đẹp, nàng còn rất giỏi thơ
văn, có khiếu thông tuệ, chỉ trong một năm đã làm được thơ từ ngang với Nhược
Chân. Hay nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả), về nghề âm
luật lại càng tinh thông, thổi ống tiêu gảy đàn không khác gì Tương Phi và Lộng
Ngọc[37,tr.137]. Cũng trong Truyền kì tân phả, cung phi Bích Châu Nguyễn Cơ
khiến người đọc yêu mến vì tài thơ phú, thông hiểu âm luật, lại giỏi cả việc chính
sự, khuyên can vua những điều đúng đắn, ích nước lợi dân. Ta còn ngưỡng mộ nàng
bởi lòng can đảm, đức hi sinh khi chấp nhận làm vật tế thần để cứu vua. Trước khi
mất còn dặn dò vua những điều gan ruột: “xin bệ hạ sửa văn, nghi võ, kén dùng
người hiền lành, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như
thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối” [25,tr.336]. Người cung phi họ
Nguyễn ấy hẳn đã được xây dựng bằng tất cả sự trân trọng của tác giả dành cho
nhân vật của mình. Người con gái của Quận công trong Liên Hồ quận công (Lan Trì
kiến văn lục) được Vũ Trinh ca ngợi là “thông tuệ lạ thường, chỉ liếc mắt trông qua
sách một lần là đã thuộc lòng”, “giá như dùng văn chương ở nơi quán các, đem võ
nghệ dùng ở trận mạc chưa chắc ai đã đối địch được” [25,tr.438]. Quả thật, trong
các sáng tác truyền kì, ta không khó tìm thấy những nhân vật nữ tài năng, đức hạnh
dù xuất thân cao sang hay nghèo khó.
Truyền kì phản ánh những khát vọng trần thế của con người, ca ngợi tình yêu tự
do, đồng cảm với khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong xã hội phong kiến nhiều chế
20
định khắt khe. Tình yêu trong những sáng tác truyền kì có thể là tình yêu giữa
những người thế tục, có thể là tình yêu giữa con người trần thế với thần tiên giáng
trần, với hồn hoa, vật hóa người hay tình yêu giữa người với yêu ma… Đó có thể là
cuộc tình trong mộng, có thể là cuộc tình ngoài đời thực; có cuộc tình từ đời thực đi
vào trong mộng, và ngược lại, có những cuộc tình từ trong mộng mà thành thực.
Nhưng dù là giữa người cõi trần với cõi âm hay với tiên giới, là cuộc tình trong
mộng hay trong cõi thực, tình yêu ấy đều có sự đắm say, mãnh liệt, thậm chí cực kì
táo bạo, vượt thoát khỏi mọi sự ràng buộc, chấp nê. Thánh Tông di thảo với truyện
Duyên lạ xứ Hoa đã ghi lại cuộc tình trong mộng giữa Chu Sinh, một học trò nghèo
và Mộng Trang, một nàng tiên bướm. Cuộc tình êm đềm, ngọt ngào trong giấc
mộng kéo dài hơn hai năm và rồi Chu Sinh chấp nhận rời bỏ vinh hoa phú quý cõi
trần để sum họp cùng Mộng Trang nơi xứ Hoa. Đọc Truyền kì mạn lục, độc giả có
thể xúc động với những cuộc tình son sắt đầy cảm động của những chàng trai, cô
gái xưa. Đó là mối tình giữa Nhuận Chi và Túy Tiêu, giữa Phật Sinh và Lệ Nương.
Khi Túy Tiêu bị bắt về làm thê thiếp của Thân Trụ quốc, nàng và Nhuận Chi vẫn
tìm cách gặp nhau, thổ lộ tâm tình và đấu tranh cho tình yêu của mình để cuối cùng
được sum họp, vợ chồng ăn ở đến già. Còn nàng Lệ Nương trong Chuyện Lệ
Nương, khi bị bắt vào trong cung vẫn tìm cách liên lạc với Phật Sinh, đến khi rơi
vào tay giặc, người phụ nữ ấy tự tận ở quê hương chứ không chấp nhận làm cô hồn
nơi đất Bắc. Và chàng Phục Sinh, một lòng yêu Lệ Nương, đã lặn lội nước non lần
tìm theo tung tích của nàng, rồi đầu quân theo vua Giản Định mong cậy thế quân
của vua mà đánh úp cướp lại Lệ Nương. Khi biết Lệ Nương đã tự vẫn, Phục Sinh
buồn rầu quay về, từ đấy không lấy ai nữa. Có lẽ thời ấy hiếm có trang nam tử nào
chung tình như chàng Phục Sinh vậy. Cuộc tình giữa Trung Ngộ và Nhị Khanh
(Chuyện cây gạo), giữa nàng Hàn Than với sư Vô Kỉ (Chuyện nghiệp oan của Đào
Thị) có lẽ là hai trong những cuộc tình phóng túng nhất, tự do nhất trong lịch sử văn
học trung đại. Trong hai cuộc tình đó, ta thấy được khát vọng tình yêu, khát vọng
sống mãnh liệt, táo bạo của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nàng Nhị Khanh
chết khi tuổi đời còn quá trẻ và lòng vẫn đầy khao khát yêu thương. Mối tình giữa
21
hồn ma Nhị Khanh với chàng thư sinh Trình Trung Ngộ hẳn nhiên không được xã
hội bấy giờ ủng hộ. Thế nhưng, tình cảm ấy quá mãnh liệt, và Trung Ngộ cũng hóa
thành hồn ma để đêm ngày quấn quýt bên Nhị Khanh. Hình ảnh của họ khi đã là
hồn ma với thân thể lõa lồ cùng nhau nô giỡn như phá tung cả trật tự xã hội phong
kiến lúc bấy giờ. Nàng Nhị Khanh, ngay từ ngày đầu gặp Trung Ngộ, đã bộc lộ khát
vọng sống mãnh liệt của mình, khát vọng ấy, hẳn nhiên, đi ngược lại với quan niệm
của Nho giáo phong kiến lúc bấy giờ: “Nghĩ đời người ta thật chẳng khác gì giấc
chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một
sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân,
cũng không thể được nữa.” [11,tr.37] Lời nói của Nhị Khanh quả thật tưởng chừng
như đã đạp đổ hoàn toàn quan niệm trung trinh tiết hạnh, đoan chính đè nặng lên
người phụ nữ thời bấy giờ. Tìm trong văn học trung đại hình ảnh người phụ nữ táo
bạo nhường ấy dễ được mấy người. Cùng một dạng tình yêu như tình yêu giữa Nhị
Khanh và Trung Ngộ có thể kể đến tình yêu giữa nàng Hàn Than và sư Vô Kỉ, và
nàng Hàn Than cũng có những nét tính cách phá cách như Nhị Khanh. Nàng Hàn
Than khi bị vợ quan Hành khiển ghen tuông hành hạ, đã thuê thích khách báo thù.
Chỉ riêng hành động đó cũng đã không thể nào chấp nhận được trong xã hội phong
kiến. Tìm đến nơi cửa Phật, niềm khao khát tình yêu trần tục trong Hàn Than vẫn
chưa dứt. Nàng tư thông với sư Vô Kỉ, hai người yêu nhau, mê đắm say sưa. Nhưng
cả Hàn Than và Nhị Khanh đều không có được một kết cục tốt đẹp. Vẫn chịu sự
ràng buộc của lễ giáo phong kiến lúc bấy giờ, kể về những mối tình này, lời văn của
Nguyễn Dữ táo bạo, phóng túng nhưng lời bình luôn là những lời phê phán. Kết
thúc của những câu chuyện tình yêu này cũng phần nào phản ánh quan niệm bảo vệ
lễ giáo phong kiến của tác giả. Những mối tình ấy thách thức xã hội phong kiến,
quan niệm của Nho giáo từ xưa đến nay thế nên tất yếu sẽ có kết cục bi thảm. Tuy
nhiên, điều đó vẫn không ngăn được giá trị nhân văn, nhân bản toát ra từ hình tượng
nhân vật, từ các câu chuyện tình yêu này. Bởi lẽ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ
trong những mối tình này, trong hình ảnh của Nhị Khanh, Hàn Than là những khát
khao mãnh liệt của tuổi trẻ, khát vọng giải phóng tình cảm bản năng, khát vọng
22
sống mạnh mẽ, ý chí vươn lên giành quyền sống, quyền làm người dù bị vùi dập
như thế nào chăng nữa. Nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả)
cũng được xây dựng như một nhân vật nữ khao khát tình yêu trong cuộc sống trần
thế. Nàng tiên ấy giáng trần làm vợ Đào sinh. Khi về chầu trời, trần duyên chưa dứt
lại hạ trần gian, chủ động tìm đến với tình duyên kiếp trước. Và khi lên Cung tiên,
mãn hạn công cán, lại nhớ duyên ước ba sinh, tâu xin Thượng đế cho giáng sinh
xuống cõi trần. Rõ ràng, với nàng tiên ấy, hạnh phúc không ở nơi chốn xa xôi, hạnh
phúc là ở ngay trong cõi đời thực này, được sống tự do với chí nguyện của mình,
với tình yêu của mình.
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật
Không khó để ta nhận ra sự ảnh hưởng của văn học dân gian đến các tác
phẩm truyền kì. Ta dễ dàng bắt gặp trong những sáng tác truyền kì những câu
chuyện mang cốt truyện dân gian hoặc dã sử, các môtip quen thuộc trong truyện
dân gian. Và có không ít những truyện truyền kì vốn là những truyện dân gian
được sáng tạo lại.
Trong Thánh Tông di thảo có truyện Chồng dê. Ngay nhan đề của truyện cũng
đã khiến ta nhớ đến kiểu truyện người lấy vật rất quen thuộc trong truyện cổ tích
thần kì của văn học dân gian (như những truyện Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê). Và diễn
biến của truyện tưởng cũng không khác lắm so với chuyện cổ tích. Người con gái
hiếu thuận nết na, có được người chồng vốn là thần tiên trên trời vì phạm lỗi mà bị
đọa, ẩn hình trong dáng dê. Người chồng dê đẹp hơn Tống Ngọc, Phan Lang ấy
phải chăng là phần thưởng xứng đáng cho cô gái có tấm lòng hiếu thảo? Cũng trong
Thánh Tông di thảo, truyện Ngọc nữ về tay chân chủ ít nhiều mang dáng dấp của
truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh với chi tiết Ngọc Hoàng kén rể, Sơn thần và
Thủy thần đến thi tài để được vợ.
Một số truyện trong Truyền kì mạn lục có nguồn gốc truyện dân gian rất rõ như
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên vốn được sáng tạo lại từ truyện Từ Thức lên tiên trong
dân gian hay Chuyện người con gái Nam Xương cũng là một phóng tác từ truyện cổ
tích Vợ chàng Trương.
23
Truyện Vân Cát thần nữ trong Truyền kì tân phả lại được biết đến như một tác
phẩm sáng tạo lại dựa trên những truyền thuyết về bà chúa Liễu Hạnh, một trong Tứ
Bất Tử nổi tiếng trong văn học và văn hóa dân gian.
Mối tình của chàng trai nghèo làm nghề lái đò giỏi ca hát với nàng tiểu thư nhà
giàu họ Trần trong Chuyện tình ở Thanh Trì (Lan Trì kiến văn lục) ít nhiều khiến ta
nghĩ đến mối tình chàng Trương Chi tội nghiệp và cô Mị Nương xinh đẹp trong
truyện cổ tích. Nếu truyện cổ tích kết thúc bằng cái chết của Trương Chi và hình
bóng chàng lái đò thổi sáo tan trong chén nước khi có nước mắt của tiểu thư Mị
Nương rỏ vào thì ở đây lại kết thúc bằng cái chết của cô gái và trái tim hóa thành
một khối đỏ như son của nàng tan thành máu tươi, chảy đầm đìa trên tay áo chàng
trai khi hai hàng lệ của chàng trào xuống khối đá ấy. Dù có sự khác biệt, cả hai mối
tình ấy đều khiến ta cảm động bởi sự thủy chung son sắt của người trong cuộc.
Cũng trong Lan Trì kiến văn lục, ta đọc thấy truyện Ông Tiên ăn mày và ta có thể
ngờ rằng đây là một câu chuyện cổ tích được ghi chép lại bởi nó mang nội dung chủ
đề, diễn biến cốt truyện rất điển hình của một truyện cổ tích, kiểu truyện quá đỗi
quen thuộc với bao người Việt Nam. Đó là câu chuyện về hai anh em Giáp (người
anh) và Ất (người em). Người anh tham lam keo kiệt, có người vợ cũng thô bạo xấu
xa, tranh cướp hết tài sản của cha để lại, người em hiền lành chăm chỉ chỉ được gian
nhà nát cùng một khoảnh ruộng xấu. Khi gặp người ăn mày tội nghiệp, người em
đối đãi tử tế, và được người ăn mày (vốn là tiên giả dạng) đền ơn và trở nên giàu có.
Người anh tham lam khi biết chuyện, muốn được giàu có như em nên đi tìm người
ăn mày ấy. Ngờ đâu, gặp người ăn mày thật, không phải là tiên giả dạng, người anh
vì đánh cụ già ăn mày đó, bị thưa kiện lên quan và vợ chồng người anh bị trừng trị.
Quả thật, kiểu truyện này không hề xa lạ với bất cứ người nào ưa thích truyện cổ
tích.
Diễn biến của đại đa số các truyện truyền kì khá tương đồng với diễn biến trong
truyện cổ dân gian. Mở đầu mỗi truyện là đôi dòng giới thiệu về nhân vật, tiếp đó kể
về những sự việc thể hiện phẩm chất của nhân vật hoặc cuộc đấu tranh thiện ác giữa
nhân vật chính và nhân vật phản diện và kết thúc thường là kết thúc có hậu, kẻ ác bị
24
trừng trị, người hiền được báo đáp, chính nghĩa thắng gian tà. Có thể thấy rõ đặc
điểm này trong những truyện thuộc tuyển tập Truyền kì mạn lục. Ta thử khảo sát vài
truyện làm ví dụ. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên bắt đầu bằng những dòng giới
thiệu về nhân vật chính: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng
Giang. Chàng vốn khẳng khái nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được,
vùng Bắc vẫn khen là người cương trực” [11,tr.115]. Tiếp đến là sự kiện Ngô Tử
Văn đốt đền tà và những tình tiết xoay quanh việc đốt đền thể hiện bản tính cương
trực, cứng cỏi của Ngô Tử Văn. Và kết thúc bằng việc Bách hộ họ Thôi bi đày vào
ngục Cửu u, mồ bị phá tung. Hay Chuyện người con gái Nam Xương cũng có diễn
biến cốt truyện tương tự. Sau đôi dòng khái quát về nhân vật Vũ Nương: “Vũ Thị
Thiết, quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp…” là
những sự việc khắc họa phẩm chất hiếu thảo, thủy chung của Vũ Nương cùng nỗi
oan tình của nàng: sự kiện mẹ chồng bệnh rồi mất, việc nàng trỏ bóng mình bảo là
cha bé Đản, việc Trương Sinh nghi ngờ nàng thất tiết khiến nàng phải trầm mình tự
vẫn. Kết thúc bằng sự kiện Vũ Nương được giải oan, và sống sung sướng dưới thủy
cung. Cùng kiểu kết cấu này có thể kể đến Chồng dê (Thánh Tông di thảo ), Ông
tiên ăn mày, Lan quận công phu nhân (Lan Trì kiến văn lục)…
Nói truyện truyền kì gần với văn học dân gian còn bởi vì có thể bắt gặp trong
truyện truyền kì những môtip ta vẫn thường gặp trong truyện cổ dân gian: mô tip
người lấy vật, mô tip về sự thụ thai hay ra đời thần kì, mô tip nằm mộng, được điềm
báo, mô tip vợ bị cướp, mô tip xuống thủy cung, âm ti, hay lên thiên tào, cõi tiên…
Mô tip người lấy vật có thể kể đến những truyện: Chồng dê, Duyên lạ xứ Hoa
(Thánh Tông di thảo ), Chuyện kì ngộ ở trại Tây (Truyền kì mạn lục), Mô tip về sự
thụ thai thần kì có: Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Truyền kì mạn lục), Vân Cát
thần nữ (Truyền kì tân phả). Mô tip nằm mộng, được điềm báo có thể thấy trong rất
nhiều truyện truyền kì: Duyên lạ xứ Hoa (Thánh Tông di thảo), Câu chuyện ở đền
Hạng Vương, Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa
(Truyền kì mạn lục), Tháp Báo Ân (Lan Trì kiến văn lục), … Sự ảnh hưởng của văn
học dân gian đối với truyện truyền kì sẽ được chúng tôi bàn kĩ hơn ở chương 2,
25
“Truyền kì : cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết”.
Làm nên đặc trưng nổi bật nhất của thể loại truyền kì đó chính là sự hòa
quyện giữa yếu tố hiện thực và những yếu tố hoang đường, kì ảo. Trong truyện
truyền kì, thế giới con người và thế giới siêu nhiên có sự tương giao. Đến với
truyền kì, người đọc có thể phiêu diêu qua nhiều cõi khác nhau. Đó có thể là cõi
tiên mê hoặc lòng người, là chốn thủy phủ lộng lẫy, có thể là nơi địa phủ rùng
rợn… Cùng với không gian huyền ảo ấy, bên cạnh những con người phàm trần
là những nhân vật không thuộc về thế giới người như tinh vật, yêu ma, thần
tiên… Từ Thánh Tông di thảo đến Lan Trì kiến văn lục, ta đều có thể bắt gặp
những nhân vật siêu nhiên ấy trong một thế giới ảo huyền.
Đang trong thế giới thực của cõi trần, theo giấc mộng của chàng Chu sinh, ta có
thể đến với xứ Hoa đẹp đẽ của vương quốc bướm (Duyên lạ xứ Hoa –Thánh Tông
di thảo ), đi cùng Phạm Tử Hư lên thiên tào, nơi có những bức tường bao quanh,
cửa lớn khảm trai lộng lẫy, lầu châu điện ngọc… (Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi
thiên tào- Truyền kì mạn lục), hay cùng Thái thú họ Trịnh xuống Long cung đối
tụng (Chuyện đối tụng ở Long cung – Truyền kì mạn lục), hoặc theo hồn Tử Văn
xuống địa phủ gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương, hai bên đầy những quỷ dạ
xoa mắt xanh nanh trắng để dự phiên tòa Diêm Vương xử án Bách hộ họ Thôi
(Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kì mạn lục), hay cũng có thể theo
Thái Công vào giấc mơ để lên chốn Bồng Lai với thành vàng sừng sững, cửa ngọc
mở toang, có hành trăm người cầm hốt phách, tấu nhạc quân thiều, múa điệu nghê
thường (Vân Cát thần nữ - Truyền kì tân phả)… Con người có thể đi về giữa những
thế giới khác nhau ấy, và các nhân vật siêu nhiên thuộc thế giới kì ảo đó cũng có thể
tìm đến với cõi trần, kết giao với người trần.
Nhân vật trong truyền kì cũng là nhân vật trong thế giới hoang đường. Đó có thể
là những tinh vật hóa người như nàng Mộng Trang (bướm hóa người – Duyên lạ xứ
Hoa – Thánh Tông di thảo), nàng Đào, Liễu (Chuyện kì ngộ ở trại Tây – Truyền kì
mạn lục), nàng Ngọa Vân (hải tiên, trong Chuyện lạ nhà thuyền chài – Thánh Tông
di thảo); là những u hồn, trệ phách như Nhị Khanh (Chuyện cây gạo – Truyền kì
26
mạn lục ), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang – Truyền kì mạn lục); những
thần tiên bị giáng cõi trần do phạm phải lỗi lầm nào đó trên tiên giới như người
Chồng dê trong câu chuyện cùng tên (Thánh Tông di thảo), Thiên Tích trong
Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Truyền kì mạn lục), nàng Giáng Tiên trong Vân Cát
thần nữ (Truyền kì tân phả); có thể là Phật, là Thổ Công, là Diêm Vương, là quỷ Dạ
Xoa… Những nhân vật này ta cũng có thể bắt gặp trong truyện cổ dân gian. Tuy
nhiên, đến với truyền kì, ý nghĩa vai trò của kiểu nhân vật siêu nhiên này có sự khác
biệt so với truyện cổ. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ bàn rõ hơn trong chương sau của
luận văn.
Chịu ảnh hưởng chung của thi pháp văn học trung đại khi xây dựng nhân vật
trong tác phẩm tự sự, nhân vật trong truyền kì thường được xây dựng khá đơn
giản, tính cách nhân vật thể hiện qua hành động, ngôn ngữ, ít khi các tác giả đi
sâu vào phân tích tâm lí, miêu tả sâu sắc diễn biến tâm trạng nhân vật, nội tâm
nhân vật thường ít có sự xung đột, mâu thuẫn. Đây là điểm khác biệt lớn giữa
truyện truyền kì với những sáng tác tự sự hiện đại.
Có thể lấy một vài truyện làm ví dụ. Để làm bật lên tính cách đoan chính, thủy
chung, hết lòng yêu thương chồng con của nàng Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa
phụ Khoái Châu – Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ đặt nhân vật trong những hoàn
cảnh khác nhau, từ thái độ, ngôn ngữ của nhân vật mà bộc lộ vẻ đẹp phẩm chất của
nàng. Khi Trọng Quỳ, chồng nàng, quyến luyến vợ mà có ý chần chừ không muốn
đi cùng cha khi cha phải công cán ở vùng Nghệ An, Nhị Khanh ngăn bảo: “Nay
nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu
yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử
địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo
giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ
thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình mà lỗi bề
hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng
thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê.” [11,tr.21] Lời lẽ của nàng rõ ràng là lời
lẽ của một người phụ nữ hiểu đạo nghĩa, một người con dâu hiếu thảo khi phân tích
27
cho Trọng Quỳ thấy những khó khăn mà cha chồng sẽ gặp phải, nhắc lại đạo hiếu tử
để khuyên chồng theo chăm sóc cha già. Khi biết bà cô Lưu thị định ép gả mình cho
tướng quân họ Bạch, Nhị Khanh lo lắng, sợ hãi. Thế nhưng, nói về nỗi lo lắng của
nhân vật, Nguyễn Dữ chỉ ghi lại trong một câu: nghe nói sợ hãi, mất ngủ quên ăn
đến hàng tháng, mà không đi sâu miêu tả diễn biến nội tâm, những trăn trở dằn vặt
của nhân vật bằng những câu độc thoại, độc thoại nội tâm như ta hay thấy trong
truyện hiện đại. Tấm lòng thủy chung của Nhị Khanh được khẳng định qua việc chờ
chồng sáu năm trời, không mảy may thay lòng dù phải chịu cảnh chăn đơn gối
chiếc; qua việc nàng nhờ người bõ già đi tìm Trọng Quỳ, cũng như việc chọn cái
chết khi bị phụ bạc chứ kiên quyết không làm vợ kẻ khác dù kẻ ấy giàu có, quyền
thế. Đến khi mất, Nhị Khanh vẫn hiện về hướng chí cho hai con. Những sự việc, lời
nói của nhân vật khắc họa được vẻ đẹp nội tâm của nhân vật này. Trong Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên, để xây dựng Ngô Tử Văn như một nhân vật tiêu biểu
cho khí phách cứng cỏi, cương trực, nhân nghĩa, Nguyễn Dữ cũng thông qua thái
độ, ngôn ngữ của nhân vật mà làm hiển hiện khí phách ấy. Đốt đền tà vì ngôi đền
nổi tiếng là linh ứng nay lại có yêu ma tác quái, hành động ấy đã cho thấy tinh thần
dũng cảm vì dân trừ hại của Tử Văn. Trước khi đốt đền, Tử Văn tắm gội sạch sẽ,
khấn trời rồi mới châm lửa đốt đền, và trong khi mọi người đều lắc đầu lè lưỡi lo sợ
thay cho chàng, Tử Văn vẫn vung tay không cần gì cả. Hành động và thái độ đó của
Tử Văn đã cho thấy bản lĩnh cứng cỏi, tin vào việc mình làm, không chút e dè, sợ
hãi trước yêu ma của chàng Ngô Soạn. Ta thử xem xét một truyện trong Lan Trì
kiến văn lục, truyện Chuyện tình ở Thanh Trì. Tác phẩm đã cho thấy cái nhìn trân
trọng của Vũ Trinh đối với người phụ nữ, ở đây là một người phụ nữ thủy chung,
mang một mối tình son sắt. Nhà văn khẳng định tình cảm sâu nặng của người con
gái họ Trần chỉ bằng một vài câu kể ngắn gọn: thấy mặt chàng rồi nàng không làm
sao quên được, nàng nhờ con hầu đem khăn tay đến tặng, dặn con hầu bảo chàng
rằng sớm nhờ người qua mai mối. Chúng ta không đọc thấy những dòng văn kể lại
những suy nghĩ, ưu tư, những câu miêu tả tâm trạng nhớ nhung bồi hồi của nhân
vật. Tấm lòng son sắt thủy chung của cô gái được biểu hiện qua hành động táo bạo:
28
trộm trăm lạng vàng của cha sai người mang đến tặng người yêu để dùng làm đồ
sính lễ. Nói về nỗi đau khổ của nàng khi tình yêu bị ngăn cản, Vũ Trinh cũng không
đi vào kể sâu, tả kĩ. Ta cảm nhận và cảm thông với nỗi đau của nhân vật qua lời kể
súc tích của tác giả: nàng âm thầm đau khổ chẳng thể cùng ai giãi bày, chỉ biết
ngắm bóng mình mà nuốt lệ. Dần dần nàng sinh bệnh, chân tay rời rã, vóc dáng
gầy mòn. Mối u tình lắng đọng thành khối đá trong lòng, thuốc men chạy chữa bao
nhiêu cũng vô hiệu. Kể ngắn gọn, không đi sâu khắc họa nội tâm đau đớn của nhân
vật, nhưng với những dòng văn ấy, nỗi đau của nhân vật vẫn hiện lên chân thật, sâu
sắc, từ đó mà tấm lòng thủy chung của nàng tỏa sáng.
1.3. Một số tác phẩm truyền kì tiêu biểu
1.3.1. Thánh Tông di thảo
Được xem là tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến đột khởi của văn xuôi tự sự
Việt Nam thời trung đại, Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện, đều được viết bằng
chữ Hán. Đầu sách có bài tựa của tác giả, cuối mỗi truyện có lời bình của Sơn Nam
Thúc. Về tác giả của tác phẩm này, hiện vẫn còn nhiều nghi vấn. Phần lớn các nhà
nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm tập hợp nhiều truyện kí, trong đó có những
truyện kí của vua Lê Thánh Tông. Theo Từ điển Văn học, xét về tính chất loại hình,
Thánh Tông di thảo gồm những truyện truyền kì, ngụ ngôn, tạp kí. Dù rằng tác
phẩm không phải chỉ là tập hợp những truyện truyền kì nhưng theo chúng tôi, có thể
nói, Thánh Tông di thảo đánh dấu sự ra đời và phát triển của thể loại truyền kì trong
văn học trung đại Việt Nam. Dù tên tác phẩm không có từ truyền kì nhưng yếu tố
truyền kì đã xuất hiện rất rõ trong một số truyện của Thánh Tông di thảo như Duyên
lạ xứ Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài, Tinh chuột, Chồng dê, Hai gái thần… Nhiều
truyện ngắn trong Thánh Tông di thảo thể hiện cái nhìn nhân đạo khá mới mẻ của
người kể khi đề cập đến tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa đôi, thể hiện sự bao dung,
cảm thông với nhu cầu tình cảm của con người. Tác phẩm cũng cho thấy sự trân
trọng dành cho người phụ nữ khi xây dựng các nhân vật nữ là những con người nết
na, đức hạnh, giỏi giang.
29
1.3.2. Truyền kì mạn lục
Là tác phẩm tiêu biểu nhất cho thể loại truyền kì của văn học trung đại Việt
Nam, Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ.
Tác phẩm được Vũ Khâm Lân, nhà văn thế kỉ XVIII, đánh giá là “thiên cổ kì bút”
và tiến sĩ Phạm Hùng, nhà nghiên cứu văn học hiện đại, khẳng định: Nguyễn Dữ là
nhà tiểu thuyết truyền kì nổi tiếng nhất của Việt Nam thời trung đại và Truyền kì
mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là
“thiên cổ kì bút”, một cái cột mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra
nhiều thứ tiếng trên thế giới. [11, trang bìa 4]
Truyền kì mạn lục có nghĩa là ghi chép những câu chuyện tản mạn được lưu
truyền. Nhan đề cho thấy sự khiêm tốn của tác giả. Bởi lẽ, Truyền kì mạn lục không
chỉ là một quyển sách ghi chép đơn thuần mà thật sự là một sáng tác của Nguyễn
Dữ với sự gia công, hư cấu sáng tạo đặc sắc của nhà văn khi viết tác phẩm này dựa
trên những truyện được lưu truyền trong nhân dân. Tác phẩm viết bằng tản văn xen
lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện đều có lời bình của tác giả. Hầu hết các
truyện kể về các sự việc xảy ra vào đời Lí đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ. Mặc dù
vậy, ta vẫn thấy được hiện thực xã hội Việt Nam thế kỉ XVI hiện lên từ đó. Nội
dung chủ đề Truyền kì mạn lục khá phong phú. Có truyện đả kích bọn hôn quân bạo
chúa, quan tham lại nhũng; có truyện thể hiện chí khí của kẻ sĩ, quan niệm sống
lánh đục về trong của sĩ phu ẩn dật; có truyện viết về tình yêu nam nữ, hạnh phúc
lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng; có truyện thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ khi đối
tượng phê phán là bọn giặc ngoại xâm. Truyền kì mạn lục vì vậy không chỉ giàu giá
trị hiện thực mà còn đầy giá trị nhân đạo, nhân văn. Tác giả, thông qua những câu
chuyện mang màu sắc truyền kì đã thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ đau của nhân
dân, đặc biệt là người phụ nữ; ca ngợi những phẩm chất đẹp và tài năng của con
người, thông cảm với những khát vọng tình yêu của tuổi trẻ… Truyền kì mạn lục
cũng là một tác phẩm thành công về mặt nghệ thuật. Diễn biến truyện trong các
truyện ngắn của Truyền kì mạn lục thường giàu kịch tính, kết hợp một cách nhuần
nhuyễn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật, giữa tự sự và trữ tình, giữa văn
30
xuôi và văn biền ngẫu; nhân vật có tính cách, có số phận riêng. Tác phẩm là sáng
tác tiêu biểu cho thành tựu của loại hình văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới
ảnh hưởng của sáng tác dân gian (Theo Từ điển Văn học bộ mới).
1.3.3. Truyền kì tân phả
Truyền kì tân phả là sáng tác chữ Hán của nhà văn Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm
viết bằng văn xuôi, có nhiều bài thơ xen kẽ. tập sách có sáu truyện trong đó có ba
truyện được xác định là của Đoàn Thị Điểm là Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ,
An ấp liệt nữ, còn ba truyện sau chưa rõ người viết: Bích Câu kì ngộ, Khuyển miêu
đối thoại, Long hổ đấu kì. Có thể thấy nổi bật nhất trong nội dung tư tưởng của
Truyền kì tân phả là sự đề cao người phụ nữ. Nhân vật người phụ nữ trong sáng tác
này hầu hết là những người có nhan sắc, tài năng, đặc biệt là có phẩm hạnh đoan
chính, thủy chung, có tình yêu mãnh liệt. Truyền kì tân phả ra đời sau Thánh Tông
di thảo và Truyền kì mạn lục nhưng xét về mặt nghệ thuật, có nhiều ý kiến cho rằng
tác phẩm này không thành công bằng hai tác phẩm trên, lời văn tác phẩm trau chuốt,
hoa lệ nhưng tính chất sinh động, hấp dẫn của tác phẩm không cao hơn so với
Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục ra đời trước đó. Tuy nhiên, đây vẫn là tác
phẩm cho thấy bước phát triển của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại lúc
bấy giờ.
1.3.4. Tân truyền kì lục
Là tác phẩm của Phạm Quý Thích, gồm một bài tựa và ba truyện chữ Hán, chủ
yếu viết theo dạng ngụ ngôn: Bần gia nghĩa khuyển, Vũ trùng đốc thắng, Khuyển
miêu đối thoại. Các truyện đều nói về những con vật có tính cách khác lạ. Theo
Nguyễn Huệ Chi, có lẽ tác phẩm được viết sau khi nhà Lê mất, mang nặng tâm sự
hoài Lê.
1.3.5. Lan Trì kiến văn lục
Được xem là tác phẩm truyền kì cuối cùng của văn học trung đại, Lan Trì kiến
văn lục gồm 45 truyện với nhiều đề tài khác nhau: chuyện giáo dục thi cử, chuyện
nhân quả báo ứng, chuyện kì quái, chuyện tình yêu nam nữ… Tác phẩm một mặt
phê phán nghiêm khắc xã hội đương thời với những chuyện đồi phong bại tục,
31
những kẻ mất nhân tính (cha giết con, chồng giết vợ, …), một mặt thể hiện sự trân
trọng, yêu mến cảm thông với những kiếp người khổ đau nhưng phâm chất tốt đẹp,
đặc biệt là người phụ nữ. Tác giả cũng thể hiện niềm cảm thông với khát vọng tình
yêu, hạnh phúc của con người, vì vậy cũng cho thấy tư tưởng nhân đạo tiến bộ trong
nội dung văn học lúc bấy giờ. Truyện của Vũ Trinh thường ngắn gọn, tinh giản, ít
thơ từ. Truyện được xây dựng từ các chi tiết đắt, không thể thay thế được trong kết
cấu nghệ thuật toàn bộ câu chuyện.
1.4. Quá trình phát triển của thể loại truyền kì Việt Nam
Truyền kì là một thể loại quan trọng của văn xuôi tự sự trung đại, vì vậy, có thể
thấy, quá trình phát triển của thể loại này khá tương đồng với quá trình phát triển
của văn xuôi trung đại nói chung. Ở đây, tham khảo sự phân chia giai đoạn phát
triển văn xuôi tự sự trung đại của Nguyễn Đăng Na, so sánh với những tác phẩm là
đối tượng nghiên cứu của luận văn, chúng tôi thấy có thể chia quá trình phát triển
của thể loại truyền kì thành ba giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV. Đây có thể xem là giai đoạn
manh nha của thể loại truyền kì.
- Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV đến cuối thể kỉ XVI, là giai đoạn phát triển rực rỡ
của thể loại này.
- Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến cuối thể kỉ XIX, là giai đoạn cáo chung của
thể loại truyền kì.
1.4.1. Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV: giai đoạn manh nha của
thể loại truyền kì
Vào đầu thế kỉ X, khi nền độc lập dân tộc được khôi phục, ý thức về chủ quyền
và tự tôn dân tộc cũng phát triển sâu sắc. Ý thức ấy không chỉ thể hiện trên phương
diện cương vực lãnh thổ, thể chế chính trị mà còn trên phương diện văn hóa, văn
học. Sự ra đời của văn học viết vào thời điểm này đã minh chứng cho điều đó. Ở
buổi đầu của văn học viết, văn xuôi tự sự chưa tách khỏi văn học dân gian và văn
học chức năng, chủ yếu là chức năng lịch sử, chức năng tôn giáo. Tính chất truyền
kì đã xuất hiện ít nhiều trong những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này. Vì lẽ đó,
32
chúng tôi xem đây là giai đoạn manh nha trong quá trình phát triển của thể loại
truyền kì. Tiêu biểu cho giai đoạn này có thể kể đến các tác phẩm Việt điện u linh,
Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái, … Những tác phẩm này hoặc ghi chép
những câu chuyện dân gian, hoặc ghi chép những hành trạng của các vị cao tăng.
Và dù là sưu tầm, ghi chép lại truyện dân gian hay ghi chép hành trạng của các vị
cao tăng, ghi chép lịch sử tôn giáo thì các truyện trong những tuyển tập này đều có
những yếu tố hoang đường, kì ảo; một biểu hiện khá rõ nét của sáng tác truyền kì.
Tuy nhiên, các tác phẩm mang dấu ấn của thể loại truyền kì giai đoạn này nhìn
chung chưa có sự gia công, sáng tạo rõ rệt của tác giả như ở giai đoạn sau.
Việt điện u linh ghi chép sự tích các nhân vật thần linh được thờ phụng tại các
đền miếu ở Việt Nam theo ba loại: các vị vua, các bề tôi, những sự tích thiêng liêng.
Các nhân vật được tôn làm thần này đều xuất hiện trước đời Trần. Kể về 27 vị thần
được thờ phụng, các tác giả không chỉ kể về công trạng lúc sinh thời mà còn nói về
sự hiển linh độ dân, giúp nước của họ sau khi mất, theo công thức: dương trợ, âm
phù. Chính điều này đã tạo nên những chi tiết hư cấu, tưởng tượng kì ảo xuyên suốt
trong tác phẩm. Trong Từ điển văn học Việt Nam - từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX,
Lại Nguyên Ân đã khẳng định: “bản thân việc thiên về những điều huyền bí như ở
đây đã khiến những ghi chép này có thể được xem như một dạng sáng tác huyền
thoại và có thể xếp vào thể loại truyền kì” [1,tr.609]. Ta thử xem xét một vài truyện
trong tác phẩm này để thấy rõ đặc điểm của những câu chuyện được ghi chép.
Trong thiên Bố Cái, Phu Hựu, Chương Tín, Sùng Nghĩa Đại Vương, sau khi kể về
lai lịch, cuộc đời của Bố Cái đại vương từ lúc khởi nghiệp cho đến khi mất, tác giả
kể lại sự việc Vương hiển linh để giúp dân giúp nước: “Lại nói, khi Hưng mới mất
hay hiển linh, mọi người cho rằng Vương là thần, bởi vậy lập miếu thờ ở phía tây
của Đô Phủ. Phàm những việc trộm cắp, ngục tụng còn ngờ nếu đến đền miếu để
thề thì lập tức họa phúc giáng ngay, bởi thế hương hỏa bất tuyệt. khi Ngô tiên chúa
dựng nước, quân phương Bắc vào cõi cướp phá, Tiên chúa lo lắng, đêm mộng thấy
Vương tự xưng tên tuổi, nói rằng đã đem trăm ngàn vạn đội thần binh, xin Tiên
chúa đốc thúc tiến quân sẽ có âm phù. Bạch Đằng thắng trận, Tiên chúa lấy làm lạ,
33
hạ chiếu xây miếu tôn nghiêm, lại chuẩn bị đầy đủ bảo vũ, hoàng đạo, trống đồng,
trống da, âm nhạc, vũ đạo làm lễ Thái loa để tạ ơn…” [25,tr.52] Việc kể lại những
sự hiển linh với những chi tiết hoang đường, kì ảo một mặt nhằm khẳng định lòng
yêu nước của nhân vật, bất tử hóa những nhân vật lịch sử này, mặt khác thể hiện
niềm tự hào, ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật lịch sử. Đây là yếu tố nghệ
thuật – nội dung ta dễ dàng bắt gặp trong các truyền thuyết dân gian. Những yếu tố
hoang đường, kì ảo trong Việt điện u linh thường gắn với những chi tiết báo mộng,
hiện hồn… nói lên anh linh tỏa rộng muôn đời sau của các nhân vật.
Thiền uyển tập anh ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XIV, viết về hành trạng của 68
vị thiền sư thuộc các phái Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường. Kể về
hành trạng các vị cao tăng, tác phẩm này ngoài những dữ kiện xác định còn có
nhiều dữ kiện, tình tiết mang màu sắc kì ảo gắn với sự ra đời thần kì, những hành
trạng mang nét huyền hoặc, phi thường và sự tịch diệt cũng có những điểm kì lạ của
nhân vật. Cũng như trong Việt điện u linh, ở đây yếu tố huyền thoại được sử dụng
như một chi tiết nội dung nhằm đề cao nhân vật có thật trong lịch sử Phật giáo nước
ta, đồng thời thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ của người kể đối với những nhân vật
ấy. So với Việt điện u linh, cốt truyện của Thiền uyển tập anh phức tạp hơn, tình tiết
đa dạng hơn. Trong Từ điển văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, các
tác giả đã nhận định: “…các tác giả Thiền uyển tập anh đồng thời cũng là những
tác giả của một kiểu sáng tác huyển thoại, kết quả là các thiên tiểu truyện, truyện kí
lịch sử ở đây có thể đồng thời được xem như những tác phẩm truyền kì.” [1,tr.481]
Trong thiên Thiền sư Ngộ Ấn, tác giả Thiền uyển tập anh ghi nhận sự ra lời kì lạ của
sư Ngộ Ấn: người mẹ bỗng dưng có mang sau khi bị một con khỉ lớn từ trong rừng
chạy ra ôm lấy lưng mình cả ngày. Kiểu ra đời thần kì này ta vẫn thường gặp trong
truyện cổ tích thần kì hoặc truyền thuyết dân gian. Cuộc đời tu hành của các vị sư
được ghi lại trong Thiền uyển tập anh cũng thường gắn với những sự kiện kì lạ.
Trong thiên Thiền sư Tịnh Giới có kể về khả năng hô phong hoán vũ, ra lệnh cho
mưa gió của sư Tịnh Giới. Truyện kể về việc sư cầu đảo thành công khi trời đang
đại hạn (năm Trinh Phù thứ hai), chuyện sư cầu cho tạnh mưa để lễ khánh thành
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ

More Related Content

What's hot

Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...nataliej4
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 nataliej4
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...PinkHandmade
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam nataliej4
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...KhoTi1
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 

What's hot (20)

Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAYLuận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
Luận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari
Luận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata YasunariLuận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari
Luận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần DầnLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
 

Similar to Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ

Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồnghttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựTìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Man_Ebook
 
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Garment Space Blog0
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Trần Đức Anh
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Thế Giới Tinh Hoa
 

Similar to Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ (20)

Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiLuận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiThơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng VũTiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
 
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
 
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựTìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
 
Đặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).docĐặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).doc
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
 
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
 
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quêLuận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Xem Số Mệnh
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfXem Số Mệnh
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiTruongThiDiemQuynhQP
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"LaiHoang6
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hardBookoTime
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 

Recently uploaded (20)

200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
syllabus for the book "Tiếng Anh 6 i-Learn Smart World"
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 

Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Nghi Dung VỊ TRÍ CỦA THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Nghi Dung VỊ TRÍ CỦA THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  • 3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục DẪN NHẬP................................................................................................................1 Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ ....................................11 1.1. Khái niệm thể loại ..........................................................................................11 1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì .....................................................................12 1.2.1. Đặc trưng về nội dung .............................................................................12 1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật...........................................................................22 1.3. Một số tác phẩm truyền kì tiêu biểu...............................................................28 1.3.1. Thánh Tông di thảo..................................................................................28 1.3.2. Truyền kì mạn lục....................................................................................29 1.3.3. Truyền kì tân phả.....................................................................................30 1.3.4. Tân truyền kì lục......................................................................................30 1.3.5. Lan Trì kiến văn lục.................................................................................30 1.4. Quá trình phát triển của thể loại truyền kì Việt Nam.....................................31 1.4.1. Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV – giai đoạn manh nha của thể loại truyền kì ......................................................................................31 1.4.2. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVI, giai đoạn phát triển rực rỡ của thể loại truyền kì...........................................................................37 1.4.3. Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX: giai đoạn cáo chung của thể loại truyền kì................................................................................41 Chương 2. TRUYỀN KÌ: CẦU NỐI GIỮA VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN HỌC VIẾT ...........................................................................................46 2.1. Đề tài của truyền kì: khai thác đề tài từ văn học dân gian .............................46 2.1.1. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyện cổ tích..................................46 2.1.2. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyền thuyết...................................55 2.1.3. Truyền kì khai thác đề tài từ truyện ngụ ngôn.........................................61
  • 4. 2.2. Nghệ thuật của truyền kì: chịu ảnh hưởng của nghệ thuật văn học dân gian.64 2.2.1. Cốt truyện và kết cấu của truyền kì có nhiều nét tương đồng với cốt truyện, kết cấu của truyện dân gian .........................................................64 2.2.2. Truyện truyền kì sử dụng những mô – tip dân gian ................................71 2.2.3. Cách xây dựng nhân vật trong truyện truyền kì có nhiều điểm giống cách xây dựng nhân vật trong truyện dân gian ................................................73 Chương 3. TRUYỀN KÌ: THỂ LOẠI ĐÁNH DẤU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẢ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI.............................................................................................77 3.1. Văn xuôi Việt Nam trước khi thể loại truyền kì xuất hiện.............................77 3.2. Truyền kì đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại......................81 3.2.1. Nội dung truyền kì giàu giá trị yêu nước, đậm chất hiện thực và thấm đẫm nhân đạo...........................................................................................81 3.2.2. Nghệ thuật của truyền kì: một bước phát triển của nghệ thuật văn xuôi trung đại.................................................................................................102 3.3. Dấu vết của truyền kì trong văn học hiện đại...............................................130 3.3.1. Dấu vết của truyền kì trong văn học 1930 – 1945.................................130 3.3.2. Dấu vết của truyền kì trong văn học Việt nam hiện đại sau 1975.........135 KẾT LUẬN............................................................................................................141
  • 5. 1 DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Văn học Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài, là nền văn học có sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, cũng là một nền văn học có sắc màu phong phú, phản ánh chân thật tâm hồn, đời sống dân tộc qua mỗi thời kì, mỗi giai đoạn lịch sử. Làm nên sắc màu phong phú của văn học dân tộc là sự góp mặt của nhiều loại hình văn học với rất nhiều thể loại đa dạng. Có những thể loại giờ đây đã không còn phát triển nữa. Có những thể loại xuất hiện từ rất lâu mà vẫn tồn tại, phát triển đến hôm nay. Cũng có những thể loại dù không còn được sáng tác nữa nhưng dấu ấn của thể loại đó vẫn còn để lại trong những tác phẩm văn học sau này. Truyền kì là thể loại thuộc dạng cuối cùng này. Dẫu rằng tên gọi thể loại này chỉ xuất hiện trong văn học viết trung đại, tồn tại và phát triển đến hết thời kì văn học trung đại, nhưng sự đóng góp của truyền kì cho sự phát triển chung của loại hình tự sự trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung là không thể phủ nhận. Các tác phẩm truyền kì nổi tiếng của các tác giả tên tuổi như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông – (?)), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) là những cứ liệu không thể bỏ qua khi xem xét sự phát triển về nội dung, nghệ thuật của văn học Việt Nam ở các giai đoạn khác nhau. Nói cách khác, nghiên cứu về truyền kì, qua những tác phẩm tiêu biểu, ta phần nào thấy được diện mạo nền văn học Việt Nam ở cả hai mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Chọn đề tài Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, chúng tôi muốn góp một cái nhìn khách quan, công bằng hơn về vai trò của thể loại này đối với sự phát triển chung của văn học dân tộc, cũng là để có cơ hội hiểu thêm về thể loại này và hiểu thêm về văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, với những đặc trưng của mình, các sáng tác truyền kì luôn gây cho người đọc sự thích thú. Thế giới huyền ảo, kì lạ của truyền kì đủ sức hấp dẫn người đọc nhiều thế hệ khác nhau và có sức sống trong dòng chảy văn học. Thế giới ấy
  • 6. 2 cũng cuốn hút tôi, một người học văn, dạy văn và có nhiều tình cảm với văn chương. Trong chương trình văn học trung đại ở hai cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, cùng với thơ Đường luật, ngâm khúc, hát nói, truyện thơ, tiểu thuyết chương hồi…, truyền kì là một thể loại được chọn giảng dạy trong chương trình, cụ thể là ở chương trình Ngữ văn lớp 6, lớp 9 và chương trình Ngữ văn lớp 10. Là một giáo viên môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu về thể loại truyền kì và vị trí của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam sẽ giúp ích cho công tác giảng dạy văn học ở trường phổ thông. Thực tế nghiên cứu sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn vừa toàn diện, vừa cụ thể chi tiết về thể loại này, lấy đó làm cơ sở cho việc tìm hiểu, giảng dạy các tác phẩm truyền kì trong chương trình ngữ văn ở các cấp học. Qua đó, có thể giúp các em học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương trung đại (vốn không phải là một điều dễ dàng) qua một thể loại cụ thể và trân trọng hơn văn học dân tộc mình. Tóm lại, nhận thức được vai trò quan trọng của thể loại truyền kì trong sự phát triển của văn học Việt Nam, niềm yêu thích đối với thể loại này và từ yêu cầu thực tế công tác, tôi chọn đề tài Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình với mong mỏi có thể góp chút hiểu biết của mình vào hiểu biết chung về văn học nước nhà và khơi gợi sự hứng thú của mọi người trong việc tìm hiểu về thể loại truyền kì, từ đó sẽ có thêm những công trình nghiên cứu khoa học có giá trị về thể loại này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những tác phẩm cụ thể thuộc thể loại truyền kì, từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục nhưng hầu như chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể về vị trí của thể loại này trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, với những đóng góp quan trọng về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của thể loại. Số lượng công trình khoa học hay những bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về những tác phẩm truyền kì cụ thể (trên những phương diện khác nhau) khá lớn, trong
  • 7. 3 khi các bài viết nghiên cứu về thể loại truyền kì nói chung và vị trí của thể loại này trong tiến trình văn học Việt Nam nói riêng chưa nhiều, cũng có nghĩa là vấn đề này chưa nhận được sự quan tâm xứng đáng của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và những người quan tâm đến văn học. Trước thế kỉ XX, nhiều tác giả Nho học đã thể hiện sự quan tâm đến thể loại truyền kì qua những sáng tác truyền kì cụ thể. Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều đã dành nhiều ưu ái cho Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả. Vũ Khâm Lân trong Bạch Vân Am cư sĩ phả kí coi Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một “thiên cổ kì bút”. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi Truyền kì mạn lục là “lời lẽ thanh tao, tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”. Phan Huy Chú khen rằng Truyền kì mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia”. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú nhận xét về Truyền kì tân phả: “Lời văn hoa lệ nhưng khí chất yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ”. Như vậy các tác giả trước thế kỉ XX quan tâm đến thể loại truyền kì qua các tác phẩm truyền kì cụ thể và về một phương diện nào đó như văn phong, ngôn từ chứ chưa có cái nhìn bao quát về thể loại này. Từ đầu thế kỉ XX đến nay, các sáng tác truyền kì nói riêng, thể loại truyền kì nói chung nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học hơn. Khi điều kiện nghiên cứu hiện thời đã thuận lợi hơn, khi nhu cầu tìm về những tác phẩm nổi tiếng của thời trung đại để xem xét giá trị của chúng trong nền văn học ngày càng cao hơn thì những công trình khoa học về các tác phẩm truyền kì và thể loại truyền kì xuất hiện nhiều hơn. Đặc biệt, tác phẩm Truyền kì mạn lục được chọn làm đối tượng nghiên cứu của nhiều bài viết, công trình khoa học như: - Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học (Con đường giải mã văn học trung đại, NXB Giáo dục, 2006) – Nguyễn Đăng Na - Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Tạp chí văn học số 7 – 1987) - Nguyễn Phạm Hùng - Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán (Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001) – Bùi Duy Tân
  • 8. 4 - Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục (Tạp chí văn học số 10/ 2002) – Lại Văn Hùng - Bàn góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục (Trang điện tử Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm TpHCM, tháng 12, 2011) – Phạm Tuấn Vũ - Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á (Trang điện tử của Viện Văn học, tháng 10, 2006)– Vũ Thanh - Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo trong Truyền kì mạn lục (Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, tháng 6, 2009) – Nguyễn Hữu Sơn - Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, tháng 01, 2010) - Đoàn Lê Giang - Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam qua Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao đẳng sư phạm Bà Rịa Vũng Tàu, 2007)- Lê Văn Hùng Ngoài ra, còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác phẩm truyền kì khác như: - Đoàn Thị Điểm và Truyền kì tân phả (Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 9 – 2010) - Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội văn hóa dân gian (Trang điện tử của Viện văn học, tháng 8, 2011) – Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai - Thánh Tông di thảo – nhìn từ truyền thống truyện dân gian Việt Nam và từ đặc điểm truyện truyền kì (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Đại học Vinh, 2008) – Vũ Thị Phương Thanh Những bài báo, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu xem xét từng tác phẩm truyền kì cụ thể trên những phương diện, góc nhìn khác nhau: so sánh tác phẩm với những tác phẩm khác cùng thể loại (như bài viết Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học; Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ); sự đóng góp của tác phẩm đối với sự phát triển của thể loại (như Bàn
  • 9. 5 góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục, Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam qua Truyền kì mạn lục, Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán), ảnh hưởng của văn hóa, văn học dân gian đến tác phẩm truyền kì (như bài Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục; Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội văn hóa dân gian); … Với chúng tôi, những công trình, bài báo này tuy chưa cung cấp một cái nhìn toàn diện về thể loại truyền kì và vai trò của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nhưng đã cho chúng tôi những gợi ý quý báu cho nội dung của luận văn này. Trong thế kỉ XX, XXI, ở các công trình liên quan đến văn học trung đại, thể loại truyền kì nói chung đã được chú ý hơn so với trước đó. Tuy nhiên, xem xét thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung, văn học trung đại nói riêng, những nhà phê bình, nghiên cứu chưa thật sự dành sự quan tâm xứng đáng cho thể loại này. Chúng ta có thể tìm thấy trong các công trình Lịch sử văn học Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 1980), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (Trần Đình Sử, NXB ĐHQGHN, 2005), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn, NXB GD, 2008) những trang viết về thể loại truyền kì. Những phần về Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục trong chương XIV (Văn học viết từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII) và chương XVI (Truyền kì mạn lục và những thành tựu của văn xuôi chữ Hán) trong Lịch sử văn học Việt Nam, về truyện truyền kì (Chương IV: Thể loại truyện chữ Hán, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam), về thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam (Phần một: Một số vấn đề lí luận của văn học trung đại nhìn từ góc độ văn hóa, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa) tuy không nhiều nhưng cũng giúp chúng tôi tham khảo được nhiều nội dung quan trọng liên quan đến đề tài luận văn. Có lẽ người đầu tiên cho ra đời một công trình quy mô, có hệ thống về truyền kì chính là Nguyễn Huệ Chi với tuyển tập Truyện truyền kì Việt Nam gồm 3 tập do NXB Giáo Dục Việt Nam xuất bản năm 1999. Đây là tác phẩm tuyển tập trên 200
  • 10. 6 truyện truyền kì và phỏng truyền kì của văn học Việt Nam trong 7 thế kỉ, từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XX, là một công trình thật sự có giá trị, không chỉ cung cấp cho người đọc những truyện truyền kì cụ thể mà còn qua đó thấy được đặc điểm của thể loại này. Công trình của tác giả Nguyễn Huệ Chi chính là một trong những nguồn tư liệu quan trọng cho luận văn của chúng tôi. Chính từ công trình này, chúng tôi có thể hình dung ra sự phát triển của thể loại truyền kì qua các thời kì, giai đoạn, cũng như có cái nhìn rõ ràng, đầy đủ hơn về đặc điểm của thể loại này. Cùng với Nguyễn Huệ Chi, tác giả Vũ Thanh dường như cũng là những học giả khá quan tâm đến truyền kì với nhiều công trình nghiên cứu về thể loại này như: Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kì Việt Nam (in trong Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học), Dư ba của truyện truyền kì, chí quái trong văn học hiện đại Việt Nam (in trong Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học – Kỉ yếu hội thảo của Viện văn học năm 2001), Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm của (in trong Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX - Những vấn đề lịch sử và lí luận, NXB GD, 2007)… Tác giả Bùi Thanh Truyền lại thể hiện sự quan tâm của mình đối với thể loại truyện kì ảo, truyền kì trong những công trình về thể loại này trong văn học hiện đại qua các bài viết: Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam (luận án Tiến sĩ trường Đại học Sư phạm Huế), Truyện kì ảo trong đời sống văn học Việt Nam… Tác giả Nguyễn Đăng Na trong Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự (NXBGD, 2007) cũng đã đề cập đến thể loại truyền kì như là một thể loại tiêu biểu của văn học trung đại giai đoạn thế kỉ XV – XVI. Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Na cũng là tác giả chủ biên tuyển tập Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 1, Truyện ngắn (NXB GD, 1999). Những bài viết, công trình này đã mang đến cho chúng tôi những ý tưởng quý giá để hoàn thiện nội dung luận văn về những đặc điểm của thể loại truyền kì, sự ảnh hưởng của thể loại này đến văn học hiện đại. Như vậy, tất cả các công trình trên, dù ít, dù nhiều cũng đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu đáng quý để góp phần hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, điểm qua đôi nét chúng tôi nhận thấy mặc dù các tác phẩm truyền kì nổi tiếng đều nhận được
  • 11. 7 nhiều sự quan tâm của người nghiên cứu phê bình văn học nhưng thể loại truyện kì lại chưa có được vị trí tương xứng với đóng góp của nó cho sự phát triển văn học Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đây là một trong những nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi chọn Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam làm đề tài cho luận văn cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam của mình. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học, chủ yếu là văn học trung đại nhìn từ đóng góp của thể loại này về nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật trên những phương diện cụ thể. Do nội dung đề tài quy định, trong quá trình nghiên cứu về thể loại truyền kì nhìn từ vị trí của nó trong tiến trình văn học, chúng tôi có so sánh thể loại này với văn học dân gian (mảng truyện dân gian) và văn học hiện đại (mảng truyện ngắn). Do hạn chế về tài liệu chúng tôi không có điều kiện nghiên cứu tất cả các truyện ngắn được xếp vào thể loại truyền kì. Hơn nữa, việc xác định những truyện ngắn nào là thật sự thuộc thể loại truyền kì không phải là một việc dễ dàng khi mà những tiêu chí để phân biệt thể loại này với các thể loại khác vẫn còn những phức tạp. Trong điều kiện của mình, chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại này qua những sáng tác truyền kì tiêu biểu trong văn học trung đại, những sáng tác đã được các nhà nghiên cứu văn học từ trước đến nay khẳng định là những tác phẩm truyền kì hoặc bản thân tên tác phẩm đã khẳng định là thuộc thể loại này, cụ thể là các tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục và Lan Trì kiến văn lục. Tổng số lượng truyện ngắn truyền kì mà chúng tôi thu thập được qua các tuyển tập và các nguồn khác nhau để phục vụ cho đề tài này là 75 truyện trong đó Thánh Tông di thảo: 10 truyện (Hai Phật cãi nhau, Duyên lạ xứ Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài, Người hành khất giàu, Chồng dê, Ngọc nữ về tay chân chủ, Hai thần hiếu để, Hai gái thần, Tinh chuột và Truyện Dòng dõi con thiềm thừ), Truyền kì mạn lục: 20 truyện (Nhà xuất bản Trẻ và Nhà xuất bản Hồng Bàng xuất bản 2011), Truyền kì tân phả: 4 truyện (An Ấp liệt nữ, Hải khẩu linh từ, Vân Cát
  • 12. 8 thần nữ, Bích Câu kì ngộ), Lan Trì kiến văn lục: 39 truyện (trong tuyển tập Truyện truyền kì Việt Nam, tập 2, NXB Giáo Dục Việt Nam xuất bản năm 2009), Tân truyền kì lục: 2 truyện (Ve sầu và Nhặng xanh, Con chó nhà nghèo có nghĩa). Ngoài ra, trong luận văn, người viết cũng đề cập đến những tác phẩm tuy chưa được gọi là truyền kì nhưng ít nhiều mang màu sắc của thể loại này xuất hiện trước hoặc sau khi thể loại này xuất hiện và cáo chung như Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh, Tam Tổ thực lục, Lĩnh Nam chích quái… và một số truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945, 1975 trở về sau. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng phối hợp những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp loại hình: được dùng để xem xét các tác phẩm truyền kì đựa trên đặc điểm loại hình tự sự của văn học trung đại để từ đó thấy được đóng góp của thể loại này đối với sự phát triển về nội dung, hình thức nghệ thuật của văn xuôi tự sự trung đại. - Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp thống kê, chúng tôi khảo sát sự ảnh hưởng của văn học dân gian lên các sáng tác truyền kì nhằm chứng minh truyền kì là cầu nối giữa văn học dân gian với văn học viết; phương pháp này cũng được sử dung khi chúng tôi xem xét những đóng góp về nghệ thuật ngôn từ của truyền kì đối với văn xuôi tự sự trung đại. - Phương pháp miêu tả - so sánh: cùng với phương pháp thống kê, phương pháp này được sử dụng để xem xét vai trò của truyền kì như cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, bên cạnh đó còn nhằm chứng minh truyền kì là một bước tiến của văn xuôi tự sự trung đại so với những tác phẩm xuất hiện trước đó. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: trong quá trình hoàn thành luận văn, để làm rõ cho những nhận định của mình, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích những tác phẩm truyền kì cụ thể, từ đó cũng tổng hợp, khái quát lại trên cơ sở đã phân tích để có cái nhìn khách quan, chính xác.
  • 13. 9 5. Đóng góp của luận văn Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm truyền kì tiêu biểu như Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả hay Thánh Tông di thảo… nhưng hầu như chưa có công trình nghiên cứu bao quát về thể loại này mà chỉ có những công trình sưu tập, tuyển chọn các truyện truyền kì như bộ Tuyển tập truyện truyền kì Việt Nam gồm 3 quyển do Nguyễn Huệ Chi chủ biên chẳng hạn. Với luận văn này, người viết mong muốn góp một cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về thể loại này trong việc đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của thể loại đối với sự phát triển của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Hiểu thêm về vị trí của thể loại truyền kì sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu, phân tích từng tác phẩm cụ thể của thể loại, đồng thời hiểu thêm về lịch sử phát triển của văn học dân tộc, ảnh hưởng qua lại giữa các bộ phận văn học (văn học dân gian và văn học viết). Việc đi sâu tìm hiểu về vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học để đi đến một số kết luận thỏa đáng nào đó là một dịp để người viết rèn luyện khả năng thao tác nghiên cứu khoa học, cũng là cơ hội để người viết mở rộng thêm kiến thức, khả năng cảm thụ, phân tích, bình giá văn chương của bản thân. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được tổ chức thành 3 chương. Ở chương 1, Khái lược về thể loại truyền kì, luận văn trình bày những vấn đề lí thuyết liên quan đến thể loại như khái niệm truyền kì, đặc điểm của thể loại, các tác phẩm truyền kì tiêu biểu trong văn học Việt Nam và các giai đoạn phát triển của thể loại này. Trong chương 2, Truyền kì: cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, người viết xem xét vị trí của truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam với vai trò là chiếc cầu nối của văn học dân gian và văn học viết. Qua đó, có thể thấy được sự ảnh hưởng và tiếp biến của văn học dân gian vào văn học viết thể hiện qua thể loại truyền kì.
  • 14. 10 Với chương 3, Truyền kì: thể loại đánh dấu sự phát triển của văn xuôi trung đại và ảnh hưởng đến cả văn học hiện đại, luận văn tiếp tục khẳng định vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam khi xem xét thể loại này với tư cách là một thể loại đánh dấu sự phát triển của văn học trung đại và còn ảnh hưởng đến cả văn học thời hiện đại.
  • 15. 11 Chương 1 KHÁI LƯỢC VỀ THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ 1.1. Khái niệm thể loại Theo Từ điển Văn học, khái niệm truyền kì xuất hiện lần đầu tiên tại Trung Quốc vào thời nhà Đường trong tên gọi thể loại tiểu thuyết truyền kì. Tiểu thuyết truyền kì kế thừa những nhân tố của loại truyện chí quái thời Lục triều. Tiểu thuyết truyền kì là thể văn tự sự cổ điển của Trung Quốc, có nguồn gốc từ truyện dân gian, sử dụng những yếu tố hoang đường, kì ảo để phản ánh hiện thực cuộc sống. Những yếu tố hoang đường kì ảo này không phải là dạng nhân vật Bụt, tiên với vai trò là nhân vật chức năng như trong truyện cổ tích thần kì, cũng không phải là lực lượng tự nhiên được nhân hóa như trong truyện thần thoại. Sự tham gia của yếu tố thần kì, hoang đường trong tiểu thuyết truyền kì phần lớn ở trong hình thức “phi nhân tính” của các nhân vật. Đó là dạng nhân vật ma, quỷ, hồ li, vật hóa người. Truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và những nhân vật như ma quỷ, yêu quái… cũng là sự cách điệu, phóng đại tâm lí, ẩn dụ cho một loại người nào đó trong xã hội hiện thực. Theo tác giả Đoàn Lê Giang, chữ “kì” trong “truyền kì” trong những tác phẩm Truyền kì của Bùi Hình, Đường Tống truyền kì (Lỗ Tấn) không có nghĩa là kì ảo, kì dị mà phải hiểu như một quan niệm văn học, một phương pháp sáng tác; quan niệm này xem trọng cái “lạ” trong sáng tác. Điều đó giúp chúng ta lí giải vì sao một số truyện dù được gọi là “truyền kì” nhưng lại hiếm hoi hoặc thậm chí không có yếu tố hoang đường, kì ảo như những truyện Oanh Oanh truyện, Liễu Thị truyện (Trung Quốc) hay những truyện trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh (Việt Nam). Trong luận văn này, chúng tôi hiểu “kì” trong “truyền kì” theo cả hai nghĩa trên. Tuy gọi là tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết truyền kì có dung lượng ngắn, tuy nhiên không phải sự thu ngắn của kiểu truyện dài. Tiểu thuyết truyền kì phần nào mang dáng dấp của thể loại truyện ngắn cận – hiện đại.
  • 16. 12 Trong văn học Trung Quốc, hai chữ “truyền kì” được khai sinh vào thời vãn Đường với một tập sách của Bùi Hình, nhưng thể loại truyền kì đã được xác lập từ thời sơ Đường với các truyện Cổ kính kí (Vương Độ (?) ), Bổ Giang tổng Bạch Viên truyện (không rõ tác giả), Du tiên quật (Trương Thốc). Còn trong văn học Việt Nam, có thể nói tên gọi truyền kì chính thức xuất hiện lần đầu trong văn học viết vào thế kỉ XVI với tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tuy nhiên, những đặc điểm của thể loại truyền kì đã xuất hiện khá rõ nét từ Thánh Tông di thảo (thế kỉ XV) và nhạt hơn trong một số tác phẩm trước đó như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh… Thậm chí, theo Vũ Thanh, truyện kì ảo của Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện từ thế kỉ XIII với truyện Ứng Minh trì dị sự (Chuyện lạ ở ao Ứng Minh) [52,739]. Như vậy, có thể nói, trong lịch sử văn học Việt Nam, thể loại truyền kì đã manh nha xuất hiện từ buổi đầu của văn học viết trong những tác phẩm ghi chép các truyện kì lạ được lưu truyền trong dân gian như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh sau đó phát triển mạnh và đạt đến đỉnh cao với những sáng tác như Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục; đặc biệt là với Truyền kì mạn lục, thể loại truyện truyền kì Việt Nam đã đạt được thành tựu rực rỡ, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Có thể nói, truyện truyền kì Việt Nam có nguồn gốc từ truyền kì của Trung Quốc nhưng có một quá trình hình thành, phát triển nội sinh, gắn liền với nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân gian và văn xuôi lịch sử. Trong quá trình phát triển của mình, truyền kì Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn học các nước trong khu vực Đông Á (như Triều Tiên, Nhật Bản) và đồng thời cũng góp phần vào sự phát triển chung của thể loại này trong văn học khu vực thời trung đại. 1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì 1.2.1. Đặc trưng về nội dung Truyền kì là một thể loại giàu giá trị phản ánh hiện thực. Dù thế giới trong truyền kì là một thế giới hoang đường, kì ảo nhưng đằng sau những yếu tố hoang đường đó là hiện thực lịch sử, xã hội cùng với những số phận con người trong những hoàn cảnh xã hội cụ thể.
  • 17. 13 Đó có thể là một xã hội đầy biến động, rối ren, loạn lạc với giặc giã, trộm cướp, với những cuộc nội chiến trong Truyền kì mạn lục hay Lan Trì kiến văn lục. Trong hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục, có những truyện vẽ nên hình ảnh một đất nước “binh biến rối ren” (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu), “người chết chóc nhiều, những oan hồn không có chỗ tựa nương thường họp lại thành từng đoàn, từng lũ” (Chuyện tướng Dạ Xoa). Lan Trì kiến văn lục cũng ghi lại một thời kì “giặc cướp nổi lên như ong, lại thêm mất mùa, dịch bệnh” (Dốc Lôi Thủ). Xã hội phong kiến trong các sáng tác truyền kì là một xã hội nhiều tệ lậu với những hôn quân, những quan tham lại nhũng bè phái nhau hãm hại dân lành. Những tên vua quan đó có khi được miêu tả trực tiếp, có khi được ẩn dụ gián tiếp qua hình ảnh quỷ thần hoặc loài vật. Đọc Truyền kì mạn lục, ta thấy hình ảnh những vị vua nhà Lê thời suy vong (Lê Uy Mục, Lê Tương Dực) qua hình ảnh của vua Hồ Hán Thươnng trong Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na. Hiện lên trong truyện ngắn này là một vị vua “dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn kho của để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng, lòng dân động lay…” [11,tr.176]. Trong khi đó, quan lại khi quyền cao lộc hậu thì tham của đút lót, “kêu xin chạy chọt lúc nào cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy”, nhờ đó mà ăn chơi xa hoa “khoản đãi khách khứa mỗi ngày tốn phí đến hàng chuông thóc” [11,tr.199] Không những thế, như Lý Hữu Chi trong Chuyện Lý tướng quân lại còn “dựa lũ trộm cướp coi như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho ruộng đất, đi kiếm những kì hoa đá lạ từ bên huyện khác đem về…” [11,tr.226] Truyện tuy khẳng định đó là vào thời vua Giản Định Đế thời Hậu Trần nhưng thực tế hẳn không xa lạ với xã hội thế kỉ XVI của Nguyễn Dữ. Trong Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào, Nguyễn Dữ mượn lời Tử Hư đã vẽ nên bộ mặt triều đình
  • 18. 14 phong kiến mục ruỗng thời bấy giờ với những tên quan lại chỉ là bọn sâu dân hại nước: “ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm chức sư tư mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà dân nhiều tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà buộc tội oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn nói thi môi mép bẻo lẻo, đến lúc trù tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm chí không nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng, lớn thì làm việc bán nước như Lưu Dự, nhỏ thì làm việc dối vua của Diên Linh.”[11,tr.145] Có khi các tác giả truyện truyền kì mượn hình ảnh của quỷ thần, loài vật để ẩn dụ cho bọn quan lại phong kiến thời bấy giờ. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, hình ảnh “các đền miếu gần quanh đều ăn của đút lót” của hồn ma Bách hộ họ Thôi mà bao che cho hắn, để hắn mặc sức hưng yêu tác quái và lời thổ thần nước Việt vì vậy không thông đạt được lên trên phải chăng là hình ảnh bọn vua quan phong kiến trên cõi trần thời Nguyễn Dữ sống, những tên quan lại bè phái nhau hãm hại dân lành? Đọc Tân truyền kì lục của Phạm Quý Thích, ta thích thú với hình ảnh Nhặng xanh và Ve sầu (truyện Ve sầu và Nhặng xanh). Cuộc đối đáp của hai côn trùng này vẽ nên tích cách của hai loại người. Ve sầu tượng trưng cho nhà Nho quân tử giàu lòng tự trọng, trong khi đó Nhặng xanh là hình ảnh của bọn mọt nước sâu dân, không chút tự trọng, liêm sỉ, chỉ cần biết vơ vét cho túi tham của mình. Trong hoàn cảnh xã hội như vậy, cuộc sống của nhân dân muôn phần khổ sở. Quyền sống của con người không được trân trọng, hạnh phúc bị chà đạp, đặc biệt người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh hơn cả. Người dân sống dưới ách cai trị của những vua quan như vậy hẳn nhiên chịu cực khổ trăm bề, phải “phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều tai sưng vai rách, rất là khổ sở…” [11,tr.226]. Có những gia đình nghèo khó đến nỗi chẳng có tiền làm ma khi người thân qua đời, phải bán vợ đợ con, như trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang (Truyền kì mạn lục), người mẹ vì không tiền để đưa ma chồng về quê đã bán người con gái nhỏ cho một nhà phú thương. Những người phụ nữ trong xã hội ấy,
  • 19. 15 dù đoan chính, dịu hiền, mẫu mực như Vũ Nương (Chuyện người thiếu phụ Nam Xương – Truyền kì mạn lục), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu – Truyền kì mạn lục) hay táo bạo, phá phách như Túy Tiêu (Chuyện nàng Túy Tiêu) thì cũng đều chịu kết cục đau đớn, hoặc bị nghi oan đến phải trầm mình (Vũ Nương), hoặc bị biến thành vật gán nợ thua bạc (Nhị Khanh) hoặc bị cướp về làm thê thiếp (Túy Tiêu), hoặc bị ép uổng không lấy được người mình yêu để đến nỗi đau buồn mà mất (Chuyện tình ở Thanh Trì – Lan Trì kiến văn lục). Xã hội đó cũng là một xã hội đầy những kẻ bất nhân với những nho sĩ lừa thầy phản bạn, kẻ phú thương hay quan lại cậy tiền của cướp vợ người. Đây là lời của Dương Trạm, nhận xét về những người “mặc áo nhà nho” thời nhà Trần, mà có lẽ không khác thời nhà Lê lúc Nguyễn Dữ sống là mấy: “Ngày nay những người mặc áo nhà nho, đeo dải nhả nho thì lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên để đi thi; hễ trượt thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông ngạo tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo thì lãng tránh, gặp bạn nghèo thì làm ngơ, không biết rằng ngày thường dẫn dắt rèn cặp phần nhiều là công đức của thầy bạn. Vả như ta ngày xưa, dạy có đến mấy nghìn học trò, giao du ở kinh đô có rất nhiều bè bạn thế mà sau ta mất, nghe có người đai vàng, mũ bạc, có người quan cả, ngôi cao nhưng không hề một ai tìm đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên một vài chén rượu.” [11,tr.144] Trong Chuyện nàng Túy Tiêu, Túy Tiêu dù đã là vợ của Nhuận Chi, nhưng vẫn bị quan Trụ quốc họ Thân bắt cướp mang về làm của mình, dù Nhuận Chi làm đơn kiện tận triều đình nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn nên các tòa các gác đều không dám xét xử. Như vậy, kẻ bất nhân lại được triều đình phong kiến dung túng, mặc sức làm càn. Hay như Đỗ Tam trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, vì ham vợ đẹp củaTrọng Quỳ nên lấy lợi dử chàng, bày trò đánh bạc mà vật đặt cược lại là Nhị Khanh, vợ Trọng Quỳ, nhân đó mà lấy được Nhị Khanh, đến nỗi nàng đau lòng phẫn uất mà thắt cổ chết. Trong Tân truyền kì lục, với truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa, Phạm Quý Thích một mặt ca ngợi những con người sống ân nghĩa qua hình ảnh chú chó Hàn
  • 20. 16 Lư, mặt khác ngầm phê phán những kẻ bất nhân, đổi mặt thay lòng, không bằng một con vật. Ví như người chủ nhà họ Nguyễn, vì chê cung cách thầy đồ Đào Cảnh Long hèn kém nên đối xử bạc bẽo, dù đó là thầy dạy học ở nhà mình; hay như người nhà giàu họ Trương, vì thấy chú chó Hàn Lư là con vật kì lạ, muốn lôi kéo về với mình mà bảo Hàn Lư bỏ nghèo theo giàu, bỏ người chủ hiện thời mà theo hắn và bị Hàn Lư đáp trả thông minh, đầy tình nghĩa khiến phải sững sờ. Đọc Lan Trì kiến văn lục, ta đau lòng khi thấy có kẻ vì ham vợ kế đẹp đẽ mà nỡ giết con, mang con vào rừng cho hổ dữ ăn thịt; có người chồng một phút ghen tuông mà giết vợ; có người anh tham lam chiếm hết gia tài… Đó là hình ảnh hiện thực xã hội phong kiến trong thời kì suy tàn. Không chỉ giàu giá trị hiện thực, những sáng tác thuộc thể loại truyền kì còn đầy giá trị nhân đạo và đậm chất nhân văn. Các tác phẩm truyền kì ca ngợi tài năng và phẩm chất tốt đẹp của con người, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của các tác giả với những số phận bất hạnh, từ đó lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người bị chà đạp trong xã hội xưa; đồng thời cũng đồng cảm với những khát vọng chân chính của con người như khát vọng khẳng định mình, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Đọc truyện truyền kì, từ Truyền kì mạn lục đến Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục…, ta đều có thể bắt gặp những nhân cách cao thượng đáng quý, những con người vì dân trừ hại, đặc biệt là những người phụ nữ tài sắc, tiết nghĩa, thủy chung. Đọc Truyền kì mạn lục , ta sẽ gặp những con người chọn cách sống nghèo khó mà thanh bạch, không chấp nhận vào luồn ra cúi, công hầu giàu sang mà hại dân, hại nước. Họ không màng đến bổng lộc triều đình, nếu đó là một triều đình mục ruỗng, thối nát. Tiêu biểu cho hình tượng này là nhân vật người tiều phu trong Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na. Khi được Trương Công, quan hầu của Hồ Hán Thương mời về triều, đã mỉm cười trả lời: “Ta là kẻ ẩn dật trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà
  • 21. 17 ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn chứ có biết gì đầu ở ngoài là triều đại nào, là vua quan nào” [11,tr.173]. Khi được Trương Công cố gắng thuyết phục, tiều phu đáp: “Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm Tử Lăng không đem chức giám nghị ở Đông Đô đánh đổi khói sóng Đồng Thủy, Khương Bá Hoài không đem bức tranh vẽ của Thiên tử làm nhơ non nước Bành Thành. Tài ta tuy kém, so với người xưa chưa bằng được. Nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Vệ Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến, kể thì cũng được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường tiến sĩ, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiển, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong núi nữa. Vậy xin ông đi đi, đừng lôi thôi nữa.” [11,tr.174] Trước lời đánh giá cho rằng tiều phu cố chấp, người ẩn sĩ trả lời: “Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình trong cái trào định trọc loạn, lại còn kéo người khác để cùng đắm với mình.” [11,tr.178] Lời đáp của tiều phu là lời đáp của một con người khẳng khái, cương trực, tin ở tài năng và đức độ của mình, không thích bị trói buộc bởi lợi danh, càng chán ghét cảnh triều định trọc loạn, giữ tiết tháo trong sạch, thanh cao. Trong các sáng tác truyền kì, ta cũng bắt gặp không ít những nhân vật, có thể là hàn nho, có thể là nông dân, nhưng đều không sợ gian tà, ma quái mà giúp dân trừ hại. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trong Truyền kì mạn lục ghi lại sự việc chàng Ngô Tử Văn vì bất bình trước việc ngôi đền nổi tiếng là linh thiêng nay lại bị hồn ma quấy nhiễu, tác oai tác quái trong dân lành mà ra tay đốt đền, dù biết rằng có thể gặp tai vạ. Đến khi bị bắt xuống âm ti, trước những lời lẽ vu khống của Bách hộ họ Thôi, trước Diêm Vương đầy uy quyền và trong không khí rùng rợn của cõi âm, chàng vẫn khẳng khái đối đáp, đấu tranh giành công lí về mình. Trong chuyện Rồng (Lan Trì kiến văn lục), người chồng sau khi vợ mất vì bị rồng làm hại, đã tìm cách trừ rồng, vừa trả thù cho vợ, vừa giúp dân diệt được loài vật hại người. Đặc biệt, trong truyện truyền kì, nhân vật người phụ nữ tài sắc, có những phẩm chất tốt đẹp xuất hiện nhiều, đánh dấu một bước phát triển của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học trung đại. Họ thường được khắc họa là những người phụ
  • 22. 18 nữ có nhan sắc, có tài năng văn chương, đàn hát, có tình cảm thủy chung, hiếu thuận. Đó là nàng Nhị Khanh, người nghĩa phụ đất Khoái Châu (Truyền kì mạn lục) hiếu thảo, thủy chung, tiết nghĩa. Khi cha chồng nàng là Phùng Lập Ngôn phải đi công cán xa nhà, vào nơi nguy hiểm, dù thương chồng, không muốn xa chồng nhưng Nhị Khanh vẫn khuyên chồng đi theo hầu hạ, chăm sóc cho cha già, còn mình chịu cảnh đơn chiếc nơi quê nhà. Người chồng đi nhiều năm không về, không có tin tức, ở nhà có người giàu sang đem bạc vàng hỏi cưới, người cô của Nhị Khanh cũng ép uổng nàng phải lấy kẻ ấy, Nhị Khanh vẫn không suy suyển, một lòng chờ chồng, cho người bõ già đi tìm chồng để vợ chồng đoàn tụ. Thế nhưng, Trọng Quỳ chồng nàng vì ham mê cờ bạc mà để Nhị Khanh trở thành vật gán nợ cho Đỗ Tam. Nhị Khanh chọn cách quyên sinh chứ không làm vợ người khác. Sau khi mất, hồn được trở về dương gian, Nhị Khanh còn dẫn hướng cho con. Nhị Khanh là hình mẫu tiêu biểu của người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến xưa. Đó cũng có thể là nàng Vũ Thị Thiết, đối với mẹ chồng hết mực hiếu thảo, đối với chồng một dạ thủy chung. Ngày tiễn chồng ra trận, Vũ Nương ân cần dặn dò, thể hiện sự quan tâm lo lắng chân thành, một tình yêu thật sự dành cho chồng. Lời tiễn biệt của nàng cho thấy nàng không ham giàu sang, danh lợi, phong hầu chức tước, chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó là biểu hiện của một tình cảm sâu sắc, chân thành đáng quý. Những ngày chồng ra trận xa nhà, Vũ Nương hầu hạ mẹ chồng hết mực chu đáo, khi mẹ chồng bệnh nàng hết sức thuốc thang, lễ bái, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Vắng chồng đằng đẵng hàng năm trời, nàng vẫn giữ tiết hạnh, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Xa chồng, nhớ chồng, nàng tự trỏ bóng mình trên vách mà bảo rằng đó là chồng nàng. Hình ảnh ấy thể hiện tình cảm thủy chung nàng dành cho chồng, tựa hồ như tự nói với mình hai người gắn bó như hình với bóng. Cùng với Nhị Khanh, Vũ Nương trong Truyền kì mạn lục, ta có thể kể đến cô gái họ Trần trong Chuyện tình ở Thanh Trì (Lan Trì kiến văn lục). Người con gái ấy một khi đã yêu thì yêu hết lòng, khi tình yêu bị cha mình ngăn cản vì sự cách biệt giàu nghèo, nàng đã tìm cách giúp
  • 23. 19 Nguyễn Sinh, người nàng yêu, có thể lo liệu sính lễ. Tiếc là chàng vì phẫn chí đã bỏ nhà đi. Đau buồn vì không đến được với người mình yêu, cô gái sinh bệnh rồi mất, tim hóa thành một khối đỏ như son, trong như gương, búa đập không vỡ. Hình ảnh khối đỏ như son ấy là biểu tượng cho tấm lòng thủy chung trong tình yêu của người con gái đáng thương ấy. Những người phụ nữ ấy không chỉ xinh đẹp, đức hạnh mà còn là những con người tài năng. Xây dựng hình mẫu những người phụ nữ tài hoa trong một xã hội phong kiến vốn trọng nam khinh nữ là một bước tiến của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam lúc bấy giờ. Nàng Túy Tiêu trong Chuyện nàng Túy Tiêu là một người phụ nữ như vậy. Nàng không chỉ xinh đẹp, nàng còn rất giỏi thơ văn, có khiếu thông tuệ, chỉ trong một năm đã làm được thơ từ ngang với Nhược Chân. Hay nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả), về nghề âm luật lại càng tinh thông, thổi ống tiêu gảy đàn không khác gì Tương Phi và Lộng Ngọc[37,tr.137]. Cũng trong Truyền kì tân phả, cung phi Bích Châu Nguyễn Cơ khiến người đọc yêu mến vì tài thơ phú, thông hiểu âm luật, lại giỏi cả việc chính sự, khuyên can vua những điều đúng đắn, ích nước lợi dân. Ta còn ngưỡng mộ nàng bởi lòng can đảm, đức hi sinh khi chấp nhận làm vật tế thần để cứu vua. Trước khi mất còn dặn dò vua những điều gan ruột: “xin bệ hạ sửa văn, nghi võ, kén dùng người hiền lành, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối” [25,tr.336]. Người cung phi họ Nguyễn ấy hẳn đã được xây dựng bằng tất cả sự trân trọng của tác giả dành cho nhân vật của mình. Người con gái của Quận công trong Liên Hồ quận công (Lan Trì kiến văn lục) được Vũ Trinh ca ngợi là “thông tuệ lạ thường, chỉ liếc mắt trông qua sách một lần là đã thuộc lòng”, “giá như dùng văn chương ở nơi quán các, đem võ nghệ dùng ở trận mạc chưa chắc ai đã đối địch được” [25,tr.438]. Quả thật, trong các sáng tác truyền kì, ta không khó tìm thấy những nhân vật nữ tài năng, đức hạnh dù xuất thân cao sang hay nghèo khó. Truyền kì phản ánh những khát vọng trần thế của con người, ca ngợi tình yêu tự do, đồng cảm với khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong xã hội phong kiến nhiều chế
  • 24. 20 định khắt khe. Tình yêu trong những sáng tác truyền kì có thể là tình yêu giữa những người thế tục, có thể là tình yêu giữa con người trần thế với thần tiên giáng trần, với hồn hoa, vật hóa người hay tình yêu giữa người với yêu ma… Đó có thể là cuộc tình trong mộng, có thể là cuộc tình ngoài đời thực; có cuộc tình từ đời thực đi vào trong mộng, và ngược lại, có những cuộc tình từ trong mộng mà thành thực. Nhưng dù là giữa người cõi trần với cõi âm hay với tiên giới, là cuộc tình trong mộng hay trong cõi thực, tình yêu ấy đều có sự đắm say, mãnh liệt, thậm chí cực kì táo bạo, vượt thoát khỏi mọi sự ràng buộc, chấp nê. Thánh Tông di thảo với truyện Duyên lạ xứ Hoa đã ghi lại cuộc tình trong mộng giữa Chu Sinh, một học trò nghèo và Mộng Trang, một nàng tiên bướm. Cuộc tình êm đềm, ngọt ngào trong giấc mộng kéo dài hơn hai năm và rồi Chu Sinh chấp nhận rời bỏ vinh hoa phú quý cõi trần để sum họp cùng Mộng Trang nơi xứ Hoa. Đọc Truyền kì mạn lục, độc giả có thể xúc động với những cuộc tình son sắt đầy cảm động của những chàng trai, cô gái xưa. Đó là mối tình giữa Nhuận Chi và Túy Tiêu, giữa Phật Sinh và Lệ Nương. Khi Túy Tiêu bị bắt về làm thê thiếp của Thân Trụ quốc, nàng và Nhuận Chi vẫn tìm cách gặp nhau, thổ lộ tâm tình và đấu tranh cho tình yêu của mình để cuối cùng được sum họp, vợ chồng ăn ở đến già. Còn nàng Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương, khi bị bắt vào trong cung vẫn tìm cách liên lạc với Phật Sinh, đến khi rơi vào tay giặc, người phụ nữ ấy tự tận ở quê hương chứ không chấp nhận làm cô hồn nơi đất Bắc. Và chàng Phục Sinh, một lòng yêu Lệ Nương, đã lặn lội nước non lần tìm theo tung tích của nàng, rồi đầu quân theo vua Giản Định mong cậy thế quân của vua mà đánh úp cướp lại Lệ Nương. Khi biết Lệ Nương đã tự vẫn, Phục Sinh buồn rầu quay về, từ đấy không lấy ai nữa. Có lẽ thời ấy hiếm có trang nam tử nào chung tình như chàng Phục Sinh vậy. Cuộc tình giữa Trung Ngộ và Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), giữa nàng Hàn Than với sư Vô Kỉ (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị) có lẽ là hai trong những cuộc tình phóng túng nhất, tự do nhất trong lịch sử văn học trung đại. Trong hai cuộc tình đó, ta thấy được khát vọng tình yêu, khát vọng sống mãnh liệt, táo bạo của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nàng Nhị Khanh chết khi tuổi đời còn quá trẻ và lòng vẫn đầy khao khát yêu thương. Mối tình giữa
  • 25. 21 hồn ma Nhị Khanh với chàng thư sinh Trình Trung Ngộ hẳn nhiên không được xã hội bấy giờ ủng hộ. Thế nhưng, tình cảm ấy quá mãnh liệt, và Trung Ngộ cũng hóa thành hồn ma để đêm ngày quấn quýt bên Nhị Khanh. Hình ảnh của họ khi đã là hồn ma với thân thể lõa lồ cùng nhau nô giỡn như phá tung cả trật tự xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nàng Nhị Khanh, ngay từ ngày đầu gặp Trung Ngộ, đã bộc lộ khát vọng sống mãnh liệt của mình, khát vọng ấy, hẳn nhiên, đi ngược lại với quan niệm của Nho giáo phong kiến lúc bấy giờ: “Nghĩ đời người ta thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa.” [11,tr.37] Lời nói của Nhị Khanh quả thật tưởng chừng như đã đạp đổ hoàn toàn quan niệm trung trinh tiết hạnh, đoan chính đè nặng lên người phụ nữ thời bấy giờ. Tìm trong văn học trung đại hình ảnh người phụ nữ táo bạo nhường ấy dễ được mấy người. Cùng một dạng tình yêu như tình yêu giữa Nhị Khanh và Trung Ngộ có thể kể đến tình yêu giữa nàng Hàn Than và sư Vô Kỉ, và nàng Hàn Than cũng có những nét tính cách phá cách như Nhị Khanh. Nàng Hàn Than khi bị vợ quan Hành khiển ghen tuông hành hạ, đã thuê thích khách báo thù. Chỉ riêng hành động đó cũng đã không thể nào chấp nhận được trong xã hội phong kiến. Tìm đến nơi cửa Phật, niềm khao khát tình yêu trần tục trong Hàn Than vẫn chưa dứt. Nàng tư thông với sư Vô Kỉ, hai người yêu nhau, mê đắm say sưa. Nhưng cả Hàn Than và Nhị Khanh đều không có được một kết cục tốt đẹp. Vẫn chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến lúc bấy giờ, kể về những mối tình này, lời văn của Nguyễn Dữ táo bạo, phóng túng nhưng lời bình luôn là những lời phê phán. Kết thúc của những câu chuyện tình yêu này cũng phần nào phản ánh quan niệm bảo vệ lễ giáo phong kiến của tác giả. Những mối tình ấy thách thức xã hội phong kiến, quan niệm của Nho giáo từ xưa đến nay thế nên tất yếu sẽ có kết cục bi thảm. Tuy nhiên, điều đó vẫn không ngăn được giá trị nhân văn, nhân bản toát ra từ hình tượng nhân vật, từ các câu chuyện tình yêu này. Bởi lẽ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ trong những mối tình này, trong hình ảnh của Nhị Khanh, Hàn Than là những khát khao mãnh liệt của tuổi trẻ, khát vọng giải phóng tình cảm bản năng, khát vọng
  • 26. 22 sống mạnh mẽ, ý chí vươn lên giành quyền sống, quyền làm người dù bị vùi dập như thế nào chăng nữa. Nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả) cũng được xây dựng như một nhân vật nữ khao khát tình yêu trong cuộc sống trần thế. Nàng tiên ấy giáng trần làm vợ Đào sinh. Khi về chầu trời, trần duyên chưa dứt lại hạ trần gian, chủ động tìm đến với tình duyên kiếp trước. Và khi lên Cung tiên, mãn hạn công cán, lại nhớ duyên ước ba sinh, tâu xin Thượng đế cho giáng sinh xuống cõi trần. Rõ ràng, với nàng tiên ấy, hạnh phúc không ở nơi chốn xa xôi, hạnh phúc là ở ngay trong cõi đời thực này, được sống tự do với chí nguyện của mình, với tình yêu của mình. 1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật Không khó để ta nhận ra sự ảnh hưởng của văn học dân gian đến các tác phẩm truyền kì. Ta dễ dàng bắt gặp trong những sáng tác truyền kì những câu chuyện mang cốt truyện dân gian hoặc dã sử, các môtip quen thuộc trong truyện dân gian. Và có không ít những truyện truyền kì vốn là những truyện dân gian được sáng tạo lại. Trong Thánh Tông di thảo có truyện Chồng dê. Ngay nhan đề của truyện cũng đã khiến ta nhớ đến kiểu truyện người lấy vật rất quen thuộc trong truyện cổ tích thần kì của văn học dân gian (như những truyện Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê). Và diễn biến của truyện tưởng cũng không khác lắm so với chuyện cổ tích. Người con gái hiếu thuận nết na, có được người chồng vốn là thần tiên trên trời vì phạm lỗi mà bị đọa, ẩn hình trong dáng dê. Người chồng dê đẹp hơn Tống Ngọc, Phan Lang ấy phải chăng là phần thưởng xứng đáng cho cô gái có tấm lòng hiếu thảo? Cũng trong Thánh Tông di thảo, truyện Ngọc nữ về tay chân chủ ít nhiều mang dáng dấp của truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh với chi tiết Ngọc Hoàng kén rể, Sơn thần và Thủy thần đến thi tài để được vợ. Một số truyện trong Truyền kì mạn lục có nguồn gốc truyện dân gian rất rõ như Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên vốn được sáng tạo lại từ truyện Từ Thức lên tiên trong dân gian hay Chuyện người con gái Nam Xương cũng là một phóng tác từ truyện cổ tích Vợ chàng Trương.
  • 27. 23 Truyện Vân Cát thần nữ trong Truyền kì tân phả lại được biết đến như một tác phẩm sáng tạo lại dựa trên những truyền thuyết về bà chúa Liễu Hạnh, một trong Tứ Bất Tử nổi tiếng trong văn học và văn hóa dân gian. Mối tình của chàng trai nghèo làm nghề lái đò giỏi ca hát với nàng tiểu thư nhà giàu họ Trần trong Chuyện tình ở Thanh Trì (Lan Trì kiến văn lục) ít nhiều khiến ta nghĩ đến mối tình chàng Trương Chi tội nghiệp và cô Mị Nương xinh đẹp trong truyện cổ tích. Nếu truyện cổ tích kết thúc bằng cái chết của Trương Chi và hình bóng chàng lái đò thổi sáo tan trong chén nước khi có nước mắt của tiểu thư Mị Nương rỏ vào thì ở đây lại kết thúc bằng cái chết của cô gái và trái tim hóa thành một khối đỏ như son của nàng tan thành máu tươi, chảy đầm đìa trên tay áo chàng trai khi hai hàng lệ của chàng trào xuống khối đá ấy. Dù có sự khác biệt, cả hai mối tình ấy đều khiến ta cảm động bởi sự thủy chung son sắt của người trong cuộc. Cũng trong Lan Trì kiến văn lục, ta đọc thấy truyện Ông Tiên ăn mày và ta có thể ngờ rằng đây là một câu chuyện cổ tích được ghi chép lại bởi nó mang nội dung chủ đề, diễn biến cốt truyện rất điển hình của một truyện cổ tích, kiểu truyện quá đỗi quen thuộc với bao người Việt Nam. Đó là câu chuyện về hai anh em Giáp (người anh) và Ất (người em). Người anh tham lam keo kiệt, có người vợ cũng thô bạo xấu xa, tranh cướp hết tài sản của cha để lại, người em hiền lành chăm chỉ chỉ được gian nhà nát cùng một khoảnh ruộng xấu. Khi gặp người ăn mày tội nghiệp, người em đối đãi tử tế, và được người ăn mày (vốn là tiên giả dạng) đền ơn và trở nên giàu có. Người anh tham lam khi biết chuyện, muốn được giàu có như em nên đi tìm người ăn mày ấy. Ngờ đâu, gặp người ăn mày thật, không phải là tiên giả dạng, người anh vì đánh cụ già ăn mày đó, bị thưa kiện lên quan và vợ chồng người anh bị trừng trị. Quả thật, kiểu truyện này không hề xa lạ với bất cứ người nào ưa thích truyện cổ tích. Diễn biến của đại đa số các truyện truyền kì khá tương đồng với diễn biến trong truyện cổ dân gian. Mở đầu mỗi truyện là đôi dòng giới thiệu về nhân vật, tiếp đó kể về những sự việc thể hiện phẩm chất của nhân vật hoặc cuộc đấu tranh thiện ác giữa nhân vật chính và nhân vật phản diện và kết thúc thường là kết thúc có hậu, kẻ ác bị
  • 28. 24 trừng trị, người hiền được báo đáp, chính nghĩa thắng gian tà. Có thể thấy rõ đặc điểm này trong những truyện thuộc tuyển tập Truyền kì mạn lục. Ta thử khảo sát vài truyện làm ví dụ. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên bắt đầu bằng những dòng giới thiệu về nhân vật chính: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khẳng khái nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc vẫn khen là người cương trực” [11,tr.115]. Tiếp đến là sự kiện Ngô Tử Văn đốt đền tà và những tình tiết xoay quanh việc đốt đền thể hiện bản tính cương trực, cứng cỏi của Ngô Tử Văn. Và kết thúc bằng việc Bách hộ họ Thôi bi đày vào ngục Cửu u, mồ bị phá tung. Hay Chuyện người con gái Nam Xương cũng có diễn biến cốt truyện tương tự. Sau đôi dòng khái quát về nhân vật Vũ Nương: “Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp…” là những sự việc khắc họa phẩm chất hiếu thảo, thủy chung của Vũ Nương cùng nỗi oan tình của nàng: sự kiện mẹ chồng bệnh rồi mất, việc nàng trỏ bóng mình bảo là cha bé Đản, việc Trương Sinh nghi ngờ nàng thất tiết khiến nàng phải trầm mình tự vẫn. Kết thúc bằng sự kiện Vũ Nương được giải oan, và sống sung sướng dưới thủy cung. Cùng kiểu kết cấu này có thể kể đến Chồng dê (Thánh Tông di thảo ), Ông tiên ăn mày, Lan quận công phu nhân (Lan Trì kiến văn lục)… Nói truyện truyền kì gần với văn học dân gian còn bởi vì có thể bắt gặp trong truyện truyền kì những môtip ta vẫn thường gặp trong truyện cổ dân gian: mô tip người lấy vật, mô tip về sự thụ thai hay ra đời thần kì, mô tip nằm mộng, được điềm báo, mô tip vợ bị cướp, mô tip xuống thủy cung, âm ti, hay lên thiên tào, cõi tiên… Mô tip người lấy vật có thể kể đến những truyện: Chồng dê, Duyên lạ xứ Hoa (Thánh Tông di thảo ), Chuyện kì ngộ ở trại Tây (Truyền kì mạn lục), Mô tip về sự thụ thai thần kì có: Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Truyền kì mạn lục), Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả). Mô tip nằm mộng, được điềm báo có thể thấy trong rất nhiều truyện truyền kì: Duyên lạ xứ Hoa (Thánh Tông di thảo), Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Truyền kì mạn lục), Tháp Báo Ân (Lan Trì kiến văn lục), … Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với truyện truyền kì sẽ được chúng tôi bàn kĩ hơn ở chương 2,
  • 29. 25 “Truyền kì : cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết”. Làm nên đặc trưng nổi bật nhất của thể loại truyền kì đó chính là sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và những yếu tố hoang đường, kì ảo. Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới siêu nhiên có sự tương giao. Đến với truyền kì, người đọc có thể phiêu diêu qua nhiều cõi khác nhau. Đó có thể là cõi tiên mê hoặc lòng người, là chốn thủy phủ lộng lẫy, có thể là nơi địa phủ rùng rợn… Cùng với không gian huyền ảo ấy, bên cạnh những con người phàm trần là những nhân vật không thuộc về thế giới người như tinh vật, yêu ma, thần tiên… Từ Thánh Tông di thảo đến Lan Trì kiến văn lục, ta đều có thể bắt gặp những nhân vật siêu nhiên ấy trong một thế giới ảo huyền. Đang trong thế giới thực của cõi trần, theo giấc mộng của chàng Chu sinh, ta có thể đến với xứ Hoa đẹp đẽ của vương quốc bướm (Duyên lạ xứ Hoa –Thánh Tông di thảo ), đi cùng Phạm Tử Hư lên thiên tào, nơi có những bức tường bao quanh, cửa lớn khảm trai lộng lẫy, lầu châu điện ngọc… (Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào- Truyền kì mạn lục), hay cùng Thái thú họ Trịnh xuống Long cung đối tụng (Chuyện đối tụng ở Long cung – Truyền kì mạn lục), hoặc theo hồn Tử Văn xuống địa phủ gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương, hai bên đầy những quỷ dạ xoa mắt xanh nanh trắng để dự phiên tòa Diêm Vương xử án Bách hộ họ Thôi (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kì mạn lục), hay cũng có thể theo Thái Công vào giấc mơ để lên chốn Bồng Lai với thành vàng sừng sững, cửa ngọc mở toang, có hành trăm người cầm hốt phách, tấu nhạc quân thiều, múa điệu nghê thường (Vân Cát thần nữ - Truyền kì tân phả)… Con người có thể đi về giữa những thế giới khác nhau ấy, và các nhân vật siêu nhiên thuộc thế giới kì ảo đó cũng có thể tìm đến với cõi trần, kết giao với người trần. Nhân vật trong truyền kì cũng là nhân vật trong thế giới hoang đường. Đó có thể là những tinh vật hóa người như nàng Mộng Trang (bướm hóa người – Duyên lạ xứ Hoa – Thánh Tông di thảo), nàng Đào, Liễu (Chuyện kì ngộ ở trại Tây – Truyền kì mạn lục), nàng Ngọa Vân (hải tiên, trong Chuyện lạ nhà thuyền chài – Thánh Tông di thảo); là những u hồn, trệ phách như Nhị Khanh (Chuyện cây gạo – Truyền kì
  • 30. 26 mạn lục ), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang – Truyền kì mạn lục); những thần tiên bị giáng cõi trần do phạm phải lỗi lầm nào đó trên tiên giới như người Chồng dê trong câu chuyện cùng tên (Thánh Tông di thảo), Thiên Tích trong Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Truyền kì mạn lục), nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả); có thể là Phật, là Thổ Công, là Diêm Vương, là quỷ Dạ Xoa… Những nhân vật này ta cũng có thể bắt gặp trong truyện cổ dân gian. Tuy nhiên, đến với truyền kì, ý nghĩa vai trò của kiểu nhân vật siêu nhiên này có sự khác biệt so với truyện cổ. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ bàn rõ hơn trong chương sau của luận văn. Chịu ảnh hưởng chung của thi pháp văn học trung đại khi xây dựng nhân vật trong tác phẩm tự sự, nhân vật trong truyền kì thường được xây dựng khá đơn giản, tính cách nhân vật thể hiện qua hành động, ngôn ngữ, ít khi các tác giả đi sâu vào phân tích tâm lí, miêu tả sâu sắc diễn biến tâm trạng nhân vật, nội tâm nhân vật thường ít có sự xung đột, mâu thuẫn. Đây là điểm khác biệt lớn giữa truyện truyền kì với những sáng tác tự sự hiện đại. Có thể lấy một vài truyện làm ví dụ. Để làm bật lên tính cách đoan chính, thủy chung, hết lòng yêu thương chồng con của nàng Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu – Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ đặt nhân vật trong những hoàn cảnh khác nhau, từ thái độ, ngôn ngữ của nhân vật mà bộc lộ vẻ đẹp phẩm chất của nàng. Khi Trọng Quỳ, chồng nàng, quyến luyến vợ mà có ý chần chừ không muốn đi cùng cha khi cha phải công cán ở vùng Nghệ An, Nhị Khanh ngăn bảo: “Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình mà lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê.” [11,tr.21] Lời lẽ của nàng rõ ràng là lời lẽ của một người phụ nữ hiểu đạo nghĩa, một người con dâu hiếu thảo khi phân tích
  • 31. 27 cho Trọng Quỳ thấy những khó khăn mà cha chồng sẽ gặp phải, nhắc lại đạo hiếu tử để khuyên chồng theo chăm sóc cha già. Khi biết bà cô Lưu thị định ép gả mình cho tướng quân họ Bạch, Nhị Khanh lo lắng, sợ hãi. Thế nhưng, nói về nỗi lo lắng của nhân vật, Nguyễn Dữ chỉ ghi lại trong một câu: nghe nói sợ hãi, mất ngủ quên ăn đến hàng tháng, mà không đi sâu miêu tả diễn biến nội tâm, những trăn trở dằn vặt của nhân vật bằng những câu độc thoại, độc thoại nội tâm như ta hay thấy trong truyện hiện đại. Tấm lòng thủy chung của Nhị Khanh được khẳng định qua việc chờ chồng sáu năm trời, không mảy may thay lòng dù phải chịu cảnh chăn đơn gối chiếc; qua việc nàng nhờ người bõ già đi tìm Trọng Quỳ, cũng như việc chọn cái chết khi bị phụ bạc chứ kiên quyết không làm vợ kẻ khác dù kẻ ấy giàu có, quyền thế. Đến khi mất, Nhị Khanh vẫn hiện về hướng chí cho hai con. Những sự việc, lời nói của nhân vật khắc họa được vẻ đẹp nội tâm của nhân vật này. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, để xây dựng Ngô Tử Văn như một nhân vật tiêu biểu cho khí phách cứng cỏi, cương trực, nhân nghĩa, Nguyễn Dữ cũng thông qua thái độ, ngôn ngữ của nhân vật mà làm hiển hiện khí phách ấy. Đốt đền tà vì ngôi đền nổi tiếng là linh ứng nay lại có yêu ma tác quái, hành động ấy đã cho thấy tinh thần dũng cảm vì dân trừ hại của Tử Văn. Trước khi đốt đền, Tử Văn tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi mới châm lửa đốt đền, và trong khi mọi người đều lắc đầu lè lưỡi lo sợ thay cho chàng, Tử Văn vẫn vung tay không cần gì cả. Hành động và thái độ đó của Tử Văn đã cho thấy bản lĩnh cứng cỏi, tin vào việc mình làm, không chút e dè, sợ hãi trước yêu ma của chàng Ngô Soạn. Ta thử xem xét một truyện trong Lan Trì kiến văn lục, truyện Chuyện tình ở Thanh Trì. Tác phẩm đã cho thấy cái nhìn trân trọng của Vũ Trinh đối với người phụ nữ, ở đây là một người phụ nữ thủy chung, mang một mối tình son sắt. Nhà văn khẳng định tình cảm sâu nặng của người con gái họ Trần chỉ bằng một vài câu kể ngắn gọn: thấy mặt chàng rồi nàng không làm sao quên được, nàng nhờ con hầu đem khăn tay đến tặng, dặn con hầu bảo chàng rằng sớm nhờ người qua mai mối. Chúng ta không đọc thấy những dòng văn kể lại những suy nghĩ, ưu tư, những câu miêu tả tâm trạng nhớ nhung bồi hồi của nhân vật. Tấm lòng son sắt thủy chung của cô gái được biểu hiện qua hành động táo bạo:
  • 32. 28 trộm trăm lạng vàng của cha sai người mang đến tặng người yêu để dùng làm đồ sính lễ. Nói về nỗi đau khổ của nàng khi tình yêu bị ngăn cản, Vũ Trinh cũng không đi vào kể sâu, tả kĩ. Ta cảm nhận và cảm thông với nỗi đau của nhân vật qua lời kể súc tích của tác giả: nàng âm thầm đau khổ chẳng thể cùng ai giãi bày, chỉ biết ngắm bóng mình mà nuốt lệ. Dần dần nàng sinh bệnh, chân tay rời rã, vóc dáng gầy mòn. Mối u tình lắng đọng thành khối đá trong lòng, thuốc men chạy chữa bao nhiêu cũng vô hiệu. Kể ngắn gọn, không đi sâu khắc họa nội tâm đau đớn của nhân vật, nhưng với những dòng văn ấy, nỗi đau của nhân vật vẫn hiện lên chân thật, sâu sắc, từ đó mà tấm lòng thủy chung của nàng tỏa sáng. 1.3. Một số tác phẩm truyền kì tiêu biểu 1.3.1. Thánh Tông di thảo Được xem là tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến đột khởi của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện, đều được viết bằng chữ Hán. Đầu sách có bài tựa của tác giả, cuối mỗi truyện có lời bình của Sơn Nam Thúc. Về tác giả của tác phẩm này, hiện vẫn còn nhiều nghi vấn. Phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm tập hợp nhiều truyện kí, trong đó có những truyện kí của vua Lê Thánh Tông. Theo Từ điển Văn học, xét về tính chất loại hình, Thánh Tông di thảo gồm những truyện truyền kì, ngụ ngôn, tạp kí. Dù rằng tác phẩm không phải chỉ là tập hợp những truyện truyền kì nhưng theo chúng tôi, có thể nói, Thánh Tông di thảo đánh dấu sự ra đời và phát triển của thể loại truyền kì trong văn học trung đại Việt Nam. Dù tên tác phẩm không có từ truyền kì nhưng yếu tố truyền kì đã xuất hiện rất rõ trong một số truyện của Thánh Tông di thảo như Duyên lạ xứ Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài, Tinh chuột, Chồng dê, Hai gái thần… Nhiều truyện ngắn trong Thánh Tông di thảo thể hiện cái nhìn nhân đạo khá mới mẻ của người kể khi đề cập đến tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa đôi, thể hiện sự bao dung, cảm thông với nhu cầu tình cảm của con người. Tác phẩm cũng cho thấy sự trân trọng dành cho người phụ nữ khi xây dựng các nhân vật nữ là những con người nết na, đức hạnh, giỏi giang.
  • 33. 29 1.3.2. Truyền kì mạn lục Là tác phẩm tiêu biểu nhất cho thể loại truyền kì của văn học trung đại Việt Nam, Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ. Tác phẩm được Vũ Khâm Lân, nhà văn thế kỉ XVIII, đánh giá là “thiên cổ kì bút” và tiến sĩ Phạm Hùng, nhà nghiên cứu văn học hiện đại, khẳng định: Nguyễn Dữ là nhà tiểu thuyết truyền kì nổi tiếng nhất của Việt Nam thời trung đại và Truyền kì mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kì bút”, một cái cột mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. [11, trang bìa 4] Truyền kì mạn lục có nghĩa là ghi chép những câu chuyện tản mạn được lưu truyền. Nhan đề cho thấy sự khiêm tốn của tác giả. Bởi lẽ, Truyền kì mạn lục không chỉ là một quyển sách ghi chép đơn thuần mà thật sự là một sáng tác của Nguyễn Dữ với sự gia công, hư cấu sáng tạo đặc sắc của nhà văn khi viết tác phẩm này dựa trên những truyện được lưu truyền trong nhân dân. Tác phẩm viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện đều có lời bình của tác giả. Hầu hết các truyện kể về các sự việc xảy ra vào đời Lí đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ. Mặc dù vậy, ta vẫn thấy được hiện thực xã hội Việt Nam thế kỉ XVI hiện lên từ đó. Nội dung chủ đề Truyền kì mạn lục khá phong phú. Có truyện đả kích bọn hôn quân bạo chúa, quan tham lại nhũng; có truyện thể hiện chí khí của kẻ sĩ, quan niệm sống lánh đục về trong của sĩ phu ẩn dật; có truyện viết về tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng; có truyện thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ khi đối tượng phê phán là bọn giặc ngoại xâm. Truyền kì mạn lục vì vậy không chỉ giàu giá trị hiện thực mà còn đầy giá trị nhân đạo, nhân văn. Tác giả, thông qua những câu chuyện mang màu sắc truyền kì đã thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ đau của nhân dân, đặc biệt là người phụ nữ; ca ngợi những phẩm chất đẹp và tài năng của con người, thông cảm với những khát vọng tình yêu của tuổi trẻ… Truyền kì mạn lục cũng là một tác phẩm thành công về mặt nghệ thuật. Diễn biến truyện trong các truyện ngắn của Truyền kì mạn lục thường giàu kịch tính, kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật, giữa tự sự và trữ tình, giữa văn
  • 34. 30 xuôi và văn biền ngẫu; nhân vật có tính cách, có số phận riêng. Tác phẩm là sáng tác tiêu biểu cho thành tựu của loại hình văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian (Theo Từ điển Văn học bộ mới). 1.3.3. Truyền kì tân phả Truyền kì tân phả là sáng tác chữ Hán của nhà văn Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm viết bằng văn xuôi, có nhiều bài thơ xen kẽ. tập sách có sáu truyện trong đó có ba truyện được xác định là của Đoàn Thị Điểm là Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An ấp liệt nữ, còn ba truyện sau chưa rõ người viết: Bích Câu kì ngộ, Khuyển miêu đối thoại, Long hổ đấu kì. Có thể thấy nổi bật nhất trong nội dung tư tưởng của Truyền kì tân phả là sự đề cao người phụ nữ. Nhân vật người phụ nữ trong sáng tác này hầu hết là những người có nhan sắc, tài năng, đặc biệt là có phẩm hạnh đoan chính, thủy chung, có tình yêu mãnh liệt. Truyền kì tân phả ra đời sau Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục nhưng xét về mặt nghệ thuật, có nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm này không thành công bằng hai tác phẩm trên, lời văn tác phẩm trau chuốt, hoa lệ nhưng tính chất sinh động, hấp dẫn của tác phẩm không cao hơn so với Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục ra đời trước đó. Tuy nhiên, đây vẫn là tác phẩm cho thấy bước phát triển của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại lúc bấy giờ. 1.3.4. Tân truyền kì lục Là tác phẩm của Phạm Quý Thích, gồm một bài tựa và ba truyện chữ Hán, chủ yếu viết theo dạng ngụ ngôn: Bần gia nghĩa khuyển, Vũ trùng đốc thắng, Khuyển miêu đối thoại. Các truyện đều nói về những con vật có tính cách khác lạ. Theo Nguyễn Huệ Chi, có lẽ tác phẩm được viết sau khi nhà Lê mất, mang nặng tâm sự hoài Lê. 1.3.5. Lan Trì kiến văn lục Được xem là tác phẩm truyền kì cuối cùng của văn học trung đại, Lan Trì kiến văn lục gồm 45 truyện với nhiều đề tài khác nhau: chuyện giáo dục thi cử, chuyện nhân quả báo ứng, chuyện kì quái, chuyện tình yêu nam nữ… Tác phẩm một mặt phê phán nghiêm khắc xã hội đương thời với những chuyện đồi phong bại tục,
  • 35. 31 những kẻ mất nhân tính (cha giết con, chồng giết vợ, …), một mặt thể hiện sự trân trọng, yêu mến cảm thông với những kiếp người khổ đau nhưng phâm chất tốt đẹp, đặc biệt là người phụ nữ. Tác giả cũng thể hiện niềm cảm thông với khát vọng tình yêu, hạnh phúc của con người, vì vậy cũng cho thấy tư tưởng nhân đạo tiến bộ trong nội dung văn học lúc bấy giờ. Truyện của Vũ Trinh thường ngắn gọn, tinh giản, ít thơ từ. Truyện được xây dựng từ các chi tiết đắt, không thể thay thế được trong kết cấu nghệ thuật toàn bộ câu chuyện. 1.4. Quá trình phát triển của thể loại truyền kì Việt Nam Truyền kì là một thể loại quan trọng của văn xuôi tự sự trung đại, vì vậy, có thể thấy, quá trình phát triển của thể loại này khá tương đồng với quá trình phát triển của văn xuôi trung đại nói chung. Ở đây, tham khảo sự phân chia giai đoạn phát triển văn xuôi tự sự trung đại của Nguyễn Đăng Na, so sánh với những tác phẩm là đối tượng nghiên cứu của luận văn, chúng tôi thấy có thể chia quá trình phát triển của thể loại truyền kì thành ba giai đoạn như sau: - Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV. Đây có thể xem là giai đoạn manh nha của thể loại truyền kì. - Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV đến cuối thể kỉ XVI, là giai đoạn phát triển rực rỡ của thể loại này. - Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến cuối thể kỉ XIX, là giai đoạn cáo chung của thể loại truyền kì. 1.4.1. Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV: giai đoạn manh nha của thể loại truyền kì Vào đầu thế kỉ X, khi nền độc lập dân tộc được khôi phục, ý thức về chủ quyền và tự tôn dân tộc cũng phát triển sâu sắc. Ý thức ấy không chỉ thể hiện trên phương diện cương vực lãnh thổ, thể chế chính trị mà còn trên phương diện văn hóa, văn học. Sự ra đời của văn học viết vào thời điểm này đã minh chứng cho điều đó. Ở buổi đầu của văn học viết, văn xuôi tự sự chưa tách khỏi văn học dân gian và văn học chức năng, chủ yếu là chức năng lịch sử, chức năng tôn giáo. Tính chất truyền kì đã xuất hiện ít nhiều trong những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này. Vì lẽ đó,
  • 36. 32 chúng tôi xem đây là giai đoạn manh nha trong quá trình phát triển của thể loại truyền kì. Tiêu biểu cho giai đoạn này có thể kể đến các tác phẩm Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái, … Những tác phẩm này hoặc ghi chép những câu chuyện dân gian, hoặc ghi chép những hành trạng của các vị cao tăng. Và dù là sưu tầm, ghi chép lại truyện dân gian hay ghi chép hành trạng của các vị cao tăng, ghi chép lịch sử tôn giáo thì các truyện trong những tuyển tập này đều có những yếu tố hoang đường, kì ảo; một biểu hiện khá rõ nét của sáng tác truyền kì. Tuy nhiên, các tác phẩm mang dấu ấn của thể loại truyền kì giai đoạn này nhìn chung chưa có sự gia công, sáng tạo rõ rệt của tác giả như ở giai đoạn sau. Việt điện u linh ghi chép sự tích các nhân vật thần linh được thờ phụng tại các đền miếu ở Việt Nam theo ba loại: các vị vua, các bề tôi, những sự tích thiêng liêng. Các nhân vật được tôn làm thần này đều xuất hiện trước đời Trần. Kể về 27 vị thần được thờ phụng, các tác giả không chỉ kể về công trạng lúc sinh thời mà còn nói về sự hiển linh độ dân, giúp nước của họ sau khi mất, theo công thức: dương trợ, âm phù. Chính điều này đã tạo nên những chi tiết hư cấu, tưởng tượng kì ảo xuyên suốt trong tác phẩm. Trong Từ điển văn học Việt Nam - từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, Lại Nguyên Ân đã khẳng định: “bản thân việc thiên về những điều huyền bí như ở đây đã khiến những ghi chép này có thể được xem như một dạng sáng tác huyền thoại và có thể xếp vào thể loại truyền kì” [1,tr.609]. Ta thử xem xét một vài truyện trong tác phẩm này để thấy rõ đặc điểm của những câu chuyện được ghi chép. Trong thiên Bố Cái, Phu Hựu, Chương Tín, Sùng Nghĩa Đại Vương, sau khi kể về lai lịch, cuộc đời của Bố Cái đại vương từ lúc khởi nghiệp cho đến khi mất, tác giả kể lại sự việc Vương hiển linh để giúp dân giúp nước: “Lại nói, khi Hưng mới mất hay hiển linh, mọi người cho rằng Vương là thần, bởi vậy lập miếu thờ ở phía tây của Đô Phủ. Phàm những việc trộm cắp, ngục tụng còn ngờ nếu đến đền miếu để thề thì lập tức họa phúc giáng ngay, bởi thế hương hỏa bất tuyệt. khi Ngô tiên chúa dựng nước, quân phương Bắc vào cõi cướp phá, Tiên chúa lo lắng, đêm mộng thấy Vương tự xưng tên tuổi, nói rằng đã đem trăm ngàn vạn đội thần binh, xin Tiên chúa đốc thúc tiến quân sẽ có âm phù. Bạch Đằng thắng trận, Tiên chúa lấy làm lạ,
  • 37. 33 hạ chiếu xây miếu tôn nghiêm, lại chuẩn bị đầy đủ bảo vũ, hoàng đạo, trống đồng, trống da, âm nhạc, vũ đạo làm lễ Thái loa để tạ ơn…” [25,tr.52] Việc kể lại những sự hiển linh với những chi tiết hoang đường, kì ảo một mặt nhằm khẳng định lòng yêu nước của nhân vật, bất tử hóa những nhân vật lịch sử này, mặt khác thể hiện niềm tự hào, ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật lịch sử. Đây là yếu tố nghệ thuật – nội dung ta dễ dàng bắt gặp trong các truyền thuyết dân gian. Những yếu tố hoang đường, kì ảo trong Việt điện u linh thường gắn với những chi tiết báo mộng, hiện hồn… nói lên anh linh tỏa rộng muôn đời sau của các nhân vật. Thiền uyển tập anh ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XIV, viết về hành trạng của 68 vị thiền sư thuộc các phái Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường. Kể về hành trạng các vị cao tăng, tác phẩm này ngoài những dữ kiện xác định còn có nhiều dữ kiện, tình tiết mang màu sắc kì ảo gắn với sự ra đời thần kì, những hành trạng mang nét huyền hoặc, phi thường và sự tịch diệt cũng có những điểm kì lạ của nhân vật. Cũng như trong Việt điện u linh, ở đây yếu tố huyền thoại được sử dụng như một chi tiết nội dung nhằm đề cao nhân vật có thật trong lịch sử Phật giáo nước ta, đồng thời thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ của người kể đối với những nhân vật ấy. So với Việt điện u linh, cốt truyện của Thiền uyển tập anh phức tạp hơn, tình tiết đa dạng hơn. Trong Từ điển văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, các tác giả đã nhận định: “…các tác giả Thiền uyển tập anh đồng thời cũng là những tác giả của một kiểu sáng tác huyển thoại, kết quả là các thiên tiểu truyện, truyện kí lịch sử ở đây có thể đồng thời được xem như những tác phẩm truyền kì.” [1,tr.481] Trong thiên Thiền sư Ngộ Ấn, tác giả Thiền uyển tập anh ghi nhận sự ra lời kì lạ của sư Ngộ Ấn: người mẹ bỗng dưng có mang sau khi bị một con khỉ lớn từ trong rừng chạy ra ôm lấy lưng mình cả ngày. Kiểu ra đời thần kì này ta vẫn thường gặp trong truyện cổ tích thần kì hoặc truyền thuyết dân gian. Cuộc đời tu hành của các vị sư được ghi lại trong Thiền uyển tập anh cũng thường gắn với những sự kiện kì lạ. Trong thiên Thiền sư Tịnh Giới có kể về khả năng hô phong hoán vũ, ra lệnh cho mưa gió của sư Tịnh Giới. Truyện kể về việc sư cầu đảo thành công khi trời đang đại hạn (năm Trinh Phù thứ hai), chuyện sư cầu cho tạnh mưa để lễ khánh thành