1. KỶ NIỆM 590 NĂM KHỞI NGHĨA LAM SƠN - 580
NĂM VUA LÊ THÁI TỔ ĐĂNG QUANG - 575 NĂM
NGÀY MẤT CỦA ANH HÙNG DÂN TỘC LÊ LỢI
Thursday, 11th September 2008
THƠ CỦA VUA LÊ THÁI TỔ
KHẮC TRÊN VÁCH ĐÁ SÔNG ĐÀ
Năm Nhâm Tý, niên hiệu Thuận Thiên thứ Năm (1432), tháng giêng Lê Thái tổ
thân chinh đánh Mường Lễ. Nguyên do Đèo Cát Hãn vốn là thổ tù, tay sai của giặc
Minh, cấu kết với nghịch thần nước Ai Lao là Kha Lại nổi loạn chống lại triều đình
nhà Lê. Đại binh theo đường thủy sông Đà muôn phần nguy hiểm, tiến vào Mường
Lễ. Kha Lại bị giết, Đèo Cát Hãn chạy trốn. Quan quân bắt hết dư đảng, vua đổi tên
Mường Lễ làm châu Phục Lễ rồi kéo quân về.
Trước đây, khi chưa xây dựng hồ sông Đà ở giang phận thôn Hào Tráng, châu Đà
Bắc, có phiến đá lớn trên sườn núi thác Bờ, khắc bài thơ của Lê Thái tổ (1). Lời tiểu
dẫn đại ý nói: Ta đi đánh Đèo Cát Hãn về qua đây làm một bài thơ ghi lại để cho đời
sau biết... Ta nghĩ đến sinh dân thiên hạ chẳng ngại hiểm trở lam chướng, tìm
2. phương lược đánh giặc, tiến quân bằng đường thủy hai sông Thao, Đà... Thơ đề ngày
tốt tháng ba Nhâm Tý, niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1432).
Phiên âm:
Kỳ khu hiểm trở bất từ nan
Lão ngã do tồn thiết thạch can.
Hào khí tảo thanh thiên chướng vụ,
Tráng tâm di tận vạn trùng san.
Biên phòng hảo vị trù phương lược,
Xã tắc ưng tu kế cửu an.
Hư đạo nguy than tam bách khúc,
Như kim chỉ tác thuận lưu khan (2)
Dịch thơ:
Gian hiểm muôn vàn chí chẳng lay,
Ta già gan sắt vẫn còn đây
Hùng tâm quét sạch non nghìn chướng
Tráng khí san bằng núi vạn cây
Quân mạnh dân yên bờ cõi đó,
Kế sâu gốc vững nước non này.
Ba trăm ghềnh thác thôi đừng kể,
Nước thuận dòng trôi mãi tháng ngày.
(Hoàng Tuấn Công
Sưu tầm, viết chữ Hán
Hoàng Tuấn Phổ dịch thơ)
3. (1) Bia này sách xưa gọi là "Bia cổ Hào Tráng" hiện đã chuyển về Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch
Hòa Bình
(2) Tục ngữ cổ có câu:
"Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh"
Nguồn gốc dòng họ Lê Thái Tổ
HOÀNG VĂN ĐOÀI
Ngày 22 tháng 8 nhuần, năm Quý Sửu (1433) đức Thái tổ Cao hoàng đế,
húy Lê Lợi mất, sau mười năm kháng chiến thắng lợi và 6 năm cai trị đất nước, xây
nền đắp móng cho quốc gia Đại Việt thái bình thịnh trị. Văn bia Vĩnh Lăng, triều đình
nhà Lê giao Nguyễn Trãi soạn ngày 23 tháng 10 cùng năm, đoạn đầu nói về nguồn
gốc Lê Thái tổ :
Tằng tổ (cố) ngài húy là Hối, người phủ Thanh Hóa. Một hôm (cụ Hối) đi chơi qua
Lam Sơn, thấy đàn chim bay liệng vòng quanh dưới núi Lam Sơn, giống như đám
người tụ họp. Ngài nói rằng: "Đây là chỗ đất tốt", nhân dời nhà đến ở tại đó. Được 3
năm trở nên giàu có, con cháu ngày thêm đông, tôi tớ ngày thêm nhiều, sau này dựng
nước mở đất, thực bởi nền móng ở chốn này. Từ đó, đời đời cầm đầu một phương.
"Tổ phụ (ông) nhà vua húy là Sanh (thường đọc là Đinh), nối dõi nghiệp nhà, theo chí
người trước, gia thuộc tới hơn nghìn người.
" Tổ mẫu (bà) của nhà vua họ Nguyễn, tính hiền hậu, sinh được 2 con, đầu là Tòng,
thứ là Khoáng, tức là thân phụ của nhà vua. Người có tính hòa thuận hiền từ, thích
làm việc thiện, hậu đãi khách, coi dân các làng lân cận như trong một nhà, vì thế ai
cũng cảm ơn mến nghĩa.
"Thân mẫu (mẹ) nhà vua họ Trịnh, húy là Thương, chăm lo đạo vợ, hòa thuận buồng
the, cửa nhà ngày càng thịnh vượng. Bà sinh ba con trai: Trưởng là Học, giữa là Trừ,
nhà vua là út.
" Người con trưởng nối nghiệp ông cha, không may mất sớm.
"Nhà vua vâng mệnh ông cha, rất mực cẩn thận, tuy gặp buổi loạn to mà chí càng
thêm vững. Giấu mình ở núi Lam Sơn, làm nghề cày cấy. Vì căm giận bọn cường tặc
4. tàn ngược nên càng chuyên tâm nghiên cứu sách thao lược và dốc hết của nhà để hậu
đãi tân khách..." (1)
Có lẽ trên đây là tài liệu sớm nhất và chính xác nhất chép về Lê Thái tổ, cho nên về
sau, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử (Lê Quý Đôn) v.v... đều phải dựa vào
những tư liệu ấy là chính. Đến bộ sử đồ sộ với nhiều khảo đính công phu Việt sử
thông giám cương mục căn bản cũng chỉ dựa theo tài liệu cũ.
Nói cho đúng, các sách sử có bổ sung thêm một chi thiết: Cụ Lê Hối nguyên ở thôn
Như áng (phía tây núi Lam) một hôm đi chơi qua Lam Sơn thấy đàn chim bay lượn...
Rất tiếc, thôn Như áng chỉ là một địa danh, không cung cấp được gì thêm về dòng họ
của Lê Hối.
“Lê triều ngọc phả” là tập hợp phả ký được biên soạn dưới triều Lê Hiển tông (1740
-1786), có bài "Ngự chế ngọc phả ký" (tựa) của Lê Hiển tông, ghi ngày Đông chí,
tháng 11 năm Cảnh Hưng thứ 41 (1780). Nhà vua nói rõ lý do biên soạn lại ngọc phả:
"Trẫm kế nối chính thống các đời trước, công tích các đời chưa từng một ngày nào
quên, vẫn thường xem đọc những tập phả hệ đã có. Gần đây đọc những ghi chép cũ
của các bậc hương thân, tham khảo với nguyên cảo để ở đầu giường, gồm cả những
bản riêng, thấy có những sai khác, bèn thường sai các gia thần khảo cứu, hiệu chỉnh,
biên tập, sao cho được toàn bích để ơn đức cao dày của các bậc tổ triệu tông bồi, cơ
nghiệp to tát của các bậc thần truyền thánh kế ngày càng được sáng tỏ mãi mãi..."
Cuối tập Lê triều ngọc phả lại có bài "Bạt" của nhóm biên soạn vâng sắc chỉ vua Lê
Hiển tông
"Kính nghĩ: Hoàng đế bệ hạ kế nối cơ nghiệp, kính theo nếp trước, nơi ngự án thường
vẫn có sách Quốc phả, lại thường tập hợp các sách dã sử để tham khảo rồi ủy thác cho
bề tôi sửa chữa, biên soạn..." Dưới bài "Bạt" ghi "ngày 28 tháng Mạnh Xuân (tháng
giêng) năm Cảnh Hưng thứ 45" (1974) và danh sách những người tham gia việc biên
soạn:
Hương Lĩnh bá, thần là Nguyễn Hài phụng biên tập,
Lương Sơn bá, thần là Đặng Trọng Viên phụng khảo hiệu,
Dương Thái bá, thần là Phạm Nguyễn Doãn phụng đính bổ,
Tham Nghĩa (?) thần là Nguyễn Huyền phụng tu soạn. (2)
Nội dung Ngọc phả so với chính sử, chỉ khác ở chỗ có rất nhiều truyền thuyết, huyền
thoại nhằm đề cao hoàng đế Lê Lợi.
Về nguồn gốc dòng họ Lê Lợi, phả ký cũng không cho biết gì thêm.
Năm 2001, Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành cuốn sách "Nhân vật họ Lê trong lịch sử
Việt Nam" của Phạm Ngô Minh - Lê Duy Anh, có một đoạn rất đáng chú ý:
5. "Từ đời Lê Đại hành hoàng đế Lê Hoàn truyền nối nhiều đời, đến cụ Lê Thứ (hay Thú
- còn có tên Lê Mỗi).
"Cụ tổ Lê Thứ (Lê Mỗi) sinh ra cụ Lê Hối
"Cụ cố Lê Hối sinh ra cụ nội Lê Đinh (hay Thinh)
"Cụ Lê Đinh (Thinh) sinh là Lê Tòng và Lê Khoáng.
"Cụ Lê Khoáng sinh ra 6 người con: Ba trai, ba gái.
Ba người con trai:
1 - Lê Học (2 con trai : Lê Học và Lê Phước An)
2 - Lê Trừ (3 con trai: Lê Khôi, Lê Khương (tổ vua Lê Anh tông thời Lê Trung hưng),
Lê Khiêm. Theo gia phả dòng họ Lê Tư Tề (bị trất ngôi) còn có người con thứ là Lê
Đạo.
3 - Lê Lợi: (2 con trai là Tư Tề và Nguyên Long và 2 con gái là Liễu Hạnh công chúa
và Trang tử công chúa)
"Và ba người công chúa: Ngọc Tá, Ngọc Vinh, Ngọc Tiên..."
Như vậy, qua tài liệu trên, chúng ta được biết thêm 2 điều quan trọng:
a - Triệu tổ của dòng họ Lê Lợi là Lê Thứ tức Mỗi. Cụ Thứ sinh ra cụ Hối. Vốn ở
thôn Như áng, đến đời cụ Hối mới chuyển đến Lam Sơn. Nhưng tại sao các sử sách
phổ biến chỉ chép từ cụ Lê Hối? Chắc sinh thời, Lê Lợi phải biết cụ Lê Thứ, vì cụ này
đến Lê Lợi chỉ mới đời thứ 5. Thời xưa, các cụ kết hôn rất sớm thường dưới 18 tuổi,
nên đẻ con cũng rất sớm, cho nên trong xã hội không hiếm gia đình "ngũ đại đồng
đường" (năm đời cùng chung sống) gia đình "Tứ đại đồng đường " (bốn đời cùng
chung sống) thì tương đối phổ biến. Tổ tiên Lê Lợi đều làm nghề sư công (ông thầy)
có chữ nghĩa, không thể không ghi chép về dòng họ mình. Bản thân Lê Lợi cũng
không thể không biết về nguồn gốc, lai lịch tổ tiên mình. Nhưng ông không nói vì
không muốn nói hoặc không cần nói hay không cho phép nói về quãng thời gian trước
Lam Sơn, cho nên từ Lam Sơn thực lục soạn lúc ông đang trị vì, đến Văn bia Vĩnh
Lăng, tiếp theo là nhiều sử sách mang tính chính thống đều chép giống nhau. Điều ghi
chép trên cho biết thêm rằng trên cụ Lê Hối là cụ Lê Thứ và chính cụ Thứ là Triệu tổ,
còn cụ Hối là tằng tổ, do căn cứ vào nguồn tài liệu khác; những gia phả của các chi
phái hoàng tộc nhà Hậu Lê được lưu giữ ở tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng,
vùng trung tâm của xứ Thuận Quảng xưa.
Năm 1470, Lê Thánh tông tiến quân vào phía nam trấn áp người Chiêm quấy rối biên
thùy, đổi đặt xứ Thuận Quảng làm thừa tuyên Quảng Nam. Khi đạo quân rút về miền
Bắc, nhà vua để lại một số tướng lĩnh, văn chức làm nhiệm vụ cái quản miền đất mới,
ổn định, giúp dân khai hoang phục hóa, trong đó có những hoàng thân quốc thích sau
này là khởi tổ của những chi phái nổi tiếng như Lê Tấn Triều, Lê Tấn Trung, con trai
vua Lê Thái tông và bà Ngô Thị Ngọc Xuân tức Thung (chị ruột Ngô Thị Ngọc Dao
đẻ ra Lê Thánh tông). Các chi phái họ Lê ở Quảng Nam hiện còn truyền lại nhiều gia
6. phả, như Hoàng Lê ngọc phả, gia phả dòng Tư Tề (con trưởng Lê Lợi), gia phả dòng
Lê Khiêm, v.v... Nói chung các gia phả đều ghi rõ nguồn gốc, thế thứ, có gia phả ghi
chép ngay từ thời mới định cư (1471) như phả tịch của Cao thượng tổ Lê Hoành, sao
lại năm 1907, đời vua Duy Tân, chép rất cụ thể con cháu ông tới 14 người đều trở
thành tiền hiền ở Quảng Nam, Quảng Ngãi. Căn cứ gia phả và sự thờ tự ở nhà thờ đại
tôn họ Lê, chúng ta có thể tin cụ Lê Thứ chính là Triệu tổ, tức vị tổ đời thứ năm của
Lê Thái tổ. Vị tổ này chỉ được thờ ở từ đường riêng của dòng tộc họ Lê, không được
thờ ở nhà Thái miếu Đông Kinh và Lam Kinh, nên sử sách không ghi chép (Vì Lê
Thái tổ chỉ truy phong đến tổ ba đời).
Vậy, trên cụ Lê Thứ là những ai?
Các tài liệu gia phả của các chi phái Lê hoàng tộc ở Quảng Nam - Đà Nẵng chỉ cho
biết đại lược: Lê Hoàn sinh hơn 10 con trai, một người con thứ tư Lê Long Mang trấn
trị đất Thanh Hóa, truyền nối nhiều đời sinh ra Lê Thứ. Tại tổ đình Lê tộc, xây dựng
phía nam Sơn Trà (nay thuộc Mân Thái, thành phố Đà Nẵng) nhiều đại tự, câu đối,
trong đó có câu đối:
- Khởi ư Lê tiền, phá Tống địch, ngự Tây phiên, định an thiên hạ,
Hưng vu Lê hậu, phạt Minh cừu, bình Chiêm tặc, ưu ái thần dân .
(Khởi nghiệp từ Tiền Lê, phá giặc Tống, đánh phía tây giữ yên thiên hạ
Nối tiếp ở Hậu Lê, trừ quân Minh, dẹp vua Chiêm, yêu quí thần dân)
Hy vọng vấn đề sẽ được thời gian làm sáng tỏ thêm.
H.V.Đ
(http://vannghexuthanh.vnweblogs.com/print/1652/91662)