Quy định mới của luật xử lý vi phạm hành chính với việc bảo đảm quyền con người. Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những phương hướng và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC.
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
Quy định mới của luật xử lý vi phạm hành chính với việc bảo đảm quyền con người.doc
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA LUẬT HỌC
TIỂU LUẬN THỰC TẬP
ĐỀ TÀI:
NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
Giảng viên hướng dẫn:
Số điện thoại:
Email:
Sinh viên thực tập:
Mã số sinh viên:
Số điện thoại:
Email:
BÌNH DƯƠNG
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
TP.HCM, ngày ….. tháng …. Năm 2025…
NGƯỜI NHẬN XÉT
……………………………..
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
TP.HCM, ngày ….. tháng …. Năm 201…
NGƯỜI NHẬN XÉT
……………………………..
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BPXLHC Biện pháp xử lý hành chính
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966
ICCPR Công ước quốc tế về 1966
TAND Tòa án nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
VPHC Vi phạm hành chính
XLVPHC Xử lý vi phạm hành chính
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................2
3.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................2
3.2. Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................2
5. Kết cấu đề tài............................................................................................................2
CHƯƠNG 1.....................................................................................................................3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG QUÁ
TRÌNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH.............................................3
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính ....................................................................................................................3
1.2. Nội dung bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC..............5
1.3. Vai trò và các yêu cầu của pháp luật hành chính trong việc bảo đảm quyền con
người ............................................................................................................................6
1.3.1. Vai trò của pháp luật hành chính trong việc bảo đảm quyền con người ........6
1.3.2. Các yêu cầu của pháp luật hành chính trong việc bảo đảm quyền con người 8
CHƯƠNG 2...................................................................................................................11
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ..............................................................11
2.1. Bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính bằng phương thức xem xét và quyết định của Tòa án .....................................11
2.2. Bảo đảm bằng việc điều chỉnh của pháp luật về trình tự thủ tục xem xét và quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính ..................................................................12
2.3. Bảo đảm bằng việc quy định về khiếu nại, kiến nghị, giải quyết khiếu nại, kiến
nghị đối với các quyết định của Tòa án, hành vi của người có thẩm quyền của Tòa án
trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính ........................16
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
2.4. Về nội dung biện pháp xử lý hành chính do toa án nhân dân xem xét, quyết định
....................................................................................................................................16
Chương 3 .......................................................................................................................28
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ..................28
3.1. Nhóm giải pháp chung bảo đảm thực hiện quyền con người trong quá trình áp
dụng biện pháp xử lý hành chính ...............................Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Bảo đảm chính trị..........................................Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Bảo đảm pháp lý ...........................................Error! Bookmark not defined.
3.2. Nhóm giải pháp cụ thể bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng biện
pháp xử lý hành chính................................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ...................................................................Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................Error! Bookmark not defined.
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật xử lý vi phạm hành chính đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua năm 2012 và có hiệu lực từ 01/7/2013. Luật này quy định
hai nội dung chủ yếu là xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính. Theo luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành có bốn biện pháp xử lý hành
chính gồm: biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng; biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; và biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
Để áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, Luật cũng quy định cụ thể về đối
tượng áp dụng của từng biện pháp; thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính; thẩm quyền, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính và các quy định khác có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính.
Có thể thấy các biện pháp nêu trên là những biện pháp cưỡng chế nhà nước, nếu
áp dụng sẽ làm hạn chế quyền tự do của đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính, đặc biệt là biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp
luật trước đây cũng như việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo Luật hiện
hành đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách liên qua đến việc bảo vệ quyền, tự do của đối
tượng bị áp dụng biện pháp hành chính; vấn đề công khai minh bạch trong quá trình
xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính.. Xuất phát từ những vấn đề như vậy, tác
giả lựa chọn đề tài: Những quy định mới của luật xử lý vi phạm hành chính với việc
bảo đảm quyền con người” làm đề tài tốt nghiệp
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong quá trình áp
dụng BPXLHC, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật cũng như thực
8. 2
tiễn áp dụng, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những phương hướng và
giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu vấn đề lý luận quyền con người và việc bảo
đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực
tiễn áp dụng để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong quá
trình áp dụng BPXLHC
- Thực trạng bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC
- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các biện pháp bảo đảm
quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch
sử, so sánh, thống kê, khảo sát…Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nghiên cứu
hồ sơ, báo cáo cụ thể của các trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh để
có cơ sở thực tiễn.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung của đề tài kết cấu gồm 3 chương, như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người
trong quá trình áp dụng BPXLHC
- Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người trong quá trình
áp dụng BPXLHC
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các biện pháp
bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC
9. 3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định quan điểm “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm
các quyền con người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi
người”1
. Như vậy, ở đây Nhà nước nhận về mình trách nhiệm, nghĩa vụ phải tôn trọng
các quyền con người; bảo đảm các quyền con người; đồng thời chăm lo hạnh phúc, sự
phát triển tự do của mỗi người. Các quyền của con người là những giá trị xã hội được
con người nhận thức, thừa nhận và dần được thể chế hóa trong các văn kiện quốc tế về
quyền con người, được các quốc gia thừa nhận, cam kết thực hiện. Từ góc nhìn của
khoa học luật học, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm
chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước,
các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện để bảo đảm các quyền con người. Các
bảo đảm pháp lý rất đa dạng, phong phú,trước hết là sự ghi nhận các quyền con người,
đến việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ máy
chuyên trách bảo đảm các quyền con người. Bảo đảm quyền con người, là việc xác
định các biện pháp pháp lý, các biện pháp tổ chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con
người, khi bị xâm phạm từ phía cơ quan công quyền, hay từ các chủ thể khác nhằm
khôi phục các quyền đã bị xâm phạm. Các quyền con người rất đa dạng, được bảo đảm
bằng cả hệ thống pháp luật: Từ luật công đến luật tư; từ Luật Hiến pháp, Luật hành
chính, Luật hình sự... đến Luật dân sự, Luật lao động, Luật hôn nhân gia đình. Mỗi lĩnh
1
http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=vie w&id=1359&Itemid=5
10. 4
vực pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền con người bằng những phương thức, cách thức
chuyên biệt riêng có của mình. Pháp luật hành chính là một lĩnh vực rất rộng lớn, luôn
gắn với con người từ khi sinh ra đến khi mất đi, không có một lĩnh vực pháp luật nào
lại có ý nghĩa sát thực, sâu rộng như lĩnh vực pháp luật hành chính trong việc bảo đảm
quyền con người.
Trong rất nhiều chế định của Luật hành chính Việt Nam, có một chế định pháp
lý mang tính cưỡng chế nhà nước mà khi áp dụng nó đòi hỏi phải có các biện pháp bảo
đảm hết sức chặt chẽ, khách quan, khoa học… để bảo đảm, bảo vệ tốt nhất quyền con
người. Đó là BPXLHC. Theo khoản 2 Điều 3 Luật xử lý VPHC năm 2012 thì
BPXLHC:
“Là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh trật
tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”2
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ở nước ta hiện nay có 4
BPXLHC bao gồm:
1- Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Đây là BPXLHC được áp dụng
đối với một số đối tượng do pháp luật quy định (Điều 90 Luật xử lý VPHC năm 2012)
để giáo dục, quản lý họ tại nơi cư trú trong trường hợp nhận thấy không cần thiết phải
cách li họ khỏi cộng đồng.
2 - Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là BPXLHC áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật (quy định tại Điều 92 Luật xử lý VPHC năm 2012)
nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý,
giáo dục của nhà trường.
3 - Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Là BPXLHC áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật ( được quy định tại Điều 94 Luật xử lý VPHC năm
2012) để lao động, học văn hóa, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo
dục bắt buộc.
2
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội.
11. 5
4 - Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là BPXLHC áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại (Điều 96 Luật xử lý VPHC năm
2012 ) để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
Cả 4 biện pháp trên tuy được áp dụng cho những đối tượng cụ thể do pháp luật
quy định nhưng có một điểm chung là chúng mang tính cưỡng bức dưới hình thức các
biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.
Những biện pháp này, dưới những mức độ khác nhau, hình thức tác động khác nhau…
nhưng đều tác động và ảnh hưởng nhất định đến quyền con người.
Chính vì lẽ đó, việc bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các
BPXLHC là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa về
chính trị, về văn hóa và đạo đức xã hội.
Quá trình áp dụng BPXLHC trên được hiểu là các sự kiện, hoạt động diễn ra
theo một trật tự thời gian nhất định kể từ khi phát hiện, lập hồ sơ, xem xét, đề nghị Tòa
án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPXLHC cho đến quá trình thực hiện các
quyết định áp dụng BPXLHC của UBND xã, phường, thị trấn (biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn) và của TAND có thẩm quyền.
Để bảo đảm quyền con người trong quá trình này đòi hỏi phải quy định và áp
dụng nhiều biện pháp pháp lý khác nhau như hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc áp
dụng các BPXLHC; việc xác định thẩm quyền xem xét, áp dụng và đến việc khiếu nại,
tố cáo những vi phạm pháp luật của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước trong quá
trình thực thi công vụ của việc áp dụng các BPXLHC.
Trong các biện pháp nêu trên, có thể nói biện pháp xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC bằng con đường tư pháp, thông qua vai trò của Tòa án là có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Vì Tòa án là công cụ quan trọng, khách quan và có hiệu quả nhất trong
việc thực thi công lý và bảo vệ quyền con người.
1.2. Nội dung bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng BPXLHC
12. 6
Thứ nhất, các trường hợp, các đối tượng chịu sự tác động của BPXLHC. Đây
phải là những đối tượng được pháp luật quy định một cách cụ thể rõ ràng. Cụ thể tức là
phải được Quốc hội quy định bằng một văn bản luật: Luật xử lý VPHC.
Thứ hai, tùy vào đối tượng cụ thể, việc áp dụng các BPXLHC được thực hiện
theo những trình tự, thủ tục nghiêm ngặt do pháp luật quy định. Các trình tự thủ tục đó
bao gồm thủ tục hành chính và trình tự, thủ tục tư pháp.
Thứ ba, các biện pháp có nguy cơ phương hại nhất đến quyền con người cần
được Tòa án xem xét và quyết định.
Thứ tư, khái niệm cần bao quát các biện pháp bảo đảm quyền con người từ các
biện pháp pháp lý đến các biện pháp đạo đức xã hội.
Với ý nghĩa như đã phân tích như trên, theo ý kiến của tác giả thì dưới góc độ
khoa học việc bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các BPXLHC có thể
được định nghĩa như sau: Bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các
BPXLHC là việc tạo ra các tiền đề, thiết lập các thiết chế pháp lý, các chuẩn mực văn
hóa - xã hội, tổ chức… nhằm thi hành và bảo vệ các quyền con người cho những cá
nhân (đối tượng) bị áp dụng các BPXLHC.3
1.3. Vai trò và các yêu cầu của pháp luật hành chính trong việc bảo đảm quyền
con người
1.3.1. Vai trò của pháp luật hành chính trong việc bảo đảm quyền con người
Nghiên cứu về vai trò của pháp luật hành chính trong việc bảo đảm các quyền
con người cũng là gián tiếp nghiên cứu vai trò của hệ thống bộ máy hành chính trong
việc bảo đảm quyền con người. Vì mọi hoạt động hành chính của bộ máy hành chính
nhà nước đều gắn liền với pháp luật hành chính, gắn với thẩm quyền của các cơ quan
hành chính nhà nước. Trên cơ sở những tri thức chung về pháp luật hành chính có thể
nhận thấy vai trò của pháp luật hành chính trong bảo đảm quyền con người thể hiện ở
những điểm căn bản sau đây:
Một là, pháp luật hành chính là phương tiện cụ thể hóa một cách chính thống
phần lớn các quyền, tự do của con người vốn được ghi nhận trong Hiến pháp, trên mọi
3
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội.
13. 7
lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội: từ lĩnh vực chính trị, hành chính đến lĩnh
vực dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, lĩnh vực các quyền, tự do của cá nhân
của công dân, con người. Nhiều quyền cơ bản của con người chỉ có thể được bảo đảm,
khi được cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật hành chính, nhờ có các quy phạm
pháp luật hành chính mà các quy phạm hiến pháp về quyền con người được thực hiện
trên thực tế. Như vậy, các quy phạm pháp luật hành chính là phương tiện để đưa các
quy phạm hiến pháp về quyền con người đi vào đời sống xã hội, nói cách khác nhờ có
quy phạm pháp luật hành chính mà nhiều quy phạm Hiến pháp về quyền con người
được thực hiện trên thực tế.
Hai là, pháp luật hành chính là phương tiện để giới hạn quyền lực của hệ thống
hành chính nhà nước trong mối quan hệ với cá nhân, tổ chức của công dân. Trong bộ
máy nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức rất đông
đảo, hoạt động của họ luôn gắn với công vụ nhà nước, gắn với việc giải quyết các công
việc của cá nhân, tổ chức, đồng thời được bảo đảm bởi bộ máy công lực - bộ máy
cưỡng chế (quân đội, cảnh sát, nhà tù), vì vậy, mọi hoạt động của bộ máy hành chính
nhà nước, của cán bộ, công chức đều phải được giới hạn bởi pháp luật, trước hết là
pháp luật hành chính để tránh sự tuỳ tiện trong việc giải quyết các công việc của cá
nhân, tổ chức, đặc biệt là giới hạn việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính.
Ba là, pháp luật hành chính xác định giới hạn quyền lực hành chính công với
quyền lực xã hội dân sự trong quản lý hành chính nhà nước.Hành chính công dù trong
điều kiện nào cũng luôn có xu hướng lạm quyền, can thiệp vào đời sống dân sự của cá
nhân. Vì vậy, pháp luật nói chung hay pháp luật hành chính nói riêng cần phải tạo ra
giới hạn sự can thiệp của hành chính công vào đời sống dân sự của cá nhân, tổ chức,
đồng thời tạo ra một khoảng tự do của xã hội dân sự, của con người trong đời sống dân
sự. Thông qua đó mà pháp luật hành chính đã bảo đảm quyền của con người.
Bốn là, pháp luật hành chính là phương tiện để công dân có thể kiểm soát được
các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, từ hoạt động tổ chức có tính nội
bộ cơ quan hành chính nhà nước đến hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính
trên mọi lĩnh vực, từ hoạt động điều hành hành chính đến hoạt động xây dựng, ban
14. 8
hành văn bản quy phạm pháp luật, các hoạt động tổ chức mọi mặt đời sống dân cư trên
toàn lãnh thổ quốc gia, vùng lãnh thổ... Kiểm soát hoạt động của hành chính công một
mặt để tăng cường pháp chế trong quản lý, mặt khác nhằm phòng ngừa, ngăn chặn
những hành vi vi phạm của hệ thống hành chính tới các quyền con người.
Năm là, pháp luật hành chính là phương tiện pháp lý, bằng các phương thức,
cách thức, biện pháp khác nhau để bảo vệ các quyền con người khi bị xâm hại trong
hầu hết các lĩnh vực quan hệ xã hội. Trong thực tiễn đời sống nhà nước và xã hội,
quyền con người có thể bị xâm hại từ phía công quyền, hay từ các chủ thể khác, được
bảo vệ, khôi phục trước hết bởi bộ máy hành chính, dựa trên cơ sở các quy phạm pháp
luật hành chính và các loại quy phạm pháp luật khác mà cơ quan hành chính nhà nước
có thể sử dụng, áp dụng. Có thể nói không một trường hợp vi phạm pháp luật nào xâm
phạm tới quyền của con người mà trước hết lại không được bảo vệ bởi hệ thống hành
chính nhà nước. Đây là một thực tiễn trong đời sống nhà nước và xã hội cần được nhận
thức và thừa nhận.Từ đó mà có nhận thức đầy đủ và khách quan về vai trò của bộ máy
hành chính, của pháp luật hành chính.
1.3.2. Các yêu cầu của pháp luật hành chính trong việc bảo đảm quyền con
người
Như vậy, nghiên cứu về bảo đảm quyền con người phải được nghiên cứu tất cả
mọi sự điều chỉnh của pháp luật hành chính và ở mọi sự biểu hiện của việc thực hiện
trên thực tế các quy định của pháp luật hành chính trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới
cá nhân, tổ chức. Pháp luật hành chính theo nghĩa rộng bao gồm: Pháp luật vật chất
(pháp luật nội dung); pháp luật thủ tục (pháp luật hình thức - pháp luật thủ tục hành
chính) và pháp luật tố tụng hành chính - một lĩnh vực pháp luật mới hình thành ở Việt
Nam từ khi Tòa án có chức năng xét xử hành chính. Vì vậy, việc nghiên cứu quyền con
người được bảo đảm trong pháp luật hành chính cần được xem xét ở tất cả các bộ phận
tạo nên lĩnh vực pháp luật này.
Trong đó, bảo đảm quyền con người thông qua vai trò pháp luật tố tụng hành
chính được chú trọng hơn. Pháp luật tố tụng hành chính - một lĩnh vực, hay một ngành
luật mới hình thành ở nước ta từ khi TAND có chức năng xét xử hành chính - xét xử
15. 9
đối với những tranh chấp hành chính giữa công dân, tổ chức với chính quyền hành
chính. Tòa án nhân danh công lý, nhân danh nhà nước để phán xét về tính hợp pháp
của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị công dân, tổ chức khiếu kiện, thông
qua đó mà bảo đảm, quyền tự do của công dân, tổ chức đã bị xâm hại bởi quyết định
hành chính, hành vi hành chính của chính quyền hành chính. Bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hành chính trước hết phải tạo được điều kiện, tiền đề để công dân,
tổ chức dễ dàng tiếp cận tới Tòa án để bảo đảm các quyền của mình, mà họ cho rằng
đã bị quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm tới. Mặt khác phải tạo ra
được điều kiện thuận lợi để công dân có thể cùng trao đổi, thỏa thuận với cơ quan,
người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính bị khiếu kiện.
Có nghĩa phải tạo được sự bình đẳng trong quan hệ tố tụng hành chính giữa công dân
với cơ quan, người bị công dân khiếu kiện và với cả Tòa án trong xét xử hành chính.
Phù hợp với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay phạm vi, đối tượng các quyết định hành chính, hành vi hành chính có thể bị cá
nhân, tổ chức khởi kiện tới Tòa án ngày càng được mở rộng. Điều này cũng đồng
nghĩa là công dân, tổ chức càng có nhiều điều kiện, cơ hội để bảo vệ các quyền của
mình khi bị quyết định hành chính, hành vi hành chính của hệ thống hành chính nhà
nước và các cơ quan khác của nhà nước xâm phạm tới. Tuy vậy, cũng phải nhận thấy
một thực tế là về mặt pháp lý không phải mọi quyết định hành chính, hành vi hành
chính xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đều có thể hướng tới Tòa
án để được bảo vệ. Pháp luật mới chỉ dừng lại ở những quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và một số cơ quan khác của nhà nước khi
thực hiện hoạt động hành chính bị khiếu kiện.
Bên cạnh việc ban hành các quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành
chính, cơ quan hành chính nhà nước còn ban hành những chính sách, những văn bản
quy phạm pháp luật, không ít những trường hợp xâm phạm tới lợi ích của những đối
tượng xã hội nhất định, nhưng các đối tượng đó lại không có quyền khiếu nại, khiếu
kiện về chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để bảo vệ các quyền, lợi ích của mình.
Thực tiễn này dẫn đến tình trạng là quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức bị tước đoạt bởi
16. 10
chính công quyền, nhưng không có cơ chế để bảo vệ. Đây là một “khoảng trống” của
pháp luật nước ta trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi bị
xâm phạm bởi hệ thống hành chính, cần được bổ sung.
17. 11
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG QUÁ
TRÌNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
2.1. Bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính bằng phương thức xem xét và quyết định của Tòa án
Luật xử lý VPHC năm 2012, được Quốc hội thông qua ngày 20-6-2012, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01-7-2013. So với Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002, Luật xử lý
VPHC năm 2012, có nhiều quy định mới về hình thức xử lý, thẩm quyền xử lý VPHC,
thủ tục xử phạt và thi hành quyết định xử phạt VPHC cũng như mức xử phạt... Một
trong những điểm mới quan trọng của Luật xử lý VPHC là quy định về các BPXLHC
do TAND xem xét, quyết định.
Tại Phần thứ ba Luật xử lý VPHC năm 2012 quy định có 4 BPXLHC, bao gồm:
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 89); biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng (Điều 91); biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc (Điều 93); biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 95). Theo khoản 2 điều 105 của Luật xử lý VPHC:
“Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc”4
Và theo quy định tại Điều 106 thì: “Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trình
tự, thủ tục TAND xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”5
Thực hiện Nghị quyết số 23/2012/QH13 ngày 12-6-2012 của Quốc hội về
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013, điều chỉnh Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2012 và nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII; Nghị quyết số 499/NQ-
UBTVQH13 ngày 20-7-2012 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện
Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013, điều
chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và nhiệm kỳ Quốc hội khoá
4
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội.
5
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội.
18. 12
XIII. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét,
quyết định áp dụng các BPXLHC tại TAND
Việc ban hành Pháp lệnh với mục tiêu là nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xem
xét, quyết định áp dụng các BPXLHC đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; bảo đảm việc xem xét, quyết định của
Tòa án được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công bằng, minh
bạch, bảo đảm khách quan, chính xác; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, quyền con người, trong đó có quyền của người chưa thành niên; đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp, yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
2.2. Bảo đảm bằng việc điều chỉnh của pháp luật về trình tự thủ tục xem xét và
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC tại TAND
quy định một số nội dung cơ bản sau:
1. Quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
BPXLHC đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Quy định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp dụng
BPXLHC; giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian
áp dụng BPXLHC còn lại.
3. Quy định về trình tự, thủ tục khiếu nại, kiến nghị; giải quyết khiếu
nại, kiến nghị đối với các quyết định của Tòa án, hành vi của người có thẩm
quyền của Tòa án trong việc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC.
Với quy định như vậy, pháp luật hiện hành đã có những tác động tích cực trong
việc bảo vệ quyền con người trong quá trình áp dụng các BPXLHC.
Cụ thể là:
Thứ nhất, theo quy định của Luật xử lý VPHC thì Tòa án không chỉ được giao
xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 105 Luật xử lý VPHC năm
2012 ) mà còn có thẩm quyền xem xét cho hoãn, miễn chấp hành quyết định áp dụng
19. 13
BPXLHC; giảm thời hạn, tạm đình chỉ, miễn chấp hành phần thời gian áp dụng
BPXLHC còn lại (Điều 111 - Điều 112 của Luật xử lý VPHC, 2012). Vì vậy, việc quy
định Pháp lệnh điều chỉnh các vấn đề về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC; các vấn đề về trình tự, thủ tục xem xét cho hoãn, miễn chấp hành quyết
định áp dụng BPXLHC; giảm thời hạn, tạm đình chỉ, miễn chấp hành phần thời gian
áp dụng BPXLHC còn lại, như tại Điều 1 của Pháp lệnh sẽ tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để
Tòa án thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mới theo quy định của Luật xử
lý VPHC.
Trường hợp Pháp lệnh này chỉ quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định
áp dụng BPXLHC thì vẫn phải ban hành một Pháp lệnh khác về trình tự, thủ tục xem
xét cho hoãn, miễn chấp hành quyết định áp dụng BPXLHC; giảm thời hạn, tạm đình
chỉ, miễn chấp hành phần thời gian áp dụng BPXLHC còn lại; như vậy, sẽ gây thêm
tốn kém về vật chất, thời gian, công sức cho việc xây dựng Pháp lệnh đó.
Thứ hai, các quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
BPXLHC đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc được xây dựng tương tự như thủ tục tố tụng của Tòa án; theo đó,
việc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC được thực hiện thông qua phiên họp do
một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công thực hiện; phiên họp có sự tham gia
của cơ quan đề nghị áp dụng BPXLHC, đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, người bị đề
nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề
nghị là người chưa thành niên.
Với các nội dung nêu trên, khi Pháp lệnh được thông qua và có hiệu lực thi
hành, việc xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC đưa vào trường giáo dưỡng, đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được tiến hành chặt
chẽ, dân chủ, khách quan, công bằng và minh bạch hơn, khắc phục tình trạng đơn
phương quyết định của cơ quan hành chính trước đây; người bị đề nghị áp dụng
BPXLHC, người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người
giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên có cơ hội được trình bày ý kiến,
cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án -
20. 14
Điều này phù hợp với yêu cầu về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam, phù hợp với các văn kiện Quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo quy
định của Pháp lệnh thì việc xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC được tiến hành
trên cơ sở Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đề nghị của người có thẩm quyền, kết hợp với
xem xét ý kiến của người đề nghị, người bị đề nghị tại phiên họp (mà không phải là
một vụ án hình sự hay vụ án hành chính) nên việc quy định giao cho một Thẩm phán
xem xét, quyết định thông qua một phiên họp là phù hợp với quy định của pháp luật
hiện hành về việc xem xét, giải quyết các việc thuộc thẩm quyền của Tòa án (Ví dụ:
Tòa án có thể giải quyết các việc dân sự yêu cầu tuyên bố một người mất tích, một
người là đã chết ... bằng một Thẩm phán). Từ đó, có thể tiết kiệm nhân lực, thời gian
xem xét, quyết định mà vẫn bảo đảm tính công khai, khách quan trong việc xem xét,
quyết định áp dụng các BPXLHC nêu trên. Bên cạnh đó, các quy định về thời hạn
trong quá trình Tòa án thụ lý, xem xét và quyết định áp dụng BPXLHC theo Pháp lệnh
là ngắn hơn so với các quy định về thời hạn trong tố tụng sẽ góp phần bảo đảm cho
việc đưa ra quyết định của Tòa án phù hợp với tính chất đặc thù của việc áp dụng các
BPXLHC đó là: nhanh gọn, kịp thời, chính xác và hiệu quả.
Với quy định về việc đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên họp xem xét, quyết
định áp dụng các BPXLHC và phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá
trình xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC của Thẩm phán, việc chấp hành pháp luật
của người bị đề nghị áp dụng BPXLHC hoặc đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc
người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên, kể từ khi Tòa án thụ lý
hồ sơ đề nghị cho đến trước thời điểm Thẩm phán kết luận phiên họp (khoản 2 Điều 19
của Pháp lệnh) sẽ bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, đồng thời không ảnh hưởng đến
nguyên tắc “Khi xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC Thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”6
6
Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2014), Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính tại TAND, Hà Nội
21. 15
Với quy định về việc Thẩm phán được phân công giải quyết hồ sơ đề nghị áp
dụng BPXLHC có thể tham vấn hoặc trưng cầu ý kiến của các chuyên gia y tế, tâm lý,
giáo dục, xã hội học và chính quyền địa phương nơi người bị đề nghị áp dụng
BPXLHC cư trú để làm rõ thêm tình trạng sức khoẻ, tâm lý, điều kiện sống, học tập
của họ (khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh), sẽ bảo đảm việc đưa ra quyết định của Tòa án
chính xác, đúng đối tượng và hiệu quả. Quy định này cũng là cơ sở pháp lý để Tòa án
phối hợp tốt hơn với các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong công tác đấu tranh với các
hành vi VPHC, đặc biệt là các VPHC do người chưa thành niên thực hiện.
Với quy định về trình tự, thủ tục cho hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp
dụng BPXLHC phải được thực hiện bằng một phiên họp có sự tham gia của đại diện
cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị và đại diện Viện kiểm sát cùng cấp; quyết định về việc
hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp dụng BPXLHC có thể bị khiếu nại hoặc kiến
nghị sẽ bảo đảm việc cho hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp dụng BPXLHC
được tiến hành chặt chẽ, nghiêm minh, đúng pháp luật, đồng thời cũng bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPXLHC.
Về trình tự, thủ tục giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc cho miễn chấp hành phần
thời gian áp dụng BPXLHC còn lại, do người có thẩm quyền đề nghị trong trường hợp
này là Hiệu trưởng Trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám đốc
cơ sở cai nghiện bắt buộc và Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định là Tòa án nơi
có trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không
phải là Tòa án nơi cơ quan đề nghị trước đó có trụ sở nên dự thảo Pháp lệnh không quy
định đại diện cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị phải tham gia phiên họp của Tòa án. Tuy
nhiên, với các quy định về việc quyết định của Tòa án có thể bị khiếu nại, kiến nghị và
phải được gửi cho Tòa án đã ra quyết định áp dụng BPXLHC, cơ quan đã gửi hồ sơ đề
nghị và Viện kiểm sát cùng cấp, đồng thời quy định cụ thể về các tài liệu mà người có
thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc cho miễn chấp hành phần thời
gian áp dụng BPXLHC còn lại phải gửi cho Tòa án khi đề nghị Tòa án xem xét thì
trình tự, thủ tục giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc cho miễn chấp hành phần thời gian
áp dụng BPXLHC còn lại vẫn bảo đảm chặt chẽ, nghiêm minh, bảo đảm quyền của
22. 16
người bị áp dụng BPXLHC, bảo đảm việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
2.3. Bảo đảm bằng việc quy định về khiếu nại, kiến nghị, giải quyết khiếu nại,
kiến nghị đối với các quyết định của Tòa án, hành vi của người có thẩm quyền
của Tòa án trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
Các quy định về trình tự, thủ tục khiếu nại, kiến nghị, giải quyết khiếu nại, kiến
nghị đối với các quyết định của Tòa án và hành vi của người có thẩm quyền của Tòa
án trong việc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC đã bảo đảm quyền khiếu nại, kiến
nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Do các quyết định của Tòa án có liên quan trực tiếp đến việc hạn chế tự do của
người bị áp dụng BPXLHC được đưa ra trên cơ sở tiến hành các thủ tục giống như thủ
tục sơ thẩm giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nên trình tự, thủ tục
khiếu nại, kiến nghị; giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với các quyết định của Tòa án
được quy định tương tự như thủ tục phúc thẩm là cần thiết, bảo đảm cho việc xem xét
khách quan, đúng pháp luật; đồng thời trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC tại Tòa án được tiến hành tương tự như thủ tục tố tụng; người bị đề nghị
hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị
là người chưa thành niên đã được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình trước Tòa án nên thực chất đây là một quyết định tư pháp. Do đó, việc không
quy định thủ tục khởi kiện đối với các quyết định của Tòa án là phù hợp. Nếu nhìn
nhận quyết định áp dụng BPXLHC của Tòa án như một quyết định hành chính thông
thường và cho phép người bị áp dụng khởi kiện quyết định của Tòa án thì sẽ làm kéo
dài việc xử lý không cần thiết, ảnh hưởng đến thời hiệu áp dụng BPXLHC quy định tại
khoản 2 Điều 6 Luật xử lý VPHC, gây lãng phí thời gian, tiền bạc của người dân và
quan trọng hơn là việc Tòa án phải mở phiên tòa để xem xét tính hợp pháp của quyết
định do chính Tòa án ban hành sẽ không bảo đảm sự vô tư của Thẩm phán khi tiến
hành tố tụng.
2.4. Về nội dung biện pháp xử lý hành chính do toa án nhân dân xem xét, quyết
định
23. 17
Theo Nghị quyết số 24/2012/QH13 ngày 20/6/2012 của Quốc hội về “việc thi
hành Luật Xử lý VPHC”, thì riêng các quy định liên quan đến việc Xử lý hành chính
do TAND xem xét, quyết định áp dụng có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. So với Pháp
lệnh Xử lý VPHC năm 2002, Luật Xử lý VPHC có nhiều quy định mới về hình thức
Xử lý, thẩm quyền Xử lý VPHC, thủ tục xử phạt và thi hành quyết định xử phạt
VPHC.
* Tòa án có thẩm quyền quyết định đưa vào trường giáo dưỡng,
đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Một trong những điểm mới quan trọng của Luật Xử lý VPHC là quy định về các
BPXLHC do TAND xem xét, quyết định. Luật Xử lý VPHC quy định có 4 BPXLHC,
bao gồm: biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 89); biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng (Điều 91); biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc (Điều 93);
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 95). Trong đó theo khoản 2 Điều
105 Luật Xử lý VPHCquy định: “Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết
định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”7
. Cũng theo quy định tại Điều 106 của Luật
Xử lý VPHC, thì: “Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục TAND xem
xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”8
Việc chuyển thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ
Chủ tịch UBND sang TAND là nội dung thay đổi rất lớn so với Pháp lệnh Xử lý
VPHC trước đây, phù hợp với xu hướng tiến bộ, dân chủ hiện nay. Việc giao Toà án
quyết định áp dụng các BPXLHC nêu trên theo thủ tục tư pháp sẽ tạo điều kiện cho
đương sự, luật sư, người bào chữa được tham dự để bảo vệ quyền lợi của đương sự,
bảo đảm dân chủ, khách quan, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế. Xét về bản chất
thì các BPXLHC do Tòa án xem xét, quyết định áp dụng là những biện pháp mang tính
7
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội
8
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội
24. 18
cưỡng chế nhà nước, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền cơ bản của công dân, trong đó có
quyền của người chưa thành niên.
Người bị áp dụng các BPXLHC này ít nhiều bị hạn chế tự do và một số quyền
lợi khác, vì vậy, việc áp dụng các biện pháp này cần phải được thực hiện theo một
trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công khai, bảo đảm khách quan, chính xác theo
đúng tinh thần “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc
bảo vệ công lý, quyền con người” đã được khẳng định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02-6- 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2025.
* Tăng cường tính công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng đơn
phương quyết định của các cơ quan hành chính
Nhìn từ góc độ phân công quyền lực nhà nước thì việc phán xét về hành vi
phạm pháp luật và áp dụng chế tài xử lý đối với người vi phạm, trong đó có cả việc áp
dụng các BPXLHC giao cho TAND thực hiện nhằm tăng cường tính công khai, minh
bạch, khắc phục tình trạng đơn phương quyết định của các cơ quan hành chính trước
đây là cần thiết. Đây cũng là một trong những mục tiêu quan trọng được xác định trong
Nghị quyết số 48-NQ/ TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2025.
Sự thay đổi về thẩm quyền này dẫn đến sự thay đổi lớn về quy trình áp dụng.
Tuy nhiên, về trình tự, thủ tục TAND xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC này
lại chưa được Luật Xử lý VPHC quy định mà vấn đề này Quốc hội giao cho Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định. Cho nên, việc xây dựng dự án Pháp lệnh về trình tự, thủ
tục xem xét, quyết định việc áp dụng các BPXLHC tại TAND là rất cần thiết đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn; bảo đảm việc xem xét, quyết định của Tòa án được
thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công bằng, minh bạch, bảo đảm
khách quan, chính xác; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền
con người, trong đó có quyền của người chưa thành niên.
* Phạm vi điều chỉnh và nguyên tắc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC Pháp
lệnh trình tự, thủ tục xem xét,quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
Tòa án nhân dân, gồm có 5 chương, 42 điều, quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết
25. 19
định áp dụng các BPXLHC đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TAND (sau đây gọi chung là BPXLHC);
trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, giảm thời hạn, tạm
đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng BPXLHC còn lại; khiếu nại, kiến
nghị.
Nguyên tắc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC do một thẩm phán thực hiện;
khi xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành phiên họp; người bị đề nghị áp
dụng BPXLHC hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người giám hộ của
người bị đề nghị là người chưa thành niên có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân
tộc mình và phải có người phiên dịch; người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ
của người bị đề nghị là người chưa thành niên có quyền tự mình hoặc nhờ luật sư,
người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Tòa án bảo đảm quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị; bảo đảm quyền của người bị đề nghị
được giải trình trước Tòa án, tranh luận với cơ quan đề nghị áp dụng BPXLHC; bảo
đảm quyền được xem xét theo hai cấp trong việc áp dụng BPXLHC...
Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC là TAND cấp
huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở; TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết định
của TAND cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị. Viện kiểm sát nhân dân
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tòa án trong việc xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo đảm việc giải
quyết kịp thời, đúng pháp luật thông qua việc tham gia các phiên họp; tham gia việc
xét hoãn, miễn, giảm, tạm đình chỉ việc chấp hành quyết định áp dụng BPXLHC.
Quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và được cá nhân, cơ
quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan phải chấp hành quyết
định của tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó.
Có thể khẳng định rằng, với phạm vi điều chỉnh như trên, Pháp lệnh đã thể chế
hóa các quan điểm, chủ trưởng, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống hóa pháp
luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính đã được xác định trong các nghị quyết,
26. 20
văn kiện của Đảng; bảo đảm trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
BPXLHC chặt chẽ, nhanh gọn, khả thi nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch,
công bằng dân chủ trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC bảo đảm
quyền con người đặc biệt là quyền của người chưa thành niên trong quá trình xem xét,
quyết định áp dụng các BPXLHC.
Đây là một vấn đề hoàn toàn mới, mang tính đột phá trong pháp luật Việt Nam,
sự thay đổi về thẩm quyền này dẫn đến sự thay đổi lớn về quy trình áp dụng, đó là thủ
tục xem xét, quyết định là thủ tục tư pháp và được tiến hành bằng phiên họp do một
thẩm phán chủ trì; vấn đề này sẽ đảm bảo được tính thực thi do cuộc họp xem xét cũng
giống như việc xem xét của Hội đồng tư vấn cấp huyện trước đây nhưng minh bạch
hơn vì có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, đại diện cơ quan đề nghị,
người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành
niên; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị. Trong trường hợp
xét thấy cần thiết, tòa án yêu cầu đại diện cơ quan lao động - thương binh và xã hội cấp
huyện, người giám định, người phiên dịch, chuyên gia y tế, giáo dục, tâm lý, đại diện
của nhà trường nơi người bị đề nghị là người chưa thành niên học tập, đại diện UBND
cấp xã nơi người bị đề nghị cư trú hoặc những người khác tham gia phiên họp để trình
bày ý kiến về các vấn đề có liên quan.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ đề nghị của cơ quan có thẩm
quyền, thẩm phán công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng BPXLHC hoặc
đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC; đối với vụ việc
phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày. Tòa án phải thông báo
việc thụ lý bằng văn bản cho cơ quan đề nghị, người bị đề nghị hoặc người đại diện
hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành
niên và Viện kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo phải có các nội dung như tên tòa
án đã thụ lý hồ sơ; tên cơ quan đề nghị; họ và tên, địa chỉ của người bị đề nghị;
BPXLHC được đề nghị áp dụng… Kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý cho đến
thời điểm Tòa án mở phiên họp, người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ của
người bị đề nghị là người chưa thành niên, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
27. 21
người bị đề nghị có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho tòa án đã thụ lý. Việc cung
cấp tài liệu, chứng cứ có thể được thực hiện tại tòa án hoặc gửi qua bưu điện.
Thẩm phán yêu cầu cơ quan đề nghị bổ sung tài liệu, chứng cứ trong các trường
hợp khi tài liệu chứng minh hành vi vi phạm của người bị đề nghị, tài liệu về nhân
thân, tình trạng sức khỏe của người bị đề nghị chưa rõ hoặc có mâu thuẫn mà không
thể bổ sung, làm rõ tại phiên họp; khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ
tục đề nghị xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC. Trong thời hạn 01 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được tài liệu, chứng cứ bổ sung hoặc kể từ ngày hết thời hạn quy định
mà cơ quan được yêu cầu không bổ sung tài liệu, chứng cứ, thẩm phán ra quyết định
mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC.
Như đã trình bày trên đây, BPXLHC là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân
vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao
gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Toà án nhân dân cấp
huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng,
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cụ thể:
- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Đưa vào trường giáo dưỡng là BPXLHC áp dụng đối với người có hành vi
phạm pháp luật như sau: Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu
hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ Luật Hình sự;
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm
rất nghiêm trọng do vô ý, quy định tại Bộ Luật Hình sự; người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý, quy định
tại Bộ Luật Hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực hiện hành
vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản
lý, giáo dục của nhà trường.
28. 22
Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng đến 24
tháng. Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với các trường hợp
sau đây: Người không có năng lực trách nhiệm hành chính; người đang mang thai có
chứng nhận của bệnh viện; phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36
tháng tuổi được UBND cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
- Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là BPXLHC áp dụng đối với các đối tượng
sau: người thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước
ngoài; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài; vi
phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định nhằm để người vi
phạm lao động, học văn hóa, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục
bắt buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ 06 tháng đến
24 tháng.
Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với các trường
hợp sau: Người không có năng lực trách nhiệm hành chính; người chưa đủ 18 tuổi; nữ
trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi; người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện; phụ
nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
- Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là BPXLHC áp dụng đối với người có hành
vi vi phạm nhằm để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của
cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú ổn định. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc từ 12 tháng đến 24 tháng.
29. 23
Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường
hợp sau: người không có năng lực trách nhiệm hành chính; người đang mang thai có
chứng nhận của bệnh viện; phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36
tháng tuổi được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
- Thi hành quyết định áp dụng BPXLHC
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày quyết định áp dụng BPXLHC có hiệu lực,
TAND đã ra quyết định phải gửi cho người bị áp dụng, Trưởng Công an cấp huyện,
quận và Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện, quận nơi đã gửi
hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC, UBND cấp xã nơi người đó cư trú và các cơ quan
hữu quan để thi hành theo quy định của pháp luật; quyết định áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng còn được gửi cho cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hết thời hiệu thi hành
sau 06 tháng, kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật. Đối với quyết định áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và quyết định áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc hết thời hiệu thi hành sau 01 năm, kể từ ngày quyết định có
hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp người phải chấp hành quyết định cố tình trốn
tránh việc thi hành, thì thời hiệu được tính kể từ thời điểm hành vi trốn tránh chấm dứt.
Người phải chấp hành quyết định nhưng chưa đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được hoãn chấp hành quyết định trong
các trường hợp sau: đang ốm nặng có chứng nhận của bệnh viện; gia đình đang có khó
khăn đặc biệt được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận. Khi
điều kiện hoãn chấp hành quyết định không còn thì quyết định được tiếp tục thi hành.
Họ được miễn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau: Mắc bệnh hiểm nghèo
có chứng nhận của bệnh viện; trong thời gian hoãn chấp hành quyết định mà người đó
có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công hoặc không còn nghiện
ma túy; đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện.
TAND cấp huyện nơi đã ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc xem xét,
quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp
30. 24
hành quyết định hoặc người đại diện hợp pháp của họ; trong trường hợp cần thiết thì
đề nghị cơ quan đã gửi hồ sơ có ý kiến trước khi quyết định.
Qua trình bày trên cho thấy Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 quy định có năm
BPXLHC gồm: biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo
dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc; quản chế
hành chính. Trừ biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản chế hành
chính thì những biện pháp còn lại về bản chất là việc cách ly người vi phạm khỏi cộng
đồng để giáo dục họ thành công dân có ích cho xã hội. Việc hạn chế quyền của một
người không thông qua thủ tục xét xử mà qua hoạt động của cơ quan hành chính là
không phù hợp với thông lệ quốc tế và cũng đã bộc lộ nhiều bất cập trong quá trình
thực hiện.
Khắc phục thực tế này, Luật xử lý VPHC năm 2012 có hiệu lực từ ngày
01/7/2013 quy định chỉ có TAND mới có thẩm quyền áp dụng các biện pháp hành
chính là: đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc đối với người có hành vi VPHC.
Như vậy để áp dụng đúng các quy định của pháp luật, trước khi thụ lý vụ việc,
Tòa án cần phải kiểm tra điều kiện thụ lý bao gồm những nội dung sau:
* Thẩm quyền giải quyết
Theo quy định khoản 2 Điều 105 Luật xử lý VPHC năm 2012, thẩm quyền
quyết định áp dụng các BPXLHC là TAND cấp huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh). Còn tại Điều 3 của Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính tại TAND quy định rõ:“Tòa án có thẩm quyền xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cơ
quan đề nghị có trụ sở. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết định của
Tòa án nhân dân cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị”9
* Chủ thể yêu cầu
Chủ thể yêu cầu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị TAND áp dụng các
biện pháp hành chính đối với người vi phạm.
9
http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=vie w&id=1359&Itemid=5
31. 25
Theo quy định tại khoản 1 Điều 100; khoản 1 Điều 102 Luật xử lý VPHC thì
Trưởng Công an cấp huyện có thẩm quyền đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với người vi phạm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 104, Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương
binh và xã hội cấp huyện có thẩm quyền đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy.
* Đối tượng bị yêu cầu: Tùy từng biện pháp hành chính bị đề nghị
áp dụng đối với người vi phạm phải thỏa mãn các điều kiện khác nhau.
- Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là những
người dưới 18 tuổi, thuộc các trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 92,
Luật XLVPHC năm 2012:
1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành
vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý
quy định tại Bộ luật hình sự.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi
có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định
tại Bộ luật hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi
có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại
Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn.
4. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên
trong 06 tháng thực hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc,
gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn10
- Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
được quy định tại khoản 1 Điều 94, Luật XLVPHC năm 2012:
10
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội.
32. 26
Là những người đã đủ 18 tuổi trở lên, đến 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với
nam. Là người thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước
ngoài; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài; vi
phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định.11
- Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
được quy định tại khoản 1 Điều 96, Luật XLVPHC năm 2012:
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện
ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn
định [39, tr.145].
* Thời hiệu áp dụng
Thời hiệu áp dụng BPXLHC là khoảng thời gian do pháp luật quy định mà hết
thời hạn đó thì không được áp dụng BPXLHC với người vi phạm. Điểm b khoản 1
Điều 12 Pháp lệnh số 09/2014 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
BPXLHC quy định: Thời hiệu áp dụng BPXLHC được hướng dẫn theo quy định tại
khoản 2 Điều 6 của Luật xử lý VPHC.
Tại khoản 2 Điều 6 Luật xử lý VPHC quy định thời hiệu áp dụng các
BPXLHC cụ thể như sau:
- Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
+ 01 năm kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 92 Luật xử lý VPHC.
+ 06 tháng từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản
3 Điều 92 hoặc kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong những hành
vi vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 92 Luật xử lý VPHC.
11
Quốc hội (2012), Luật xử lý VPHC, NXB Lao động, Hà Nội.
33. 27
- Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là 01 năm kể
từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 94 Luật xử lý VPHC.
- Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là
03 tháng kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 96 Luật xử lý VPHC.
Khoản 1 Điều 8 Luật xử lý VPHC quy định cách tính thời hạn, thời hiệu trong
xử lý VPHC được áp dụng theo các quy định của Bộ luật dân sự (trừ một điều được
Luật xử lý VPHC quy định là ngày làm việc). Điều 156 Bộ luật dân sự quy định về
cách tính thời hiệu như sau: Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của
thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. Do đó, thời
hiệu để áp dụng các BPXLHC bắt đầu từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hoặc
thực hiện lần cuối hành vi vi phạm trong một số trường hợp cụ thể. Thời hiệu đó kết
thúc khi TAND quyết định áp dụng biện pháp hành chính với cá nhân đó.
Như vậy, thời hạn mà Pháp lệnh số 09/2014 quy định để Tòa án xem xét việc áp
dụng BPXLHC nằm trong thời hiệu để áp dụng BPXLHC.
Ngoài 4 nội dung về thẩm quyền giải quyết, chủ thể yêu cầu, đối tượng bị yêu
cầu, thời hiệu đã trình bày ở trên; khi kiểm tra hồ sơ do cơ quan đề nghị áp dụng các
biện pháp hành chính chuyển sang, TAND cũng cần phải kiểm tra những trường hợp
không áp dụng biện pháp hành chính theo quy định khoản 5 điều 92; khoản 2 điều 94;
khoản 2 điều 96(Luật xử lýVPHC, 2012); Kiểm tra lại thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp
dụng các BPXLHC đã được quy định tại chương II, phần thứ 3 của Luật xử lý VPHC;
Nghị định số 02/2014/NĐ-CP ngày 10/01/2014 quy định chế độ áp dụng, thi hành
BPXLHC đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc; Nghị định số
221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 quy định chế độ áp dụng BPXLHC đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý VPHC.
34. 28
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH