Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM
1. Trong phần định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh có đoạn viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh… là kết
quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước
ta”. Hãy phân tích và chứng minh luận điểm nói trên.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm đó có nhiều luận điểm hết sức
sáng tạo, thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể ở nước ta. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, bao quát
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn
và giá trị to lớn.
Nhờ đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ nhu cầu, đặc
điểm của các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng để tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cũng đã tiếp thu, bảo vệ và phát triển sáng tạo bằng những
luận điểm mới mà ở thời mình Lênin chưa có điều kiện khám phá. Một trong những luận
điểm hết sức sáng tạo đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
đó là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Vận dụng công thức của C. Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng
anh em (tức nhân dân thuộc địa – TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em”.
Quan điểm của Lênin khi cho rằng: “Giai cấp vô sản ở thuộc địa có khả năng tự giải
phóng nếu có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở chính quốc”, Người đi đến luận điểm: “Cách
mạng thuộc địa có tính độc lập tương đối của nó và cách mạng thuộc địa là một trong những
cái cánh của cách mạng vô sản”.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc. Khi cách mạng vô sản ở chính quốc thành công thì cách mạng vô sản ở thuộc địa
mới thành công. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau và là quan hệ bình đẳng chứ
không phải quan hệ chính phụ, lệ thuộc. Các mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có tính chủ
động và có thể tự nổ ra khi thời cơ đến.
Hồ Chí Minh nhận thấy rằng chủ nghĩa dân tộc là truyền thống lâu đời của các dân tộc
thuộc địa. Nó tạo ra sức mạnh khổng lồ để các dân tộc thuộc địa đấu tranh chống lại mọi ách
xâm lăng.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, về thuộc địa, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra rằng:
“tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa
tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ
mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân
phản cách mạng của nó” và “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”, nó gieo rắc những chính sách áp bức, bóc lột vô
cùng thâm độc lên nhân dân thuộc địa, mà theo quy luật chung thì “ở đâu có áp bức, ở đó có
đấu tranh”, ách áp bức càng nặng, tinh thần đấu tranh càng cao.
So với nhân dân lao động ở chính quốc, nhân dân lao động ở thuộc địa bị bóc lột nặng
nề hơn, bị áp bức tàn nhẫn hơn. Vì thế, khi thời cơ cách mạng đến, cách mạng thuộc địa
Trang 1
2. không thể ngồi yên trông chờ sự giúp đỡ của cách mạng vô sản ở chính quốc, mà nhân dân
thuộc địa phải chủ động “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa không những phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô sản ở
chính quốc mà nó còn có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước. Đây là một quan điểm sáng
tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến rất to lớn vào kho tàng lý luận Mác –
Lênin, đã được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn qua thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì Đảng cộng sản là sản phẩm của chủ nghĩa Mác và
phong trào công nhân. Tuy nhiên, quan điểm của Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng Cộng sản
cViệt Nam là sản phẩm kết hợp Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam “không những là cái cẩm nang
thần kỳ, là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi
cuối cùng, đi đến chủ nghĩa xã hội”. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành cơ sở
lý luận dẫn đường cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao vai trò của cách mạng của giai cấp công nhân Việt
Nam trong tiến trình cách mạng. Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luận của phong trào công
nhân là cơ sở thực tiễn kiểm nghiệm chủ nghĩa Mác – Lênin
Ngoài ra, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò to lớn của phong trào yêu nước của các
giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam. Do đó, Người đã thêm yếu tố phong trào yêu
nước vào thành cơ sở thực tiễn thứ hai cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy
với việc nhận thấy vai trò của phong trào yêu nước và đưa nó vào thành một trong ba nhân tố
kết hợp cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm của Hồ Chí Minh được đánh
giá có ý nghĩa sáng tạo, góp phần bổ sung là phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Có thể thấy hệ thống quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một sự sao
chép mà là kết quả của “sự vận dụng sáng tạo và phát triển” chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể nước ta.
Trang 2
3. Trình bày một quan điểm sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm đó có nhiều luận điểm hết sức
sáng tạo, thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể ở nước ta. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, bao quát
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn
và giá trị to lớn. Một trong những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc, đó là quan điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Như chúng ta đã biết, Mác - Ăngghen là những người đã sáng lập ra học thuyết cách
mạng và khoa học của giai cấp vô sản. Nếu như ở giai đoạn trước, Mác - Ăngghen chưa quan
tâm nhiều đến cách mạng giải phóng dân tộc, thì ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin chú ý
nhiều đến vấn đề dân tộc thuộc địa và cách mạng giải phóng dân tộc. Lênin nhận ra vai trò to
lớn của hệ thống thuộc địa thế giới trong việc nuôi sống và duy trì chủ nghĩa tư bản, tiềm
năng cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa, từ đó đi đến khẳng định: Cách mạng giải
phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, của toàn bộ quá trình
cách mạng thế giới nói chung.
Nhờ đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ nhu cầu, đặc
điểm của các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng để tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cũng đã tiếp thu, bảo vệ và phát triển sáng tạo bằng những
luận điểm mới mà ở thời mình Lênin chưa có điều kiện khám phá. Một trong những luận
điểm hết sức sáng tạo đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
đó là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Vận dụng công thức của C. Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng
anh em (tức nhân dân thuộc địa – TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em”. Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực
dân. Người chủ trường phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động, trông
chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Quan điểm của Lênin khi cho rằng: “Giai cấp vô sản ở thuộc địa có khả năng tự giải
phóng nếu có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở chính quốc”, Người đi đến luận điểm: “Cách
mạng thuộc địa có tính độc lập tương đối của nó và cách mạng thuộc địa là một trong những
cái cánh của cách mạng vô sản”.
Khái niệm “cách mạng thuộc địa” và mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng vô sản ở
chính quốc với cách mạng thuộc địa thực sự đã được đề cập tới trong lý luận của Lênin và
trong đường lối của Quốc tế cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Khi cách mạng vô sản ở chính quốc thành công thì
cách mạng vô sản ở thuộc địa mới thành công. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau và
là quan hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ chính phụ, lệ thuộc. Các mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa có tính chủ động và có thể tự nổ ra khi thời cơ đến.
Trang 3
4. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng chủ nghĩa dân tộc là truyền thống lâu đời của các dân tộc
thuộc địa. Nó tạo ra sức mạnh khổng lồ để các dân tộc thuộc địa đấu tranh chống lại mọi ách
xâm lăng.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, về thuộc địa, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra rằng:
“tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa
tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ
mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân
phản cách mạng của nó” và “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”, nó gieo rắc những chính sách áp bức, bóc lột vô
cùng thâm độc lên nhân dân thuộc địa, mà theo quy luật chung thì “ở đâu có áp bức, ở đó có
đấu tranh”, ách áp bức càng nặng, tinh thần đấu tranh càng cao.
So với nhân dân lao động ở chính quốc, nhân dân lao động ở thuộc địa bị bóc lột nặng
nề hơn, bị áp bức tàn nhẫn hơn. Vì thế, khi thời cơ cách mạng đến, cách mạng thuộc địa
không thể ngồi yên trông chờ sự giúp đỡ của cách mạng vô sản ở chính quốc, mà nhân dân
thuộc địa phải chủ động “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa không những phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô sản ở
chính quốc mà nó còn có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước. Đây là một quan điểm sáng
tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến rất to lớn vào kho tàng lý luận Mác –
Lênin, đã được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn qua thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam.
Lấy một ví dụ, Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khôn
khéo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ
thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo có phương pháp; chiến lược,
chiến thuật cách mạng thích hợp và linh hoạt. Vì thế, cho đến ngày Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám, tuy ta chưa có đội quân chủ lực mạnh nhưng đã có đủ các loại lực lượng vũ trang phát
triển khắp nơi, ta có ưu thế về lực lượng chính trị so với kẻ thù; Đảng đã phát huy ưu thế đó,
chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức khởi
nghĩa khéo léo, tài tình, Đảng đã đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi trọn vẹn trong cả
nước.
Trang 4
5. Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức, hãy nêu lên tầm quan trọng của việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sinh viên sư phạm – những thầy cô giáo tương lai.
Hồ Chí Minh đánh giá đạo đức là cái gốc của con người cách mạng, là nguồn nuôi
dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang. Hồ Chí Minh nói, không phải cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là được dân tin, dân
yêu, người dân chỉ tin tưởng, quý mến những người có cái tâm trong sáng, có đạo đức cao
đẹp.
Trong sự nghiệp cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức được đánh giá là
nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ có tính
nhân văn cao đẹp, trong đó con người xem nhau là đồng chí, là anh em. Do đó, đạo đức được
bổ sung sẽ tạo nên giá trị to lớn cho chủ nghĩa xã hội. Những người cộng sản là những người
trọn đời cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho chủ nghĩa xã hội. Do vậy, tư cách đạo đức
của họ sẽ là những mẫu mức làm đẹp xã hội và trở thành tấm gương để nhân dân noi theo.
Trong thời kỳ hiện nay, đạo đức có vai trò cực kỳ quan trọng, giúp định hướng con
người đến chân, thiện, mỹ. Nền kinh tế thị trường một mặt giúp con người phát huy tính năng
động, sáng tạo, chủ động tham gia cống hiến cho đất nước. Mặt khác, có những yếu tố tiêu
cực của kinh tế thị trường có thể làm con người trở nên hời hợt, vô cảm trước người khác,
trước vận mệnh của đất nước, từ đó dễ rơi vào lối sống thực dụng, rơi vào chủ nghĩa cá nhân.
Do đó, đạo đức có vai trò định hướng cho con người, giúp họ phân biệt thiện ác, tốt xấu, từ
đó nhìn nhận lại bản thân, khắc phục điểm xấu, vương đến cái tốt, trở thành những công dân
gương mẫu tích cực xây dựng xã hội ngày một phồn vinh.
Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:
- Trung với nước, hiếu với dân
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- Yêu thương con người
- Có tinh thần quốc tế trong sáng
Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới:
- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
- Xây đi đôi với chống
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
* Lúc sinh thời Hồ Chủ Tịch rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cho thế
hệ trẻ. Bác nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là
người vô dụng’’. Bác còn chỉ rằng: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả Đức lẫn Tài. Đức là
đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức trong trường học
là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của nhà trường XHCN”. Như vậy Đức và
Tài là hai phạm trù cơ bản để đánh giá nhân cách của một con người. Cho nên để phát triển
nhân cách phải hình thành, rèn luyện phẩm chất đạo đức, giá trị đạo đức phù hợp.
Để phát triển giáo dục và đào tạo đạt hiệu quả cao, trước tiên phải nâng cao chất
lượng đội ng ̣ũ giáo viên. Giáo viên ở bất kỳ cấp học nào, bậc học nào cũng là người giữ trọng
trách trước một thế hệ. Việc hình thành những phẩm chất đạo đức của người thầy giáo cho
sinh viên là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của nhà trường sư phạm cần được quan
tâm ngay từ khi họ bước vào trường: “Tri thức có thể có được bằng cách luyện cấp tốc trong
Trang 5
6. một thời gian ngắn nhưng phẩm chất kĩ năng nghề nghiệp thì không thể có được trong ngày
một ngày hai... Những phẩm chất đó muốn có phải được tổ chức giáo dục chặt chẽ ngay từ
khi sinh viên mới bước vào trường”.
Nghề dạy học đòi hỏi rất cao yêu cầu về cả phẩm chất và năng lực, người giáo viên
phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Chính vì thế những sinh viên sư phạm, những
người thầy cô giáo trong tương lai cần phải học tập, rèn luyện để có những phẩm chất đạo
đức, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của người giáo viên trong giai đoạn cách
mạng mới.
Một sinh viên sư phạm cần phải học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, cần trung với nước, hiếu với dân suốt đời, tu dưỡng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục
với tư cách của một giáo viên chân chính, đào tạo và giáo dục cả một thế hệ là đào tạo cả một
Đất Nước, thực hiện và chấp hành đúng chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra, có lối sống
lành mạnh có văn hóa tại nơi ở và nơi công tác. Sẵn sàng cầm súng chiến đấu mỗi khi Đất
Nước lâm nguy, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, sẵn sàng hi sinh vì độc lập dân tộc.
Sinh viên sư phạm cần phải tích cực ra sức học tập để trau dồi tri thức đầy đủ, bởi chỉ
có vậy mới hoành thành tốt sự nghiệp trồng người. Làm việc phải học tập cần cù, siêng năng,
làm việc có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao. Cần phải thấy rằng, giáo dục là một nghĩa
vụ, trách nhiệm của người giáo viên. Cần phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không lãng phí
một cách vô ích. Cần phải tôn trọng giữ gìn của công và của dân, không lấy tiền của dân,
không tiêu cực, tham nhũng trong ngành giáo dục. Không tự cao tự đại, phải biết nhận thấy
khuyết điểm của mình và sửa đổi nhanh chóng để phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.
Lương tâm nghề nghiệp phải được đề cao, phục vụ hết mình cho giáo dục nước nhà, sống
thật, không dối trá, lừa lọc,… Phải lo cho học sinh – những mầm móng thế hệ tương lai sau
này, đặt lợi ích cá nhân ra sau.
Yêu thương thế hệ học sinh, những người thân trong gia đình, thầy cô, bạn bè, đồng
nghiệp,… Xem học sinh như những đứa con của mình, chăm lo và quan tâm chúng một cách
chu đáo. Không nên thù hận bất kỳ ai. Tình yêu thương dành cho những người khó khăn
trong cuộc sống, ủng hộ và có những hành động thiết thực mang tính nhân đạo, chống sự kỳ
thị trong cuộc sống, yêu thương giữa con người với con người.
Có tinh thần đoàn kết không chỉ trong toàn thể dân tộc mà còn đoàn kết quốc tế, sẵn
sàng tiếp thu những kiến thức mới bên ngoài để áp dụng cho nền giáo dục nước nhà, trau dồi
kỹ năng giao tiếp nước ngoài trong công cuộc hội nhập quốc tế.
Qua đây, cám ơn chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đức tính mà thế hệ sinh viên nói
riêng và dân tộc Việt Nam nói chung cần phải học từ Người rất nhiều, Người thực sự là tượng
đài bất diệt trong lòng mỗi công dân Việt Nam, cũng cần cám ơn Đảng và Nhà nước đã đề ra
đường lối và chính sách phù hợp cho đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, một con
đường bền vững trong tương lai và khiến bạn bè quốc tế phải nể phục trong công cuộc hội
nhập toàn cầu.
Trang 6
7. Nhận thức và vận dụng tư tưởng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính” của Hồ Chí Minh trong tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân hiện nay.
Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đề cao và thực hiện nghiêm minh những đức tính cần kiệm liêm chính. Người xem đây là
nguyên tắc, là phẩm chất cơ bản có liên quan mật thiết với các nhiệm vụ và công tác hoạt
động cách mạng khác nhau và thiếu chúng thì khó dẫn đến thành công một cách trọn vẹn,
triệt để.
Trong bài viết “Cần, kiệm, liêm, chính” đăng trên báo Cứu Quốc số ngày 30-5, 31-5,
1-6 và 2-6 năm 1949, ngay ở phần mở đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết những vấn đề
trên trong tương quan với các quy luật của tự nhiên và xã hội bằng 6 câu thơ như sau:
“Trời có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông,
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Qua đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao 4 đức tính trên như điều kiện cần đối
với mỗi người trong đời sống và hoạt động xã hội. Nếu là người tham gia hoạt động cách
mạng trực tiếp, 4 đức tính ấy lại càng phải quán triệt và hành động triệt để hơn, có hiệu quả
hơn, nghiêm minh hơn. Đây là một phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của
mỗi người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho
cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho dân. Đó cũng là
một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Theo Bác, Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, bền bỉ trong công việc cụ thể của
mình. Cần phải gắn với kế hoạch, nếu không thì mọi việc sẽ rối tung, kém hiệu quả. Cần phải
đi với chuyên, cần cù mà dốt nát thì hiệu quả thấp, có khi trở thành phá hoại. Điều này đến
nay vẫn còn nguyên giá trị nhận thức và thực tiễn.
Về nội dung chữ Kiệm, Bác viết: Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí,
bừa bãi. Lãng phí là kẻ thù của tiết kiệm. Hiện tại, không ít người lãng phí và lợi dụng của
công để làm việc riêng, thiếu tinh thần chí công vô tư. Đó là điều đáng trách, nếu không
muốn nói là nhỏ nhen, tầm thường, dẫn đến tham ô, lãng phí. Kiệm là tiết kiệm sức lao động,
thì giờ, tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình. Phải tiết kiệm từ cái to đến cái
nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; không xa xỉ, hoang phí, không bừa bãi, không phô
trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù.
Liêm, theo Bác, đó là luôn tôn trọng của công và của dân, phải trong sạch, không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân, không tham lam tiền của, địa vị,
danh tiếng, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, vì vật mà quang minh
chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiêu thụ.
Chữ Liêm, theo Bác, còn phải hiểu theo nghĩa rộng là trung với Tổ quốc, hiếu với nhân dân.
Có như thế, thì không bao giờ vụ lợi. Tất cả vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Chữ Liêm
theo tinh thần, đạo đức của người cách mạng cao cả là thế!
Trang 7
8. Nội dung của Chính, theo Bác là “không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì
không đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà”. Hiểu rộng ra là phải làm theo chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước; không làm sai, không vì lợi ích cá nhân để ngày càng phát
huy điều chính, giảm và tiêu diệt điều tà. Đối với mình – không tự cao tự đại, luôn chịu khó
học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân
mình. Đối với người – không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc – để việc
công lên trên việc tư, việc nhà. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh.
Quan niệm về nội dung của cần, kiệm, liêm, chính của Bác Hồ thật rõ ràng, giản dị
mà sâu sắc, có giá trị lớn trong việc vận dụng vào học tập, rèn luyện một cách sáng tạo, cụ
thể của từng người, từng cơ quan, đoàn thể trong từng hoàn cảnh khác nhau. Những nội dung
trên đã thành phẩm chất cơ bản trong tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Bác luôn xem 4 đức
tính trên là “chính sách lớn, đạo đức lớn”. Từng cá nhân, cơ quan, tập thể, từng ngành nghề
căn cứ vào từng nhiệm vụ, từng giai đoạn, từng yêu cầu mà phải hiểu đúng và có sáng tạo 4
đức tính ấy một cách linh hoạt, đa dạng, tránh cứng nhắc. Bác thường nhấn mạnh và đề cao 4
loại tiết kiệm: đó là tiết kiệm tiền, tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu,
tiết kiệm thời giờ. Một yêu cầu sinh tử của Bác là kiệm phải đi liền với cần “như hai chân của
con người”. Cần không phải chỉ thuần tuý là cần cù làm việc mà quan trọng hơn là phải có
chất lượng, có hiệu quả, có năng suất cao. Cả cuộc đời của Bác Hồ là tấm gương sáng cho
những đức tính cao đẹp nói trên. Mỗi việc làm, mỗi suy nghĩ và hiệu quả công việc cách
mạng của Bác là một bài học cụ thể, sinh động của 4 đức tính cần, kiệm, liêm, chính mà
không giấy mực nào ghi lại hết được.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Thiết nghĩ, chúng ta phải hiểu bản chất và nội dung cụ thể của cuộc vận động
lớn này. Nếu không, dễ rơi vào hình thức chủ nghĩa, phản tác dụng. Mà muốn hiểu và làm
đúng, thì chỉ soi vào từng ý kiến, từng bài viết và từng việc làm của Bác sẽ liên hệ thấy rõ
mình làm đến đâu, hiểu đến mức nào và làm sai, vi phạm đến mức nào. Có như thế, cuộc vận
động mới đi vào chiều sâu, đúng bản chất. Những hiện tượng tiêu cực, sai phạm của các cơ
quan, cá nhân mà hàng ngày báo chí nêu là có thật, là tiếng chuông báo động về tình trạng
xuống cấp đạo đức, có nguy cơ suy đồi, băng hoại về nhân cách trong xã hội hiện nay. Đảng
và Nhà nước ta nhận thấy và dự cảm được điều này nên đã kịp thời chấn chỉnh và có biện
pháp, chính sách lớn trong việc chống tham ô, lãng phí, chống tiêu cực – đặc biệt là trong cán
bộ có chức, có quyền. Đó là động thái đúng đắn và tích cực nhằm thanh lọc và giáo dục, xử
phạt nghiêm minh để đưa xã hội tiến lên, đem lại lòng tin cho mọi người đối với một xã hội
tốt đẹp, công bằng, dân chủ và văn minh. Muốn vậy, phải hướng vào những mục tiêu vừa
diện, vừa điểm; vừa trước mắt, vừa lâu dài; vừa vĩ mô, vừa vi mô… mới mong đạt được hiệu
quả thiết thực và triệt để. Trong muôn vàn bài học đạo đức của Hồ Chí Minh, bài học về cần,
kiệm, liêm, chính có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nhân dân ta hiện nay.
Để kết luận cho bài viết sơ lược này, xin dẫn ý kiến của một sử gia người Mỹ – bà
Stenson – nhận định về Hồ Chí Minh: “Một số đông người đã bị tha hoá chạy theo đời sống
vật chất, bất chấp cả nhân phẩm đạo đức, coi sự hưởng thụ là mục đích của cuộc sống thì
nhân loại lại tìm về tấm gương sáng ngời nhân cách Hồ Chí Minh – một tấm gương cho mọi
thế hệ tiếp theo”. Đó chính là nền tảng, là đạo đức thuộc về thì quá khứ, hiện tại và tương lai
– Đạo đức Hồ Chí Minh
Trang 8