1. Bãi bỏ án tử hình nên hay không?
Hiện nay có tới 135 nước đã bãi bỏ án tử hình, 62 nước vẫn còn duy trì án
tử hình, thường là để trừng trị những kẻ sát nhân. Tuy nhiên, không thể
tìm ra bất kỳ tiêu chí nào về địa lý, văn hoá, chính trị, kinh tế, tôn giáo …
để phân biệt 135 nước bãi bỏ và 62 nước duy trì án tử hình. Hầu hết các
nước đang áp dụng án tử hình đều biện minh là phải áp dụng bản án nặng
nề nhất này để bảo đảm an ninh, an toàn cho cộng đồng. Còn các nước
không duy trì án tử hình thì lại cho rằng tử hình là vi phạm vào quyền
sống của con người.
Nguyên nhân tranh cãi của các nước này xuất phát từ hai tư duy khác
nhau về tư pháp hình sự. Các nước duy trì án tử hình thì cho rằng hệ
thống tư pháp hình sự là để trừng trị những người phạm tội; trong khi đó,
các nước bãi bỏ án tử hình thì cho rằng hệ thống tư pháp hình sự là để
bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, dù đứng trên tư duy nào thì án tử
hình cũng là một thiết chế pháp lý do cộng đồng đặt ra để bảo vệ tính ổn
định của cộng đồng, do đó phải thoả mãn ba đặc điểm của bất cứ thiết chế
pháp lý nào, đó là: tính đúng đắn, tính cần thiết và tính hiệu quả. Sau khi
xem xét và phân tích các đặc điểm này, nếu án tử hình hội tụ đầy đủ ba
đặc điểm trên thì chúng ta mới có căn cứ để duy trì nó; nếu thiếu bất cứ
đặc điểm nào thì chúng ta không thể duy trì nó.
1. Tính đúng đắn
Tử hình là tước bỏ sự sống của một cá nhân. Và chỉ có người nào tạo ra
sự sống của cá nhân hoặc duy trì sự sống của cá nhân mới có quyền tước
bỏ sự sống đó. Ở đây chúng ta phải giải quyết hai vấn đề: Ai tạo ra sự
sống của cá nhân? và Ai duy trì sự sống đó? Nếu xã hội là người hoặc là
tạo ra sự sống của cá nhân hoặc là duy trì sự sống của cá nhân thì xã hội
mới có quyền tước bỏ sự sống đó.
2. Ai tạo ra sự sống của cá nhân?
Ai cũng biết rằng nhờ sự kết hợp ngẫu nhiên giữa tinh trùng trong cơ thể
người cha và trứng trong cơ thể người mẹ mà sự sống được ra đời. Và để
có được sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng thì người cha và người mẹ
cần thực hiện một hành vi gọi là giao hợp. Khoa học đã chứng minh rằng
hành vi giao hợp là hành vi mang tính bản năng tự nhiên của loài người.
Quá trình hình thành sự sống của cá nhân từ thời điểm giao hợp đến thời
điểm cá nhân ra đời hoàn toàn là một quá trình phát triển tự nhiên. Như
vậy, chỉ có tự nhiên tạo ra sự sống của cá nhân.
Ai duy trì sự sống của cá nhân?
Có ý kiến cho rằng: sau khi cá nhân sinh ra phải được cha mẹ và cộng
đồng chăm sóc thì sự sống của cá nhân mới được duy trì. Điều này là sai
lầm vì hai lý do. Thứ nhất, chính các yếu tố vật chất có nguồn gốc tự
nhiên như thức ăn, nước uống, không khí… mới là thứ duy trì sự sống.
Thứ hai, hành vi chăm sóc của cha mẹ và cộng đồng đối với cá nhân đơn
giản chỉ là lấy những dinh dưỡng có sẵn trong tự nhiên hoặc cải tạo
những dinh dưỡng đó để duy trì sự sống cho cá nhân và do đó chỉ là
phương tiện để tự nhiên duy trì sự sống cho cá nhân. Việc chăm sóc và
quan tâm đến con của cha mẹ là một bản năng tự nhiên của tất cả các loài
động vật, kể cả con người nhằm duy trì nguồn gen của loài. Về sự chăm
sóc của cộng đồng đối với cá nhân cũng chỉ là một nghĩa vụ theo hợp
đồng được ký kết giữa hai bên, theo đó, cộng đồng sẽ chăm sóc và bảo vệ
cho cá nhân, đổi lại cá nhân phải đóng góp công sức và tài chính, thậm
chí còn phải từ bỏ một số quyền tự do để duy trì sự ổn định của cộng
đồng.
Kết luận: Chỉ có tự nhiên tạo ra sự sống và duy trì sự sống của cá nhân
nên chỉ có tự nhiên mới có quyền tước bỏ nó. Do đó, trong con mắt của
cộng đồng, sự sống của cá nhân phải là tối cao và bất khả xâm phạm. Do
đó, sự tồn tại của án tử hình là không đúng đắn.
2. Tính cần thiết
3. Khi xem xét tính cần thiết, chúng ta phải xem xét ba vấn đề sau:
Hành vi nguy hiểm của cá nhân có thể cải tạo được hay không?
Khi một cá nhân sinh ra, cá nhân đó chỉ có các hành vi bản năng tự nhiên
không nguy hại. Chỉ khi cá nhân tham gia vào cộng đồng, cá nhân đó mới
từng bước hình thành các hành vi có ý thức. Hành vi phạm tội của cá
nhân cũng là một trong những hành vi có ý thức. Mà tất cả hành vi có ý
thức đều có thể cải tạo được vì hành vi đó chỉ hình thành khi cá nhân
tham gia vào một số mối quan hệ trong cộng đồng khi cá nhân sống. Do
đó, bất cứ hành vi phạm tội nào của cá nhân cũng đều có thể cải tạo được.
Xã hội có đủ khả năng cách ly những cá nhân nguy hiểm khỏi đời sống
của nó hay không?
Ngày nay, bất cứ cộng đồng nào trên thế giới cũng có đủ điều kiện và khả
năng để cách ly một cá nhân nguy hiểm khỏi đời sống của nó mà vẫn đảm
bảo được các quyền con người tối thiểu. Hệ thống pháp lý có đủ khả năng
phân biệt rõ hành vi nào là hành vi nguy hiểm. Hệ thống an ninh có đủ
khả năng theo dõi và bắt giữ các cá nhân nguy hiểm. Hệ thống trại giam
có đủ khả năng kiểm soát các cá nhân nguy hiểm trong một phạm vi địa
lý nhỏ để họ không còn gây nguy hiểm cho xã hội. Các hệ thống này đều
tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới.
Có chế tài khác thay thế án tử hình không?
Mục đích của án tử hình là loại bỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội bằng
cách tước bỏ sự sống của chủ thể hành vi nguy hiểm. Tuy nhiên, để loại
bỏ hành vi nguy hiểm không nhất thiết phải loại bỏ chủ thể của nó bởi vì
hành vi nguy hiểm có thể được loại bỏ bằng nhiều cách khác như thay đổi
ý thức của chủ thể, loại bỏ điều kiện thực hiện hành vi nguy hiểm, cách ly
hoàn toàn chủ thể nguy hiểm khỏi khỏi cộng đồng. Nếu cộng đồng nhận
thấy hành vi nguy hiểm cần phải loại bỏ hoàn toàn khỏi cộng đồng thì có
thể cách ly chủ thể nguy hiểm cho đến khi người đó chết. Như vậy, việc
thay thế án tử hình bằng một chế tài khác là có thể thực hiện được. Ví dụ
nhiều nước ngày nay đã thay thế án tử hình bằng án chung thân không
được khoan hồng. Thời phong kiến pháp luật quy định hình phạt lưu đày
biệt xứ cũng là một kiểu cách ly hoàn toàn chủ thể nguy hiểm khỏi cộng
đồng.
4. 3. Tính hiệu quả
Khi nói đến tính hiệu quả, chúng ta phải trả lời cho các câu hỏi sau:
Có phải người phạm tội sợ án tử hình nên không dám phạm tội hay không?
Những tội phạm nghiêm trọng xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới và
không phụ thuộc vào việc quốc gia đó có duy trì án tử hình hay không.
Nhiều kẻ tội phạm biết chắc là cái gì sẽ chờ mình nếu bị bắt và kết án,
nhưng không vì thế mà chùn tay khi hành động. Ở cả quốc gia duy trì án
tử hình, tỷ lệ tội phạm về án tử hình ngày càng tăng mạnh và không có
chiều hướng giảm. Trung Quốc vào năm 2007 đã thi hành án tử hình ít
nhất 470 tử tội, nhiều hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới. Đó là con
số do tổ chức Nhân quyền Ân xá Quốc tế (AI) vừa công bố trong bản báo
cáo thường niên về án tử hình. Nằm trong Top 5 nước có số tử tội bị hành
quyết trong năm 2007, ngoài Trung Quốc còn có Iran (317), Saudi Arabia
(143), Pakistan (135) và Mỹ (42). Chỉ 5 nước này đã chiếm tới 88% tổng
số vụ hành quyết tử tội được công bố trên toàn thế giới. Tuy nhiên, Mỹ đã
hoãn thi hành án tử hình trên toàn quốc vào năm 1965. Một dẫn chứng
nữa cho thấy, không phải cứ có án tử hình thì tội phạm nghiêm trọng
giảm, không có án tử hình thì tội phạm nghiêm trọng tăng. Ở Canada,
nước bãi bỏán tử hình từ năm 1976, kể từ đó đến nay, tỷ lệ tội giết người
đã giảm 40%.
Ở các nước duy trì án tử hình an ninh có hơn các nước bãi bỏ án tử hình
không?
Tình hình an ninh ở các nước duy trì án tử hình không tốt hơn các nước
bãi bỏ án tử hình, vì việc có an ninh tốt không phụ thuộc vào việc nước
đó có án tử hình hay không. Trên thực tế thì các nước bãi bỏ án tử hình có
số tội phạm giết người thấp hơn rất nhiều so với các nước duy trì án tử
hình. An ninh của một quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà điều
quan trọng chủ yếu chính là việc thực thi pháp luật một cách nghiêm
minh. Chính việc thực thi pháp luật không nghiêm minh mới làm cho an
ninh xấu đi. Pháp luật không được thực thi nghiêm minh tất yếu sẽ dẫn
đến dung dưỡng cho những hành vi sai trái. Thực tế trên thế giới cho thấy,
ở đâu pháp luật được thực thi nghiêm minh thì ở đó an ninh ổn định. Các
nước Bắc Âu, Bắc Mỹ và Tây Âu là dẫn chứng điển hình cho trường hợp
trên.
5. Tuyên án tử hình sai thì còn cơ hội để sửa hay không?
Khi đã tuyên án tử hình và thi hành án đó thì có giải oan được cho người
đã chết thì việc giải oan cũng trở nên vô nghĩa. Vấn đề đặt ra ở đây nếu
nhà nước xử tội oan cho người ta, thì trách nhiệm của nhà nước đến đâu?
Nhà nước có trở thành phải là tội phạm hay không và bị lên án như thế
nào? Câu chuyện đâu chỉ có bồi thường vật chất và xin lỗi công khai. Mà
việc xin lỗi công khai phải do người đứng đầu nhà nước xin lỗi chứ
không phải là một vị nào đó đại diện cho cơ quan xét xử. Rõ ràng, nhà
nước có đủ khả năng để duy trì sự ổn định của xã hội mà không cấn đến
án tử hình và hoàn toàn có thể thay thế án tử hình bằng một hình phạt
khác có ý nghĩa tương tự. Nhưng Nhà nước đã không làm điều đó. Do đó,
nếu nhà nước tuyên nhầm án tử hình thì nhà nước phải bị coi là một tội
phạm và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Còn các cơ quan nhà
nước quy trách nhiệm cho ai và quy trách nhiệm đến đâu là công việc nội
bộ của chính quyền. Toà án nhân danh nhà nước xử tử oan người ta
nhưng nhà nước không chịu trách nhiệm mà Toà án lại là người chịu
trách nhiệm. Điều đó trái với lẽ công bằng. Từ đây, ta có thể đi đến kết
luận rằng, việc tồn tại án tử hình là không hiệu quả.
Bãi bỏ án tử hình là một quy luật tất yếu vì án tử hình không đảm bảo
được ba tính chất của một quy định pháp lý. Đó là: tính đúng đắn, tính
cần thiết và tính hiệu quả. Việc quy định pháp lý thiếu một trong ba tính
chất trên đã phải bãi bỏ hoặc thay thế. Án tử hình trong thời đại ngày nay
đều không đáp ứng được bất cứ tính chất nào trong ba tính chất trên, cho
nên việc bãi bỏ nó là tất yếu.