1. 1
Chương 1
Dịch tễ học là gì?
Thông điệp chính
• Dịch tễ học là khoa học nền tảng của y tế công cộng.
• Dịch tễ học đã có những đóng góp lớn vào việc cải thiện sức khoẻ cộng
đồng.
• Dịch tễ học là công cụ thiết yếu trong quá trình xác định và sắp xếp
(mapping) các bệnh nổi trội.
• Thường xuyên có tình trạng chậm chễ giữa việc thu thập các bằng chứng
dịch tễ học và ứng dụng các bằng chứng này vào xây dựng chính sánh y tế.
Bối cảnh lịch sử
Nguồn gốc
Dịch tễ học bắt nguồn từ những quan sát từ thời Hypocrate hơn 2000 năm trước đây,
cho rằng các yếu tố môi trường đã tác động lên sự xuất hiện bệnh. Tuy nhiên, cũng
phải đến tận thế kỷ thứ mười chín mới có những đo lường sự phân bố bệnh tật trong
các nhóm quần thể người trên qui mô lớn. Giai đoạn này không chỉ đánh dấu sự khởi
đầu chính thức của dịch tễ học mà còn có cả những thành tựu ấn tượng nhất của
chuyên ngành này.1
Một ví dụ nổi tiếng là các phát hiện của John Snow (Hộp 1.1) cho
thấy nguy cơ của bệnh tả ở thành phố London có liên quan đến việc uống nước của
các công ty cấp khác nhau; bản đồ (xem Hình 4.1) làm nổi bật điểm tập trung của các
trường hợp bệnh. Các nghiên cứu dịch tễ của Snow là một trong số hàng loạt các
điều tra đánh giá mối liên quan giữa các quá trình vật lý, hoá học, sinh học, xã hội học
và chính trị.2
Việc so sánh tỷ lệ mắc bệnh trong các nhóm quần thể người rất phổ biến vào cuối thể
kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi. Cách tiếp cận này ban đầu được ứng dụng vào
việc kiểm soát các bệnh truyền nhiễm (xem Chương 7), và cũng được chứng minh là
một phương pháp hiệu quả để mô tả mối liên kết giữa các điều kiện hay tác nhân môi
trường với các bệnh cụ thể. Vào nửa sau của thế kỷ hai mươi, đặc biệt là ở các nước
có thu nhập cao hoặc trung bình, cách tiếp cận này này được áp dụng đối với các
bệnh không lây mạn tính như bệnh tim, ung thư.
Các phát triển gần đây của dịch tễ học
Dịch tễ học hiện đại là một chuyên ngành tương đối mới và sử dụng các phương
pháp định lượng để nghiên cứu bệnh trong quần thể người, với những thông tin cho
nỗ lực phòng ngừa và kiểm soát bệnh tật. Ví dụ Richard Doll và Andrew Hill, từ đầu
những năm 1950, đã nghiên cứu mối liên quan giữa hút thuốc lá và ung thư phổi.
Nghiên cứu của họ được tiến hành trước các nghiên cứu thực nghiệm về độc tính gây
ung thư của nhựa thuốc lá và các quan sát lâm sàng cho thấy mối liên quan giữa hút