SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  83
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ DIỄM
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ DIỄM
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN BIÊN
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn
chưa công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả
Nguyễn Thị Diễm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO
NHẦM LẪN ..................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu...................................................................... 7
1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn...............................................13
1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn.......................................18
1.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của một số nước trên thế
giới...................................................................................................................27
1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ...........29
Chương 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.................34
2.1. Điều kiện của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn..........................................34
2.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn...............................40
2.3. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn....................46
2.4. Bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị tuyên
bố là vô hiệu do nhầm lẫn ...............................................................................55
2.5. Bất cập về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu
do nhầm lần và nguyên nhân...........................................................................56
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN...................................................60
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm
lẫn....................................................................................................................60
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu do
nhầm lẫn ..........................................................................................................67
KẾT LUẬN....................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật dân sự
HCM Hồ Chí Minh
HĐVH Hợp đồng vô hiệu
KDTM Kinh doanh thương mại
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. So sánh quy định về HĐVH của BLDS năm 2015 và BLDS năm
2005.................................................................................................................35
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc
gia nào, chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định pháp lý quan trọng
vào bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh
hoạt và an toàn của các giá trị vật chất trong xã hội. Đã từ lâu pháp luật về
hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
bởi vì, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay
nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp
đồng. Vấn đề HĐVH là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay của chế
định hợp đồng. Đây là một vấn đề phức tạp, còn nhiều vướng mắc cần được
trả lời sớm nhằm tạo niềm tin cho các chủ thể tham gia vào hợp đồng. Khi
xây dựng pháp luật về HĐVH, các nhà làm luật đều quan tâm tới các quy định
về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, về xử lý HĐVH. Các quy định này có
tác dụng đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng
đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp
đồng. Do vậy, các quy định về HĐVH phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống,
đảm bảo sự hài hòa giữa quyền của các bên chủ thể và lợi ích của cộng đồng,
Nhà nước nói chung.
Tuy nhiên, hiện nay các quy định về HĐVH nói chung và HĐVH do
nhầm lần vẫn còn nhiều vướng mắc. Các quy định có phần còn cứng nhắc,
chưa đầy đủ, có quy định còn chồng chéo, gây nên cách hiểu không thống
nhất. Chẳng hạn như: các căn cứ để tuyên bố HĐVH còn có nhiều điểm chưa
rõ ràng; hậu quả pháp lý của HĐVH còn quy định chung chung, khó áp dụng.
Quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự không được đảm bảo thỏa
đáng khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
2
Về phía các cơ quan nhà nước, do tính phức tạp của các quan hệ hợp
đồng, những quy định không rõ ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều
khó khăn, lúng túng trong công tác xét xử có liên quan tới HĐVH do nhầm
lẫn. Nói cách khác, chính điều đó làm hạn chế năng lực của các cơ quan chức
năng trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Và trên thực tế, cũng
không ít trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn hoặc cố ý
nhầm lẫn, nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình.
Với thực trạng đó, các quy định pháp luật về HĐVH cần sớm được hoàn
thiện đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, hướng tới sự bảo đảm an toàn và lẽ công
bằng cho các chủ thể, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Một cơ sở pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh, một hành lang pháp lý thông thoáng
không những là yêu cầu chính đáng của người dân, của các doanh nghiệp để họ
thực hiện hoạt động kinh doanh và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình mà còn là
điều kiện để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ mà nhà nước giao. Hơn thế nữa, cần phải khẳng định rằng việc nhận
thức đúng về bản chất của HĐVH và việc xử lý chúng để từ đó xây dựng các
quy định về HĐVH một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn cũng sẽ góp
phần hoàn thiện chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật của nước ta.
Từ những lý do trên, với mong muốn được góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật về HĐVH nói chung và HĐVH do nhầm lẫn nói riêng,
tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu về HĐVH, việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp
đồng, giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm trong
các thời kỳ với nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, vấn đề này đã được đề
3
cập tới trong Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học
Quốc gia, Trường đại học Kiểm sát.
Các vấn đề liên quan còn được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu như: Luận án tiến sĩ“Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của
hợp đồng kinh tế vô hiệu” của Lê Thị Bích Thọ, Trường Đại học Luật TP.
HCM, năm 2009; Luận án tiến sĩ“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”của Nguyễn Văn Cường, Khoa
luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; Luận văn thạc sĩ“Xử lý
HĐVH theo pháp luật dân sự Việt Nam”của Nguyễn Thị Thanh, Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về xử lý HĐVH ở Việt Nam”của Cao Thị Thùy Dương, Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2014; …
Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết của các tác giả như: Phạm Nguyễn
Linh (2018), Xử lý HĐVH trong lĩnh vực thương mại, Tạp chí luật học số
11/2018; Hoàng Quảng Lực (2011), Bàn về giải quyết hậu quả HĐVH, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 21/2011; …
Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công trình có liên quan
thì tác giả thấy rằng các công trình này chỉ nghiên cứu các quy định của
BLDSnăm 2005, nhất là việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp
trong thực tiễn, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng hợp về pháp luật hợp
đồng thương mại vô hiệu do nhầm lẫntrong những năm gần đây, nhất là trong
điều kiện BLDS năm 2015 đã được Quốc hội có hiệu lực.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định về HĐVH do
nhầm lẫn có ý nghĩa quan trọng. Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế
xã hội, các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phức tạp và đa dạng hơn, vấn
đề xử lý HĐVH do nhầm lẫn cũng nảy sinh nhiều vấn đề cấp thiết đòi hỏi
phải có sự sửa đổi, bổ sung.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về HĐVH do nhầm lẫn.
Với mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm
lẫn như: khái niệm nhầm lẫn và khái niệm HĐVH do nhầm lẫn; đặc điểm của
HĐVH do nhầm lẫn; điều kiện của HĐVH do nhầm lẫn; xử lý hậu quả pháp
lý của HĐVH do nhầm lẫn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật dân sự về
HĐVH do nhầm lẫn.
- Đánh giá tình hình thực hiện, áp dụng pháp luật của các chủ thể tham
gia kí kết hợp đồng và của tòa án nhân dân trong quá trình xét xử vụ án có
liên quan đến HĐVH do nhầm lẫn.
- Đưa ra phương án góp phần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định
HĐVH do nhầm lẫn và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về
hợp đồng của pháp luật dân sự hiện hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung vào các đối tượng nghiên
cứu sau:
- Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐVH, mà cụ thể là tập
trung vào các quy định về HĐVH do nhầm lẫn trong BLDS năm 2005, 2015
và các văn bản hướng dẫn, đặt trong tương quan một số quy định của Luật
thuơng mại, Luật doanh nghiệp… và các công ước, văn bản pháp luật quốc tế
điều chỉnh vấn đề này.
- Thực tiễn áp dụng các quy định về HĐVH do nhầm lẫn.
Về phạm vi nghiên cứu, trong giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật,
tác giả luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về HĐVH
5
do nhầm lẫn. Trên cơ sở lý luận phân tích, đánh giá quy định pháp luật về
HĐVH do nhầm lẫn đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng các quy định nêu
trên kể từ thời điểm BLDS năm 2015 có hiệu lực.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Tác giả còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, so sánh… kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận
về hợp đồng và HĐVH do nhầm lẫn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu
mới của luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng, HĐVH, HĐVH do nhầm lẫn; đưa ra
những đánh giá nhận xét về tính hợp lý, logic, độ phù hợp với thực tiễn của các
quy định này và nêu quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện
pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn ở nước ta hiện nay.
Dưới góc độ thực tiễn, luận văn chỉ ra những khó khăn, vướng mắc
trong việc áp dụng, thực hiện pháp luật, đồng thời có những kiến nghị giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, thực hiện pháp luật về HĐVH do
nhầm lẫn tại Việt Nam, góp phần cải thiện, nâng cao ý thức pháp luật nói
chung, thích ứng với hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về HĐVH do nhầm lẫn
6
Chương 2. HĐVH do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật Việt Nam
và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
HĐVH do nhầm lẫn
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN
1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Hợp đồng là một công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người và
người liên quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các quan hệ ấy
không chỉ hình thành trong dân sự mà còn cả trong lĩnh vực thương mại, lao
động, thậm chí trong lĩnh vực hành chính. Trong mỗi loại hợp đồng, trong
mỗi lĩnh vực có những đặc điểm rất riêng và do đó, được chi phối bởi những
quy định riêng [45, tr.26]. Tuy nhiên là sản phẩm của sự gặp gỡ ý chí, tất cả
các hợp đồng đều hình thành và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tự do kết ước
và những nguyên tắc cơ bản khác mà xoay quanh những nguyên tắc đó, một
hệ thống các quy tắc pháp lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết
ước hay còn gọi là luật chung về hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 388 BLDS năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [32].
Tuy nhiên, quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả những
quan hệ về đầu tư, lao động, kinh doanh thương mại, bảo hiểm… Theo đó,
nếu trong khái niệm về hợp đồng từ “dân sự” được đặt đằng sau hai từ “hợp
đồng” và sau hai từ nghĩa vụ thì điều này dẫn đến thực tiễn thi hành pháp luật
có cách hiểu rằng những quy định của BLDS hiện hành chỉ liên quan đến hợp
đồng dân sự. Do đó, mà tại BLDS năm 2015 các nhà làm luật đã có những
chỉnh sửa liên quan đến khái niệm “hợp đồng” để khắc phục bất cập trên.
Cụ thể, Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
8
dân sự”. So với BLDS hiện hành thì BLDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “dân sự”
sau hai từ “hợp đồng”. Quy định mới về khái niệm hợp đồng tại Điều 385 của
BLDS năm 2015 là điểm mới quan trọng, đáng chú ý không những về mặt kỹ
thuật lập pháp và còn làm tăng tính khả thi, minh bạch trong thực tiễn áp dụng
[43, tr.46]. Trong phạm vi luận văn, thì hợp đồng được hiểu là sự thoả thuận
có hiệu lực pháp luật hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của hai hay nhiều
bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ.
1.1.2. Hợp đồng vô hiệu
Cho đến nay, khoa học pháp lý vẫn chưa có một khái niệm thống nhất
về HĐVH mà chỉ nêu căn cứ xác định HĐVH hoặc có hiệu lực.
Người làm luật không định nghĩa cụ thể như thế nào là HĐVH mà chỉ
xác định hệ quả của sự vô hiệu. Theo khoản 1, Điều 137 BLDS năm 2005 quy
định “giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập” [32].
Trên cơ sở khái niệm hợp đồng, giao dịch dân sự vô hiệu, trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn: Hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng khi giao kết
và thực hiện không đảm bảo những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự,
hoặc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan.
Phân loại HĐVH:
Căn cứ váo thủ tục tố tụng có HĐVH tuyệt đối và HĐVH tương đối
- HĐVH tuyệt đối: Là những hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu
do việc xác lập hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước
hoặc lợi ích công cộng. Hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị
coi là vô hiệu tuyệt đối:
+ HĐVH do giả tạo
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội
9
Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa
án cho các bên thời hạn để thực hiện đúng quy định về hình thức này nhưng
hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện; hoặc trường hợp pháp luật có
quy định về hợp đồng vi phạm hình thức nhưng các bên chưa thực hiện hợp
đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng bị xem là vô hiệu [47].
Một HĐVH tuyệt đối thì không giải quyết theo yêu cầu của các bên.
Mọi trường hợp đều giải quyết theo quy định của pháp luật và không được
hòa giải, không có quyền công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng trong quá
trình thụ lý và giải quyết tranh chấp về hợp đồng hoặc các nội dung pháp lý
có liên quan [47].
- HĐVH tương đối: Là những hợp đồng được xác lập, nhưng có thể bị
Tòa án tuyên bố là vô hiệu theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên
quan. Sự vô hiệu tương đối là ở chỗ: giao dịch dân sự đó “có thể vô hiệu” hay
“không đương nhiên bị xem là vô hiệu” vì nó chỉ xâm hại trực tiếp tới quyền
lơi hợp pháp của cá nhân của từng bên chủ thể tham gia. Do đó, hợp đồng này
nếu không có sự xem xét của Tòa án thì vẫn có hiệu lực. Trong trường hợp
muốn tiêu hủy hợp đồng này, các bên phải yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ
tục tư pháp thông thường chứ hợp đồng không đương nhiên bị xem là vô hiệu.
Trên thế giới, hiện có ba cách thức xây dựng quy tắc pháp lý để xác
định HĐVH, cụ thể:
Thứ nhất, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, theo đó,
những HĐVH được xác định là hợp đồng không thoả mãn những điều kiện có
hiệu lực. Các nước quy định theo cách này là các nước theotruyền thống pháp
luật La Mã. Cách thức quy định này cho thấy sự can thiệp mạnh của Nhà nước
đến quan hệ hợp đồng.
10
Thứ hai, liệt kê các trường hợp vô hiệu của hợp đồng và việc xác định
hợp đồng có hiệu lực bằng phương pháp loại suy. Quy định theo cách này là
các nước như Nhật bản, Cộng hoà Liên bang Đức.
Thứ ba, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và quy định
những trường hợp vô hiệu của hợp đồng. Quy định theo cách này có vẻ đảm
bảo cả về lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng, tuy nhiên, đã thể hiện sự can
thiệp quá sâu vào quan hệ luật tư vốn dĩ “cốt ở đôi bên”. Việt Nam là nước có
quy định về HĐVH theo cách này [54].
Ba cách thức xây dựng quy này hoặc xuất phát từ những đặc điểm
chung mang tính bản chất của hợp đồng và ý chí của nhà làm luật. Tuỳ theo
điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội và nhu cầu cường thịnh của quốc gia hay khu
vực mà nhà làm luật can thiệp nhiều hay ít vào quan hệ hợp đồng. Ví dụ,
Cộng Hoà Pháp, Trung Quốc… không can thiệp vào quan hệ hợp đồng bằng
cách quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; Thái Lan, Việt
Nam... vẫn ghi nhận hình thức là điều kiện có hợp đồng; Châu Âu không có
sự can thiệp nào liên quan đến hình thức của hợp đồng “Hợp đồng có thể
được chứng minh bằng bất kì cách thức nào, kể cả bằng nhân chứng”. Nghiên
cứu các quy định về HĐVH theo ba cách trên cho thấy việc xác định HĐVH
theo các dấu hiệu sau [54, tr.38-39]:
Năng lực giao kết của các chủ thể: Chủ thể là một trong những yếu tố
cấu thành quan hệ pháp luật nói chung hay quan hệ hợp đồng nói riêng, trong
quan hệ hợp đồng tối thiểu phải có hai chủ thể. Các chủ thể là cá nhân có thể
tự nhân danh chính mình hoặc thông qua người đại diện để xác lập hợp đồng;
chủ thể là tổ chức xác lập hợp đồng thông qua người đại diện. Như vậy, việc
giao kết hợp đồng buộc phảithông qua hành vi của con người cụ thể. Hành vi
hợp pháp thì được pháp luật thừa nhận và ngược lại, do đó, khi tham gia giao
kết hợp đồng chủ thể phải có năng lực để nhận biết về hành vi của mình, đó
11
chính là năng lực hành vi - một trong những yếu tố căn bản để tạo lên thẩm
quyền giao kết hợp đồng. Đối với cá nhân khi tự nhân danh mình tham gia
quan hệ hợp đồng năng lực hành vi của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
của họ. Một cá nhân luôn được coi là có thể thiệt hại khi khi họ tham gia quan
hệ hợp đồng tại thời điểm bị hạn chế hoặc không có năng lực hành vi hoặc
năng lực hành vi chưa đầy đủ. Trên cơ sở đó, pháp luật cho phép bên bị thiệt
hại gây ra sự vô hiệu nhằm bảo vệ lợi ích một cách công bằng. Đối với tổ chức,
pháp nhân thì thẩm quyền giao kết hợp đồng được xác định kết hợp giữa năng
lực hành vicủa người đại diện và điều kiện, phạm vi kinh doanh...thẩm quyền
và năng lực thiết lập thoả thuận là do pháp luật quy định hoặc được ghi nhận
trên cơ sở pháp luật. Do vậy, pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ những thoả
thuận do chủ thể có thẩm quyền giao kết. Ngược lại, thoả thuận đó sẽ không
được công nhận, không có hiệu lực pháp luật - vô hiệu [54].
Sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể: Một thoả thuận được coi là hình
thành khi có sự thống nhất ý chí giữa các bên về một hoặc nhiều vấn đề. Quá
trình đàm phán và thiết lập thoả thuận thực chất là việc tuyên bố ý chí và chấp
nhận ý chí của các bên tham gia. Trong quan hệ hợp đồng, việc tuyên bố ý chí
gọi là đề nghị giao kết hợp đồng và việc chấp nhận ý chí gọi là xác lập quan
hệ hợp đồng. Sự thống nhất ý chí chỉ được coi là đích thực khi các bên tham
gia thực hiện hành vi của mình một cách tự nguyện, chính thuật ngữ “thoả
thuận” đã thể hiện rõ bản chất nguyên tắc tự nguyện. Pháp luật các nước trên
thế giới đều ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc tự nguyện trong quan hệ hợp đồng
và có thể nói rằng điều kiện bắt buộc đối với việc giao kết hợp đồng là phải
đảm bảo nguyên tắc tự nguyện - tự nguyện được hiểu là tự nguyện tuyên bố ý
chí và chấp nhận ý chí. Ý chí của các bên không thể coi là được thống nhất
khi ý chí đó được tuyên bố hoặc chấp nhận một cách không tự nguyện. Các
thoả thuận được hình thành một cách thiếu tự nguyện - không có sự thống
12
nhất ý chí sẽ không được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác thoả thuận này bị
vô hiệu và đương nhiên là không được đảm bảo thi hành [54].
Hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các bên xâm phạm trật tự
công: Nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không
cấm” được phổ biến rộng rãi, pháp luật các nước đều thừa nhận nguyên tắc
này. Nhật bản -BLDS điều 90; Cộng hoà liên bang Đức -BLDS điều 134...
Việt Nam, trong lĩnh vực kinh doanh, Luật thương mại và Luật doanh nghiệp
quy định về vấn đề này cụ thể như sau: “Thương nhân có quyền hoạt động
thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo
các phương thức mà pháp luật không cấm”; “Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”.
Tự do là một giá trị chung của nhân loại, tự do là một nguyên tắc căn bản
trong quan hệ hợp đồng luôn được pháp luật tôn trọng. Trong xã hội có pháp
luật, việc xác định phạm vi hành xử của một người không có nghĩa là hạn chế
sự tự do của họ mà có nghĩa là bảo vệ quyền tự do của họ, nếu không có ranh
giới đó thì quyền tự do của họ luôn bị đe doạ xâm phạm và có thể dẫn đến
không có tự do, vì bản tính tập thể của con người, "tính bắt buộc" phải sống
trong xã hội của nó; con người không có khả năng trở nên hạnh phúc và thậm
chí đơn giản là tồn tại khi thiếu những người khác. Do đó, khi các bên tham
gia thoả thuận thực hiện hành vi mà pháp luật cấm luôn bị coi là xâm phạm
đến những giá trị mà pháp luật bảo vệ [54].
Thoả thuận không tuân thủ quy định về hình thức: Hiện tại, pháp luật
của một số quốc gia vẫn còn quy định hình thức của hợp đồng là một trong
những điều kiện có hiệu lực, ví dụ: BLDS và Luật thương mại Thái Lan, tại
điều 115 quy định “Một hành vi pháp lý không theo đúng hình thức quy định
thì vô hiệu”, còn Việt Nam BLDS năm 1995 quy định về hình thức tương tự
như Thái Lan. BLDS năm 2015 có sửa đổi một cách mềm dẻo hơn “Hình thức
13
giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp
luật có quy định” tuy nhiên về bảnchất không có gì thay đổi - vẫn ghi nhận
hình thức là điều kiện có hiệu lực. Mặc dù quy định tuân thủ hình thức không
phải là dạng quy phạm cấm, tuy nhiên, khi pháp luật không thừa nhận thì thoả
thuận và bảo đảm thi hành thì thoả thuận không tuân thủ hình thức bị vô hiệu
kể từ thời điểm giao kết. Xét đến cùng thì có lẽ nhà làm luật đặt ra quy định
này nhằm đảm bảo trật tự công, mặc dù trên thực tế quy định này thường ban
phát lợi ích tư (nếu không có lợi có lẽ không ai yêu cầu tuyên vô hiệu) và đặc
biệt hơn là quy định này có thể làm tăng chi phí giao dịch và hạn chế sự sinh
lời của tài sản và quyền của chủ tài sản [54].
Trong phạm vi luận văn thì HĐVH được hiểu là thoả thuận không có
hiệu lực pháp luật kể từ khi giao kết, do một hoặc các bên chủ thể không có
thẩm quyền xác lập hoặc các bên chủ thể không có sự thống nhất ý chí đích
thực hoặc hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các chủ thể bị pháp
luật cấm hoặc xâm phạm trật tự công hoặc thoả thuận không được pháp luật
thừa nhận do không tuân thủ hình thức.
1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
1.2.1. Định nghĩa
Trong thực tế không hiếm trường hợp sự ưng thuận có “tì vết” và yếu
tố nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng là một “tì vết” mà luật đã dự liệu để cho
phép tuyên bố HĐVH. Nhìn chung vấn đề quy định về nhầm lẫn trong giao
kết hợp đồng được quy định lần đầu tiên trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự và
BLDS năm 1995. Cụ thể, theo khoản 3, Điều 15 Pháp lệnh hợp đồng dân sự,
HĐVH “khi một bên hợp đồng nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng”
và Điều 141 BLDS năm 1995 về giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn: “Khi
một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập giao dịch,
thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung giao dịch đó, nếu bên kia
14
không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn thì có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Khi giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn
thì bên có lỗi trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi thường” [32].
Theo quy định tại điều 116 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định:
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ quy định tại điều luật này
có thể xác định: kết quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí đơn
phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả
pháp lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan
hệ pháp luật dân sự [38].
Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích
nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể
tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.
Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho
các chủ thể trong giao lưu dân sự.
So với quy định về giao dịch dân sự vô hiệu tại BLDS 2005, BLDS
2015 có bổ sung thêm cụm từ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.
Đây là quy định cần thiết, bởi lẽ các quy định về điều kiện có hiệu lực của
BLDS để áp dụng cho đa số các trường hợp nhằm đảm vảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc vô hiệu giao
dịch dân sự là không cần thiết. Thực tế, cho thấy giao dịch có thể thiếu điều
kiện quy định tại Điều 117 BLDS 2015 nhưng vẫn không vô hiệu. Chẳng hạn
như quy định tại điểm a khoản 2 điều 125 BLDS 2015, giao dịch dân sự của
15
người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu hàng ngày của người đó thì không bị xem là giao dịch dân sự vô
hiệu. Sự bổ sung quy định này thể hiện sự linh hoạt trong các quy định của
pháp luật [43, tr.61-62].
Hiện nay các nhà làm luật vẫn không đưa ra một khái niệm cụ thể nên
nhầm lẫn ở đây có thể hiểu là việc các bên trong giao dịch hình dung sai về
nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc
bên kia, sự nhầm lẫn xuất phát từnhận thức các bên hoặc phán đoán sai lầm về
đối tượng của sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào
nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bị nhầm lẫn chứng minh
được sự nhẫm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu.
1.2.2. Đặc điểm
Nhầm lẫn đã tồn tại trong hai BLDS nhưng lại không đưa ra định nghĩa
chính xác thế nào là nhầm lẫn nên rất khó khăn khi xác định sự tồn tại của
nhầm lẫn. Nhầm lẫn trong ngôn ngữ pháp lý là sự nhận định không chính xác
về cái có thật, tưởng cái sai sự thật là thật và ngược lại. Nhầm lẫn là sự khác
biệt giữa nhận thức của một bên về vấn đề và thực tế của vấn đề. Ví dụ anh A
xác lập hợp đồng mua bán xe máy với giá 30 triệu với anh B nhưng không
biết rằng xe máy đó là tang vật trong một vụ án hình sự cướp tài sản (ở đây
anh B cũng được mua lại từ anh D và không biết tình trạng thật của chiếc xe).
Điều này có nghĩa là đối với bên mua có sự khác nhau về nhận thức của họ về
chiếc xe và thực tế về chiếc xe này. Bất kỳ sự khác nhau nào giữa nhận thức
và thực tế đều có thể được coi là nhầm lẫn. Và nhầm lẫn phải tồn tại ở thời
điểm xác lập giao dịch. Điều đó có nghĩa là nhận thức của bên nhầm lẫn về
hợp đồng và sự thật về hợp đồng này phải được xác định tại thời điểm xác lập
hợp đồng. Nhầm lẫn khác với giả tạo ở chỗ trong hợp đồng có sự nhầm lẫn thì
bản thân người xác lập hợp đồng không biết được điều đó còn giả tạo trong
16
hợp đồng thì người thể hiện ý chí muốn xác lập hợp đồng biết việc đó không
đúng với sự thể hiện ý chí đích thực của họ với sự thể hiện thực tế trong hợp
đồng. Nhưng để đánh giá nhận thức của bên bị nhầm lẫn thực chất là rất khó vì
nó liên quan đến vấn đề nội tâm. Nếu các bên không ghi rõ trong hợp đồng về
nhận thức của mình thì rất khó để xác định. Phân tích ví dụ trên vì người mua
không biết về tình trạng thật của chiếc xe. Ở đây chúng ta nên dùng phương
pháp suy đoán bằng cách xác định nhận thức của một người bình thường trong
hoàn cảnh tương tự vì nếu một người bình thường nếu biết chiếc xe đó là tang
vật của một vụ hình sự thì có lẽ họ sẽ không mua với giá như thế [43].
Thực tế áp dụng pháp luật Việt Nam vẫn chưa tổng kết được các trường
hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng thành lý luận chung. Và một
vấn đề đặt ra là các quy định của pháp luật chỉ nói đến nhầm lẫn về nội dung
vậy nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng thì như phải giải quyết như thế nào? Ví
dụ: C là nhà thiết kế thời trang nổi tiếng, có người khác cũng tên là C cũng
làm nghề thiết kế thời trang nhưng không nổi tiếng, nhưng D không biết
tưởng nhầm người đó là C nên ký kết hợp đồng thiết kế hàng mẫu cho Công
ty mình. Ở đây, D có nhầm lẫn về chủ thể và C không biết D đã nhầm lẫn mà
nghĩ D cần mình thật. Và trên thực tế nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng
không phải là ít. Mặc dù trong một số trường hợp tòa án tuyên bố vô hiệu,
nhưng xét về gốc độ văn bản để áp dụng luật về tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn
thì thiếu cơ sở pháp lý. Thiết nghĩ về lâu dài BLDS cần bổ sung thêm trường
hợp này [43].
Trong thực tế có thể xảy ra trường hợp một bên có thể nhầm lẫn mà
không do lỗi của bên kia, có nghĩa là bên kia cũng không có lỗi vô ý hay cố ý.
Tiếp theo ví dụ về chiếc xe máy ở trên ta thấy thực chất chiếc xe máy của anh
B bán cho anh A không phải của anh mà là tang vật trong một vụ cướp mà
anh cũng không biết. Dù Tòa án có tuyên hợp đồng này vô hiệu nhưng không
17
thể coi ai trong hai anh là có lỗi cả. Ngoài ra luật cũng không quy định về
trường hợp sự nhầm lẫn đó là do chính bên bị nhầm lẫn gây ra ví dụ như sự
cẩu thả, trình độ hiểu biết thấp của chính họ gây ra. Vì có trường hợp do sự
chủ quan chưa xem xét kỹ hợp đồng họ đãchấp nhận xác lập hoặc ngay từ khi
giao kết họ đã biết mình bị nhầm lẫn nhưng vẫn để mặc rồi sau này xem xét
lại thấy không có lợi gì cho mình thì mới yêu cầu Tòa tuyên bố HĐVH do
mình đã nhầm lẫn. Ở đây nếu như không quy định cụ thể về vấn đề này sẽ dẫn
đến khiếu nại tràn lan do người hiểu lầm cứ tưởng họ có quyền khiếu nại để
tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn bất cứ lúc nào miễn là còn thời hạn khởi kiện từ
đó dẫn đến tình trạng lạm dụng để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của bên bị
nhầm lẫn. Vì vậy thiết nghĩ BLDS cần sửa đổi hoàn thiện hơn quy định về
vấn đề này [51].
Vậy trong lừa dối cũng có yếu tố của nhầm lẫn. Nhầm lẫn và lừa dối
đều có một điểm chung là bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối đều đã hiểu sai
lệch về chủ thể, về tính chất của đối tượng...nên đã xác lập giao dịch. Vì vậy
để tuyên bố HĐVH do lừa dối thì phải chứng minh có một bên bị nhầm lẫn và
sự nhầm lẫn này phải do hành vicố ý của bên kia gây ra. Và việc tuyên bố một
HĐVH do nhầm lẫn vì việc xác định hành vicố ý là rất khó phải cần nhiều
giai đoạn xác minh, làm rõ các chứng cứ đưa ra của đương sự điều này tùy
thuộc nhiều vào phán quyết của Thẩm phán xử lý vụ việc đó [51].
Giải pháp tuyên bố HĐVH không phải là giải pháp tối ưu được ưu tiên
áp dụng trong các trường hợp vô hiệu tương đối dạng này. Vì hợp đồng được
xác lập nhằm mục đích đem lại một lợi ích hợp pháp nào đó cho các bên và
được pháp luật bảo vệ nếu như nó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Cho
nên trong trường hợp này Tòa án không triệt tiêu hợp đồng nếu như hợp đồng
vẫn có thể khắc phục được. Giải pháp này tương đối khả thi đối với trường
hợp hai bên đều nhầm lẫn. Hai bên có thể thỏa thuận sửa đổi lại nội dung hợp
18
đồng hoặc lập ra một hợp đồng mới hoàn toàn. Còn chỉ một bên nhầm lẫn bên
kia biết mà không thông báo, để mặc cho hợp đồngđược ký kết thì đó lại là
một dạng của hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng. Ngoài ra quy định này
chỉ cho phép vô hiệu nếu bên nhầm lẫn yêu cầu mà bên kia không chấp nhận.
Và bên không chấp nhận có khả năng thay đổi mà không thay đổi được thì
mới có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu. Nhưng nếu bên đó cũng không thể
thay đổi, khắc phục được thì sao? Tương tự ví dụ chiếc xe máy ở trên thì cả
hai anh A và B đều không thể thay đổi được hoàn cảnh, không thể biến chiếc
xe bất hợp pháp thành hợp pháp dù ý chí của anh B có muốn chiếc xe mình
trở thành hợp pháp hay không cũng không được. Vì vậy thiết nghĩ, BLDS cần
bổ sung thêm quy định này để bảo vệ được quyền lợi của các bên trong giao
kết hợp đồng.HĐVH do bị nhầm lẫn thuộc trường hợp vô hiệu tương đối vì
vậy nếu không có yêu cầu của bên bị nhầm lẫn thì hợp đồng vẫn có giá trị thi
hành đối với các bên giao kết [51, tr.66].
1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Hợp đồng là sự thoả thuận, sự thoả thuận này dựa trên nguyên tắc tự do
hợp đồng, có nghĩa là ý chí của các bên được thể hiện một cách tự do, không
chịu bất kỳ một sự tác động nào. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều trường
hợp các bên hoặc một trong các bên khi đàm phán, ký kết hợp đồng ý chí của
họ được hình thành một cách không tự nguyện, tức là họ không được tự do
trong việc thể hiện ý chí của mình hoặc xuất phát từ những ý niệm không xác
thực. Pháp luật gọi các trường hợp này là hợp đồng được ký kết trái nguyên
tắc tự do tự nguyện thoả thuận. Những trường hợp này là: nhầm lẫn, lừa dối
và đe doạ [43].
Theo quy định của pháp luật của tất cả các nước, nhầm lẫn có thể được
coi là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH, tuy nhiên thế nào là nhầm
lẫn được xem xét không giống nhau trong pháp luật của các nước khác nhau.
19
Pháp luật của các nước hầu như không ra khái niệm nhầm lẫn, còn trong khoa
học pháp lý, về vấn đề này có nhiều cách nhìn khác nhau.
Có quan đỉểm cho rằng, nhầm lẫn là những trường hợp hợp đồng được
ký kết nhưng ý chí của một hoặc của các bên được hình thành không đúng vì
nhiều lý do khác nhau. Nhầm lẫn có thể do các bên chưa thoả thuận hết mọi
điều khoản của hợp đồng, có thể do các bên không thể hiện sự cẩn thận cần
phải có, cũng có thể do sự tự tin thái quá của chủ thể hoặc hành vi của người
thứ ba. Ý kiến khác cho rằng, nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký kết
không phản ánh ý chí đích thực của các bên, không có khả năng mang lại kết
quả mà các bên hướng đến tại thời điểm ký kết hợp đồng. Có thể nói, nhầm
lẫn là khi ý chí của các bên không giống với ý chí của họ trong giai đoạn
thống nhất ý chí mặc dù không bị đe doạ hoặc lừa dối.
Việc coi nhầm lẫn là căn cứ tuyên bố HĐVH gặp phải hai vấn đề phức
tạp trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn. Một mặt, trên xuất phát từ
thuyết ý chí, nhầm lẫn được coi là việc hợp đồng được ký kết trái với ý chí
đích thực của chủ thể và vì vậy nên cần phải coi hợp đồng đó là vô hiệu. Mặt
khác nếu trong mọi trường hợp khi hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích
thực của chủ thể sẽ bị vô hiệu, điều này sẽ tạo ra sự không ổn định, mất trật tự
trong lưu thông dân sự và trong hoạt động kinh doanh thương mại- điều mà
không ai muốn. Chính vì vậy nên pháp luật cũng như Toà án cẫn phải thận
trọng trong việc xem xét HĐVH. Để tìm giải pháp hài hoà các mối quan hệ
trên cần phải phân biệt hai loại nhầm lẫn: nhầm lẫn không có ý nghĩa pháp lý,
tức là không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng và nhầm lẫn có ý nghĩa
pháp lý-là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH. Như vậy không phải
mọi nhầm lẫn đều có ý nghĩa pháp lý đối với bên nhầm lẫn. Điều này là nhất
quán trong mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên trong thực tiễn việc phân biệt
20
hai loại nhầm lẫn nói trên là việc không đơn giản, trong khi đó hậu quả pháp
lý của chúng lại khác nhau [52].
Có thể nói rằng, nhầm lẫn, nhìn từ góc độ là điều kiện để yêu cầu Toà
án tuyên bố HĐVH là một trong những vấn đề phức tạp nhất của pháp luật
hợp đồng và gây nhiều khó khăn cho người học khinghiên cứu vấn đề này.
Người bán hàng bán cho người mua một bình gốm Trung Quốc với giá
rẻ vì cho rằng, đó là bình gốm giả cổ do người địa phương làm ra. Sau đó
người mua phát hiện ra rằng đó là một tác phẩm nghệ thuật vô giá được làm
từ thời Nhà Minh. Trong trường hợp này người bán có quyền yêu cầu toà án
tuyên bố HĐVH và đòi lại bình cổ với lý do đã không đánh giá chính xác giá
trị của chiếc bình hay không? Có hay không có ý nghĩa việc người bán là
chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực đố cổ và có thể đánh giá đúng giá trị của
chiếc bình nhưng đã bất cẩn khi thực hiện việc đánh giá? Có quan trọng hay
không việc người mua biết chính xác hoặc đoán biết được đó là bình cổ
nhưng đã giấu người bán? Sẽ như thế nào nếu cả người bán và người mua của
hợp đồng ban đầu đều là các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá đồ cổ? Có ý
nghĩa hay không việc người mua, vì tin vào hiệu lực của hợp đồng đã bỏ ra
một khoản tiền lớn để phục hồi chiếc bình với mục đích bán lại, hoặc đã bán
lại cho người khác? Nếu người mua, một cách trung thực cam kết với người
mua rằng, đó là bình giả cổ và yêu cầu người bán thực hiện hợp đồng? Và
cuối cùng, nếu người bán yêu cầu người mua trả lại bình, người mua đồng ý
nhưng yêu cầu trả mức chênh lệch giá? Để trả lời câu hỏi nói trên cần phải
xem xét một số điều kiện của sự nhầm lẫn [57].
Phạm vi của nhầm lẫn: Điều 126 BLDS năm 2015 về “giao dịch dân sự
vô hiệu do bị nhầm lẫn” quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị
nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
21
bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều
132 của Bộ luật này” [37]. Như vậy theo pháp luật của Việt Nam hiện hành,
nhầm lẫn chỉ có thể liên quan đến nội dung của hợp đồng mà không quy định
nhầm lẫn về chủ thể. Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể nội dung, tuy
nhiên có thể hiểu rằng, trong nội dung của hợp đồng có rất nhiều vấn đề, ví
dụ, đối tượng của hợp đồng, tính chất của hàng hoá, công việc.
Không quy định nhầm lẫn về chủ thể có phải là khiếm khuyết của pháp
luật hợp đồng Việt Nam hay không? Và việc thiếu vắng quy định của pháp luật
trong trường hợp này gây ra những hậu quả pháp lý như thế nào? Có tác giả
cho rằng, pháp luật quy định như vậy là chưa đủ, bởi lẽ trong thực tế, hoàn toàn
có thể xảy ra nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng và mặc dù pháp
luật chưa quy định nhưng thực tiễn xét xử đã thừa nhận nhầm lẫn về chủ thể.
Tính chất của nhầm lẫn phải nghiêm trọng. Điều 126 BLDS năm 2015
chỉ quy định sự nhầm lẫn liên quan đến nội dung của giao dịch mà không quy
định mức độ, tính chất của nhầm lẫn. Thật ra pháp luật của nhiều nước không
quy định những tiêu chí để xác định một sự nhầm lẫn nào đó là nghiêm trọng
hay không nghiêm trọng, mà việc xác định này tuỳ thuộc vào từng điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể cũng như khả năng nhận biết của chủ thể về đối tượng nhầm
lẫn. Tuy nhiên khác với pháp luật Việt Nam, sự thừa nhận án lệ của pháp luật
nhiều nước có thể giải quyết được vấn đề đặt ra. Trong ví dụ mua bán bình cổ
nói trên, nếu người bán là chuyên gia trong lĩnh vực đồ cổ thì sự nhầm lẫn
không thể coi là nghiêm trọng. Bởi lẽ người bán biết hoặc buộc phải biết về
đối tượng của hợp đồng. Nếu người mua là chuyên gia đồ cổ, còn người bán
là người bình thường thì sự nhẫm lẫn của người bán có thể coi là nghiêm
trọng. Nhầm lẫn chỉ có ý nghĩa nếu nó là động lực chủ yếu để bên bị nhầm lẫn
22
ký kết hợp đồng. Với tư cách là động lực chủ yếu nhầm lẫn chỉ được xem xét
nếu nó là cơ sở duy nhất để bên bị nhầm lẫn ký hợp đồng. Nếu còn có khả
năng ký hợp đồng với những điều kiện khác thì không thể coi nhầm lẫn là
động lực chủ yếu. Thực tiễn xét xử của nhiều nước không coi HĐVH nếu
nhầm lẫn là do động cơ thông thường. Nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý chỉ trong
trường hợp, nếu sự nhầm lẫn đó có liên quan đến đặc tính, vì nó mà các bên
đạt được sự thoả thuận một cách trực tiếp [43].
Có thể nhận thấy, việc pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng
nhầm lẫn đến mức nào thì có ý nghĩa pháp lý trong xác định hiệu lực của hợp
đồng cộng với việc pháp luật không thừa nhận án lệ sẽ làm cho Toà án gặp
nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử. Bởi lẽ khó có tiêu chí rõ ràng khi đánh
giá mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn. Một vấn đề nữa cần phải được xem
xét một cách thận trọng dưới góc độ pháp lý khi xác định nhầm lẫn là có cần
thiết phải xác định lỗi của một bên là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn của
bên kia hay không. Vấn đề này được xem xét không giống nhau trong pháp
luật của các nước khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành , nhầm lẫn
phải do hành vi lỗi vô ý của một bên gây ra. Điều đó có thể hiểu rằng, nếu
không có lỗi của một bên thì không có sự nhầm lẫn hay nhầm lẫn (nếu có) sẽ
không có ý nghĩa pháp lý và không thể là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố
HĐVH . Cũng có thể hiểu rằng, các nhà làm luật Việt Nam không loại trừ
nhầm lẫn không phải do lỗi bên kia, tuy nhiên họ chỉ cho rằng, nhầm lẫn do
lỗi của bên kia mới có thể có ý nghĩa pháp lý và có thể được coi là điều kiện
để tuyên bố HĐVH. Khoản 2 Điều 126 BLDS năm 2015 quy định, trong
trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này. Có
lẽ vì quy định này nằm trong Điều 126 BLDS dưới tên gọi “Giao dịch dân sự
vô hiệu do bị nhầm lẫn” [37] nên có tác giả cho rằng, BLDS năm 2015 dự liệu
23
hai trường hợp nhầm lẫn của một bên: nhầm lẫn do lỗi vô ý hay cố ý của bên
kia và thực tế cho thấy hai loại nhầm lẫn này hoàn toàn có thể tồn tại.Ở đây,
BLDS năm 2015 không coi nhầm lẫn là do lỗi cố ý của một bên mà bằng
khoản 2 chỉ nhấn mạnh rằng, nếu một bên có lỗi cố ý làm cho bên kia hiểu sai
về nội dung của giao dịch thì bị coi là lừa dối. Thật vậy khi một bên có hành
vicố ý làm cho bên kia hiểu sai về nội dung cả hợp đồng tức là trong hành vi
đó bao gồm các thủ đoạn gian dối. Một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai bởi
lẽ biết rằng, nếu không như vậy thì bên kia hiểu đúng về nội dung của hợp
đồng thì sẽ không bao giờ ký [43].
Cùng nhầm lẫn: Pháp luật Việt Nam có xem xét trường hợp khi cả hai
bên cùng nhầm lẫn hay không? Đây là vấn đề đã có tác giả đặt ra trong khoa
học pháp lý Việt Nam . Không riêng gì pháp luật Việt Nam mà pháp luật của
nhiều nước không đề cập đến vẫn đề này một cách trực tiếp, ví dụ, BLDS của
Đức, Pháp, Liên bang Nga và chỉ có pháp luật của một số nước và Nguyên
tắc hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu lại
quy định vấn đề này khá cụ thể. Và việc pháp luật có quy định cả hai bên
cùng nhầm lẫn một cách trức tiếp hay không ít có ý nghĩa pháp lý bởi lẽ:
Thứ nhất, mặc dù không quy định trực tiếp nhưng điều đó không có
nghĩa pháp luật các nước không có sự điều chỉnh loại nhầm lẫn này. Rõ ràng,
với cách quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 nhiều người có thể hiểu rằng,
theo pháp luật Việt Nam chỉ có một bên trong giao dịch bị nhầm lẫn. Tôi cho
rằng, với cách quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 cũng có thể hiểu rằng,
hoàn toàn có thể có truờng hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn. Đó là những trường
hợp cả hai bên đều có hành vi vô ý và làm cho bên kia hiểu nhầm. Và trong
những trường hợp này cả hai bên đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
HĐVH [43] [45].
24
Thứ hai, theo quan điểm của tôi thì pháp luật quốc gia cũng không nhất
thiết quy định rõ trường hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn, bởi lẽ vấn đề này có
thể được giải quyết bằng các công cụ pháp lý khác. Để làm sáng rõ loại nhầm
lẫn này người ta thường lấy ví dụ: A và B, khi giao kết hợp đồng bán một xe
hơi thể thao, đều không thể biết hay không thểbiết thực sự là chiếc xe hơi này
là xe hơi bị ăn cắp.Việc huỷ bỏ hợp đồng này là chấp nhận được. Trong thực
tiễn xét xử của Việt Nam có một bản án tương tự. Anh Mạnh mua xe của anh
Thắng, anh Thắng mua xe của anh Quang, sau một thời gian thì mới biết rằng,
xe là tang vật của một vụ cướp tài sản. Toà án tuyên HĐVH do bị nhầm lẫn
bởi lẽ cho rằng cả A và B đều nhầm lẫn. Trong khoa học pháp lý Việt Nam có
người đồng tình với cách giải quyết nói trên của Toà án.
Thứ ba, ở nhiều nước, mặc dù pháp luật không quy định trực tiếp, tuy
nhiên sự khiếm khuyết này của pháp luật được khắc phục bằng thực tiễn xét
xử của Toà án. Trong thực tiễn xét xử của một số nước cả hai bên cùng nhầm
lẫn là những trường hợp, ví dụ, tại thời điểm ký kết hợp đồng tài sản là đối
tượng của hợp đồng không còn tồn tại, hoặc trường hợp các bên trong hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ tại thời điểm ký kết hợp đồng không biết người được
bảo hiểm đã chết.
Sự tồn tại các điều kiện nói trên chỉ là điều kiện cần để HĐVH mà chưa
phải là điều kiện đủ.
Để tuyên bố HĐVH do bị nhầm lẫn, theo ý kiến của tôi, ngoài các điều
kiện nói trên còn cần phải có các điều kiện đủ. Liên quan đến vấn đề này
trong pháp luật Việt Nam chỉ có một quy định mang tính chất chung tại khoản
1 Điều 136 BLDS 2005, nếu bên bị nhầm lẫn không yêu cầu Toà án tuyên bố
HĐVH trong thời hạn hai năm kể từ thời điểm ký hợp đồng thì mất quyền
viện dẫn Điều 131. Tôi cho rằng, sự để ngỏ này sẽ tạo ra nhiều cách hiểu khác
25
nhau khi áp dụng Điều 131 BLDS năm 2005, nhất là khi chức năng giải thích
pháp luật của thẩm phán bị hạn chế và án lệ không được thừa nhận [43].
Khác với pháp luật của Việt Nam, vấn đề này được pháp luật và thực
tiễn xét xử của các nước giải quyết triệt để, thấu đáo hơn tuỳ thuộc vào các
điều kiện cần sau đây: Thứ nhất, nhận thức của bên bị nhầm lẫn, trong mọi
trường hợp không phụ thuộc vào nguyên nhân bị nhầm lẫn, bên bị nhầm lẫn
mất quyền yêu cầu tuyên bố HĐVH nếu bên bị nhầm lẫn biết và buộc phải
biết về sự nhầm lẫn. Thứ hai, nhận thức của bên không nhầm lẫn, nhầm lẫn
liên quan đến nội dung chủ yếu của hợp đồng là điều kiện để HĐVHnếu
chứng minh được rằng, bên kia, với tư cách là người bình thường, biết hoặc
buộc phải biết về sự nhầm lẫn này nếu thể hiện được sự chú ý, cẩn trọng. Thứ
ba, thời điểm thông báo cho bên kia (bên không bị nhầm lẫn), bên bị nhầm
lẫn phải thông báo kịp thời về sự nhầm lẫn của mình cho bên kia. Kịp thời có
nghĩa là phải thống báo trước thời điểm bên kia, vì tin vào hiệu lực của hợp
đồng đã có những hành việcụ thể, ví dụ, bán lại, sửa chữa vật…Ví dụ, theo
quy định tại Điều 871 BLDS Áo, trong trường hợp người bán nhầm lẫn về đặc
tính của hàng hoá thì người bán mất quyền viện dẫn đến nhầm lẫn nếu hàng
hoá đã được người mua bán lại hoặc đã cho thuê, ngoại trừ trường hợp người
mua biết về sự nhầm lẫn hoặc có hành vi làm cho người bán nhầm lẫn [12].
Thật khó có thể đưa ra một định nghĩa pháp lý về nhầm lẫn. Theo một
số luật gia, nhầm lẫn là “niềm tin không phù hợp với thực tế”, một số luật gia
khác lại cho rằng nhầm lẫn là “sự khác biệt giữa ý chí nội tâm và ý chí biểu
hiện bên ngoài”. Tựu chung lại, sự nhầm lẫn làm cho sự thể hiện ra bên ngoài
của ý chí một trong các bên không phù hợp với ý chí đích thực bên trong của
họ khiến cho sự thỏa thuận đạt được đã bị khiếm khuyết, và vì vậy, về nguyên
tắc, mọi sự nhầm lẫn đều làm cho HĐVH vì đã không có sự thống nhất ý chí
giữa các bên. Tuy nhiên, nhằm mục đích bảo đảm sự ổn định của giao lưu dân
26
sự, nhà làm luật chỉ chấp nhận nhầm lẫn là nguyên nhân khiến HĐVH trong
một số trường hợp nhất định. Luật pháp một số nước thường chia sự nhầm lẫn
- nguyên nhân khiến HĐVH ra ba loạiHĐVH [12]:
- Nhầm lẫn về bản chất hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ là B cho mình
mượn tài sản, B lại nghĩ mình gửi giữ tài sản cho A);
- Nhầm lẫn về đối tượng của nghĩa vụ của hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ
bán cho B lô đất 1, trong khi B lại nghĩ A bán cho mình lô đất 2; hoặc A và B
ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa, A tưởng phải giao hàng hóa tại địa
điểm X, trong khi B nghĩ A phải giao hàng tại địa điểm Y…).
- Nhầm lẫn về các yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa
thuận của các bên (thực chất, ở đây muốn nói tới nhầm lẫn về một động cơ
nào đó khiến một người muốn ký kết hợp đồng). Về nguyên tắc, nhầm lẫn về
một yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận giữa các bên chủ
thể là nguyên nhân khiến HĐVH khi yếu tố này đã được bên kia chú ý tới, trừ
phi, căn cứ vào bản chất hợp đồng và hoàn cảnh cụ thể, đó là một yếu tố hiển
nhiên. Vì vậy, một người mua một bức tượng chỉ vì anh ta nhầm tưởng rằng
bức tượng này đã từng được tác giả trưng bày ở salon chỉ có thể yêu cầu Tòa
án tuyên HĐVH nếu anh ta đã từng nói tại sao anh ta lại có ý định mua bức
tượng đó với người bán.
Không theo cách tiếp cận bằng việc phân chia các loại nhầm lẫn, BLDS
tại Điều 131, chỉ quy định khi một bên, do lỗi vô ý của bên kia, nhầm lẫn về
nội dung của giao dịch mà xác lập giao dịch thì có quyền yêu cầu bên kia thay
đổi nội dung của giao dịch đó; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi
của bên bị nhầm lẫn thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu. Như vậy, theo luật Việt Nam, bên bị nhầm lẫn phải chứng
minh được nguyên nhân dẫn đến nhầm lẫn là do lỗi của bên kia [12].
27
1.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của một số nước
trên thế giới
Có thể thấy rằng việc phân loại HĐVH như trên được hình thành cùng
với lịch sử phát triển của Luật La Mã, xuất phát từ tư tưởng phân chia pháp
luật theo luật công và luật tư, thông thường các quan hệ thuộc lĩnh vực công
sẽ chịu sự can thiệp sâu hơn của Nhà nước.
Nếu xét các quy định về HĐVH tuyệt đối trong hệ thống pháp luật của
các quốc gia khác nhau, nhận thấy rằng trong BLDS Cộng hòa Pháp ghi
nhậnloại hợp đồng này dưới tên gọi hợp đồng đương nhiên vô hiệu hoặc trong
BLDS của Cộng hòa Liên bang Đức, BLDS Nhật Bản, Luật Hợp đồng Công
hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng khái niệm vô hiệu (void). Trong khi đó, luật
hợp đồng của các nước theo hệ thống common law như Anh, Mỹ… ghi nhận
loại hợp đồng này là “hợp đồng không thể thực thi” (unenforceable). Mặc dù
về tên gọi khác nhau nhưng bản chất là như nhau.
Còn đối với loại hợp đồng thương mại vô hiệu tương đối mà các yếu tố
dẫn đến sự vô hiệu như: hợp đồng giao kết do bị lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn,…
thì chúng cũng có những tên gọi khác nhau theo quy định của các nước
khácnhau. Theo quy định của BLDS Cộng hòa Pháp loại hợp đồng này có tên
gọi là “HĐVH có điều kiện”, hoặc theo quy định của pháp luật một số nước
theo hệ thống thông luật (Common law) hợp đồng thương mại vô hiệu tương
đối có tên gọi là “hợp đồng có thể vô hiệu” (voidable).
Về hợp đồng thương mại vô hiệu do bị đe dọa, pháp luật Việt Nam
không phân biệt rõ hành vi đe dọa xảy ra lúc nào và mức độ như thế nào thì
hợp đồng thương mại bị coi là vô hiệu. Do đó, nếu đe dọa ở giai đoạn thực
hiện hợp đồng để buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì hợp đồng
thương mại lúc này có bị tuyên bố vô hiệu hay không? Giải quyết vấn đề đó,
luật của Pháp có khái niệm “đe dọa không chính đáng” để phân biệt với khái
28
niệm “gây sức ép chính đáng”, là sự đe dọa không dẫn đến khả năng vô hiệu
hóa các hợp đồng. Một trong những trường hợp gây sức ép chính đáng là việc
thực hiện một quyền hợp pháp kèm theo yêu cầu đánh đổi quyền này với sự
ưng thuận của người bị đe dọa trong việc xác lập hợp đồng với những điều
kiện hoàn toàn bình thường. Chính đáng bởi vì, một là, việc gây sức ép không
bao gồm một dự tính trái pháp luật; hai là, người gây sức ép không thu nhận
các lợi ích bất thường, lợi ích quá đáng từ hợp đồng và người bị gây sức ép
cũng không bị thiệt hại do việc thực hiện hợp đồng đó [1].
Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: Ở Việt Nam, điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng được quy định tại
Điều 122 BLDS 2005, theo đó, một giao dịch có hiệu lực khingười tham gia
giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham
gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Nếu pháp luậtcó quy định hình thức hợp
đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực thì cũng phải tuân thủ quy định này
[32] [1].
Như vậy, về cơ bản, trừ điều kiện về nghĩa vụ đối ứng, các điều kiện
hợp đồng có hiệu lực của Hoa Kỳ và Việt Nam khá tương đồng với nhau.
Liên quan đến hợp đồng không có hiệu lực thi hành, pháp luật Hoa Kỳ chia
thành 3 loại là HĐVH (void), có thể vô hiệu (voidable) và không thể thực thi
(unenforceable). HĐVH là hợp đồng bị coi là không tồn tại, không được toà
án công nhận và không được thực thi (loại hợp đồng này giống HĐVH tuyệt
đối theo quan niệm trong khoa học pháp lí của Việt Nam). Hợp đồng có thể bị
vô hiệu là hợp đồng mà một bên có quyền lựa chọn chấm dứt hợp đồng, ví dụ
hợp đồng kí sai thẩm quyền (loại hợp đồng này cũng giống HĐVH tuyệt đối ở
Việt Nam). Hợp đồng không thể thực thi là hợp đồng mà không bên nào có
thể thực thiệnghĩa vụ hợp đồng, ví dụ ở Hoa Kỳ, một số loại hợp đồng bắt
29
buộc phải kí bằng văn bản, nếu các bên không tuân thủ quy định này thì hợp
đồng bị coi là không thể thực thi. BLDS năm 2005 của Việt Nam cũng lần
đầu tiên đưa ra căn cứ HĐVH do có đối tượng không thể thực hiện được
(Điều 411). Tuy vậy, với cách quy định tại Điều 411 “Trong trường hợp ngay
từ khi kí kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách
quan thì hợp đồng này bị vô hiệu” có thể tạo ra sự hiểu nhầm là trong mọi
trường hợp, khi có lí do khách quan làm cho đối tượng của hợp đồng không
thể thực hiện được thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu. Ví dụ: A kí hợp đồng
mua hàng của B nhưng không may, số hàng này gặp hỏa hoạn và bị tiêu huỷ
toàn bộ. Rõ ràng đối tượng của hợp đồng này không thể thực hiện được
nhưng không thể nói hợp đồng bị vô hiệu. Hợp đồng vẫn có hiệu lực, bên bán
vi phạm hợp đồng(không giao được hàng cho bên mua) nhưng do gặp phải lí
do bất khả kháng nên được miễn trách nhiệm hợp đồng [1] [2].
1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
1.5.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ hợp đồng bằng pháp luật
Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào
nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau
những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng và là tất
yếu đối với đời sống xã hội. Song, việc chuyển giao các lợi ích này không
phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vicó ý chí của của
chủ thể, như C. Mác đã từng nói: "Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị
trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau,
thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí
nằm trong các vật đó”. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí
giữa các bên, thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và
được gọi là hợp đồng.
30
Hợp đồng chưa xuất hiện trong xã hội nguyên thủy bởi vì khi ấy lực
lượng sản xuất còn kém phát triển, còn tồn tại hình thức sở hữu chung về tư
liệu sản xuất. Khi xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân công lao động trong xã
hội thì nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa con người đòi hỏi phải có sự thống
nhất ý chí của những người chủ hàng hóa ấy mà hình thức của nó là bản giao
kèo. Đây chính là hợp đồng hay khế ước. Vì vậy, có thể khẳng định những
điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa cũng chính là những điều kiện ra
đời của hợp đồng. Hợp đồng là hình thức cơ bản của mối quan hệ trao đổi sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể pháp luật trong xã hội. Nhưng cùng
với sự phát triển của xã hội loài người thì hợp đồng không chỉ dừng lại ở hình
thức biểu đạt cho nhu cầu trao đổi sản phẩm mà nó còn phát triển vượt ra
ngoài phạm vi của mối quan hệ này. Bản thân việc trao đổi sản phẩm giữa
những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng cũng
không còn mang tính ngẫu nhiên mà nó đã dần chuyển hóa thành một nghề
độc lập - nghề thương mại. Ban đầu, khi tiến hành các hoạt động thương mại,
giữa các thương nhân hình thành những quy tắc xử sự mang tính nghề nghiệp.
Qua thời gian, các quy tắc này được lưu truyền và dần dần hình thành
tập quán được các thương nhân thừa nhận rộng rãi, gọi là tập quán thương mại.
Các tập quán này lại dần được pháp điển hóa trong các bộ luật, đạo luật đơn
hành hoặc được cấu thành những phần riêng trong pháp luật dân sự. Những văn
bản pháp luật này lần lượt ra đời ở một số nước Châu Âu, những nước có điều
kiện kinh tế, địa lý thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và giao lưu buôn bán
như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ…
Chế định hợp đồng từ chỗ chỉ là tập hợp những hợp đồng cụ thể trực
tiếp xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ đã dần dần trở thành một chế
định pháp lý thực sự với một khái niệm về hợp đồng tương đối chặt chẽ và
hoàn chỉnh. Từ thời La Mã, hợp đồng đã được định nghĩa là căn cứ làm phát
31
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trưng
không thể thiếu: thứ nhất, phải có sự thỏa thuận (convention, consensus); thứ
hai, phải có mục đích (căn cứ pháp lý) nhất định (causa) mà các bên hướng
tới. Pháp luật về hợp đồng ngày càng được khẳng định cùng với sự ra đời của
các Bộ dân luật. Trong pháp luật tư sản, chế định hợp đồng tồn tại trong lĩnh
vực công pháp và tư pháp, song đặc biệt phát triển trong lĩnh vực tư pháp.
Điều 1101 BLDS La Mã quy định, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên,
theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc
chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó. Trên cơ sở
kế thừa những hạt nhân hợp lý, khoa học của khái niệm này, tại Điều 1101
BLDS Pháp hiện hành cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy vềhợp đồng.
Theo quy định của Điều 1101 BLDS Pháp năm 1804 thì “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm
một công việc”. Hoặc theo quy định của Điều 420 BLDS Liên Bang Nga năm
1994 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”…
Ở Việt Nam, pháp luật về hợp đồng xuất hiện từ khi có các định nghĩa
khái quát về khế ước trong các Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ (năm 1883), Bộ
Dân luật Bắc Kỳ (năm 1931) và Bộ Dân luật Trung Kỳ (năm 1936)3. Tuy
nhiên, khái niệm khế ước không để lại dấu ấn sâu đậm và không có ảnh
hướng lớn đến hệ thống pháp luật về hợp đồng sau này. Trong bối cảnh hiện
nay nhiều nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì quan hệ trao đổi
hàng hóa mà hình thức của nó là hợp đồng ngày càng phức tạp, có nhiều sắc
thái biến động khiến các chủ thể kinh doanh không thể lường trước được. Sự
ra đời của pháp luật về hợp đồng là kim chỉ nam, là công cụ hữu hiệu nhất
điều hòa mối quan hệ thương mại mang tính hai mặt này. Như vậy, các quy
32
phạm pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại
nói riêng là điều rất cần thiết cho việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các
thương nhân, giữa thương nhân với chủ thể kinh doanh.
1.5.2. Mục đích và ý nghĩa của quy định về HĐVH
Quy định về HĐVH, có thể xuất phát từ những quan niệm khác nhau,
hoặc chủ yếu từ nguyên tắc căn bản “nguyên tắc tự do ý chí” hoặc kết hợp
giữa tự do ý chí và ý chí Nhà nước. Tuy nhiên, quan niệm tôn trọng sự tự do ý
chí luôn được mong đợi hơn, sự tự do được hiểu là tự do của “con người xã
hội” không phải là “con người tự nhiên”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài
người, một sản phẩm lịch sử được hình thành do quan niệm tự do hoặc những
học thuyết tự do đó là “nguyên tắc tự do ý chí”. Theo đó, một chủthể sẽ bị
ràng buộc khi tuyên bố ý chí hoặc chấp nhận ý chí một cách tự nguyện và
không chống lại lợi ích công. “Nghĩa vụ tự do ý chí của các người kết ước mà
có. Lẽ dĩ nhiên, hiệu lực bắt buộc của nghĩa vụ cũng căn cứ vào nguyên tắc ý
chí tự do. Tuy nhiên, ở trên nguyên tắc này cần tôn trọng ích lợi chung và trật
tự công cộng”. Nhà nước chỉ luật hoá nguyên tắc tự do thành luật và ở chừng
mực nào đó quy định hoặc chấp nhận những giá trị được gọi là chuẩn mực
chung cần bảo vệ, buộc các chủ thể phải tôn trọng những chuẩn mực xã hội
đó - tự do giao kết nhưng không được xâm phạm trật tự công hoặc lợi ích của
chủ thể khác.
Xuất phát từ mục tiêu điều chỉnh của pháp luật, việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng là tất yếu và việc
bảo vệ của pháp luật luôn đặt ra đối với hợp đồng hợp pháp và HĐVH. Pháp
luật dân sự Cộng Hoà Pháp có quy định “Hợp đồng được giao kết hợp pháp
có giá trị là luật đối với các bên giao kết”; tương tự, BLDS hiện hành của Việt
Nam cũng thể hiện sự bảo vệ này, “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực
bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể
33
khác tôn trọng”. Đối với HĐVH, pháp luật không những bảo vệ quyền lợi của
các bên tham gia mà còn bảo vệ trật tự công cộng và các giá trị chung của xã
hội như đạo đức, thuần phong mỹ tục...Đây chính là nội dung thể hiện mục
đích và ý nghĩa của việc quy định HĐVH.
Tiểu kết chương
Kết quả nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn đã nêu lên những nét
khái quát nhất về khái niệm cũng như đặc thù của HĐVH do nhầm lẫn, từ đó
bước đầu có nhận thức chung về HĐVH do nhầm lẫn qua việc phân tích khái
niệm, phân loại HĐVH do nhầm lẫn, đặc điểm của HĐVH do nhầm lần. Cuối
cùng, sau khi đã nắm được những kiến thức cơ bản về HĐVH do nhầm lẫn,
tác giả bắt đầu tìm hiểu chung về cấu trúc và nội dung của pháp luật khi quy
định về vấn đề này để giới hạn được phạm vi tìm hiểu của đề tài. Kết quả
nghiên cứu lý luận tại chương 1 của luận văn giúp tác giả định hướng các
nghiên cứu về quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật trong thực tế về HĐVH do nhầm lẫn.
34
Chương 2
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Điều kiện của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Trong quá trình xây dựng và ký kết hợp đồng, người soạn thảo cần lưu
ý đến điều kiện của hợp đồng có hiệu lực và các trường hợp vô hiệu của hợp
đồng nhằm tránh các trường hợp đáng tiếc xảy ra trong quá trình hai bên thực
hiện hợp đồng. Điều 388 BLDS năm 2015 quy định: Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự. Như vậy hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp
đồng có hiệu lực khi đáp ứng đủ 4 điều kiện [37]:
Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thông thường
các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện tức là
xuất phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận hợp
đồng đó.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đối tượng của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm
thực hiện. Bên cạnh đó, nội dung của hợp đồng cần phải cụ thể, bởi vì việc
xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa
vụ trong hợp đồng mà không thể thực hiện được thì hợp đồng cũng không
được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ.
Thứ tư, thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể
thức nhất định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại
35
hợp đồng. Hợp đồng không đáp ứng được một trong các điều kiện trên sẽ dẫn
đến vô hiệu.
Bảng 2.1. So sánh quy định về HĐVH của BLDS năm 2015 và BLDS năm
2005
BLDS 2015 BLDS 2005
Năng lực
xác lập
giao dịch
Chủ thể có năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sựphù
hợp với giao dịch dân sự được xác
lập(theo hướng thêm điều kiện
năng lực pháp luật)
Người tham gia giao dịch
có năng lực hành vi dân sự
Điều cấm
của luật
Mục đích và nội dung của giao
dịch dân sự không vi phạm điều
cấm của luật
(khắc phục sự hạn chế tự do như
quy định BLDS 2005, và theo như
tinh thần điều 123 BLDS 2015
điều cấm của luật là những quy
định luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất
định)
Mục đích và nội dung của
giao dịch không vi phạm
điều cấm của pháp luật,
Mục đích
của giao
dịch
Mục đích và nội dung của giao
dịch dân sự không vi phạm điều
cấm của luật
(điều 118, BLDS 2015)
Mục đích của giao dịch dân
sự là lợi ích hợp pháp mà
các bên mong muốn đạt
được khi xác lập giao dịch
đó. (Điều 123 BLDS 2005)
36
Giới hạn tự
do về hình
thức
Hình thức của giao dịch dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự trong trường hợp luật
có quy định. (làm hẹp đi yêu cầu
về hình thức)
Hình thức giao dịch dân sự
là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định
Loại hình
thức của
giao dịch
Giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình
thức thông điệp dữ liệu theo quy
định của pháp luật về giao dịch
điện tử được coi là giao dịch bằng
văn bản.(Đề cập đến luật giao
dịch điện tử)
+ Bỏ hình thức văn bản không có
công chứng chứng thực như: văn
bản viết tay, văn bản đánh máy
+ không coi xin phép là một hình
thức nữa.
Giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới
hình thức thông điệp dữ
liệu được coi là giao dịch
bằng văn bản
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Do hợp đồng là một hình thức của giao dịch dân sự nên theo quy định
tại Điều 407 BLDS 2015 về HĐVH đã liên hệ áp dụng các quy định về giao
dịch dân sự vô hiệu quy định từ Điều 123 đến Điều 133 BLDS năm 2015.
Theo quy định tại Điều 126 của BLDS năm 2015 thì giao dịch dân sự
vô hiệu do bị nhầm lẫn:
37
“1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho
một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì
bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu,
trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong
trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc
các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc
xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”[37]
Theo Điều 131 BLDS 2005, nếu một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ
yếu của hợp đồng mà đã giao kết hợp đồng thì có quyền yêu cầu bên kia thay
đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu tòa án tuyên bố HĐVH. Điều này khác với quy định của một
số nước theo truyền thống thông luật, về nguyên tắc, việc một hoặc cả hai bên
nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng.
Nếu cả hai bên nhầm lẫn về một nội dung chủ yếu khi giao kết hợp đồng thì
HĐVH. Trong từng trường hợp cụ thể, tòa án sẽ xác định những nội dung nào
được gọi là nội dung chủ yếu. Nhầm lẫn của hai bên về luật áp dụng, nhầm
lẫn về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng hoặc nhầm lẫn về các khoản lợi
thu được từ hợp đồng về nguyên tắc không làm cho HĐVH. Nếu một bên
không tiết lộ thông tin, và vì thế bên kia đã giao kết hợp đồng thì hợp đồng
vẫn có hiệu lực. Tương tự, nếu một bên vô tình đưa ra một thông tin sai lệch
không vì mục đích lừa đảo và bên kia dựa vào đó đã giao kết hợp đồng thì
hợp đồng cũng không vì thế mà đương nhiên trở thành vô hiệu [2].
BLDS năm 2005 không đưa ra khái niệm về nhầm lẫn nhưng lại khẳng
định nhầm lẫn về nội dung chủ yếu là yếu tố có thể đưa đến giao dịch vô hiệu.
Chính điều này đã gây ra không ít khó khăn cho Tòa án trong việc tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn có thể là do sự vô ý của
38
một bên hoặc của cả hai bên, và thực chất, cả hai bên đều mong muốn giao kết
một hợp đồng nghiêm túc, đúng pháp luật. Ví dụ: Khi ký kết hợp đồng mua
bán chén, ông A là người miền bắc (bên bán), ông B là người miền nam (bên
mua), khi hợp đồng được ký kết, ông A giao hàng thì lúc đó hai bên đã phát
hiện ra sự nhầm lẫn do sử dụng từ địa phương. Bởi vì “chén” theo tiếng miền
Nam có nghĩa là “bát” (dùng để ăn cơm, đựng canh,…) còn “chén” theo tiếng
miền Bắc là “chén uống nước”. Do đó, hợp đồng sẽ bị tuyên bố vô hiệu nếu
một trong hai bên có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐVH [2].
Tuy nhiên. nếu một người do kém hiểu biết, không chịu tìm hiểu thông
tin mà mua một chiếc xe máy hiệu Spacy của Trung Quốc với giá 60 triệu
đồng và tưởng rằng đó là xe Nhật, thì không thể dựa vào sự nhầm lẫn đó mà
đòi trả lại xe máy cho cửa hàng; trừ trường hợp giá xe trên thị trường đã gần
như cố định và người bán hàng biết (hoặc đáng lẽ phải biết) nhầm lẫn của
người mua.
Từ những bức tranh nhái các danh họa nổi tiếng bày bán khắp nơi, đồ
giả cổ, cho đến hàng tiêu dùng, điện máy… hàng giả và thông tin thất thiệt
tràn ngập thị trường Việt Nam, làm cho cơ hội của người thiếu thông tin có
thể khởi kiện để hủy hợp đồng do bị nhầm lẫn, như được thiết kế trong Điều
131 BLDS năm 2005 dường như trở nên xa lạ và lạc lõng [43].
Giao dịch dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015 được quy định tại
Điều 126 có rất nhiều thay đổi so với BLDS 2005, cụ thể:
“1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho
một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì
bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu,
trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong
trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc
39
các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc
xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”[37]
Như vậy, BLDS năm 2015 không còn quy định về lỗi vô ý của một bên
dẫn đến việc nhầm lẫn nữa mà thay vào đó chỉ xác định có sự nhầm lẫn của
một bên hoặc các bên và tiêu chuẩn để xác định hợp đồng có vô hiệu do nhầm
lẫn hay không còn được xem xét ở việc: kết quả (hay mục đích) của việc xác
lập giao dịch đã đạt được hay chưa hoặc các bên có tự khắc phục được nhầm
lẫn hay không?Quả thực, khiếu kiện để hủy bỏ nghĩa vụ hợp đồng do nhầm
lẫn là một trong những vấn đề phức tạp; các nghiên cứu ở phương Tây tuy
nhiều, song vẫn chưa thể đưa ra một lý thuyết hợp lý để xác định những tình
huống nhầm lẫn có thể dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng. Giới luật học nước ta
cũng chỉ đưa ra một vài lời bình luận khái quát mà chưa thể tổng kết thực tiễn
và đưa ra lý thuyết hữu dụng giúp thẩm phán tuyên bố HĐVH do nhầm
lẫn.Những tình huống nhầm lẫn này chưa được phân xử rõ ràng theo pháp luật
hợp đồng và thực tiễn xét xử ở nước ta. Dù các bên thận trọng đến tối đa cũng
không thể tuyệt đối tránh được nhầm lẫn, mà mọi sự nhầm lẫn nhỏ đều có thể
gây ra tranh chấp lớn.
Trong ngày 18 tháng 10 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân
dân thành phố HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số
702/2006/TLST-KDTM ngày 16 tháng 10 năm 2006 “Tranh chấp giữa
Thành viên của Công ty về hợp đồng góp vốn”, theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 1800/2007/QĐST - KDTM ngày 01 tháng 10 năm 2007 giữa các
đương sự. Trong quá trình xét xử, Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh căn cứ
theo Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định có cơ sở để xác định Hợp
đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời
điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao
dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn, vì vậy, căn cứ Điều 137
40
Bộ luật Dân sự quy định thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó, các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền [40].
2.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Hợp đồng bị vô hiệu có thể vì nhiều lý do khác nhau, tức là do vi phạm
các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực khác nhau. Mỗi loại điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng có đặc trưng riêng. Chính vì lẽ đó nên theo nguyên tắc, bên
cạnh hậu quả pháp lý chung khi HĐVH (như hợp đồng không có hiệu lực kể từ
ngày ký, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…) còn có những hậu quả
pháp lý đặc thù, chỉ đặc trưng cho loại HĐVH đó (ví dụ như bồi thường thiệt
hại) và đương nhiên tính đặc thù này phải được thể hiện trong pháp luật. Rõ
ràng, hậu quả pháp lý khi HĐVH do bị nhầm lẫn không thể hoàn toàn giống
với hậu quả pháp lý khi HĐVH vì những lý do khác. Trong khi đó, BLDS năm
1995, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 đều quy định hậu quả pháp lý khi
HĐVH chung cho tất cả các trường hợp.
Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của bên bị nhầm lẫn, thì
hoặc là bên bị nhầm lẫn chịu thiệt hại hoặc bên kia chịu thiệt hại. Vậy ai sẽ
bồi thường những thiệt hại đó? Vấn đề có vẻ như đã được giải quyết, vì theo
quy định tại khoản 4 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì trong trường hợp
HĐVH, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Nhưng thực tế lại không
như vậy. Quy định nói trên chỉ có thể được áp dụng cho trường hợp HĐVH
do nhầm lẫn theo quy định của BLDS năm 2005, vì nhầm lẫn theo quy định
tại Điều 131 BLDS năm 2005 là do lỗi vô ý của bên không nhầm lẫn. Mặc dù
khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015 cũng quy định như vậy nhưng không thể
được áp dụng để xác định ai phải bồi thường thiệt hại, vì nhầm lẫn theo quy
định tại Điều 126 BLDS năm 2015 không đề cập đến lỗi.Như vậy, khi hợp
41
đồng bị tuyên bố vô hiệu do bị nhầm lẫn và vì HĐVH nên một hoặc các bên
bị thiệt hại nhưng không thể xác định được lỗi, thì việc áp dụng khoản 4 Điều
131 BLDS năm 2015 là không thể [43].
Chúng ta có thể xem xét hai trường hợp: Một là, bên bị nhầm lẫn chịu
thiệt hại; hai là, bên không nhầm lẫn chịu thiệt hại khi hợp đồng bị tuyên vô
hiệu theo yêu cầu của bên bị nhầm lẫn.
Trường hợp bên bị nhầm lẫn bị thiệt hại: Như đã đề cập ở trên, nhầm
lẫn có thể do hành vi của một bên và cũng có thể tự nhầm lẫn. Nếu bên bị
nhầm lẫn tự nhầm lẫn thì phải chịu thiệt hại do HĐVH. Vì trong trường hợp
này họ có hai sự lựa chọn là yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH hoặc không. Việc
họ chọn phương án yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH có nghĩa là họ đã chấp
nhận thiệt hại đó.
Trong trường hợp nhầm lẫn do bên còn lại cung cấp thông tin không
chính xác, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên cung cấp thông tin phải
bồi thường thiệt hại, mặc dù bên cung cấp không biết và không buộc phải biết
thông tin mà họ cung cấp là không chính xác. Ví dụ: Để bảo đảm cho khoản
vay của Công ty Y tại Ngân hàng, bà H đã thế chấp quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất mang tên bà H và chồng là ông T cho Ngân hàng (trước
đó, ông T đã có giấy ủy quyền cho bà H được quyền sử dụng giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn làm ăn). Do Công ty Y không trả được
nợ nên Ngân hàng khởi kiện và đề nghị Tòa án kê biên phát mại toàn bộ tài
sản của bên thứ ba đã được thế chấp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng
theo hợp đồng thế chấp.
Ông T khởi kiện và cho rằng, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất được ký kết giữa bà H và Ngân hàng bị vô hiệu do bà
H đã thực hiện không đúng phạm vi ủy quyền, bởi ông T chỉ đồng ý thế chấp
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY

Contenu connexe

Tendances

Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương MạiKhoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương MạiNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 

Tendances (20)

Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂM
Luận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂMLuận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂM
Luận văn: Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đìnhĐề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAYLuận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOTLuận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tập thể, HOT
Luận văn: Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tập thể, HOTLuận văn: Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tập thể, HOT
Luận văn: Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tập thể, HOT
 
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAYLuận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương MạiKhoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
 
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAYĐề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
 
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đìnhĐề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú ThọLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao độngLuận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
 
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
 
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt NamLuận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
 
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOTĐề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Điều kiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Điều kiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Điều kiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Điều kiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luậtLuận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
 

Similaire à Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfHanaTiti
 
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bánLuận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bánViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similaire à Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY (20)

Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương MạiVi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại
 
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.doc
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.docVi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.doc
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.doc
 
BÀI MẪU Luận văn giao kết hợp đồng, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn giao kết hợp đồng, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn giao kết hợp đồng, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn giao kết hợp đồng, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý, HAY
Luận văn: Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý, HAYLuận văn: Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý, HAY
Luận văn: Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...
Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...
Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...
 
Bài mẫu Luận văn Hủy bỏ hợp đồng theo quy định, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn Hủy bỏ hợp đồng theo quy định, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn Hủy bỏ hợp đồng theo quy định, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn Hủy bỏ hợp đồng theo quy định, 9 ĐIỂM
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
 
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAYĐề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
 
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂMLuận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trườngLuận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
 
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mạiLuận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
 
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bánLuận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAYLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂMLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Vi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAY
Vi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAYVi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAY
Vi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAY
 
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh...
 
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệp
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệpHợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệp
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệp
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Dernier

các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 

Dernier (20)

các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 

Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ DIỄM HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ DIỄM HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VĂN BIÊN HÀ NỘI, 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn chưa công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. Tác giả Nguyễn Thị Diễm
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN ..................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu...................................................................... 7 1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn...............................................13 1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn.......................................18 1.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của một số nước trên thế giới...................................................................................................................27 1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ...........29 Chương 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.................34 2.1. Điều kiện của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn..........................................34 2.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn...............................40 2.3. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn....................46 2.4. Bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu do nhầm lẫn ...............................................................................55 2.5. Bất cập về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lần và nguyên nhân...........................................................................56 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN...................................................60 3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn....................................................................................................................60 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ..........................................................................................................67 KẾT LUẬN....................................................................................................70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật dân sự HCM Hồ Chí Minh HĐVH Hợp đồng vô hiệu KDTM Kinh doanh thương mại TNHH Trách nhiệm hữu hạn TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
  • 6. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. So sánh quy định về HĐVH của BLDS năm 2015 và BLDS năm 2005.................................................................................................................35
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia nào, chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định pháp lý quan trọng vào bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh hoạt và an toàn của các giá trị vật chất trong xã hội. Đã từ lâu pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bởi vì, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp đồng. Vấn đề HĐVH là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay của chế định hợp đồng. Đây là một vấn đề phức tạp, còn nhiều vướng mắc cần được trả lời sớm nhằm tạo niềm tin cho các chủ thể tham gia vào hợp đồng. Khi xây dựng pháp luật về HĐVH, các nhà làm luật đều quan tâm tới các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, về xử lý HĐVH. Các quy định này có tác dụng đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Do vậy, các quy định về HĐVH phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đảm bảo sự hài hòa giữa quyền của các bên chủ thể và lợi ích của cộng đồng, Nhà nước nói chung. Tuy nhiên, hiện nay các quy định về HĐVH nói chung và HĐVH do nhầm lần vẫn còn nhiều vướng mắc. Các quy định có phần còn cứng nhắc, chưa đầy đủ, có quy định còn chồng chéo, gây nên cách hiểu không thống nhất. Chẳng hạn như: các căn cứ để tuyên bố HĐVH còn có nhiều điểm chưa rõ ràng; hậu quả pháp lý của HĐVH còn quy định chung chung, khó áp dụng. Quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự không được đảm bảo thỏa đáng khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
  • 8. 2 Về phía các cơ quan nhà nước, do tính phức tạp của các quan hệ hợp đồng, những quy định không rõ ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều khó khăn, lúng túng trong công tác xét xử có liên quan tới HĐVH do nhầm lẫn. Nói cách khác, chính điều đó làm hạn chế năng lực của các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Và trên thực tế, cũng không ít trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn hoặc cố ý nhầm lẫn, nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình. Với thực trạng đó, các quy định pháp luật về HĐVH cần sớm được hoàn thiện đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, hướng tới sự bảo đảm an toàn và lẽ công bằng cho các chủ thể, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh. Một cơ sở pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh, một hành lang pháp lý thông thoáng không những là yêu cầu chính đáng của người dân, của các doanh nghiệp để họ thực hiện hoạt động kinh doanh và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình mà còn là điều kiện để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước giao. Hơn thế nữa, cần phải khẳng định rằng việc nhận thức đúng về bản chất của HĐVH và việc xử lý chúng để từ đó xây dựng các quy định về HĐVH một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn cũng sẽ góp phần hoàn thiện chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật của nước ta. Từ những lý do trên, với mong muốn được góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về HĐVH nói chung và HĐVH do nhầm lẫn nói riêng, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Việc nghiên cứu về HĐVH, việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng, giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm trong các thời kỳ với nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, vấn đề này đã được đề
  • 9. 3 cập tới trong Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia, Trường đại học Kiểm sát. Các vấn đề liên quan còn được đề cập trong một số công trình nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ“Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của Lê Thị Bích Thọ, Trường Đại học Luật TP. HCM, năm 2009; Luận án tiến sĩ“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”của Nguyễn Văn Cường, Khoa luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; Luận văn thạc sĩ“Xử lý HĐVH theo pháp luật dân sự Việt Nam”của Nguyễn Thị Thanh, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lý HĐVH ở Việt Nam”của Cao Thị Thùy Dương, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2014; … Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết của các tác giả như: Phạm Nguyễn Linh (2018), Xử lý HĐVH trong lĩnh vực thương mại, Tạp chí luật học số 11/2018; Hoàng Quảng Lực (2011), Bàn về giải quyết hậu quả HĐVH, Tạp chí Tòa án nhân dân số 21/2011; … Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công trình có liên quan thì tác giả thấy rằng các công trình này chỉ nghiên cứu các quy định của BLDSnăm 2005, nhất là việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp trong thực tiễn, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng hợp về pháp luật hợp đồng thương mại vô hiệu do nhầm lẫntrong những năm gần đây, nhất là trong điều kiện BLDS năm 2015 đã được Quốc hội có hiệu lực. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định về HĐVH do nhầm lẫn có ý nghĩa quan trọng. Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phức tạp và đa dạng hơn, vấn đề xử lý HĐVH do nhầm lẫn cũng nảy sinh nhiều vấn đề cấp thiết đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung.
  • 10. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về HĐVH do nhầm lẫn. Với mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn như: khái niệm nhầm lẫn và khái niệm HĐVH do nhầm lẫn; đặc điểm của HĐVH do nhầm lẫn; điều kiện của HĐVH do nhầm lẫn; xử lý hậu quả pháp lý của HĐVH do nhầm lẫn. - Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật dân sự về HĐVH do nhầm lẫn. - Đánh giá tình hình thực hiện, áp dụng pháp luật của các chủ thể tham gia kí kết hợp đồng và của tòa án nhân dân trong quá trình xét xử vụ án có liên quan đến HĐVH do nhầm lẫn. - Đưa ra phương án góp phần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định HĐVH do nhầm lẫn và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về hợp đồng của pháp luật dân sự hiện hành. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung vào các đối tượng nghiên cứu sau: - Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐVH, mà cụ thể là tập trung vào các quy định về HĐVH do nhầm lẫn trong BLDS năm 2005, 2015 và các văn bản hướng dẫn, đặt trong tương quan một số quy định của Luật thuơng mại, Luật doanh nghiệp… và các công ước, văn bản pháp luật quốc tế điều chỉnh vấn đề này. - Thực tiễn áp dụng các quy định về HĐVH do nhầm lẫn. Về phạm vi nghiên cứu, trong giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật, tác giả luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về HĐVH
  • 11. 5 do nhầm lẫn. Trên cơ sở lý luận phân tích, đánh giá quy định pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng các quy định nêu trên kể từ thời điểm BLDS năm 2015 có hiệu lực. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Tác giả còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh… kết hợp giữa lý luận với thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về hợp đồng và HĐVH do nhầm lẫn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu mới của luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng, HĐVH, HĐVH do nhầm lẫn; đưa ra những đánh giá nhận xét về tính hợp lý, logic, độ phù hợp với thực tiễn của các quy định này và nêu quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn ở nước ta hiện nay. Dưới góc độ thực tiễn, luận văn chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng, thực hiện pháp luật, đồng thời có những kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, thực hiện pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn tại Việt Nam, góp phần cải thiện, nâng cao ý thức pháp luật nói chung, thích ứng với hội nhập quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về HĐVH do nhầm lẫn
  • 12. 6 Chương 2. HĐVH do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng Chương 3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn
  • 13. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN 1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu 1.1.1. Khái niệm hợp đồng Hợp đồng là một công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người và người liên quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các quan hệ ấy không chỉ hình thành trong dân sự mà còn cả trong lĩnh vực thương mại, lao động, thậm chí trong lĩnh vực hành chính. Trong mỗi loại hợp đồng, trong mỗi lĩnh vực có những đặc điểm rất riêng và do đó, được chi phối bởi những quy định riêng [45, tr.26]. Tuy nhiên là sản phẩm của sự gặp gỡ ý chí, tất cả các hợp đồng đều hình thành và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tự do kết ước và những nguyên tắc cơ bản khác mà xoay quanh những nguyên tắc đó, một hệ thống các quy tắc pháp lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết ước hay còn gọi là luật chung về hợp đồng. Theo quy định tại Điều 388 BLDS năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [32]. Tuy nhiên, quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả những quan hệ về đầu tư, lao động, kinh doanh thương mại, bảo hiểm… Theo đó, nếu trong khái niệm về hợp đồng từ “dân sự” được đặt đằng sau hai từ “hợp đồng” và sau hai từ nghĩa vụ thì điều này dẫn đến thực tiễn thi hành pháp luật có cách hiểu rằng những quy định của BLDS hiện hành chỉ liên quan đến hợp đồng dân sự. Do đó, mà tại BLDS năm 2015 các nhà làm luật đã có những chỉnh sửa liên quan đến khái niệm “hợp đồng” để khắc phục bất cập trên. Cụ thể, Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
  • 14. 8 dân sự”. So với BLDS hiện hành thì BLDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “dân sự” sau hai từ “hợp đồng”. Quy định mới về khái niệm hợp đồng tại Điều 385 của BLDS năm 2015 là điểm mới quan trọng, đáng chú ý không những về mặt kỹ thuật lập pháp và còn làm tăng tính khả thi, minh bạch trong thực tiễn áp dụng [43, tr.46]. Trong phạm vi luận văn, thì hợp đồng được hiểu là sự thoả thuận có hiệu lực pháp luật hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của hai hay nhiều bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. 1.1.2. Hợp đồng vô hiệu Cho đến nay, khoa học pháp lý vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về HĐVH mà chỉ nêu căn cứ xác định HĐVH hoặc có hiệu lực. Người làm luật không định nghĩa cụ thể như thế nào là HĐVH mà chỉ xác định hệ quả của sự vô hiệu. Theo khoản 1, Điều 137 BLDS năm 2005 quy định “giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập” [32]. Trên cơ sở khái niệm hợp đồng, giao dịch dân sự vô hiệu, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn: Hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng khi giao kết và thực hiện không đảm bảo những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, hoặc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan. Phân loại HĐVH: Căn cứ váo thủ tục tố tụng có HĐVH tuyệt đối và HĐVH tương đối - HĐVH tuyệt đối: Là những hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu do việc xác lập hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích công cộng. Hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị coi là vô hiệu tuyệt đối: + HĐVH do giả tạo + Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật + Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội
  • 15. 9 Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa án cho các bên thời hạn để thực hiện đúng quy định về hình thức này nhưng hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện; hoặc trường hợp pháp luật có quy định về hợp đồng vi phạm hình thức nhưng các bên chưa thực hiện hợp đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng bị xem là vô hiệu [47]. Một HĐVH tuyệt đối thì không giải quyết theo yêu cầu của các bên. Mọi trường hợp đều giải quyết theo quy định của pháp luật và không được hòa giải, không có quyền công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng trong quá trình thụ lý và giải quyết tranh chấp về hợp đồng hoặc các nội dung pháp lý có liên quan [47]. - HĐVH tương đối: Là những hợp đồng được xác lập, nhưng có thể bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Sự vô hiệu tương đối là ở chỗ: giao dịch dân sự đó “có thể vô hiệu” hay “không đương nhiên bị xem là vô hiệu” vì nó chỉ xâm hại trực tiếp tới quyền lơi hợp pháp của cá nhân của từng bên chủ thể tham gia. Do đó, hợp đồng này nếu không có sự xem xét của Tòa án thì vẫn có hiệu lực. Trong trường hợp muốn tiêu hủy hợp đồng này, các bên phải yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tư pháp thông thường chứ hợp đồng không đương nhiên bị xem là vô hiệu. Trên thế giới, hiện có ba cách thức xây dựng quy tắc pháp lý để xác định HĐVH, cụ thể: Thứ nhất, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, theo đó, những HĐVH được xác định là hợp đồng không thoả mãn những điều kiện có hiệu lực. Các nước quy định theo cách này là các nước theotruyền thống pháp luật La Mã. Cách thức quy định này cho thấy sự can thiệp mạnh của Nhà nước đến quan hệ hợp đồng.
  • 16. 10 Thứ hai, liệt kê các trường hợp vô hiệu của hợp đồng và việc xác định hợp đồng có hiệu lực bằng phương pháp loại suy. Quy định theo cách này là các nước như Nhật bản, Cộng hoà Liên bang Đức. Thứ ba, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và quy định những trường hợp vô hiệu của hợp đồng. Quy định theo cách này có vẻ đảm bảo cả về lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng, tuy nhiên, đã thể hiện sự can thiệp quá sâu vào quan hệ luật tư vốn dĩ “cốt ở đôi bên”. Việt Nam là nước có quy định về HĐVH theo cách này [54]. Ba cách thức xây dựng quy này hoặc xuất phát từ những đặc điểm chung mang tính bản chất của hợp đồng và ý chí của nhà làm luật. Tuỳ theo điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội và nhu cầu cường thịnh của quốc gia hay khu vực mà nhà làm luật can thiệp nhiều hay ít vào quan hệ hợp đồng. Ví dụ, Cộng Hoà Pháp, Trung Quốc… không can thiệp vào quan hệ hợp đồng bằng cách quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; Thái Lan, Việt Nam... vẫn ghi nhận hình thức là điều kiện có hợp đồng; Châu Âu không có sự can thiệp nào liên quan đến hình thức của hợp đồng “Hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kì cách thức nào, kể cả bằng nhân chứng”. Nghiên cứu các quy định về HĐVH theo ba cách trên cho thấy việc xác định HĐVH theo các dấu hiệu sau [54, tr.38-39]: Năng lực giao kết của các chủ thể: Chủ thể là một trong những yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật nói chung hay quan hệ hợp đồng nói riêng, trong quan hệ hợp đồng tối thiểu phải có hai chủ thể. Các chủ thể là cá nhân có thể tự nhân danh chính mình hoặc thông qua người đại diện để xác lập hợp đồng; chủ thể là tổ chức xác lập hợp đồng thông qua người đại diện. Như vậy, việc giao kết hợp đồng buộc phảithông qua hành vi của con người cụ thể. Hành vi hợp pháp thì được pháp luật thừa nhận và ngược lại, do đó, khi tham gia giao kết hợp đồng chủ thể phải có năng lực để nhận biết về hành vi của mình, đó
  • 17. 11 chính là năng lực hành vi - một trong những yếu tố căn bản để tạo lên thẩm quyền giao kết hợp đồng. Đối với cá nhân khi tự nhân danh mình tham gia quan hệ hợp đồng năng lực hành vi của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ. Một cá nhân luôn được coi là có thể thiệt hại khi khi họ tham gia quan hệ hợp đồng tại thời điểm bị hạn chế hoặc không có năng lực hành vi hoặc năng lực hành vi chưa đầy đủ. Trên cơ sở đó, pháp luật cho phép bên bị thiệt hại gây ra sự vô hiệu nhằm bảo vệ lợi ích một cách công bằng. Đối với tổ chức, pháp nhân thì thẩm quyền giao kết hợp đồng được xác định kết hợp giữa năng lực hành vicủa người đại diện và điều kiện, phạm vi kinh doanh...thẩm quyền và năng lực thiết lập thoả thuận là do pháp luật quy định hoặc được ghi nhận trên cơ sở pháp luật. Do vậy, pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ những thoả thuận do chủ thể có thẩm quyền giao kết. Ngược lại, thoả thuận đó sẽ không được công nhận, không có hiệu lực pháp luật - vô hiệu [54]. Sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể: Một thoả thuận được coi là hình thành khi có sự thống nhất ý chí giữa các bên về một hoặc nhiều vấn đề. Quá trình đàm phán và thiết lập thoả thuận thực chất là việc tuyên bố ý chí và chấp nhận ý chí của các bên tham gia. Trong quan hệ hợp đồng, việc tuyên bố ý chí gọi là đề nghị giao kết hợp đồng và việc chấp nhận ý chí gọi là xác lập quan hệ hợp đồng. Sự thống nhất ý chí chỉ được coi là đích thực khi các bên tham gia thực hiện hành vi của mình một cách tự nguyện, chính thuật ngữ “thoả thuận” đã thể hiện rõ bản chất nguyên tắc tự nguyện. Pháp luật các nước trên thế giới đều ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc tự nguyện trong quan hệ hợp đồng và có thể nói rằng điều kiện bắt buộc đối với việc giao kết hợp đồng là phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện - tự nguyện được hiểu là tự nguyện tuyên bố ý chí và chấp nhận ý chí. Ý chí của các bên không thể coi là được thống nhất khi ý chí đó được tuyên bố hoặc chấp nhận một cách không tự nguyện. Các thoả thuận được hình thành một cách thiếu tự nguyện - không có sự thống
  • 18. 12 nhất ý chí sẽ không được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác thoả thuận này bị vô hiệu và đương nhiên là không được đảm bảo thi hành [54]. Hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các bên xâm phạm trật tự công: Nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm” được phổ biến rộng rãi, pháp luật các nước đều thừa nhận nguyên tắc này. Nhật bản -BLDS điều 90; Cộng hoà liên bang Đức -BLDS điều 134... Việt Nam, trong lĩnh vực kinh doanh, Luật thương mại và Luật doanh nghiệp quy định về vấn đề này cụ thể như sau: “Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm”; “Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”. Tự do là một giá trị chung của nhân loại, tự do là một nguyên tắc căn bản trong quan hệ hợp đồng luôn được pháp luật tôn trọng. Trong xã hội có pháp luật, việc xác định phạm vi hành xử của một người không có nghĩa là hạn chế sự tự do của họ mà có nghĩa là bảo vệ quyền tự do của họ, nếu không có ranh giới đó thì quyền tự do của họ luôn bị đe doạ xâm phạm và có thể dẫn đến không có tự do, vì bản tính tập thể của con người, "tính bắt buộc" phải sống trong xã hội của nó; con người không có khả năng trở nên hạnh phúc và thậm chí đơn giản là tồn tại khi thiếu những người khác. Do đó, khi các bên tham gia thoả thuận thực hiện hành vi mà pháp luật cấm luôn bị coi là xâm phạm đến những giá trị mà pháp luật bảo vệ [54]. Thoả thuận không tuân thủ quy định về hình thức: Hiện tại, pháp luật của một số quốc gia vẫn còn quy định hình thức của hợp đồng là một trong những điều kiện có hiệu lực, ví dụ: BLDS và Luật thương mại Thái Lan, tại điều 115 quy định “Một hành vi pháp lý không theo đúng hình thức quy định thì vô hiệu”, còn Việt Nam BLDS năm 1995 quy định về hình thức tương tự như Thái Lan. BLDS năm 2015 có sửa đổi một cách mềm dẻo hơn “Hình thức
  • 19. 13 giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định” tuy nhiên về bảnchất không có gì thay đổi - vẫn ghi nhận hình thức là điều kiện có hiệu lực. Mặc dù quy định tuân thủ hình thức không phải là dạng quy phạm cấm, tuy nhiên, khi pháp luật không thừa nhận thì thoả thuận và bảo đảm thi hành thì thoả thuận không tuân thủ hình thức bị vô hiệu kể từ thời điểm giao kết. Xét đến cùng thì có lẽ nhà làm luật đặt ra quy định này nhằm đảm bảo trật tự công, mặc dù trên thực tế quy định này thường ban phát lợi ích tư (nếu không có lợi có lẽ không ai yêu cầu tuyên vô hiệu) và đặc biệt hơn là quy định này có thể làm tăng chi phí giao dịch và hạn chế sự sinh lời của tài sản và quyền của chủ tài sản [54]. Trong phạm vi luận văn thì HĐVH được hiểu là thoả thuận không có hiệu lực pháp luật kể từ khi giao kết, do một hoặc các bên chủ thể không có thẩm quyền xác lập hoặc các bên chủ thể không có sự thống nhất ý chí đích thực hoặc hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các chủ thể bị pháp luật cấm hoặc xâm phạm trật tự công hoặc thoả thuận không được pháp luật thừa nhận do không tuân thủ hình thức. 1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn 1.2.1. Định nghĩa Trong thực tế không hiếm trường hợp sự ưng thuận có “tì vết” và yếu tố nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng là một “tì vết” mà luật đã dự liệu để cho phép tuyên bố HĐVH. Nhìn chung vấn đề quy định về nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng được quy định lần đầu tiên trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự và BLDS năm 1995. Cụ thể, theo khoản 3, Điều 15 Pháp lệnh hợp đồng dân sự, HĐVH “khi một bên hợp đồng nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng” và Điều 141 BLDS năm 1995 về giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn: “Khi một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập giao dịch, thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung giao dịch đó, nếu bên kia
  • 20. 14 không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Khi giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn thì bên có lỗi trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi thường” [32]. Theo quy định tại điều 116 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ quy định tại điều luật này có thể xác định: kết quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí đơn phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự [38]. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định. Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao lưu dân sự. So với quy định về giao dịch dân sự vô hiệu tại BLDS 2005, BLDS 2015 có bổ sung thêm cụm từ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Đây là quy định cần thiết, bởi lẽ các quy định về điều kiện có hiệu lực của BLDS để áp dụng cho đa số các trường hợp nhằm đảm vảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc vô hiệu giao dịch dân sự là không cần thiết. Thực tế, cho thấy giao dịch có thể thiếu điều kiện quy định tại Điều 117 BLDS 2015 nhưng vẫn không vô hiệu. Chẳng hạn như quy định tại điểm a khoản 2 điều 125 BLDS 2015, giao dịch dân sự của
  • 21. 15 người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó thì không bị xem là giao dịch dân sự vô hiệu. Sự bổ sung quy định này thể hiện sự linh hoạt trong các quy định của pháp luật [43, tr.61-62]. Hiện nay các nhà làm luật vẫn không đưa ra một khái niệm cụ thể nên nhầm lẫn ở đây có thể hiểu là việc các bên trong giao dịch hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc bên kia, sự nhầm lẫn xuất phát từnhận thức các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng của sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bị nhầm lẫn chứng minh được sự nhẫm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu. 1.2.2. Đặc điểm Nhầm lẫn đã tồn tại trong hai BLDS nhưng lại không đưa ra định nghĩa chính xác thế nào là nhầm lẫn nên rất khó khăn khi xác định sự tồn tại của nhầm lẫn. Nhầm lẫn trong ngôn ngữ pháp lý là sự nhận định không chính xác về cái có thật, tưởng cái sai sự thật là thật và ngược lại. Nhầm lẫn là sự khác biệt giữa nhận thức của một bên về vấn đề và thực tế của vấn đề. Ví dụ anh A xác lập hợp đồng mua bán xe máy với giá 30 triệu với anh B nhưng không biết rằng xe máy đó là tang vật trong một vụ án hình sự cướp tài sản (ở đây anh B cũng được mua lại từ anh D và không biết tình trạng thật của chiếc xe). Điều này có nghĩa là đối với bên mua có sự khác nhau về nhận thức của họ về chiếc xe và thực tế về chiếc xe này. Bất kỳ sự khác nhau nào giữa nhận thức và thực tế đều có thể được coi là nhầm lẫn. Và nhầm lẫn phải tồn tại ở thời điểm xác lập giao dịch. Điều đó có nghĩa là nhận thức của bên nhầm lẫn về hợp đồng và sự thật về hợp đồng này phải được xác định tại thời điểm xác lập hợp đồng. Nhầm lẫn khác với giả tạo ở chỗ trong hợp đồng có sự nhầm lẫn thì bản thân người xác lập hợp đồng không biết được điều đó còn giả tạo trong
  • 22. 16 hợp đồng thì người thể hiện ý chí muốn xác lập hợp đồng biết việc đó không đúng với sự thể hiện ý chí đích thực của họ với sự thể hiện thực tế trong hợp đồng. Nhưng để đánh giá nhận thức của bên bị nhầm lẫn thực chất là rất khó vì nó liên quan đến vấn đề nội tâm. Nếu các bên không ghi rõ trong hợp đồng về nhận thức của mình thì rất khó để xác định. Phân tích ví dụ trên vì người mua không biết về tình trạng thật của chiếc xe. Ở đây chúng ta nên dùng phương pháp suy đoán bằng cách xác định nhận thức của một người bình thường trong hoàn cảnh tương tự vì nếu một người bình thường nếu biết chiếc xe đó là tang vật của một vụ hình sự thì có lẽ họ sẽ không mua với giá như thế [43]. Thực tế áp dụng pháp luật Việt Nam vẫn chưa tổng kết được các trường hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng thành lý luận chung. Và một vấn đề đặt ra là các quy định của pháp luật chỉ nói đến nhầm lẫn về nội dung vậy nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng thì như phải giải quyết như thế nào? Ví dụ: C là nhà thiết kế thời trang nổi tiếng, có người khác cũng tên là C cũng làm nghề thiết kế thời trang nhưng không nổi tiếng, nhưng D không biết tưởng nhầm người đó là C nên ký kết hợp đồng thiết kế hàng mẫu cho Công ty mình. Ở đây, D có nhầm lẫn về chủ thể và C không biết D đã nhầm lẫn mà nghĩ D cần mình thật. Và trên thực tế nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng không phải là ít. Mặc dù trong một số trường hợp tòa án tuyên bố vô hiệu, nhưng xét về gốc độ văn bản để áp dụng luật về tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn thì thiếu cơ sở pháp lý. Thiết nghĩ về lâu dài BLDS cần bổ sung thêm trường hợp này [43]. Trong thực tế có thể xảy ra trường hợp một bên có thể nhầm lẫn mà không do lỗi của bên kia, có nghĩa là bên kia cũng không có lỗi vô ý hay cố ý. Tiếp theo ví dụ về chiếc xe máy ở trên ta thấy thực chất chiếc xe máy của anh B bán cho anh A không phải của anh mà là tang vật trong một vụ cướp mà anh cũng không biết. Dù Tòa án có tuyên hợp đồng này vô hiệu nhưng không
  • 23. 17 thể coi ai trong hai anh là có lỗi cả. Ngoài ra luật cũng không quy định về trường hợp sự nhầm lẫn đó là do chính bên bị nhầm lẫn gây ra ví dụ như sự cẩu thả, trình độ hiểu biết thấp của chính họ gây ra. Vì có trường hợp do sự chủ quan chưa xem xét kỹ hợp đồng họ đãchấp nhận xác lập hoặc ngay từ khi giao kết họ đã biết mình bị nhầm lẫn nhưng vẫn để mặc rồi sau này xem xét lại thấy không có lợi gì cho mình thì mới yêu cầu Tòa tuyên bố HĐVH do mình đã nhầm lẫn. Ở đây nếu như không quy định cụ thể về vấn đề này sẽ dẫn đến khiếu nại tràn lan do người hiểu lầm cứ tưởng họ có quyền khiếu nại để tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn bất cứ lúc nào miễn là còn thời hạn khởi kiện từ đó dẫn đến tình trạng lạm dụng để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của bên bị nhầm lẫn. Vì vậy thiết nghĩ BLDS cần sửa đổi hoàn thiện hơn quy định về vấn đề này [51]. Vậy trong lừa dối cũng có yếu tố của nhầm lẫn. Nhầm lẫn và lừa dối đều có một điểm chung là bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối đều đã hiểu sai lệch về chủ thể, về tính chất của đối tượng...nên đã xác lập giao dịch. Vì vậy để tuyên bố HĐVH do lừa dối thì phải chứng minh có một bên bị nhầm lẫn và sự nhầm lẫn này phải do hành vicố ý của bên kia gây ra. Và việc tuyên bố một HĐVH do nhầm lẫn vì việc xác định hành vicố ý là rất khó phải cần nhiều giai đoạn xác minh, làm rõ các chứng cứ đưa ra của đương sự điều này tùy thuộc nhiều vào phán quyết của Thẩm phán xử lý vụ việc đó [51]. Giải pháp tuyên bố HĐVH không phải là giải pháp tối ưu được ưu tiên áp dụng trong các trường hợp vô hiệu tương đối dạng này. Vì hợp đồng được xác lập nhằm mục đích đem lại một lợi ích hợp pháp nào đó cho các bên và được pháp luật bảo vệ nếu như nó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Cho nên trong trường hợp này Tòa án không triệt tiêu hợp đồng nếu như hợp đồng vẫn có thể khắc phục được. Giải pháp này tương đối khả thi đối với trường hợp hai bên đều nhầm lẫn. Hai bên có thể thỏa thuận sửa đổi lại nội dung hợp
  • 24. 18 đồng hoặc lập ra một hợp đồng mới hoàn toàn. Còn chỉ một bên nhầm lẫn bên kia biết mà không thông báo, để mặc cho hợp đồngđược ký kết thì đó lại là một dạng của hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng. Ngoài ra quy định này chỉ cho phép vô hiệu nếu bên nhầm lẫn yêu cầu mà bên kia không chấp nhận. Và bên không chấp nhận có khả năng thay đổi mà không thay đổi được thì mới có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu. Nhưng nếu bên đó cũng không thể thay đổi, khắc phục được thì sao? Tương tự ví dụ chiếc xe máy ở trên thì cả hai anh A và B đều không thể thay đổi được hoàn cảnh, không thể biến chiếc xe bất hợp pháp thành hợp pháp dù ý chí của anh B có muốn chiếc xe mình trở thành hợp pháp hay không cũng không được. Vì vậy thiết nghĩ, BLDS cần bổ sung thêm quy định này để bảo vệ được quyền lợi của các bên trong giao kết hợp đồng.HĐVH do bị nhầm lẫn thuộc trường hợp vô hiệu tương đối vì vậy nếu không có yêu cầu của bên bị nhầm lẫn thì hợp đồng vẫn có giá trị thi hành đối với các bên giao kết [51, tr.66]. 1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn Hợp đồng là sự thoả thuận, sự thoả thuận này dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng, có nghĩa là ý chí của các bên được thể hiện một cách tự do, không chịu bất kỳ một sự tác động nào. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều trường hợp các bên hoặc một trong các bên khi đàm phán, ký kết hợp đồng ý chí của họ được hình thành một cách không tự nguyện, tức là họ không được tự do trong việc thể hiện ý chí của mình hoặc xuất phát từ những ý niệm không xác thực. Pháp luật gọi các trường hợp này là hợp đồng được ký kết trái nguyên tắc tự do tự nguyện thoả thuận. Những trường hợp này là: nhầm lẫn, lừa dối và đe doạ [43]. Theo quy định của pháp luật của tất cả các nước, nhầm lẫn có thể được coi là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH, tuy nhiên thế nào là nhầm lẫn được xem xét không giống nhau trong pháp luật của các nước khác nhau.
  • 25. 19 Pháp luật của các nước hầu như không ra khái niệm nhầm lẫn, còn trong khoa học pháp lý, về vấn đề này có nhiều cách nhìn khác nhau. Có quan đỉểm cho rằng, nhầm lẫn là những trường hợp hợp đồng được ký kết nhưng ý chí của một hoặc của các bên được hình thành không đúng vì nhiều lý do khác nhau. Nhầm lẫn có thể do các bên chưa thoả thuận hết mọi điều khoản của hợp đồng, có thể do các bên không thể hiện sự cẩn thận cần phải có, cũng có thể do sự tự tin thái quá của chủ thể hoặc hành vi của người thứ ba. Ý kiến khác cho rằng, nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký kết không phản ánh ý chí đích thực của các bên, không có khả năng mang lại kết quả mà các bên hướng đến tại thời điểm ký kết hợp đồng. Có thể nói, nhầm lẫn là khi ý chí của các bên không giống với ý chí của họ trong giai đoạn thống nhất ý chí mặc dù không bị đe doạ hoặc lừa dối. Việc coi nhầm lẫn là căn cứ tuyên bố HĐVH gặp phải hai vấn đề phức tạp trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn. Một mặt, trên xuất phát từ thuyết ý chí, nhầm lẫn được coi là việc hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể và vì vậy nên cần phải coi hợp đồng đó là vô hiệu. Mặt khác nếu trong mọi trường hợp khi hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể sẽ bị vô hiệu, điều này sẽ tạo ra sự không ổn định, mất trật tự trong lưu thông dân sự và trong hoạt động kinh doanh thương mại- điều mà không ai muốn. Chính vì vậy nên pháp luật cũng như Toà án cẫn phải thận trọng trong việc xem xét HĐVH. Để tìm giải pháp hài hoà các mối quan hệ trên cần phải phân biệt hai loại nhầm lẫn: nhầm lẫn không có ý nghĩa pháp lý, tức là không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng và nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý-là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH. Như vậy không phải mọi nhầm lẫn đều có ý nghĩa pháp lý đối với bên nhầm lẫn. Điều này là nhất quán trong mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên trong thực tiễn việc phân biệt
  • 26. 20 hai loại nhầm lẫn nói trên là việc không đơn giản, trong khi đó hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau [52]. Có thể nói rằng, nhầm lẫn, nhìn từ góc độ là điều kiện để yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH là một trong những vấn đề phức tạp nhất của pháp luật hợp đồng và gây nhiều khó khăn cho người học khinghiên cứu vấn đề này. Người bán hàng bán cho người mua một bình gốm Trung Quốc với giá rẻ vì cho rằng, đó là bình gốm giả cổ do người địa phương làm ra. Sau đó người mua phát hiện ra rằng đó là một tác phẩm nghệ thuật vô giá được làm từ thời Nhà Minh. Trong trường hợp này người bán có quyền yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH và đòi lại bình cổ với lý do đã không đánh giá chính xác giá trị của chiếc bình hay không? Có hay không có ý nghĩa việc người bán là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực đố cổ và có thể đánh giá đúng giá trị của chiếc bình nhưng đã bất cẩn khi thực hiện việc đánh giá? Có quan trọng hay không việc người mua biết chính xác hoặc đoán biết được đó là bình cổ nhưng đã giấu người bán? Sẽ như thế nào nếu cả người bán và người mua của hợp đồng ban đầu đều là các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá đồ cổ? Có ý nghĩa hay không việc người mua, vì tin vào hiệu lực của hợp đồng đã bỏ ra một khoản tiền lớn để phục hồi chiếc bình với mục đích bán lại, hoặc đã bán lại cho người khác? Nếu người mua, một cách trung thực cam kết với người mua rằng, đó là bình giả cổ và yêu cầu người bán thực hiện hợp đồng? Và cuối cùng, nếu người bán yêu cầu người mua trả lại bình, người mua đồng ý nhưng yêu cầu trả mức chênh lệch giá? Để trả lời câu hỏi nói trên cần phải xem xét một số điều kiện của sự nhầm lẫn [57]. Phạm vi của nhầm lẫn: Điều 126 BLDS năm 2015 về “giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn” quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
  • 27. 21 bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này” [37]. Như vậy theo pháp luật của Việt Nam hiện hành, nhầm lẫn chỉ có thể liên quan đến nội dung của hợp đồng mà không quy định nhầm lẫn về chủ thể. Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể nội dung, tuy nhiên có thể hiểu rằng, trong nội dung của hợp đồng có rất nhiều vấn đề, ví dụ, đối tượng của hợp đồng, tính chất của hàng hoá, công việc. Không quy định nhầm lẫn về chủ thể có phải là khiếm khuyết của pháp luật hợp đồng Việt Nam hay không? Và việc thiếu vắng quy định của pháp luật trong trường hợp này gây ra những hậu quả pháp lý như thế nào? Có tác giả cho rằng, pháp luật quy định như vậy là chưa đủ, bởi lẽ trong thực tế, hoàn toàn có thể xảy ra nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng và mặc dù pháp luật chưa quy định nhưng thực tiễn xét xử đã thừa nhận nhầm lẫn về chủ thể. Tính chất của nhầm lẫn phải nghiêm trọng. Điều 126 BLDS năm 2015 chỉ quy định sự nhầm lẫn liên quan đến nội dung của giao dịch mà không quy định mức độ, tính chất của nhầm lẫn. Thật ra pháp luật của nhiều nước không quy định những tiêu chí để xác định một sự nhầm lẫn nào đó là nghiêm trọng hay không nghiêm trọng, mà việc xác định này tuỳ thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể cũng như khả năng nhận biết của chủ thể về đối tượng nhầm lẫn. Tuy nhiên khác với pháp luật Việt Nam, sự thừa nhận án lệ của pháp luật nhiều nước có thể giải quyết được vấn đề đặt ra. Trong ví dụ mua bán bình cổ nói trên, nếu người bán là chuyên gia trong lĩnh vực đồ cổ thì sự nhầm lẫn không thể coi là nghiêm trọng. Bởi lẽ người bán biết hoặc buộc phải biết về đối tượng của hợp đồng. Nếu người mua là chuyên gia đồ cổ, còn người bán là người bình thường thì sự nhẫm lẫn của người bán có thể coi là nghiêm trọng. Nhầm lẫn chỉ có ý nghĩa nếu nó là động lực chủ yếu để bên bị nhầm lẫn
  • 28. 22 ký kết hợp đồng. Với tư cách là động lực chủ yếu nhầm lẫn chỉ được xem xét nếu nó là cơ sở duy nhất để bên bị nhầm lẫn ký hợp đồng. Nếu còn có khả năng ký hợp đồng với những điều kiện khác thì không thể coi nhầm lẫn là động lực chủ yếu. Thực tiễn xét xử của nhiều nước không coi HĐVH nếu nhầm lẫn là do động cơ thông thường. Nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý chỉ trong trường hợp, nếu sự nhầm lẫn đó có liên quan đến đặc tính, vì nó mà các bên đạt được sự thoả thuận một cách trực tiếp [43]. Có thể nhận thấy, việc pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng nhầm lẫn đến mức nào thì có ý nghĩa pháp lý trong xác định hiệu lực của hợp đồng cộng với việc pháp luật không thừa nhận án lệ sẽ làm cho Toà án gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử. Bởi lẽ khó có tiêu chí rõ ràng khi đánh giá mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn. Một vấn đề nữa cần phải được xem xét một cách thận trọng dưới góc độ pháp lý khi xác định nhầm lẫn là có cần thiết phải xác định lỗi của một bên là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn của bên kia hay không. Vấn đề này được xem xét không giống nhau trong pháp luật của các nước khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành , nhầm lẫn phải do hành vi lỗi vô ý của một bên gây ra. Điều đó có thể hiểu rằng, nếu không có lỗi của một bên thì không có sự nhầm lẫn hay nhầm lẫn (nếu có) sẽ không có ý nghĩa pháp lý và không thể là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH . Cũng có thể hiểu rằng, các nhà làm luật Việt Nam không loại trừ nhầm lẫn không phải do lỗi bên kia, tuy nhiên họ chỉ cho rằng, nhầm lẫn do lỗi của bên kia mới có thể có ý nghĩa pháp lý và có thể được coi là điều kiện để tuyên bố HĐVH. Khoản 2 Điều 126 BLDS năm 2015 quy định, trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này. Có lẽ vì quy định này nằm trong Điều 126 BLDS dưới tên gọi “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn” [37] nên có tác giả cho rằng, BLDS năm 2015 dự liệu
  • 29. 23 hai trường hợp nhầm lẫn của một bên: nhầm lẫn do lỗi vô ý hay cố ý của bên kia và thực tế cho thấy hai loại nhầm lẫn này hoàn toàn có thể tồn tại.Ở đây, BLDS năm 2015 không coi nhầm lẫn là do lỗi cố ý của một bên mà bằng khoản 2 chỉ nhấn mạnh rằng, nếu một bên có lỗi cố ý làm cho bên kia hiểu sai về nội dung của giao dịch thì bị coi là lừa dối. Thật vậy khi một bên có hành vicố ý làm cho bên kia hiểu sai về nội dung cả hợp đồng tức là trong hành vi đó bao gồm các thủ đoạn gian dối. Một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai bởi lẽ biết rằng, nếu không như vậy thì bên kia hiểu đúng về nội dung của hợp đồng thì sẽ không bao giờ ký [43]. Cùng nhầm lẫn: Pháp luật Việt Nam có xem xét trường hợp khi cả hai bên cùng nhầm lẫn hay không? Đây là vấn đề đã có tác giả đặt ra trong khoa học pháp lý Việt Nam . Không riêng gì pháp luật Việt Nam mà pháp luật của nhiều nước không đề cập đến vẫn đề này một cách trực tiếp, ví dụ, BLDS của Đức, Pháp, Liên bang Nga và chỉ có pháp luật của một số nước và Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu lại quy định vấn đề này khá cụ thể. Và việc pháp luật có quy định cả hai bên cùng nhầm lẫn một cách trức tiếp hay không ít có ý nghĩa pháp lý bởi lẽ: Thứ nhất, mặc dù không quy định trực tiếp nhưng điều đó không có nghĩa pháp luật các nước không có sự điều chỉnh loại nhầm lẫn này. Rõ ràng, với cách quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 nhiều người có thể hiểu rằng, theo pháp luật Việt Nam chỉ có một bên trong giao dịch bị nhầm lẫn. Tôi cho rằng, với cách quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 cũng có thể hiểu rằng, hoàn toàn có thể có truờng hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn. Đó là những trường hợp cả hai bên đều có hành vi vô ý và làm cho bên kia hiểu nhầm. Và trong những trường hợp này cả hai bên đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH [43] [45].
  • 30. 24 Thứ hai, theo quan điểm của tôi thì pháp luật quốc gia cũng không nhất thiết quy định rõ trường hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn, bởi lẽ vấn đề này có thể được giải quyết bằng các công cụ pháp lý khác. Để làm sáng rõ loại nhầm lẫn này người ta thường lấy ví dụ: A và B, khi giao kết hợp đồng bán một xe hơi thể thao, đều không thể biết hay không thểbiết thực sự là chiếc xe hơi này là xe hơi bị ăn cắp.Việc huỷ bỏ hợp đồng này là chấp nhận được. Trong thực tiễn xét xử của Việt Nam có một bản án tương tự. Anh Mạnh mua xe của anh Thắng, anh Thắng mua xe của anh Quang, sau một thời gian thì mới biết rằng, xe là tang vật của một vụ cướp tài sản. Toà án tuyên HĐVH do bị nhầm lẫn bởi lẽ cho rằng cả A và B đều nhầm lẫn. Trong khoa học pháp lý Việt Nam có người đồng tình với cách giải quyết nói trên của Toà án. Thứ ba, ở nhiều nước, mặc dù pháp luật không quy định trực tiếp, tuy nhiên sự khiếm khuyết này của pháp luật được khắc phục bằng thực tiễn xét xử của Toà án. Trong thực tiễn xét xử của một số nước cả hai bên cùng nhầm lẫn là những trường hợp, ví dụ, tại thời điểm ký kết hợp đồng tài sản là đối tượng của hợp đồng không còn tồn tại, hoặc trường hợp các bên trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tại thời điểm ký kết hợp đồng không biết người được bảo hiểm đã chết. Sự tồn tại các điều kiện nói trên chỉ là điều kiện cần để HĐVH mà chưa phải là điều kiện đủ. Để tuyên bố HĐVH do bị nhầm lẫn, theo ý kiến của tôi, ngoài các điều kiện nói trên còn cần phải có các điều kiện đủ. Liên quan đến vấn đề này trong pháp luật Việt Nam chỉ có một quy định mang tính chất chung tại khoản 1 Điều 136 BLDS 2005, nếu bên bị nhầm lẫn không yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH trong thời hạn hai năm kể từ thời điểm ký hợp đồng thì mất quyền viện dẫn Điều 131. Tôi cho rằng, sự để ngỏ này sẽ tạo ra nhiều cách hiểu khác
  • 31. 25 nhau khi áp dụng Điều 131 BLDS năm 2005, nhất là khi chức năng giải thích pháp luật của thẩm phán bị hạn chế và án lệ không được thừa nhận [43]. Khác với pháp luật của Việt Nam, vấn đề này được pháp luật và thực tiễn xét xử của các nước giải quyết triệt để, thấu đáo hơn tuỳ thuộc vào các điều kiện cần sau đây: Thứ nhất, nhận thức của bên bị nhầm lẫn, trong mọi trường hợp không phụ thuộc vào nguyên nhân bị nhầm lẫn, bên bị nhầm lẫn mất quyền yêu cầu tuyên bố HĐVH nếu bên bị nhầm lẫn biết và buộc phải biết về sự nhầm lẫn. Thứ hai, nhận thức của bên không nhầm lẫn, nhầm lẫn liên quan đến nội dung chủ yếu của hợp đồng là điều kiện để HĐVHnếu chứng minh được rằng, bên kia, với tư cách là người bình thường, biết hoặc buộc phải biết về sự nhầm lẫn này nếu thể hiện được sự chú ý, cẩn trọng. Thứ ba, thời điểm thông báo cho bên kia (bên không bị nhầm lẫn), bên bị nhầm lẫn phải thông báo kịp thời về sự nhầm lẫn của mình cho bên kia. Kịp thời có nghĩa là phải thống báo trước thời điểm bên kia, vì tin vào hiệu lực của hợp đồng đã có những hành việcụ thể, ví dụ, bán lại, sửa chữa vật…Ví dụ, theo quy định tại Điều 871 BLDS Áo, trong trường hợp người bán nhầm lẫn về đặc tính của hàng hoá thì người bán mất quyền viện dẫn đến nhầm lẫn nếu hàng hoá đã được người mua bán lại hoặc đã cho thuê, ngoại trừ trường hợp người mua biết về sự nhầm lẫn hoặc có hành vi làm cho người bán nhầm lẫn [12]. Thật khó có thể đưa ra một định nghĩa pháp lý về nhầm lẫn. Theo một số luật gia, nhầm lẫn là “niềm tin không phù hợp với thực tế”, một số luật gia khác lại cho rằng nhầm lẫn là “sự khác biệt giữa ý chí nội tâm và ý chí biểu hiện bên ngoài”. Tựu chung lại, sự nhầm lẫn làm cho sự thể hiện ra bên ngoài của ý chí một trong các bên không phù hợp với ý chí đích thực bên trong của họ khiến cho sự thỏa thuận đạt được đã bị khiếm khuyết, và vì vậy, về nguyên tắc, mọi sự nhầm lẫn đều làm cho HĐVH vì đã không có sự thống nhất ý chí giữa các bên. Tuy nhiên, nhằm mục đích bảo đảm sự ổn định của giao lưu dân
  • 32. 26 sự, nhà làm luật chỉ chấp nhận nhầm lẫn là nguyên nhân khiến HĐVH trong một số trường hợp nhất định. Luật pháp một số nước thường chia sự nhầm lẫn - nguyên nhân khiến HĐVH ra ba loạiHĐVH [12]: - Nhầm lẫn về bản chất hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ là B cho mình mượn tài sản, B lại nghĩ mình gửi giữ tài sản cho A); - Nhầm lẫn về đối tượng của nghĩa vụ của hợp đồng (chẳng hạn, A nghĩ bán cho B lô đất 1, trong khi B lại nghĩ A bán cho mình lô đất 2; hoặc A và B ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa, A tưởng phải giao hàng hóa tại địa điểm X, trong khi B nghĩ A phải giao hàng tại địa điểm Y…). - Nhầm lẫn về các yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận của các bên (thực chất, ở đây muốn nói tới nhầm lẫn về một động cơ nào đó khiến một người muốn ký kết hợp đồng). Về nguyên tắc, nhầm lẫn về một yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể là nguyên nhân khiến HĐVH khi yếu tố này đã được bên kia chú ý tới, trừ phi, căn cứ vào bản chất hợp đồng và hoàn cảnh cụ thể, đó là một yếu tố hiển nhiên. Vì vậy, một người mua một bức tượng chỉ vì anh ta nhầm tưởng rằng bức tượng này đã từng được tác giả trưng bày ở salon chỉ có thể yêu cầu Tòa án tuyên HĐVH nếu anh ta đã từng nói tại sao anh ta lại có ý định mua bức tượng đó với người bán. Không theo cách tiếp cận bằng việc phân chia các loại nhầm lẫn, BLDS tại Điều 131, chỉ quy định khi một bên, do lỗi vô ý của bên kia, nhầm lẫn về nội dung của giao dịch mà xác lập giao dịch thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Như vậy, theo luật Việt Nam, bên bị nhầm lẫn phải chứng minh được nguyên nhân dẫn đến nhầm lẫn là do lỗi của bên kia [12].
  • 33. 27 1.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của một số nước trên thế giới Có thể thấy rằng việc phân loại HĐVH như trên được hình thành cùng với lịch sử phát triển của Luật La Mã, xuất phát từ tư tưởng phân chia pháp luật theo luật công và luật tư, thông thường các quan hệ thuộc lĩnh vực công sẽ chịu sự can thiệp sâu hơn của Nhà nước. Nếu xét các quy định về HĐVH tuyệt đối trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau, nhận thấy rằng trong BLDS Cộng hòa Pháp ghi nhậnloại hợp đồng này dưới tên gọi hợp đồng đương nhiên vô hiệu hoặc trong BLDS của Cộng hòa Liên bang Đức, BLDS Nhật Bản, Luật Hợp đồng Công hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng khái niệm vô hiệu (void). Trong khi đó, luật hợp đồng của các nước theo hệ thống common law như Anh, Mỹ… ghi nhận loại hợp đồng này là “hợp đồng không thể thực thi” (unenforceable). Mặc dù về tên gọi khác nhau nhưng bản chất là như nhau. Còn đối với loại hợp đồng thương mại vô hiệu tương đối mà các yếu tố dẫn đến sự vô hiệu như: hợp đồng giao kết do bị lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn,… thì chúng cũng có những tên gọi khác nhau theo quy định của các nước khácnhau. Theo quy định của BLDS Cộng hòa Pháp loại hợp đồng này có tên gọi là “HĐVH có điều kiện”, hoặc theo quy định của pháp luật một số nước theo hệ thống thông luật (Common law) hợp đồng thương mại vô hiệu tương đối có tên gọi là “hợp đồng có thể vô hiệu” (voidable). Về hợp đồng thương mại vô hiệu do bị đe dọa, pháp luật Việt Nam không phân biệt rõ hành vi đe dọa xảy ra lúc nào và mức độ như thế nào thì hợp đồng thương mại bị coi là vô hiệu. Do đó, nếu đe dọa ở giai đoạn thực hiện hợp đồng để buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì hợp đồng thương mại lúc này có bị tuyên bố vô hiệu hay không? Giải quyết vấn đề đó, luật của Pháp có khái niệm “đe dọa không chính đáng” để phân biệt với khái
  • 34. 28 niệm “gây sức ép chính đáng”, là sự đe dọa không dẫn đến khả năng vô hiệu hóa các hợp đồng. Một trong những trường hợp gây sức ép chính đáng là việc thực hiện một quyền hợp pháp kèm theo yêu cầu đánh đổi quyền này với sự ưng thuận của người bị đe dọa trong việc xác lập hợp đồng với những điều kiện hoàn toàn bình thường. Chính đáng bởi vì, một là, việc gây sức ép không bao gồm một dự tính trái pháp luật; hai là, người gây sức ép không thu nhận các lợi ích bất thường, lợi ích quá đáng từ hợp đồng và người bị gây sức ép cũng không bị thiệt hại do việc thực hiện hợp đồng đó [1]. Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: Ở Việt Nam, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng được quy định tại Điều 122 BLDS 2005, theo đó, một giao dịch có hiệu lực khingười tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Nếu pháp luậtcó quy định hình thức hợp đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực thì cũng phải tuân thủ quy định này [32] [1]. Như vậy, về cơ bản, trừ điều kiện về nghĩa vụ đối ứng, các điều kiện hợp đồng có hiệu lực của Hoa Kỳ và Việt Nam khá tương đồng với nhau. Liên quan đến hợp đồng không có hiệu lực thi hành, pháp luật Hoa Kỳ chia thành 3 loại là HĐVH (void), có thể vô hiệu (voidable) và không thể thực thi (unenforceable). HĐVH là hợp đồng bị coi là không tồn tại, không được toà án công nhận và không được thực thi (loại hợp đồng này giống HĐVH tuyệt đối theo quan niệm trong khoa học pháp lí của Việt Nam). Hợp đồng có thể bị vô hiệu là hợp đồng mà một bên có quyền lựa chọn chấm dứt hợp đồng, ví dụ hợp đồng kí sai thẩm quyền (loại hợp đồng này cũng giống HĐVH tuyệt đối ở Việt Nam). Hợp đồng không thể thực thi là hợp đồng mà không bên nào có thể thực thiệnghĩa vụ hợp đồng, ví dụ ở Hoa Kỳ, một số loại hợp đồng bắt
  • 35. 29 buộc phải kí bằng văn bản, nếu các bên không tuân thủ quy định này thì hợp đồng bị coi là không thể thực thi. BLDS năm 2005 của Việt Nam cũng lần đầu tiên đưa ra căn cứ HĐVH do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 411). Tuy vậy, với cách quy định tại Điều 411 “Trong trường hợp ngay từ khi kí kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu” có thể tạo ra sự hiểu nhầm là trong mọi trường hợp, khi có lí do khách quan làm cho đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu. Ví dụ: A kí hợp đồng mua hàng của B nhưng không may, số hàng này gặp hỏa hoạn và bị tiêu huỷ toàn bộ. Rõ ràng đối tượng của hợp đồng này không thể thực hiện được nhưng không thể nói hợp đồng bị vô hiệu. Hợp đồng vẫn có hiệu lực, bên bán vi phạm hợp đồng(không giao được hàng cho bên mua) nhưng do gặp phải lí do bất khả kháng nên được miễn trách nhiệm hợp đồng [1] [2]. 1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn 1.5.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ hợp đồng bằng pháp luật Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng và là tất yếu đối với đời sống xã hội. Song, việc chuyển giao các lợi ích này không phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vicó ý chí của của chủ thể, như C. Mác đã từng nói: "Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó”. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và được gọi là hợp đồng.
  • 36. 30 Hợp đồng chưa xuất hiện trong xã hội nguyên thủy bởi vì khi ấy lực lượng sản xuất còn kém phát triển, còn tồn tại hình thức sở hữu chung về tư liệu sản xuất. Khi xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân công lao động trong xã hội thì nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa con người đòi hỏi phải có sự thống nhất ý chí của những người chủ hàng hóa ấy mà hình thức của nó là bản giao kèo. Đây chính là hợp đồng hay khế ước. Vì vậy, có thể khẳng định những điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa cũng chính là những điều kiện ra đời của hợp đồng. Hợp đồng là hình thức cơ bản của mối quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể pháp luật trong xã hội. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội loài người thì hợp đồng không chỉ dừng lại ở hình thức biểu đạt cho nhu cầu trao đổi sản phẩm mà nó còn phát triển vượt ra ngoài phạm vi của mối quan hệ này. Bản thân việc trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng cũng không còn mang tính ngẫu nhiên mà nó đã dần chuyển hóa thành một nghề độc lập - nghề thương mại. Ban đầu, khi tiến hành các hoạt động thương mại, giữa các thương nhân hình thành những quy tắc xử sự mang tính nghề nghiệp. Qua thời gian, các quy tắc này được lưu truyền và dần dần hình thành tập quán được các thương nhân thừa nhận rộng rãi, gọi là tập quán thương mại. Các tập quán này lại dần được pháp điển hóa trong các bộ luật, đạo luật đơn hành hoặc được cấu thành những phần riêng trong pháp luật dân sự. Những văn bản pháp luật này lần lượt ra đời ở một số nước Châu Âu, những nước có điều kiện kinh tế, địa lý thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và giao lưu buôn bán như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ… Chế định hợp đồng từ chỗ chỉ là tập hợp những hợp đồng cụ thể trực tiếp xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ đã dần dần trở thành một chế định pháp lý thực sự với một khái niệm về hợp đồng tương đối chặt chẽ và hoàn chỉnh. Từ thời La Mã, hợp đồng đã được định nghĩa là căn cứ làm phát
  • 37. 31 sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu: thứ nhất, phải có sự thỏa thuận (convention, consensus); thứ hai, phải có mục đích (căn cứ pháp lý) nhất định (causa) mà các bên hướng tới. Pháp luật về hợp đồng ngày càng được khẳng định cùng với sự ra đời của các Bộ dân luật. Trong pháp luật tư sản, chế định hợp đồng tồn tại trong lĩnh vực công pháp và tư pháp, song đặc biệt phát triển trong lĩnh vực tư pháp. Điều 1101 BLDS La Mã quy định, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý, khoa học của khái niệm này, tại Điều 1101 BLDS Pháp hiện hành cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy vềhợp đồng. Theo quy định của Điều 1101 BLDS Pháp năm 1804 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc”. Hoặc theo quy định của Điều 420 BLDS Liên Bang Nga năm 1994 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”… Ở Việt Nam, pháp luật về hợp đồng xuất hiện từ khi có các định nghĩa khái quát về khế ước trong các Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ (năm 1883), Bộ Dân luật Bắc Kỳ (năm 1931) và Bộ Dân luật Trung Kỳ (năm 1936)3. Tuy nhiên, khái niệm khế ước không để lại dấu ấn sâu đậm và không có ảnh hướng lớn đến hệ thống pháp luật về hợp đồng sau này. Trong bối cảnh hiện nay nhiều nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì quan hệ trao đổi hàng hóa mà hình thức của nó là hợp đồng ngày càng phức tạp, có nhiều sắc thái biến động khiến các chủ thể kinh doanh không thể lường trước được. Sự ra đời của pháp luật về hợp đồng là kim chỉ nam, là công cụ hữu hiệu nhất điều hòa mối quan hệ thương mại mang tính hai mặt này. Như vậy, các quy
  • 38. 32 phạm pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại nói riêng là điều rất cần thiết cho việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các thương nhân, giữa thương nhân với chủ thể kinh doanh. 1.5.2. Mục đích và ý nghĩa của quy định về HĐVH Quy định về HĐVH, có thể xuất phát từ những quan niệm khác nhau, hoặc chủ yếu từ nguyên tắc căn bản “nguyên tắc tự do ý chí” hoặc kết hợp giữa tự do ý chí và ý chí Nhà nước. Tuy nhiên, quan niệm tôn trọng sự tự do ý chí luôn được mong đợi hơn, sự tự do được hiểu là tự do của “con người xã hội” không phải là “con người tự nhiên”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, một sản phẩm lịch sử được hình thành do quan niệm tự do hoặc những học thuyết tự do đó là “nguyên tắc tự do ý chí”. Theo đó, một chủthể sẽ bị ràng buộc khi tuyên bố ý chí hoặc chấp nhận ý chí một cách tự nguyện và không chống lại lợi ích công. “Nghĩa vụ tự do ý chí của các người kết ước mà có. Lẽ dĩ nhiên, hiệu lực bắt buộc của nghĩa vụ cũng căn cứ vào nguyên tắc ý chí tự do. Tuy nhiên, ở trên nguyên tắc này cần tôn trọng ích lợi chung và trật tự công cộng”. Nhà nước chỉ luật hoá nguyên tắc tự do thành luật và ở chừng mực nào đó quy định hoặc chấp nhận những giá trị được gọi là chuẩn mực chung cần bảo vệ, buộc các chủ thể phải tôn trọng những chuẩn mực xã hội đó - tự do giao kết nhưng không được xâm phạm trật tự công hoặc lợi ích của chủ thể khác. Xuất phát từ mục tiêu điều chỉnh của pháp luật, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng là tất yếu và việc bảo vệ của pháp luật luôn đặt ra đối với hợp đồng hợp pháp và HĐVH. Pháp luật dân sự Cộng Hoà Pháp có quy định “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật đối với các bên giao kết”; tương tự, BLDS hiện hành của Việt Nam cũng thể hiện sự bảo vệ này, “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể
  • 39. 33 khác tôn trọng”. Đối với HĐVH, pháp luật không những bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia mà còn bảo vệ trật tự công cộng và các giá trị chung của xã hội như đạo đức, thuần phong mỹ tục...Đây chính là nội dung thể hiện mục đích và ý nghĩa của việc quy định HĐVH. Tiểu kết chương Kết quả nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn đã nêu lên những nét khái quát nhất về khái niệm cũng như đặc thù của HĐVH do nhầm lẫn, từ đó bước đầu có nhận thức chung về HĐVH do nhầm lẫn qua việc phân tích khái niệm, phân loại HĐVH do nhầm lẫn, đặc điểm của HĐVH do nhầm lần. Cuối cùng, sau khi đã nắm được những kiến thức cơ bản về HĐVH do nhầm lẫn, tác giả bắt đầu tìm hiểu chung về cấu trúc và nội dung của pháp luật khi quy định về vấn đề này để giới hạn được phạm vi tìm hiểu của đề tài. Kết quả nghiên cứu lý luận tại chương 1 của luận văn giúp tác giả định hướng các nghiên cứu về quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong thực tế về HĐVH do nhầm lẫn.
  • 40. 34 Chương 2 HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Điều kiện của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn Trong quá trình xây dựng và ký kết hợp đồng, người soạn thảo cần lưu ý đến điều kiện của hợp đồng có hiệu lực và các trường hợp vô hiệu của hợp đồng nhằm tránh các trường hợp đáng tiếc xảy ra trong quá trình hai bên thực hiện hợp đồng. Điều 388 BLDS năm 2015 quy định: Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Như vậy hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng có hiệu lực khi đáp ứng đủ 4 điều kiện [37]: Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thông thường các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện tức là xuất phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận hợp đồng đó. Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối tượng của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên cạnh đó, nội dung của hợp đồng cần phải cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thể thực hiện được thì hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ. Thứ tư, thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại
  • 41. 35 hợp đồng. Hợp đồng không đáp ứng được một trong các điều kiện trên sẽ dẫn đến vô hiệu. Bảng 2.1. So sánh quy định về HĐVH của BLDS năm 2015 và BLDS năm 2005 BLDS 2015 BLDS 2005 Năng lực xác lập giao dịch Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sựphù hợp với giao dịch dân sự được xác lập(theo hướng thêm điều kiện năng lực pháp luật) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự Điều cấm của luật Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật (khắc phục sự hạn chế tự do như quy định BLDS 2005, và theo như tinh thần điều 123 BLDS 2015 điều cấm của luật là những quy định luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, Mục đích của giao dịch Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật (điều 118, BLDS 2015) Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. (Điều 123 BLDS 2005)
  • 42. 36 Giới hạn tự do về hình thức Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. (làm hẹp đi yêu cầu về hình thức) Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định Loại hình thức của giao dịch Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.(Đề cập đến luật giao dịch điện tử) + Bỏ hình thức văn bản không có công chứng chứng thực như: văn bản viết tay, văn bản đánh máy + không coi xin phép là một hình thức nữa. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản (Nguồn: Tác giả tổng hợp) Do hợp đồng là một hình thức của giao dịch dân sự nên theo quy định tại Điều 407 BLDS 2015 về HĐVH đã liên hệ áp dụng các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu quy định từ Điều 123 đến Điều 133 BLDS năm 2015. Theo quy định tại Điều 126 của BLDS năm 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn:
  • 43. 37 “1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”[37] Theo Điều 131 BLDS 2005, nếu một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng mà đã giao kết hợp đồng thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố HĐVH. Điều này khác với quy định của một số nước theo truyền thống thông luật, về nguyên tắc, việc một hoặc cả hai bên nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng. Nếu cả hai bên nhầm lẫn về một nội dung chủ yếu khi giao kết hợp đồng thì HĐVH. Trong từng trường hợp cụ thể, tòa án sẽ xác định những nội dung nào được gọi là nội dung chủ yếu. Nhầm lẫn của hai bên về luật áp dụng, nhầm lẫn về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng hoặc nhầm lẫn về các khoản lợi thu được từ hợp đồng về nguyên tắc không làm cho HĐVH. Nếu một bên không tiết lộ thông tin, và vì thế bên kia đã giao kết hợp đồng thì hợp đồng vẫn có hiệu lực. Tương tự, nếu một bên vô tình đưa ra một thông tin sai lệch không vì mục đích lừa đảo và bên kia dựa vào đó đã giao kết hợp đồng thì hợp đồng cũng không vì thế mà đương nhiên trở thành vô hiệu [2]. BLDS năm 2005 không đưa ra khái niệm về nhầm lẫn nhưng lại khẳng định nhầm lẫn về nội dung chủ yếu là yếu tố có thể đưa đến giao dịch vô hiệu. Chính điều này đã gây ra không ít khó khăn cho Tòa án trong việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn có thể là do sự vô ý của
  • 44. 38 một bên hoặc của cả hai bên, và thực chất, cả hai bên đều mong muốn giao kết một hợp đồng nghiêm túc, đúng pháp luật. Ví dụ: Khi ký kết hợp đồng mua bán chén, ông A là người miền bắc (bên bán), ông B là người miền nam (bên mua), khi hợp đồng được ký kết, ông A giao hàng thì lúc đó hai bên đã phát hiện ra sự nhầm lẫn do sử dụng từ địa phương. Bởi vì “chén” theo tiếng miền Nam có nghĩa là “bát” (dùng để ăn cơm, đựng canh,…) còn “chén” theo tiếng miền Bắc là “chén uống nước”. Do đó, hợp đồng sẽ bị tuyên bố vô hiệu nếu một trong hai bên có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐVH [2]. Tuy nhiên. nếu một người do kém hiểu biết, không chịu tìm hiểu thông tin mà mua một chiếc xe máy hiệu Spacy của Trung Quốc với giá 60 triệu đồng và tưởng rằng đó là xe Nhật, thì không thể dựa vào sự nhầm lẫn đó mà đòi trả lại xe máy cho cửa hàng; trừ trường hợp giá xe trên thị trường đã gần như cố định và người bán hàng biết (hoặc đáng lẽ phải biết) nhầm lẫn của người mua. Từ những bức tranh nhái các danh họa nổi tiếng bày bán khắp nơi, đồ giả cổ, cho đến hàng tiêu dùng, điện máy… hàng giả và thông tin thất thiệt tràn ngập thị trường Việt Nam, làm cho cơ hội của người thiếu thông tin có thể khởi kiện để hủy hợp đồng do bị nhầm lẫn, như được thiết kế trong Điều 131 BLDS năm 2005 dường như trở nên xa lạ và lạc lõng [43]. Giao dịch dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015 được quy định tại Điều 126 có rất nhiều thay đổi so với BLDS 2005, cụ thể: “1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc
  • 45. 39 các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”[37] Như vậy, BLDS năm 2015 không còn quy định về lỗi vô ý của một bên dẫn đến việc nhầm lẫn nữa mà thay vào đó chỉ xác định có sự nhầm lẫn của một bên hoặc các bên và tiêu chuẩn để xác định hợp đồng có vô hiệu do nhầm lẫn hay không còn được xem xét ở việc: kết quả (hay mục đích) của việc xác lập giao dịch đã đạt được hay chưa hoặc các bên có tự khắc phục được nhầm lẫn hay không?Quả thực, khiếu kiện để hủy bỏ nghĩa vụ hợp đồng do nhầm lẫn là một trong những vấn đề phức tạp; các nghiên cứu ở phương Tây tuy nhiều, song vẫn chưa thể đưa ra một lý thuyết hợp lý để xác định những tình huống nhầm lẫn có thể dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng. Giới luật học nước ta cũng chỉ đưa ra một vài lời bình luận khái quát mà chưa thể tổng kết thực tiễn và đưa ra lý thuyết hữu dụng giúp thẩm phán tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn.Những tình huống nhầm lẫn này chưa được phân xử rõ ràng theo pháp luật hợp đồng và thực tiễn xét xử ở nước ta. Dù các bên thận trọng đến tối đa cũng không thể tuyệt đối tránh được nhầm lẫn, mà mọi sự nhầm lẫn nhỏ đều có thể gây ra tranh chấp lớn. Trong ngày 18 tháng 10 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 702/2006/TLST-KDTM ngày 16 tháng 10 năm 2006 “Tranh chấp giữa Thành viên của Công ty về hợp đồng góp vốn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1800/2007/QĐST - KDTM ngày 01 tháng 10 năm 2007 giữa các đương sự. Trong quá trình xét xử, Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh căn cứ theo Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định có cơ sở để xác định Hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn, vì vậy, căn cứ Điều 137
  • 46. 40 Bộ luật Dân sự quy định thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền [40]. 2.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn Hợp đồng bị vô hiệu có thể vì nhiều lý do khác nhau, tức là do vi phạm các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực khác nhau. Mỗi loại điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có đặc trưng riêng. Chính vì lẽ đó nên theo nguyên tắc, bên cạnh hậu quả pháp lý chung khi HĐVH (như hợp đồng không có hiệu lực kể từ ngày ký, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…) còn có những hậu quả pháp lý đặc thù, chỉ đặc trưng cho loại HĐVH đó (ví dụ như bồi thường thiệt hại) và đương nhiên tính đặc thù này phải được thể hiện trong pháp luật. Rõ ràng, hậu quả pháp lý khi HĐVH do bị nhầm lẫn không thể hoàn toàn giống với hậu quả pháp lý khi HĐVH vì những lý do khác. Trong khi đó, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 đều quy định hậu quả pháp lý khi HĐVH chung cho tất cả các trường hợp. Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của bên bị nhầm lẫn, thì hoặc là bên bị nhầm lẫn chịu thiệt hại hoặc bên kia chịu thiệt hại. Vậy ai sẽ bồi thường những thiệt hại đó? Vấn đề có vẻ như đã được giải quyết, vì theo quy định tại khoản 4 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì trong trường hợp HĐVH, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Nhưng thực tế lại không như vậy. Quy định nói trên chỉ có thể được áp dụng cho trường hợp HĐVH do nhầm lẫn theo quy định của BLDS năm 2005, vì nhầm lẫn theo quy định tại Điều 131 BLDS năm 2005 là do lỗi vô ý của bên không nhầm lẫn. Mặc dù khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015 cũng quy định như vậy nhưng không thể được áp dụng để xác định ai phải bồi thường thiệt hại, vì nhầm lẫn theo quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 không đề cập đến lỗi.Như vậy, khi hợp
  • 47. 41 đồng bị tuyên bố vô hiệu do bị nhầm lẫn và vì HĐVH nên một hoặc các bên bị thiệt hại nhưng không thể xác định được lỗi, thì việc áp dụng khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015 là không thể [43]. Chúng ta có thể xem xét hai trường hợp: Một là, bên bị nhầm lẫn chịu thiệt hại; hai là, bên không nhầm lẫn chịu thiệt hại khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu theo yêu cầu của bên bị nhầm lẫn. Trường hợp bên bị nhầm lẫn bị thiệt hại: Như đã đề cập ở trên, nhầm lẫn có thể do hành vi của một bên và cũng có thể tự nhầm lẫn. Nếu bên bị nhầm lẫn tự nhầm lẫn thì phải chịu thiệt hại do HĐVH. Vì trong trường hợp này họ có hai sự lựa chọn là yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH hoặc không. Việc họ chọn phương án yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH có nghĩa là họ đã chấp nhận thiệt hại đó. Trong trường hợp nhầm lẫn do bên còn lại cung cấp thông tin không chính xác, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên cung cấp thông tin phải bồi thường thiệt hại, mặc dù bên cung cấp không biết và không buộc phải biết thông tin mà họ cung cấp là không chính xác. Ví dụ: Để bảo đảm cho khoản vay của Công ty Y tại Ngân hàng, bà H đã thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mang tên bà H và chồng là ông T cho Ngân hàng (trước đó, ông T đã có giấy ủy quyền cho bà H được quyền sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn làm ăn). Do Công ty Y không trả được nợ nên Ngân hàng khởi kiện và đề nghị Tòa án kê biên phát mại toàn bộ tài sản của bên thứ ba đã được thế chấp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo hợp đồng thế chấp. Ông T khởi kiện và cho rằng, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được ký kết giữa bà H và Ngân hàng bị vô hiệu do bà H đã thực hiện không đúng phạm vi ủy quyền, bởi ông T chỉ đồng ý thế chấp