Khóa luận tốt nghiệp đánh giá rủi ro tín dụng và các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh bắc hà nội
Khóa luận tốt nghiệp đánh giá rủi ro tín dụng và các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh bắc hà nội
Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn khổ chính sách tiền tệ ở việt nam doc
Similaire à Khóa luận tốt nghiệp đánh giá rủi ro tín dụng và các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh bắc hà nội
Similaire à Khóa luận tốt nghiệp đánh giá rủi ro tín dụng và các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh bắc hà nội (20)
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Khóa luận tốt nghiệp đánh giá rủi ro tín dụng và các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh bắc hà nội
1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------***-------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ĐÁNH GIÁ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
Sinh viên thực hiện : Trần Thuỳ Linh
Lớp : Nhật 4
Khoá : 43G – KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Nguyễn Thị Việt Hoa
Hà Nội – Tháng 06/2008
6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng Nhà nước.
NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước.
DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
HSX&CN : Hộ sản xuất và cá nhân.
CIC : Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng.
CBCNV : Cán bộ công nhân viên.
7. 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong thế kỷ XXI, với sự bùng nổ của thị trường tài chính, hoạt động ngân
hàng trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Đặc biệt trong năm 2007 vừa qua và
giai đoạn đầu năm 2008, tình hình lạm phát đã trở thành mối lo ngại với rất
nhiều quốc gia trên thế giới. Trong tình hình đó, ngân hàng với nghiệp vụ
chính của mình là huy động nguồn vốn nhàn rỗi và cung cấp nguồn vốn đó
cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng đã trở thành trợ thủ đắc lực của Nhà nước
trong việc thi hành các chính sách tiền tệ nhằm giảm thiểu lạm phát và ổn
định nền kinh tế. Do vậy vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng hơn
nữa. Kinh doanh ngân hàng tuy là một ngành đem lại lợi nhuận cao nhưng lại
luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nhất là hoạt động tín dụng. Và song hàng với
hoạt động tín dụng là rủi ro tín dụng. Các con số thống kê và nhiều nghiên
cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân
hàng. Thực tế hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam trong
thời gian qua là một minh chứng cho nhận định này: Hiệu quả hoạt động tín
dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa tốt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn còn
cao so với khu vực và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc. Rủi ro tín
dụng không loại trừ bất kỳ nền kinh tế nào dù phát triển hay đang phát triển,
không loại trừ một ngân hàng nào dù đó là ngân hàng Nhà nước hay ngân
hàng thương mại cổ phần.. Rủi ro tín dụng là khách quan và không thể tránh
khỏi. Các ngân hàng đã xem nó là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề
phòng, hạn chế chứ không thể loại bỏ. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản
trị rủi ro nhằm hạn chế rủi ro ở mức tối đa tại các ngân hàng thương mại Việt
nam đang là vấn đề bức xúc cả trên phương diện lý thuyết và thực tiễn. Các
nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách ngân hàng đã đưa ra nhiều giải
pháp để giải quyết vấn đề này.
8. 2
Chính vì vậy, em đã lựa chọn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội để đi sâu nghiên cứu đề tài “Đánh
giá rủi ro tín dụng và các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn – Chi
nhánh Bắc Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Rủi ro trong hoạt động tín dụng có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do vậy mục
đích chính của khoá luận là đưa ra các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng
trong hoạt động tín dụng ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng, từ đó nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Các biện pháp khoá luận đưa ra không chỉ dành cho
chi nhánh Bắc Hà Nội mà còn muốn để các ngân hàng khác tham khảo trong
quá trình quản lý hoạt động kinh doanh của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Rủi ro tín dụng là rủi ro không thể tránh khỏi trong hoạt động tín dụng. Đưa
ra các biện pháp hạn chế và ngăn ngừa rủi ro đó là rất cần thiết. Khoá luận
này lựa chọn hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội làm đối tượng
nghiên cứu. Và phạm vi mà khóa luận đề cập chỉ giới hạn trong hoạt động tín
dụng của Chi nhánh Bắc Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2007.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Khoá luận được nghiên cứu trên cơ sở một số phương pháp như phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, so sánh, kết hợp với phương
pháp phân tích và tổng hợp từ số liệu nhằm làm rõ các vấn đề đặt ra.
5. Kết cấu khoá luận:
Khoá luận gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và rủi ro tín dụng trong hoạt
động tín dụng ngân hàng
9. 3
Chương II: Rủi ro và các biện pháp ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động tín
dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội
Chương III: Các giải pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động tín
dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội
Do thời gian nghiên cứu không dài và kiến thức còn chưa sâu nên khoá
luận sẽ khó tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Vì vậy em rất mong được sự
thông cảm và đóng góp ý kiến của thầy cô.
Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn cô Nguyễn Thị Việt Hoa, mặc dù rất
bận rộn với công tác giảng dạy và nghiên cứu nhưng đã dành rất nhiều thời
gian giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Người thực hiện
Trần Thùy Linh
10. 4
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN
DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
1.1. Khái niệm
Trong nền sản xuất hàng hoá, tín dụng được biểu hiện trước hết là sự vay
mượn tạm thời một số vốn tiền tệ hay tài sản, mà nhờ đó người đi vay có thể
sử dụng được một lượng giá trị trong một thời gian nhất định. Sau thời gian
nhất định, theo thoả thuận, người đi vay hoàn trả lại giá trị lớn hơn cho người
vay. Xuất phát từ việc xuất hiện các cá nhân có vốn nhàn rỗi tạm thời không
sử dụng và các cá nhân có nhu cầu sử dụng vốn tạm thời cho sản xuất và đời
sống mà quan hệ tín dụng đã ra đời. Như vậy quan hệ tín dụng là một loại
quan hệ xã hội biểu hiện mối liên kết kinh tế, mà trước hết dựa vào lòng tin.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hình thức tín dụng ngày càng đa
dạng. Các hình thức tín dụng không chỉ xuất hiện với quy mô nhỏ lẻ giữa các
cá nhân với cá nhân mà đã được mở rộng thành giữa tổ chức cho vay với các
cá nhân trong xã hội. Các cá nhân, tổ chức cho vay đã phát triển dưới sự bảo
hộ của Nhà nước và pháp luật để trở thành các tổ chức tín dụng có uy tín.
Trong các tổ chức tín dụng ấy có một chủ thể đặc biệt là các ngân hàng với
hình thức tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng (TDNH) được coi là hình
thức tín dụng phát triển, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. Trong hoạt
động TDNH, ngân hàng có chức năng môi giới tài chính cho cá nhân: nhận
tiền ký gửi của cá nhân, các tổ chức kinh tế này đem cho các cá nhân, các tổ
chức kinh tế khác cho vay. Như vậy, các quan hệ kinh tế phát sinh trong loại
hình tín dụng này gắn liền với quá trình tạo lập quỹ tiền tệ từ các nguồn tài
chính tạm thời nhàn rỗi và sử dụng quỹ để đáp ứng cho nhu cầu nguồn tài
11. 5
chính tạm thời thiếu trong xã hội, mà trong đó ngân hàng đóng vai trò trung
gian hưởng một khoản phí.
Vậy có thể hiểu, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử
dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một
khoản chi phí nhất định. Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng
chứa đựng ba nội dung:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho
người sử dụng.
- Sự chuyển nhượng này mang tính tạm thời hay có thời hạn.
- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
1.2. Phân loại
Tín dụng ngân hàng (TDNH) có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau
tuỳ theo những tiêu thức phân loại khác nhau:
1.2.1. Dựa vào mục đích của tín dụng – TDNH có thể chia thành các loại
sau:
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng cá nhân.
- Cho vay bất động sản.
- Cho vay nông nghiệp.
- Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.2.2. Dựa vào thời hạn tín dụng – TDNH có thể chia thành các loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, thường
nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, thường
nhằm tài trợ cho việc đầu tư tài sản cố định.
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, thường nhằm
tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
12. 6
1.2.3. Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng – TDNH chia thành các
loại sau:
- Cho vay không có đảm bảo: Là loại vay không cần tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
- Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho
tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào
khác.
1.2.4. Dựa vào phương thức cho vay – TDNH chia thành các loại sau:
- Cho vay theo món vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng.
1.2.5. Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay – TDNH chia thành các loại
sau:
- Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần
khi đáo hạn.
- Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
- Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ khả
năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
2. Các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng
Ngân hàng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài
chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong
các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ
trọng lớn nhất.
2.1. Cho vay
Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức và cá nhân vay vốn dưới các
hình thức sau:
13. 7
- Cho vay thương mại: ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người
bán chuyển các phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là
bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối
với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ
nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng: trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không
tích cực cho vay với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các
khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu
nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các
ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm
năng. Hiện nay, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại
hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát
triển.
- Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn,
các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây
dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi
ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn nên các
ngân hàng đã mạo hiểm cho vay theo hình thức này.
2.2. Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá
và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có
thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả)
hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân
hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Do tối thiểu có hai người cam
kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao (trừ
trường hợp ngân hàng ký miễn truy đòi với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng
14. 8
thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng Nhà nước để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
2.3. Cho thuê tài chính
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn.
Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng
phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời hạn
khoảng 80 – 90% đời sống kinh tế của tài sản). Hết hạn thuê, khách hàng có
thể mua lại tài sản đó.
Hình thức này giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải
xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng
phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kì. Ngân hàng cũng phải đối
đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả không trả được
tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên hình thức này cũng có những điểm
khác biệt so với cho vay thông thường. Đó là tài sản cho thuê vẫn thuộc sở
hữu của ngân hàng, ngân hàng có thể thu hồi bất cứ lúc nào nếu người thuê
không thực hiện đúng hợp đồng. Đồng thời ngân hàng cũng phải có trách
nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cho khách hàng và phải đảm bảo về chất
lượng của tài sản đó. Cho thuê không có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê
mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao… nên cho thuê
rủi ro rất cao đối với ngân hàng.
2.4. Bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên
bảo lãnh. Theo đó, ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là
người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Có rất nhiều loại bảo lãnh, đó là:
15. 9
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó
khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện
được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Tuy nhiên bảo lãnh là
hình thức tài trợ thông qua uy tín nên ngân hàng không phải xuất tiền khi bảo
lãnh. Do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Nhưng khi khách
hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi
trả cho bên thứ ba. Lúc đó khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu”
trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng
các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng
như khi cho vay.
Trên đây, khoá luận đã trình bày tổng quan về các nghiệp vụ tín dụng và
đặc điểm của nó. Thông qua nghiệp vụ tín dụng gồm chiết khấu, cho vay, bảo
lãnh, cho thuê, ngân hàng góp phần tài trợ nhu cầu vốn của khách hàng. Các
nghiệp vụ tín dụng đa dạng nhằm phù hợp với quá trình luân chuyển vốn và
chu kì thu nhập của khách hàng.
3. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp
nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định
cho vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng tín dụng. Mỗi ngân hàng đều tự thiết
kế cho mình một quy trình tín dụng riêng. Sau đây là một quy trình tín dụng
cơ bản:
16. 10
Bảng 1: Quy trình tín dụng
Các giai đoạn
của quá trình
Nguồn và nơi cung
cấp thông tin
Nhiệm vụ của ngân
hàng ở mỗi giai
đoạn
Kết quả của
mỗi giai đoạn
Lập hồ sơ đề
nghị cấp tín
dụng
Khách hàng đi vay
cung cấp thông tin
Tiếp xúc, phổ biến và
hướng dẫn khách
hàng lập hồ sơ vay
vốn
Hoàn thành bộ
hồ sơ để
chuyển sang
giai đoạn sau
Phân tích tín
dụng
- Hồ sơ đề nghị từ
giai đoạn trước
chuyển sang
- Các thông tin bổ
sung từ phỏng vấn,
hồ sơ lưư trữ
Tổ chức thẩm định về
các mặt tài chính và
phi tài chính do các
cá nhân hoặc bộ phận
thẩm định thực hiện
Báo cáo kết
quả thẩm định
để chuyển sang
bộ phận có
thẩm quyền để
quyết định cho
vay
Quyết định tín
dụng
- Các tài liệu và
thông tin từ giai
đoạn trước chuyển
sang và báo cáo kết
quả thẩm định.
- Các thông tin bổ
sung.
Quyết định cho vay
hoặc từ chối cho vay
dựa vào phân tích.
- Quyết định
cho vay hoặc
từ chối tùy theo
kết quả thẩm
định.
- Tiến hành các
thủ tục pháp lý
như ký hợp
đồng tín dụng,
hợp đồng công
chứng và các
loại hợp đồng
17. 11
khác.
Giải ngân - Quyết định
cho vay và
các hợp đồng
liên quan.
- Các chứng từ
làm cơ sở giải
ngân.
Thẩm định các chứng
từ theo các điều kiện
của hợp đồng tín
dụng trước khi phát
tiền vay.
Chuyển tiền
vào tài khoản
tiền gửi của
khách hàng
hoặc chuyển
trả cho nhà
cung cấp theo
yêu cầu của
khách hàng
Giám sát và
thanh lý hợp
đồng tín dụng
- Các thông tin
từ nội bộ
ngân hàng
- Các báo cáo
tài chính theo
định kỳ của
khách hàng
- Các thông tin
khác
- Phân tích báo cáo
tài chính, kiểm tra
mục đích sử dụng
vốn vay.
- Tái xét và xếp hạng
tín dụng.
- Thanh lý hợp đồng
tín dụng.
- Báo cáo kết
quả giám sát và
đưa ra các giải
pháp xử lý.
- Lập các thủ
tục để thanh lý
tín dụng.
Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng có ý nghĩa rất
quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về mặt hiệu quả, quy
trình tín dụng hợp lý góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín
dụng. Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có tác dụng:
- Làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và quyền hạn từng bộ phận
liên quan trong hoạt động tín dụng
- Làm cơ sở cho việc thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành
chính.
18. 12
- Chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động tín
dụng.
4. Bảo đảm tín dụng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Mặc
dù trước khi quyết định cho vay, ngân hàng đã trải qua các khâu thu thập, xử
lý, phân tích, thẩm định kỹ khả năng trả nợ của khách hàng nhưng vẫn chưa
thể nào loại bỏ được rủi ro tín dụng. Do vậy đảm bảo tiền vay được coi như
một trong những cách thức nhằm gia tăng khả năng thu hồi nợ và giảm thiểu
rủi ro tín dụng.
Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng
áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý
để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Bất kỳ tài sản hoặc các
quyền phát sinh từ tài sản có thể tạo ra ngân lưu đều có thể dùng làm bảo đảm
tiền vay. Tuy nhiên để đảm bảo tiền vay thực sự có hiệu quả đòi hỏi:
- Giá trị bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm.
- Tài sản dùng làm bảo đảm nợ vay phải tạo ra được ngân lưu (phải có
giá trị và có thị trường tiêu thụ)
- Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền xử lý tài sản dùng
làm bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tín dụng có thể thực hiện bằng nhiều cách, bao gồm:
- Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp.
- Bảo đảm tín dụng bằng tài sản cầm cố.
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
- Bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh.
Bảo đảm bằng hình thức nào sẽ phụ thuộc vào từng loại tín dụng, đối tượng
cho vay và quan hệ của ngân hàng với khách hàng.
19. 13
II. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng
Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn, là những tổn
thất có thể xảy ra ngoài dự kiến. Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân
hàng luôn phải đương đầu với hàng loạt rủi ro. Rủi ro của ngân hàng có thể
được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song đều có bản chất chung, đó
là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng. Tổn thất ấy là
giảm sút thu nhập ngoài dự kiến. Do vậy, để đạt được hiệu quả trong kinh
doanh ngân hàng cần nhận biết những rủi ro có thể xảy đến với các hoạt động
của mình.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Sau đây là các loại rủi ro phổ biến:
Rủi ro tín dụng: là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc
không trả đầy đủ vốn và lãi.
Rủi ro hối đoái: là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong
cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng
với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc
thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên, có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến
dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro lãi suất: là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất
thay đổi ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn
vốn) thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến
tổn thất.
Rủi ro thanh khoản: là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân
hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá (hoặc nhỏ hơn) khả
20. 14
năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
Bên cạnh đó còn nhiều rủi ro khác như cướp ngân hàng, hoả hoạn, lỗi công
nghệ… Trong các rủi ro nêu trên, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro
quan trọng nhất bởi nó xuất phát chính từ hoạt động tín dụng – hoạt động kinh
doanh chính và quan trọng nhất của ngân hàng. Do vậy sau đây khoá luận sẽ
đi sâu phân tích rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng ngân hàng
2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Như đã đề cập ở phần trên, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất
ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không
trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động
quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất của ngân hàng – hoạt động tín dụng. Khi
thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng luôn cố gắng phân tích các
yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân
hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh
doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra.
Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên
nhân. Hơn nữa, nguyên nhân còn xuất phát từ chính bản thân ngân hàng như
nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích
đáng gây ra tổn thất. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro
tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí
rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh của hoạt động tín dụng
ngân hàng, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự
kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân
hàng. Khi tổn thất xảy ra dưới mức dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành
công trong quản lý.
2.2. Đặc trưng của rủi ro tín dụng
21. 15
Rủi ro tín dụng có những đặc trưng sau đây:
- Cam kết trả nợ đến hạn mà khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ
trả nợ.
- Tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu, dẫn tới có khả
năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản bảo đảm được đánh giá, giá trị phát mại không đủ trang trải cả
gốc và lãi.
- Về thời gian, các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian
cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là
môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín
dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do
nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay
gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
2.3.1. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
a. Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
* Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp
và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và
nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và
giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị
khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành
thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
22. 16
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không
kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc
tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải
ngưng sản xuất do giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
* Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia
tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh
nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với
nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó,
bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế
trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước
với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu
hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài
thu hút.
b. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
* Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các cơ quan liên quan đã ban hành
nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động
tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai
vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều
vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những
văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được
nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM
không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là
cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng
bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản
đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy
23. 17
định khác dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng,
tài sản tồn đọng.
* Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân
hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng.
Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một
số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa
theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được
đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa
được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ
yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu.
Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc
đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô
hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những
sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp
ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp.
Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn
đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có
thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý
sớm hơn.
* Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về
doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC)
của NHNN hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả
bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình
hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh
nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu
cập nhật. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng
24. 18
và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống
thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở
rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia
tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.
2.3.2. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
a. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
* Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích,
cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những
vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm
ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
* Khả năng quản lý kinh doanh kém
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh,
đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào
mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh,
tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to
so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án
kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
* Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép
đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh
nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các
doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức
hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của
doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu
tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn
25. 19
xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi
ro tín dụng.
b. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
* Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó
nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người
kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công
việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ
của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải
được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận
tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe
khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con
đường đi tới.
* Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ
NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng
làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với
thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối
quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về
năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại
giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công
tác tín dụng.
* Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau
khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý
một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong
những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân
26. 20
hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ
các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng
nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy
nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều
này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ
ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại
các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các
thông tin mà NHTM yêu cầu.
* Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự
hiệu quả
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay
nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín
dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với
nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối
với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng.
Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ
thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc
nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối
đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay,
vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính
xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay
ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa
được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan
hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay
của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của
27. 21
riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế
đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam.
2.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng
* Đối với nền kinh tế: Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh
nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro
tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang
lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ
thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình
hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến
đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng
ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy
thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài
ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền
kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh
nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là
cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn
cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất
nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế
các nước có liên quan.
* Đối với ngân hàng: Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn
tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản
tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc
thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân
hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng
thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người
gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối với
cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân
28. 22
viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn
cho ngân hàng.
Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau:
nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay,
nặng nhất khi ngân hàng không thu được cả vốn lẫn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ
cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không
khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền
kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các
nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích
hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
2.5. Dấu hiệu để nhận biết một khoản tín dụng có rủi ro
Mất an toàn trong cho vay thường ẩn chứa trong các khoản cho vay có vấn
đề. Do vậy việc nhận biết nguy cơ, tình trạng mất an toàn trong cho vay thông
qua các dấu hiệu trong các khoản vay là hết sức quan trọng. Dựa trên những
yếu tố cấu thành và những yếu tố có liên quan đến các chủ thể trong quan hệ
vay – trả giữa ngân hàng và người vay, cũng như những biến động có thể của
những yếu tố đó, có thể nhận biết được mức độ an toàn trong các khoản cho
vay.
Các dấu hiệu để nhận biết cũng như đánh giá một khoản tín dụng có rủi ro
được chia thành các nhóm sau đây:
Nhóm 1: nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của
khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu
quan trọng:
- Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối.
- Khó khăn trong thanh toán lương.
- Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản
tiền gửi.
29. 23
- Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản.
- Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn
khác nhau.
- Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí.
- Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh
toán nợ khi đến hạn.
Các hoạt động cho vay:
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng.
- Thanh toán chậm các khoản nợ cả gốc và lãi.
- Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn.
- Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
Phương thức tài chính:
- Sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài
hạn.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất như thường xuyên sử
dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả.
- Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu.
- Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu.
- Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
Nhóm 2: nhóm dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách
hàng:
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều
hành.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích quản
trị, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện:
30. 24
+) Được hoạch định bởi hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành ít
hay không có kinh nghiệm. Hội đồng quản trị hay giám đốc điều hành
các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật.
+) Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông hay chủ nợ.
+) Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên.
+) Lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, hay có hành động nhất thời,
không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ.
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những
người quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên gia đình chưa
được đào tạo, huấn luyện đầy đủ đảm đương những vị trí then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý: bao gồm mối quan hệ tranh
chấp giữa hội đồng quản trị và giám đốc điều hành với các cổ đông
khác, với chính quyền địa phương, nhân viên, người đi vay, khách
hàng chính…
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý.
Nhóm 3: nhóm liên quan đến các ưu tiên trong kinh doanh:
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: sẵn sàng bỏ nhiều chi phí để có
được hợp đồng lớn,…
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: không đúng lúc hoặc bị ám ảnh
bởi một sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác.
- Các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế, tạo mong đợi
trên thị trường không đúng lúc…
Nhóm 4: dấu hiệu liên quan đến vấn đề kỹ thuật và thương mại:
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm.
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; mất nhà
cung ứng hay khách hàng lớn..
31. 25
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước như chính sách thuế, điều
kiện thành lập và hoạt động..
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm chi phí sửa chữa, thay thế.
- Chất lượng sản phẩm và dịch vụ giảm sút….
Nhóm 5: nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán:
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp
các báo cáo tài chính.
- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy:
+) Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên.
+) Khả năng tiền mặt giảm.
+) Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có.
+) Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp.
+) Những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán.
+) Lượng hàng hoá tăng nhanh hơn doanh số bán.
+) Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ
được kéo dài.
+) Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ.
+) Không hạch toán đúng tài sản cố định.
+) Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng.
+) Làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra các tài sản vô hình.
…..
Bên cạnh đó còn có những dấu hiệu mà bằng mắt thường các cán bộ tín
dụng cũng có thể nhận biết được như:
+) Những vấn đề về đạo đức, thậm chí dáng vẻ kinh doanh của khách hàng.
+) Sự xuống cấp của nơi kinh doanh cũng là một dấu hiệu.
+) Nơi lưu giữ hàng hoá quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu.
32. 26
Có rất nhiều dấu hiệu để các nhân viên tín dụng nhận biết trong quá trình
phân tích tín dụng. Mỗi dấu hiệu là một yếu tố, đóng góp vào quyết định cuối
cùng cho vay hay từ chối cho vay. Nhưng trong đó chậm thanh toán khoản
cho vay là dấu hiệu rõ ràng và ý nghĩa nhất.
III. CÁC BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN
DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất trong ngân hàng thương
mại, bao gồm 2 mặt: sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của ngân hàng là
từ hoạt động tín dụng. Song không có cách gì để loại trừ rủi ro tín dụng hoàn
toàn mà chỉ có thể hạn chế và ngăn ngừa nó. Đứng trước quyết định cho vay,
các cán bộ ngân hàng phải cân nhắc kỹ mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro để có
thể hạn chế rủi ro một cách tốt nhất.
Sau đây sẽ là một số biện pháp cơ bản để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng:
1. Thực hiện các qui định về an toàn tín dụng đƣợc ghi trong luật các tổ
chức tín dụng và trong các nghị định của ngân hàng Nhà nƣớc
Các qui định nêu rõ các trường hợp cấm các ngân hàng không được tài trợ,
cấp tín dụng; điều kiện ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ. Ví dụ, cho vay
một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ phần trăm trên vốn của chủ sở hữu,
không được cho vay đối với các thành viên Hội đồng quản trị của chính ngân
hàng…
Thực hiện tốt các qui định của pháp luật, ngân hàng sẽ được đảm bảo hơn
trước những nguy cơ rủi ro.
2. Xây dựng chính sách tín dụng và qui trình phân tích tín dụng
Hoạt động tín dụng liên quan đến nhiều bộ phận trong ngân hàng, đòi hỏi có
sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách, qui tắc và sự kiểm soát
chung.
33. 27
Chính sách tín dụng với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng, đồng thời hạn
chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Để có hiệu quả,
chính sách tín dụng phải được soạn thảo bằng văn bản để đạt được mục tiêu
đó, tạo ra các khoản tín dụng có khả năng thu hồi, đảm bảo khả năng sinh lời
trong đầu tư vốn tín dụng, phát triển phù hợp với yêu cầu của thị trường. Quy
mô và hình thức cho vay cần phải được xem xét trong mối quan hệ với khả
năng thanh toán của khách hàng. Đồng thời chính sách tín dụng phải được
thay đổi theo từng thời kỳ nhằm phản ánh thực tế và phải được duy trì như
một “công cụ kiểm tra”.
Bên cạnh đó, một quy trình phân tích tín dụng hợp lý vô cùng quan trọng.
Quy trình phân tích tín dụng do Ban giám đốc ngân hàng quyết định, được
xây dựng một cách chi tiết và quán triệt xuống từng bộ phận, cán bộ ngân
hàng. Quy trình phân tích tín dụng thể hiện những nội dung mà cán bộ tín
dụng phải thực hiện khi cho vay nhằm hạn chế rủi ro.
Ngoài ra, ngân hàng còn cần xây dựng qui chế kiểm tra, phân định trách
nhiệm và quyền hạn, khen thưởng và kỷ luật với các nhân viên tín dụng.
3. Đa dạng hoá hoạt động nghiệp vụ và duy trì quan hệ khách hàng lâu dài
3.1. Đa dạng hoá hoạt động nghiệp vụ
Đa dạng hoá hoạt động nghiệp vụ có tác dụng làm cho rủi ro của các nghiệp
vụ được phân tán và tính linh hoạt dưới góc độ phản ứng trước các biến động
của thị trường lớn hơn. Ví dụ, sự thăng trầm của nền kinh tế tác động mạnh
mẽ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đa dạng hoá tài sản Có sẽ làm
giảm nhẹ những tác động xấu, tránh được rủi ro, giúp ngân hàng có khả năng
bảo toàn vốn, duy trì mức sinh lời.
Để đa dạng hoá hoạt động nhiều hơn, các ngân hàng không những cần kinh
doanh đa năng mà còn nên hoạt động đa chi nhánh nhằm giảm rủi ro thông
qua bù trừ lỗ lãi giữa các chi nhánh, điều chuyển vồn trong hệ thống tạo ra sự
34. 28
đồng bộ trong hoạt động kinh doanh và tăng cường sức mạnh của toàn hệ
thống.
3.2. Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài
Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài có thể giúp ngân hàng giảm chi phí thu
thập thông tin tìm hiểu khách hàng. Từ đó ngân hàng tránh được việc chọn
lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức từ phía khách hàng. Đối với khách hàng có
mối quan hệ lâu dài, ngân hàng đã có sẵn phương thức giám sát nên chi phí
dành cho việc giám sát cũng giảm đi. Về phía khách hàng, do mối quan hệ lâu
dài với ngân hàng mà họ có thể được hưởng lãi suất ưu đãi hoặc hạn mức tín
dụng nhằm phát triển sản xuất kinh doanh. Từ đó thúc đẩy hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
4. Đánh giá rủi ro tín dụng
Đánh giá rủi ro tín dụng là một nguyên tắc cho vay quan trọng. Vì vậy,
việc đánh giá tính trung thực, năng lực và kinh nghiệm của khách hàng, dù đó
là một công ty hay là một cá nhân cũng là yêu cầu tối quan trọng. Đánh giá
rủi ro tín dụng nhằm xác định: liệu mức độ rủi ro có thể chấp nhận được hay
không và liệu mức sinh lời có phù hợp với rủi ro đó hay không. Đây là một
quá trình tìm hiểu và đánh giá thông tin được tiến hành trước khi đưa ra quyết
định cho vay. Nó phải được tiến hành đối với tất cả các khách hàng tiềm năng.
Để đạt được hiệu quả, cần phân tích bất kỳ thông tin nào nhận được về khách
hàng. Thông thường ngân hàng sử dụng các tiêu chí sau để phân tích các
thông tin liên quan đến khách hàng. Các tiêu chí đó như sau:
4.1. Tư cách của người vay (character): để được ngân hàng chấp nhận cho
vay, người đi vay cần phải được xác định là có đạo đức tốt và về mặt tư cách
có thể tin tưởng được. Tư cách của người đi vay có thể được xác định và phán
đoán thông qua các thông tin:
- Thông tin từ phỏng vấn.
35. 29
- Thông tin từ lịch sử quan hệ với ngân hàng, và giữa khách hàng với các
bạn hàng.
4.2. Năng lực của người đi vay (ability): đối với khách hàng là cá nhân thì
tiêu thức năng lực và tư cách là tương đồng vì một khi khách hàng có tư cách
tốt cũng sẽ có khả năng quán xuyến tốt hoạt động tài chính của mình. Còn đối
với khách hàng là doanh nghiệp thì cần phải xem xét kỹ khả năng điều hành
các hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp, giám đốc. Năng lực ở đây
cũng đề cập tới năng lực quản lý của người đi vay, nghĩa là một người đi vay
đại diện cho một công ty hay một doanh nghiệp thì phải có sự uỷ quyền bằng
văn bản của doanh nghiệp đó.
4.3. Mục đích vay (purpose): về nguyên tắc, ngân hàng không bao giờ cấp tín
dụng cho khách hàng mà không biết mục đích sử dụng của họ là gì. Khi được
khách hàng cho biết mục đích sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ xem xét một số
vấn đề sau trước khi quyết định cho vay:
- Thực sự mục đích vay có giống với những gì khách hàng đã trình bày hay
không.
- Khoản tín dụng cho mục đích đã được trình bày có vì lợi ích thiết thực
nhất của khách hàng hay không.
- Mục đích của khoản tín dụng có hợp lý và chấp nhận được không.
4.4. Số tiền vay (amount): số tiền vay được xác định rõ ràng và chính xác để
tránh gây ra những bất lợi cho ngân hàng như: khả năng trả nợ có thể bị ảnh
hưởng do khách hàng không đủ tiền để thực hiện kế hoạch của mình. Ngân
hàng xác định số tiền khách hàng đề nghị vay là đủ hay chưa bằng cách:
- Nghiên cứu dự toán dòng tiền và lưu chuyển tiền tệ của khách hàng.
- Nghiên cứu bảng cân đối kế toán và nhu cầu vốn lưu động cần thiết cũng
nhu nhu cầu thanh khoản của khách hàng nếu khoản vay được chấp nhận.
4.5. Sự hoàn trả (repayment): Ngân hàng thực hiện các công việc sau để biết
khách hàng có khả năng trả nợ hay không:
36. 30
- Tính toán số tiền khách hàng phải trả bao gồm cả lãi.
- Tìm cách xác định nguồn trả nợ.
- Trừ các khoản chi tiêu mà khách hàng phải dùng từ nguồn trả nợ.
4.6. Bảo đảm (insurance): đây là một phương tiện dự phòng trường hợp
khách hàng không trả được nợ.
5. Phân tích khả năng tài chính của ngƣời vay
Việc phân tích và đánh giá khả năng tài chính của người vay giúp cán bộ
tín dụng có cái nhìn tổng quát trước khi đưa ra quyết định cho vay. Khả năng
tài chính của người vay chính là khả năng về vốn, tài sản của người vay để
bảo đảm hoạt động thường xuyên và thực hiện các nghĩa vụ thanh toán. Cụ
thể là:
- Vốn: người vay nên có đủ vốn tự có đầu tư vào doanh nghiệp để tự
chịu rủi ro. Việc có vốn cho thấy khả năng và năng lực thực hiện
những cam kết về tài chính của người vay.
- Tài sản thế chấp: phải xem xét tài sản thế chấp là nguồn trả nợ thứ 2.
Dù giá trị của tài sản thế chấp có lớn đến mấy thì việc bán nó trong
tương lai không bao giờ là nguồn trả nợ chính của khoản vay.
Ngoài ra, ngân hàng cần quan tâm phân tích một số yếu tố và chỉ tiêu sau:
* Yếu tố
- Các điều kiện như tình hình kinh tế, tình hình của ngành sản xuất… không
nằm trong khả năng kiểm soát của khách hàng nhưng có thể tác động đến khả
năng trả nợ của khách hàng.
- Cạnh tranh: trong môi trường ngày nay, cạnh tranh để có được những công
việc kinh doanh tốt sẽ có một vai trò quan trọng trong các quyết định tín dụng.
Để thu hút khách hàng mới và có tiềm năng từ các đối thủ cạnh tranh hoặc giữ
các doanh nghiệp có giá hiện tại không đi sang các đối thủ cạnh tranh, có thể
làm cho cán bộ tín dụng phải hy sinh chất lượng khi đưa ra các quyết định tín
37. 31
dụng. Tuy nhiên cạnh tranh không nên dẫn dắt các quyết định tín dụng mà
nên đưa ra các quyết định tín dụng chắc chắn có yếu tố cạnh tranh.
- Quan hệ với khách hàng: để quyết định mức độ của mối quan hệ với một
khách hàng hiện tại, một yếu tố chủ chốt để đánh giá là số lượng dịch vụ của
ngân hàng mà khách hàng sử dụng.
* Chỉ tiêu
- Tỷ suất lợi nhuận: biểu hiện khả năng sinh lợi của khách hàng, được tính
bằng tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận thu được và tổng vốn kinh doanh. Tỷ lệ này
càng lớn thì khách hàng càng có nhiều tích luỹ, tình hình tài chính lành mạnh.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá uy tín và khả năng tài chính của người vay, từ
đó có cơ sở để quyết định cho vay hay không.
- Chỉ tiêu năng lực đi vay của khách hàng: được xác định bằng tỷ lệ giữa
tổng số vốn của doanh nghiệp và tổng dư nợ đi vay các tổ chức tín dụng. Tỷ
lệ này lớn hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể tiếp tục vay vốn. Nhưng nếu tỷ lệ
này nhỏ hơn 0,5 thì ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng khi ra quyết định.
- Chỉ tiêu khả năng thanh toán: phản ánh khả năng hoàn trả nợ của doanh
nghiệp, là tỷ lệ giữa số tiền doanh nghiệp có thể dùng để thanh toán(vốn bằng
tiền, các khoản phải thu, hàng hoá trong kho..) và số tiền doanh nghiệp phải
thanh toán (các khoản phải trả, nợ ngân hàng, nộp ngân sách..). Nếu tỷ lệ này
lớn hơn 1 thì doanh nghiệp có tình hình tài chính bình thường, còn nếu nhỏ
hơn 1 thì doanh nghiệp có tình hình tài chính khó khăn và không lành mạnh.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: đây là thước đo cơ bản về khả năng trả nợ –
khả năng thực hiện các nghĩa vụ của một doanh nghiệp, từ nguồn tiền mà nó
tạo ra được chính từ các hoạt động kinh doanh thông thường. Phân tích chu
chuyển vốn là một bước quan trọng đối với người cho vay khi phân tích tình
hình tài chính của một doanh nghiệp. Dự báo chu chuyển vốn là bản tóm tắt
lượng tiền thu vào (chu chuyển vốn vào) và các khoản thanh toán (chu chuyển
vốn ra) với kết quả tiền dương hay âm. Dự kiến về chu chuyển vốn càng lớn
38. 32
và ổn định bao nhiêu đối với một doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể dựa
càng nhiều vào công cụ tài chính để tính toán khả năng trả nợ.
Dự báo chu chuyển vốn là một công cụ để giám sát một cách thường xuyên
và thích hợp kết quả hoạt động của khách hàng giữa các thời điểm khác nhau
của bảng cân đối kế toán. Dự báo cho phép chúng ta xác định sớm những diễn
biến xấu, cũng có thể dùng làm cơ sở để xác định nhu cầu vay trung hạn của
khách hàng. Việc không muốn cung cấp hoặc không có khả năng cung cấp
thông tin là dấu hiệu cho thấy việc quản lý có vấn đề. Tuy nhiên, người cho
vay không nên chấp nhận giá trị danh nghĩa của các số liệu cung cấp trong dự
báo. Dự báo phải được đánh giá trên cơ sở số liệu lịch sử. Và chu chuyển vốn
không những chỉ phụ thuộc vào nguồn vốn mà còn phụ thuộc vào vòng quay
của nguồn vốn. Do vậy, người cho vay cần xác định nguồn vốn và những chu
chuyển vốn phải đủ để duy trì số lượng hàng hoá, cung ứng các khoản tín
dụng cần thiết cho khách hàng và việc chi trả cho các chi phí và nghĩa vụ khi
đến hạn. Phân tích toàn diện về dự báo chu chuyển vốn là một khâu quan
trọng, không thể thiếu trong quá trình phân tích tín dụng.
6. Xây dựng hệ thống xếp hạng rủi ro danh mục tín dụng nội bộ
Xếp hạng rủi ro danh mục tín dụng của khách hàng dựa trên mức độ tín
nhiệm và khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính của họ. Đây là việc làm cần
thiết của ngân hàng trong suốt thời gian cho vay để có các hành động kịp thời
khi có vấn đề nảy sinh với khoản vay. Việc tiến hành xếp hạng rủi ro phải
được thực hiện một cách chính xác và nhất quán. Triển khai xây dựng hệ
thống xếp hạng rủi ro danh mục tín dụng nội bộ này nhằm hỗ trợ cho quản trị
rủi ro, đưa vào áp dụng các mô hình quản trị rủi ro phù hợp với các quy định
hiện hành. Khách hàng sẽ được phân chia và sắp xếp theo các cấp độ khác
nhau.
39. 33
Xếp hạng rủi ro tín dụng này là yêu cầu bắt buộc đối với các tổ chức tín
dụng nhằm hỗ trợ cho việc phân loại nợ cũng như quản lý chất lượng tín dụng
phù hợp với phạm vi hoạt động và tình hình thực tế của tổ chức tín dụng.
7. Chú trọng đến nghệ thuật cho vay
Theo kinh nghiệm một số nước thì việc phân tích các chỉ tiêu, thông số có
tính khoa học kỹ thuật liên quan đến đánh giá tín dụng và đi đến quyết định
cho vay của cán bộ tín dụng mới chỉ hoàn thành một nửa nhiệm vụ. Nếu cán
bộ tín dụng còn dành một chút thời gian và sức lực để kiểm tra những khía
cạnh vô hình, ít khách quan hơn của người xin vay nhằm xác định một cách
chủ quan khả năng thành công của khoản tín dụng, khi đó người cán bộ ấy
mới coi là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Công việc này không thể định
nghĩa rõ ràng thành lời song nó là một bước rất quan trọng của quá trình cho
vay. Đó được gọi là nghệ thuật cho vay, điều mà đang bị coi nhẹ và ít được
thực hiện nhất trong thực tế cho vay hiện nay. Vì vậy, các ngân hàng cũng cần
hiểu rằng cho vay cũng là một nghệ thuật chứ không đơn thuần là một ngành
khoa học. Việc đưa khía cạnh con người trong các ứng xử và tâm lý vào công
tác đào tạo về tín dụng, lựa chọn và sử dụng các cán bộ tín dụng vừa có kỹ
năng xử thế của con người vừa có năng lực kỹ thuật là điều cần thiết. Bên
cạnh đó, ngân hàng cũng cần chú trọng đến đầu tư công nghệ thông tin nhằm
phục vụ cho quá trình phân tích, đánh giá và đo lường rủi ro.
Các biện pháp đưa ra trên đây chỉ có tính chất cơ bản. Đối với từng ngân
hàng cụ thể, từng trường hợp cụ thể sẽ có những biện pháp riêng nhằm hạn
chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng.
Như vậy, chương I của khoá luận đã nêu cái nhìn tổng quan nhất về hoạt
động tín dụng ngân hàng. Nội dung của chương I đã giúp chúng ta có thể hiểu
sơ lược về tín dụng, rủi ro tín dụng và các biện pháp để ngăn ngừa rủi ro xảy
ra trong hoạt động tín dụng. Chương II của khoá luận sẽ đi sâu phân tích hoạt
40. 34
động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn – Chi
nhánh Bắc Hà Nội.
41. 35
CHƢƠNG II
RỦI RO VÀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NHNo&PTNT VIỆT
NAM – CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
I. GIỚI THIỆU VỀ NHNo&PTNT VIỆT NAM – CHI NHÁNH BẮC HÀ
NỘI
1. Sự ra đời, phát triển và cơ cấu tổ chức của ngân hàng
Thực hiện chủ trương mở rộng, phát triển kinh doanh trên địa bàn các đô
thị loại I, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi
nhánh Bắc Hà Nội chính thức được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng
11/2001. Trụ sở chính đặt tại 217 Đội Cấn – Hà Nội. Phát huy lợi thế Thương
hiệu là đơn vị thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam (AGRIBANK) – Ngân
hàng Thương mại lớn nhất Việt Nam, tích cực tranh thủ mối quan hệ với các
cơ quan trung ương, các đơn vị kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô, hoạt động
kinh doanh của NHNo&PTNT- Chi nhánh Bắc Hà Nội(AGRIBANK Bắc Hà
Nội) đã từng bước tăng trưởng ổn định, vững chắc, đã tự khẳng định được vị
thế vững vàng trên địa bàn có tính cạnh tranh cao như khu vực Hà Nội. Trong
7 năm qua, thực hiện Đề án Phát triển kinh doanh trên địa bàn đô thị loại I,
nguồn vốn của AGRIBANK Bắc Hà Nội đã từng bước được cải thiện theo
hướng hiêu quả và ổn định hơn, nguồn vốn huy động tăng gấp nhiều lần so
với năm 2001, nguồn vốn bình quân mỗi cán bộ đạt gần 39 tỷ VND (năm
2006). Tỷ trọng nguồn vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế chiếm gần 84%. Tổng
dư nợ của chi nhánh cũng ngày một tăng cao, góp phần tài trợ vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của xã hội.
Bên cạnh đó để làm tốt hoạt động marketing, AGRIBANK Bắc Hà Nội đã
tích cực mở rộng mạng lưới hoạt động tại các khu vực kinh doanh có môi
42. 36
trường thuận lợi, mạnh dạn tiếp thị vào các thị trường mới: bệnh viện, trường
học, khu đô thị mới và luôn coi trọng nguồn vốn ổn định từ dân cư.
Đến nay, Chi nhánh đã có 3 chi nhánh cấp II và 3 phòng giao dịch trực
thuộc hội sở và 4 phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh cấp 2. Ba chi nhánh
là: chi nhánh Kim Mã, chi nhánh Hoàng Quốc Việt, chi nhánh Nguyễn Văn
Huyên. Hiện nay, tổng số cán bộ công nhân viên của chi nhánh tại hội sở là
khoảng gần 150 người, chưa tính đến các cán bộ ở chi nhánh cấp II. Hội sở có
7 phòng nghiệp vụ chuyên môn và các phòng giao dịch như sau:
- Phòng kế toán ngân quỹ.
- Phòng tín dụng.
- Phòng thanh toán quốc tế.
- Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp.
- Phòng kiểm tra kiểm toán.
- Phòng hành chính nhân sự.
- Phòng thẻ và phát triển sản phẩm dịch vụ.
- Các phòng giao dịch
Các phòng ban hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của ban giám đốc.
2. Sơ lƣợc về hoạt động kinh doanh của chi nhánh
Sau 7 năm từ ngày thành lập và chính thức đi vào hoạt động, AGRIBANK
Bắc Hà Nội đã đạt được những kết quả rõ rệt, góp phần vào sự phát triển của
toàn NHNo &PTNT Việt Nam. Năm 2007, tổng nguồn vốn đạt 5.409 tỷ đồng,
tăng gấp nhiều lần so với năm 2001. Tỷ trọng nguồn vốn từ dân cư và tổ chức
kinh tế chiếm gần 84% (theo báo cáo hoạt động kinh doanh của chi nhánh
Bắc Hà Nội năm 2007).
Cơ cầu nguồn vốn từng bước được cải thiện theo hướng hiêu quả và ổn
định hơn. Năm 2006, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng chiếm gần 40%.
Tỷ trọng tiền gửi, tiền vay tổ chức tín dụng hiện chỉ còn ở mức 16% tổng
nguồn vốn.
43. 37
Tổng dư nợ của Chi nhánh năm 2006 đạt 1491 tỷ đồng, năm 2007 đạt
2053 tỷ đồng. Năm 2006, tỷ lệ cho vay bằng ngoại tệ chiếm trên 25%, tỷ lệ nợ
xấu chiếm 2,3% tổng dư nợ.
Nguyên nhân của những thắng lợi trên, ngoài sự chỉ đạo sát sao, sự giúp
đỡ tận tình của NHNo&PTNT Việt Nam, Chi nhánh luôn bám sát mục tiêu,
định hướng của ngân hàng cấp trên, đề ra được các biện pháp chỉ đạo điều
hành hiệu quả, sát tình hình thực tế của Chi nhánh.
Thực hiện mục tiêu đã đề ra, Chi nhánh đã động viên, khuyến khích toàn
thể cán bộ công nhân viên đang ở bất kỳ vị trí công tác nào, chức vụ nào cũng
đều phải có ý thức tiếp cận các nguồn vốn huy động, phát huy tối đa các mối
quan hệ với các cơ quan trung ương, các đơn vị kinh tế xã hội địa phương, các
tổ chức có nguồn vốn lớn, có mạng lưới hoạt động trong cả nước để tranh thủ
nguồn vốn và mở rộng dịch vụ thanh toán đến nay, AGRIBANK Bắc Hà Nội
là đầu mối của nhiều đơn vị. Nhiều dự án có tiền gửi nội ngoại tệ tại các Chi
nhánh AGRIBANK trên toàn quốc. Hoạt động không chỉ mang lại hiệu quả
cao mà đặc biệt còn có tính hệ thống và sự phối hợp giữa các Chi nhánh thành
viên AGRIBANK. Dự án thanh toán tập trung của Trung tâm Chuyển tiền,
các dự án có vốn ODA từ WB, ADB có doanh số thanh toán hàng ngàn tỷ
đồng/năm. Các dự án cho vay đồng tài trợ do AGRIBANK Bắc Hà Nội làm
đầu mối đã thu hút dịch vụ thanh toán về một đầu mốí, làm tăng hiệu quả kinh
doanh và tăng tính an toàn cho công tác tín dụng.
Xác định thị trường của chi nhánh mới ra đời trên địa bàn có sự cạnh tranh
gay gắt, AGRIBANK Bắc Hà Nội xây dựng định hướng cho công tác tín
dụng: An toàn - Hiệu quả - Thận trọng khi cho vay, luôn nắm chắc tình hình
kinh doanh của khách hàng, tư vấn, giúp đỡ các đơn vị tháo gỡ khó khăn,
đồng thời cương quyết đối với khách hàng có thái độ không đúng trong quan
hệ tín dụng. Chủ trương coi trọng chất lượng tín dụng thể hiện ở tỉ lệ nợ xấu
thấp (2,3%), các khoản nợ có vấn đề đều có khả năng xử lý được. Ngân hàng
44. 38
cũng có chính sách khách hàng linh hoạt như phân loại khách hàng, ưu đãi về
lãi suất cho vay, phí dịch vụ…
Bên cạnh đó, AGRIBANK Bắc Hà Nội cũng từng bước đa dạng hoá
nghiệp vụ ngân hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ theo hướng: tín dụng và
các sản phẩm phải gắn với nguồn vốn và các dịch vụ. Số lượng tài khoản cá
nhân tại Chi nhánh năm 2006 tăng 5 lần so với năm 2002, lên đến hơn 1000
tài khoản với số dư 6 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 130% về số tài
khoản và 110% về số dư. Chi nhánh cũng đã phát hành được hơn 5000 thẻ
ATM với số dư 4 tỷ đồng.
Phát huy những thành tích đã đạt được, trong năm 2008 tới, Chi nhánh đạt
mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn 17 -20 % theo hướng duy trì cơ cấu nguồn
tiền gửi dân cư ổn định khoảng 1.000 tỷ đồng, chiếm 20%. Về tín dụng tăng
trưởng khoảng 16-20%, trong đó tỷ trọng dư nợ trung – dài hạn chiếm 45%,
nợ quá hạn dưới 3%, chênh lệch lãi suất phấn đấu đạt 0,4% .
Để đạt được những mục tiêu trên, AGRIBANK Bắc Hà Nội chủ trương
duy trì và phát triển chất lượng phục vụ các khách hàng đang có quan hệ tốt
với Ngân hàng, mở rộng quan hệ với khách hàng mới, đặc biệt là các khách
hàng có tiềm năng kinh doanh XNK lớn, nhằm ổn định, tăng trưởng nguồn
vốn, mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng, phát huy thế mạnh sẵn có về
Thanh toán Quốc tế cung cấp khép kín các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Chi
nhánh cũng sẽ đẩy mạnh công tác đào tạo cả trình độ chuyên môn và trình độ
quản lý, tập trung vào các nghiệp vụ: Tín dụng, thanh toán quốc tế, tin học,
ngoại ngữ, pháp luật …, gắn đào tạo với công tác quy hoạch cán bộ, đảm bảo
đáp ứng nhu cầu nhân lực khi sắp xếp tổ chức và mở rộng mạng lưới kinh
doanh.
45. 39
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NHNO &PTNT
VIỆT NAM – CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
1. Quy trình và quy định cấp tín dụng mà chi nhánh đang áp dụng
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho một ngân
hàng. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm
giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm
phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, ngay từ khi bắt
đầu tiến hành xem xét, xét duyệt một khoản cho vay, ngân hàng đã phải có
những nguyên tắc và quy định nhất định để hạn chế rủi ro xảy ra. Mỗi ngân
hàng có một quy trình cấp tín dụng riêng, phù hợp với điều kiện của mình.
Là một trong những thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam –
AGRIBANK, AGRIBANK Bắc Hà Nội cũng tuân thủ và thực hiện đúng
những quy định về hoạt động cấp tín dụng theo quyết định số 72/QĐ - HĐQT
– TD. Theo quyết định này, chi nhánh Bắc Hà Nội có những quy định cụ thể
như sau:
* Về nguyên tắc cho vay vốn: khách hàng vay vốn phải đảm bảo các nguyên
tắc sau:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
* Điều kiện với khách hàng để được vay vốn
- Với khách hàng là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
+) Có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, đời sống. Đối với cho vay ngắn hạn, khách hàng phải có
46. 40
vốn tự có tối thiểu 10% trong tổng nhu cầu vốn. Đối với cho vay
trung và dài hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 20% trong
tổng vốn nhu cầu. Trường hợp khách hàng có tín nhiệm; khách hàng
là hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp vay vốn không
phải đảm bảo bằng tài sản, nếu vốn tự có thấp hơn quy định trên,
giao cho giám đốc NHNo nơi cho vay quyết định.
+) Kinh doanh có hiệu quả: có lãi, trường hợp lỗ thì phải có phương
án khả thi khắc phục lỗ đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Đối
với khách hàng vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống, phải có nguồn
thu ổn định để trả nợ ngân hàng.
+) Không có nợ khó đòi hoặc nợ quá hạn trên 6 tháng tại NHNo Việt
Nam.
Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và
có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả
thi.
Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của
Chính phủ, NHNN Việt Nam và hướng dẫn của NHNo Việt Nam.
- Với khách hàng là pháp nhân và cá nhân nước ngoài: khách hàng vay là
pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có
quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ
Luật dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp
luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
Sau khi đã đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên, khách hàng sẽ được các cán
bộ tín dụng hướng dẫn để làm các thủ tục xin vay. Một hồ sơ xin vay có được
chấp thuận hay không cần phải trải qua một quy trình xét duyệt. Theo điều 16
của quyết định này, quy trình xét duyệt cho vay bao gồm các bước sau:
47. 41
- Cán bộ tín dụng được phân công giao dịch với khách hàng có nhu cầu
vay vốn có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn và
tiến hành thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định.
- Trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng có trách nhiệm kiểm
tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ và báo cáo thẩm định do cán bộ tín
dụng lập, tiến hành xem xét, tái thẩm định (nếu cần thiết) hoặc trực
tiếp thẩm định trong trường hợp kiêm làm cán bộ tín dụng, ghi ý kiến
vào báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) và trình giám đốc quyết
định.
- Giám đốc NHNo nơi cho vay căn cứ báo cáo thẩm định, tái thẩm định
(nếu có) do phòng tín dụng trình, quyết định cho vay hoặc không cho
vay:
+) Nếu cho vay thì NHNo nơi cho vay cùng khách hàng lập hợp đồng
tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay (trường hợp cho vay có bảo đảm
bằng tài sản).
+) Khoản vay vượt quyền phán quyết thì thực hiện theo quy định hiện
hành của NHNo Việt Nam;
+) Nếu không cho vay thì thông báo cho khách hàng biết.
- Hồ sơ khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay được chuyển cho
kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán kế toán, thanh toán, chuyển thủ
quỹ để giải ngân cho khách hàng (nếu cho vay bằng tiền mặt).
- Thời gian thẩm định cho vay:
1. Các dự án trong quyền phán quyết: trong thời gian không quá 5
ngày làm việc với cho vay ngắn hạn và không quá 15 ngày làm
việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi NHNo nơi cho vay
nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ và thông tin cần thiết của khách
hàng theo yêu cầu của NHNo Việt Nam, NHNo nơi cho vay phải
48. 42
quyết định và thông báo việc cho vay hoặc không cho vay đối
với khách hàng.
2. Các dự án, phương án vượt quyền phán quyết: trong thời gian
không quá 5 ngày làm việc với cho vay ngắn hạn và không quá
15 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi NHNo
nơi cho vay nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ và thông tin cần thiết
của khách hàng theo yêu cầu của NHNo Việt Nam, NHNo nơi
cho vay phải làm đầy đủ thủ tục trình lên NHNo cấp trên. Trong
thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và
15 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ ngày nhận
đủ hồ sơ trình, NHNo cấp trên phải thông báo chấp thuận hoặc
không chấp thuận.
Trên đây là những quy định cơ bản được áp dụng trong quá trình cho vay tại
NHNo&PTNT Việt Nam. Trong những năm hoạt động vừa qua, Chi nhánh
Bắc Hà Nội cũng đã thực hiện đúng và nghiêm túc những quy định nêu trên.
2. Hoạt động tín dụng tại Chi nhánh
2.1. Tình hình huy động vốn
Công tác huy động vốn để phục vụ hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh,
cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế là một nhiệm vụ rất quan trọng và ngành
ngân hàng là một kênh rất hữu hiệu để huy động nguồn vốn nhàn rỗi, tái cung
cấp vốn cho nền kinh tế đáp ứng hoạt động sản xuất kinh doanh. Là đơn vị
hoạt động trên địa bàn thủ đô, trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và
phát triển toàn diện các hoạt động kinh doanh của một ngân hàng hiện đại thì
nhiệm vụ hàng đầu của chi nhánh là huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
phát triển tín dụng đồng thời điều động nguồn vốn về Trung ương đáp ứng
nhu cầu vốn ngày một tăng để phục vụ cho tiến trình phát triển của các ngành
kinh tế và phát triển khu vực nông thôn.