TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH KIỂM TOÁN VÀ KẾ TOÁN AAC
1. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong tiến trình hội nhập và phát triển nền kinh tế thế giới, nền kinh tế
nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, bước chuyển mình vượt bậc. Với chính
sách mở cửa và tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển, môi trường kinh doanh ngày
càng rộng mở, nhiều doanh nghiệp ra đời với quy mô lớn, thu hút ngày càng đông đảo sự
quan tâm của các nhà đầu tư, của những người quan tâm tới tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Vấn đề minh bạch báo cáo tài chính lại càng trở nên cần thiết. Nhu cầu về kiểm
toán càng trở thành tất yếu, kiểm toán không chỉ là công cụ kiểm tra tính chính xác của
báo cáo tài chính, cung cấp các thông tin tạo niềm tin cho người quan tâm mà kiểm toán
đã phát triển thành một nghề cung cấp các dịch vụ về kiểm toán, tư vấn tài chính, góp
phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý …và ngày càng nắm giữ vị trí quan trọng
trong nền kinh tế. Về thực chất, hoạt động kiểm toán Báo cáo tài chính là quá trình
thu thập và đánh giá các bằng chứng về các Báo cáo tài chính dựa trên các cơ sở dẫn liệu
của chúng. Các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau đến kết
luận trên báo cáo kiểm toán. Những kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp
lý của Báo cáo tài chính trong cuộc kiểm toán đóng vai trò hết sức quan trọng đối với
quyết định của các nhà đầu tư, đối với sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp, cũng
như nền kinh xã hội. Do đó, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần nhận thức được vai
trò của mỗi loại bằng chứng để có thể thu thập các bằng chứng kiểm toán thích hợp và
đầy đủ trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán của mình và đánh giá một cách đầy đủ và
hợp lý nhất, từ đó đưa ra được ý kiến phù hợp về báo cáo tài chính được kiểm toán. Có
thể nói, sự thành công của một cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc thu thập và
sau đó là đánh giá bằng chứng kiểm toán của KTV. Nhận thấy ý nghĩa thiết thực và vai
trò quan trọng cũng như có nhiều vấn đề khác nhau giữa lý thuyết và thực tế nên
em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm
toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH KIỂM TOÁN VÀ KẾ
TOÁN AAC”. Đề tài đã phần nào nêu ra được thực tế vận dụng các kỹ thuật và
nhận ra những mặt còn tồn đọng từ đó nêu kiến nghị một số giải pháp dựa trên lý
thuyết tìm hiểu. Em hi vọng với những kiến thức học tập trên trường và thực tế tìm
hiểu được, đề tài này sẽ góp phần hoàn thiện hơn công tác sử dụng các kỹ thuật thu
thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Chuyên đề tốt nghiệp bao gồm ba phần chính sau:
Phần 1: Cơ sở lý luận về bằng chứng kiểm toán và các phương pháp thu
thập bằng chứng kiểm toán
Phần 2: Thực tế việc áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán
trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC
thực hiện
Phần 3: Đánh giá và một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện kỹ thuật thu
thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH
Kiểm toán và Kế toán AAC.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 1
2. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
PHẦN 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN VÀ CÁC KỸ
THUẬT THU THẬP BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN
I. Tổng quan về kiểm toán BCTC
1. Khái niệm kiểm toán BCTC
Có nhiều cách định nghĩa về kiểm toán khác nhau, nhưng theo cách hiểu
chung và bản chất của kiểm toán được định nghĩa như sau: “Kiểm toán là một quá
trình mà qua đó một người độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng
chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm
mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin số lượng đó với các
chuẩn mực đã được xác định”. Nếu kế toán có nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin
cho các quyết định kinh tế của tổ chức liên quan thì kiểm toán có trách nhiệm kiểm
tra, đánh giá và đảm bảo nâng cao độ tin cậy của các thông tin kế toán.
Hoạt động kiểm toán có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau,
mà căn cứ theo đối tượng cụ thể có thể phân thành kiểm toán báo cáo tài chính
(BCTC), kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Trong đó, kiểm toán BCTC
là hoạt động chủ yếu và phổ biến và đặc trưng nhất của kiểm toán ngay từ khi ra
đời cũng như trong quá trình phát triển. Đối tượng trực tiếp của kiểm toán BCTC
là bản khai tài chính. Bộ phận quan trọng của những bản khai này là các BCTC.
Theo chế độ kế toán nước ta, các báo cáo tài chính của đơn vị bao gồm: Bảng cân
đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và
thuyết minh báo cáo tài chính. Ngoài ra, bảng khai tài chính còn bao gồm những
bảng kê khai có tính chất pháp lý khác như các bảng dự toán và quyết toán ngân
sách nhà nước, các bảng dự toán và quyết toán các công trình xây dựng cơ bản, các
bảng kê khai tài sản cá nhân…
Kiểm toán báo cáo tài chính là việc thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm
toán của các KTV nhằm xác minh tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh
trọng yếu của báo cáo tài chính.
Mức độ trung thực, hợp lý, hợp pháp của các bản khai tài chính được xác
minh dựa trên chuẩn mực kế toán.
Kiểm toán tài chính được thực hiện dựa trên hệ thống chuẩn mực kiểm toán.
Kết quả xác minh các bản khai tài chính được trình bày trên báo cáo kiểm
toán.
2. Mục tiêu kiểm toán BCTC
Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam 200, mục tiêu của kiểm toán BCTC là:
Giúp cho KTV đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, tuân thủ pháp luật liên quan và có
phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không.
Giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục
nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị.
Các mục tiêu kiểm toán chung:
• Sự tồn tại và phát sinh: xác minh tính có thật của tài sản và nợ phải trả trên
BCĐKT, doanh thu và chi phí trên Báo cáo KQKD.
• Sự đầy đủ: xác minh tài sản, nguồn vốn và các nghiệp vụ được ghi chép đầy
đủ vào sổ kế toán và được phản ánh đầy đủ trên BCTC.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 2
3. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
• Quyền kiểm soát và nghĩa vụ: xác minh quyền kiểm soát đối với tài sản và
nghĩa vụ pháp lý đối với nguồn vốn của đơn vị trên BCĐKT.
• Sự ghi chép chính xác: xác minh các nghiệp vụ kinh tế được ghi nhận đúng
tài khoản, đúng số tiền và đúng kỳ kế toán; sự đúng đắn của việc chuyển sổ,
cộng số phát sinh, tính số dư và lên BCTC.
• Sự đánh giá: xác minh các đối tượng kế toán được đánh giá phù hợp với
nguyên tắc kế toán.
• Sự trình bày và khai báo: xác minh tài sản, nợ phải trả, vốn CSH, doanh
thu, chi phí được trình bày và thuyết minh phù hợp với chuẩn mực kế toán.
Mục tiêu kiểm toán cụ thể: là các mục tiêu kiểm toán riêng cho từng khoản
mục hoặc chu trình, được xác định trên cơ sở:
• Mục tiêu kiểm toán chung
• Đặc điểm của khoản mục hay chương trình
• Đặc điểm hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ liên quan đến
khoản mục hay chu trình đó.
3. Vai trò của kiểm toán
Hoạt động kiểm toán xuất phát từ yêu cầu quản lý và phục vụ cho yêu cầu
quản lý. Có thể khái quát vai trò của kiểm toán BCTC qua các mặt chủ yếu sau:
Tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tình hình tài chính và sự phản
ánh của nó trong các tài liệu kế toán.
Các đối tượng quan tâm đến BCTC bao gồm các cơ quan Nhà nước, các nhà
đầu tư, nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác, người lao động, khách
hàng, nhà cung cấp…Các đối tượng này không cần hoặc không thể biết tất cả các
nghiệp vụ tài chính kế toán nhưng cũng cần biết thực trạng của hoạt động này. Chỉ
có kiểm toán BCTC mới mang lại cho họ niềm tin vào những xác minh độc lập và
khách quan, từ đó có thể đưa ra các quyết định kinh tế đúng đắn
Góp phần hướng dẫn nghiệp vụ, củng cố nền họat động tài chính kế toán
nói riêng và quản lý nói chung
Bởi lẽ các hoạt động liên quan đến tài chính kế toán bao gồm rất nhiều mối
quan hệ đa dạng, luôn luôn biến đổi và cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể.
Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp ngoài việc
có định hướng và thực hiện tốt các định hướng mà cần phải thực hiện thường
xuyên các soát xét việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong
muốn.
Góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý.
4. Khái quát quá trình kiểm toán BCTC
Lập kế Thực hiện
kiểm toán Kết thúc
hoạch kiểm
kiểm toán
toán
Chuẩn bị kiểm toán
• Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
• Thu thập thông tin cơ sở
• Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 3
4. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
• Thực hiện thủ tục phân tích
• Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro
• Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của KH và đánh giá RRKS
• Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát
• Thiết kế chương trình kiểm toán
Thực hiện kiểm toán
• Thực hiện thử nghiệm kiểm soát (nếu có): nhằm thu thập bằng chứng nhằm
đánh giá tính hữu hiệu của HTKSNB.
• Thực hiện thử nghiệm cơ bản: nhằm thu thập bằng chứng nhằm phát hiện
các sai sót trọng yếu trong BCTC.
+ Thực hiện thủ tục phân tích: là việc so sánh các thông tin, nghiên cứu xu
hướng nhằm phát hiện biến động bất thường.
+ Thực hiện các thử nghiệm chi tiết: là việc kiểm tra số dư và nghiệp vụ bằng
các phương pháp thích hợp.
Kết thúc kiểm toán: là quá trình tổng hợp và rà soát lại những bằng chứng
thu thập được để KTV hình thành nên ý kiến nhận xét trên báo cáo kiểm
toán.
• Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ
• Xem xét giả thiết hoạt động liên tục của khách hàng
• Đánh giá tổng quát kết quả kiểm toán
• Lập báo cáo kiểm toán
II. Khái niệm, phân loại và yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán
1. Khái niệm bằng chứng kiểm toán
Báo cáo kiểm toán đã đưa ra ý kiến xác nhận về tính trung thực và hợp lý của
báo cáo tài chính đơn vị được kiểm toán. Để đánh giá, nhận xét và đưa ra ý kiến về
báo cáo tài chính của đơn vị đã được kiểm toán, kiểm toán viên cần thu thập các
bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho những kết luận của mình. Bằng chứng kiểm
toán quyết định tính đúng đắn, chính xác các nhận xét của kiểm toán viên, quyết
định sự thành công của cuộc kiểm toán. Việc thu thập bằng chứng kiểm toán là
trung tâm của cuộc kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán số 500 ban hành theo quyết định số
219/2000/QĐ/BTC ngày 29/12/2000 của Bộ trưởng tài chính về bằng chứng kiểm
toán ta có khái niệm về bằng chứng kiểm toán như sau: “Bằng chứng kiểm toán là
tất cả những tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc
kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của
mình”.
Như vậy, bằng chứng kiểm toán bao gồm cả thông tin nhân chứng và thông
tin vật chứng mà kiểm toán viên thu thập làm cơ sở cho ý kiến của mình về báo
cáo tài chính được kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán có tính đa dạng. Các loại
bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến việc hình thành ý
kiến kết luận kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên cần có nhận thức cụ thể về các loại
bằng chứng một cách hữu hiệu khi thực hành kiểm toán.
2. Ý nghĩa và vai trò của bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đưa ra ý kiến, nó là cơ sở và
là một trong những yếu tố quyết định độ chính xác và ý kiến của kiểm toán viên.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 4
5. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
Việc thành công cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc thu thập bằng chứng
và đánh giá bằng chứng của kiểm toán viên. Một khi kiểm toán viên không thu
thập đầy đủ và đánh giá không đúng các các bằng chứng chính xác, thích hợp thì
kiểm toán viên khó có thể đưa ra một nhận định chính xác về đối tượng cần kiểm
toán.
Chuẩn mực Kiểm toán số 500 có quy định: Kiểm toán viên và công ty kiểm
toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra
ý kiến của mình về Báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán
Thông qua đó ta có thể thấy một ý nghĩa rất quan trọng đối với các tổ chức
kiểm toán độc lập, các cơ quan cơ quan kiểm toán nhà nước hoặc cơ quan pháp lý,
bằng chứng kiểm toán còn là cơ sở để giám sát đánh giá chất lượng hoạt động của
kiểm toán viên trong quá trình thực hiện kiểm toán. Việc giám sát này có thể do
nhà quản lý tiến hành đối với các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán hoặc có thể
do cơ quan tư pháp tiến hành đối với chủ thể kiểm toán nói chung.
Việc thu thập bằng chứng nhằm đánh giá tính trung thực của BCTC, chúng
có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hay không và đưa
ra một BCTC thích hợp. Chỉ khi việc thu thập bằng chứng đầy đủ thì KTV mới có
thể đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của BCTC. Mục tiêu kiểm toán của
thu thập bằng chứng kiểm toán nhằm cung cấp một bố cục để giúp KTV tập hợp
những chứng cứ cần thiết và quyết định đúng đắn bằng chứng cần thu thập có căn
cứ tình huống hợp đồng. Các mục tiêu không thay đổi giữa các cuộc kiểm toán
nhưng chứng cứ thì thay đổi, phụ thuộc vào các tình huống.
Một bằng chứng chỉ có thể thảo mãn một mục tiêu hay một vài mục tiêu kiểm
toán chứ không thể thoản mãn toàn bộ các mục tiêu kiểm toán đề ra, chính vì vậy
khi thu thập bằng chứng KTV phải luôn hướng vào mục tiêu kiểm toán. Chỉ khi
hướng vào mục tiêu, bằng chứng cần tìm thì KTV mới có thể xác định bằng chứng
đang ở đâu, với đối tượng nào. Tránh tìm tràn lan nhưng không thỏa mãn mục tiêu
kiểm toán làm ảnh hưởng tới việc đưa ra kết luận của KTV. Ngoài ra nó còn làm
tăng chi phí kiểm toán khi bằng chứng thu thập một cách không hiệu quả.
3. Phân loại bằng chứng kiểm toán
Trong thực tế có nhiều loại bằng chứng kiểm toán khác nhau. Để giúp cho
việc nghiên cứu, xét đoán và sử dụng bằng chứng kiểm toán được tiện lợi và hữu
hiệu cần phải tiến hành phân loại bằng chứng kiểm toán.
3.1. Phân loại bằng chứng kiểm toán theo nguồn gốc hình thành
Phân loại bằng chứng kiểm toán theo nguồn gốc là căn cứ vào nguồn gốc của
thông tin, tài liệu có liên quan đến báo cáo tài chính mà kiểm toán viên thu thập
được trong quá trình kiểm toán.
Theo cách phân loại này, bằng chứng kiểm toán được chia thành các loại sau
(sắp xếp theo thứ tự giảm dần độ tin cậy):
BCKT do kiểm toán viên tự khai thác và phát hiện bằng cách:
• Kiểm kê tài sản thực tế : như biên bản kiểm kê hàng tồn kho, kiểm kê tài
sản cố định, kiểm kê quỹ, ….
• Tính toán lại các biểu tính toán của doanh nghiệp: như các số liệu, tài liệu
do kiểm toán viên tính toán lại có sự xác nhận của doanh nghiệp hoặc
những người liên quan là hợp lý.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 5
6. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
• Quan sát hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ: là những thông tin, tài
liệu do kiểm toán viên ghi chép lại thông qua việc quan sát hệ thống kiểm
soát nội bộ doanh nghiệp, có dẫn chứng theo thời gian khảo sát…
• Bảng câu hỏi phỏng vấn
• Bảng phân tích số liệu
Đây là loại bằng chứng có độ tin cậy cao nhất vì nó được thực hiện trực tiếp
bởi kiểm toán viên. Song nhiều lúc nó còn mang tính thời điểm tại lúc kiểm tra,
như việc quan sát hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp thì
kiểm toán viên phải tiến hành bí mật nhằm đảm bảo cho bằng chứng thu thập được
có độ tin cậy cao hơn, kiểm kê hàng tồn kho phụ thuộc vào tính chất vật lý của
chúng theo từng thời điểm khác nhau mà có những kết quả khác nhau.
BCKT do bên thứ 3 cung cấp từ các nguồn khác nhau
Các bằng chứng do những người bên ngoài đơn vị cung cấp trực tiếp cho
kiểm toán viên, như: các bảng xác nhận nợ phải trả của các chủ nợ, bảng xác nhận
các khoản phải thu của các khác nợ, hoặc số dư tiền gửi ngân hàng đã được ngân
hàng xác nhận, hóa đơn bán hàng…
Các bằng chứng được lập do đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có liên quan
đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp, như hoá đơn bán hàng cho doanh nghiệp,
số phụ ngân hàng…
Các ghi chép độc lập hoặc các báo cáo thống kê tổng hợp theo chuyên ngành
có liên quan đến doanh nghiệp…
BCKT do các đối tượng khác phát hành lưu trữ tại doanh nghiệp: hoá đơn
bán hàng, hoá đơn mua hàng, biên bản bàn giao tài sản cố định, sổ phụ ngân
hàng…
Loại bằng chứng có độ thuyết phục cao bởi nó được tạo từ bên ngoài, tuy
nhiên loại bằng chứng này vẫn có khả năng tẩy xoá, thêm bớt ảnh hưởng đến độ
tin cậy của kiểm toán đối với với hoạt động kiểm soát trong doanh nghiệp.
BCKT do doanh nghiệp phát hành và luân chuyển ở bên ngoài đơn vị
Chứng từ, tài liệu do doanh nghiệp phát hành và chuyển đến các đơn vị khác
sau đó quay trở lại đơn vị như: các uỷ nhiệm chi… Đây là dạng bằng chứng có
tính thuyết phục cao vì nó được cung cấp bởi bên thứ ba tuy nhiên nó cần phải
đảm bảo được tính độc lập của người cung cấp với doanh nghiệp.
BCKT do doanh nghiệp phát hành và luân chuyển đến các bộ phận nội bộ
đơn vị và các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho kiểm toán viên.
• Chứng từ, tài liệu do doanh nghiệp phát hành và luân chuyển trong nội bộ
doanh nghiệp, như các phiếu chi, phiếu xuất vật tư, hoá đơn bán hàng, bảng
chấm công, sổ thanh toán tiền lương, sổ tổng hợp, sổ chi tiết, phiếu kiểm tra
sản phẩm, phiếu xuất kho, phiếu nhập kho…
• Các sổ kế toán, báo cáo kế toán của doanh nghiệp lập
• Những thông tin (lời nói, ghi chép..) của cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ
hoặc những giải trình của những người có liên quan trong đơn vị cho kiểm
toán viên…
Bằng chứng này chiếm một số lượng lớn, khá phổ biến vì nó vì nó là nguồn
tài liệu sẵn có và được lưu giữ tại đơn vị. Do bằng chứng này có nguồn gốc từ nội
bộ doanh nghiệp, nên chúng chỉ thực sự có độ tin cậy khi hệ thống kiểm soát nội
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 6
7. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
bộ của doanh nghiệp được đánh giá là hoạt động hiệu quả và có hiệu lực thực sự,
do vậy tính thuyết phục của loại bằng chứng này không cao.
3.2. Phân loại bằng chứng kiểm toán theo loại hình bằng chứng
Độ tin cậy còn được đánh giá qua hình thức của bằng chứng, với việc đánh
giá độ tin cậy thông qua nguyên tắc: Bằng chứng dưới dạng văn bản, hình ảnh,
đáng tin cây hơn bằng chứng ghi lại từ lời nói. Việc phân loại bằng chứng theo loại
hình bằng chứng bao gồm:
Các bằng chứng vật chất là các bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập
được trong quá trình thanh tra hoặc quá trình kiểm kê các tài sản hữu hình như:
hàng tồn kho, tài sản cố định hữu hình, tiền mặt, các loại chứng khoán…
Thuộc loại này gồm có các biên bản kiểm kê hàng tồn kho, biên bản kiểm kê
quỹ tiền mặt, các chứng khoán, biên bản kiểm kê TSCĐ hữu hình….
Các bằng chứng vật chất có độ tin cậy cao nhất, bởi vì bằng chứng vật chất
được đưa ra từ việc kiểm tra trực tiếp để xác minh tài sản có thực hay không.
Các bằng chứng tài liệu: là các bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được
qua việc cung cấp tài liệu, thông tin của các bên liên quan theo yêu cầu của kiểm
toán viên.
Thuộc loại này gồm:
• Các ghi chép kế toán và ghi chép nghiệp vụ của doanh nghiệp, các báo cáo
kế toán, các bản giải trình của các nhà quản lý doanh nghiệp…
• Các chứng từ, tài liệu do các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp cung cấp
như: các văn bản các giấy xác nhận, các báo cáo của bên thứ 3 có liên quan
đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp được kiểm toán như cơ quan thuế,
hải quan, bên bán, bên mua…
• Các tài liệu tính toán lại của KTV: thông qua việc xác minh, phân tích số
liệu, tài liệu, kiểm toán viên tính toán lại số liệu của doanh nghiệp được
kiểm toán để đưa ra những bằng chứng cho những ý kiến có lý của mình
như: tính toán lại giá các hoá đơn, việc tính trích khấu hao TSCĐ, tính giá
thành, phân bổ chi phí, khoá sổ kế toán, quá trình lấy số liệu để lập báo cáo
kế toán..
Các bằng chứng tài liệu này củng cố tính thuyết phục, nhưng độ tin cậy
không cao bằng những bằng chứng vật chất, độ tin cậy của chúng phụ thuộc vào
tính hiệu lực của bộ phận kiểm soát nội bộ.
Dạng bằng chứng thu được từ lời nói.
Dạng bằng chứng này thường đươc thu thập qua phương pháp phỏng vấn, nó
mang tính thuyết phục không cao, song lại đòi hỏi sự hiểu biết của người phỏng
vấn khá cao về độ am hiểu vấn đề cần phỏng vấn.
3.3. Phân loại bằng chứng kiểm toán theo tính thuyết phục
Vì bằng chứng kiểm toán được sử dụng để trực tiếp đưa ra ý kiến khác nhau
về tính trung thực của báo cáo tài chính đơn vị kiểm toán phát hành nên KTV cần
phải xem xét mức độ tin cậy của chúng. Việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên
trong báo cáo kiểm toán có mức độ tương ứng đối với tính thuyết phục của bằng
chứng. Theo cách này bằng chứng được phân loại như sau:
Bằng chứng có tính thuyết phục hoàn toàn: Đây là loại bằng chứng do kiểm
toán viên thu thập bằng cánh tự kiểm kê, đánh giá và quan sát. Bằng chứng
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 7
8. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
này thường được đánh giá là khách quan, chính xác và đầy đủ. Dựa vào ý
kiến này kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Bằng chứng thuyết phục từng phần như: bằng chứng thu được từ phỏng vấn
cần phải phân tích và kiểm tra lại, các loại bằng chứng thường được đảm
bảo bởi hệ thống kiểm soát nội bộ. Chúng chỉ thật sự có tính thuyết phục
khi bộ máy kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp là thực sự tồn tại và có hiệu
lực. Dựa vào loại bằng chứng này kiểm toán viên chỉ có thể đưa ra ý kiến
chấp nhận từng phần.
Bằng chứng không có giá trị thuyết phục: là bằng chứng không có giá trị
trong việc ra ý kiến, quyết định của kiểm toán viên về việc kiểm toán.
3.4. Các bằng chứng đặc biệt
Ngoài các kiểu bằng chứng kiểm toán cơ bản được thu thập đã nói ở trên,
trong một số trường hợp đặc biệt kiểm toán viên cần thu thập thêm một số bằng
chứng kiểm toán khác. Các bằng chứng này thường là các: ý kiến của chuyên gia,
giải thích của ban giám đốc và nhân viên kế toán đơn vị, sử dụng tài liệu của kiểm
toán viên nội bộ hay của kiểm toán viên khác, hoặc là bằng chứng về các bên liên
quan....
Ý kiến của chuyên gia: Do kiểm toán viên không thể am tường tất cả mọi
lĩnh vực của xã hội, vì vậy các chuẩn mực kiểm toán cho phép họ được sử dụng ý
kiến của những chuyên gia có năng lực, kiến thức và kinh nghiệm cụ thể trong một
lĩnh vực chuyên môn nào đó, ngoại trừ lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Ví dụ như
đánh giá giá trị của tài sản quý hiếm, công trình nghệ thuật...
Bằng chứng này sử dụng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Khi kiểm
toán viên thu thập thông tin cơ sở về đơn vị được kiểm toán thì cần phải dự kiến
nhu cầu sử dụng chuyên gia nếu thấy cần thiết và đã xem xét, cân nhắc những yếu
tố như:
• Tính trọng yếu của khoản mục cần được xem xét trong báo cáo tài chính
• Rủi ro có sai sót do tính chất và mức độ phức tạp của khoản mục đó
• Số lượng và chất lượng của các bằng chứng kiểm toán khác có thể thu thập
được
Với ý kiến các chuyên gia, kiểm toán viên chỉ nên thu thập khi thực sự cần
thiết, khi không có bằng chứng nào thay thế và chỉ với những thủ tục kiểm toán
cần thiết. Tuy nhiên, dù kiểm toán viên có sử dụng ý kiến chuyên gia làm bằng
chứng kiểm toán vẫn đòi hỏi kiểm toán viên là người chịu trách nhiệm sau cùng về
ý kiến nhận xét đối với báo cáo tài chính được kiểm toán.
Giải trình của ban giám đốc: kiểm toán viên cần phải thu thập bằng chứng
về việc giám đốc đơn vị được kiểm toán thừa nhận trách nhiệm của mình trong
việc lập và trình bày trung thực và hợp lý báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực
và chế độ kế toán hiện hành và đã phê duyệt báo cáo tài chính. Kiểm toán viên sẽ
là người đánh giá lại độ tin cậy của tất cả các giải trình của giám đốc trong quá
trình kiểm toán và xem xét mức độ ảnh hưởng của nó đến báo cáo tài chính và phải
đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc từ chối.
Các giải trình bằng văn bản được đánh giá là các bằng chứng kiểm toán có
giá trị cao hơn các giải trình bằng lời nói. Các giải trình bằng văn bản được thể
hiện dưới các hình thức sau:
• Bản giải trình của giám đốc
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 8
9. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
• Biên bản họp hội đồng quản trị hoặc báo cáo tài chính đã được giám đốc ký
duyệt
Hạn chế của loại bằng chứng giải trình là độ tin cậy không cao do bằng chứng
này được cung cấp từ phía doanh nghiệp, do đó phụ thuộc vào mức độ liêm khiết,
trung thực của giám đốc.
Tư liệu của kiểm toán viên nội bộ: Kiểm toán nội bộ là một bộ phận trong hệ
thống kiểm soát nội bộ của một đơn vị, có chức năng kiểm tra, đánh giá tính phù
hợp, hiệu quả, sự tuân thủ pháp luật và các quy định của hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm soát của đơn vị đó.
Hoạt động kiểm toán nội bộ hiệu quả có thể cho phép kiểm toán viên độc lập
thay đổi nội dung, lịch trình và thu hẹp phạm vi thủ tục kiểm toán, nhưng không
thể hoàn toàn không thực hiện các thủ tục này. Ý kiến của kiểm toán viên nội bộ
không đạt được mức độ khách quan như ý kiến của kiểm toán viên độc lập, kiểm
toán viên độc lập chịu trách nhiệm hoàn toàn về ý kiến độc lập của mình đối với
báo cáo tài chính, do đó kiểm toán viên độc lập phải đánh giá được hoạt động của
kiểm toán viên nội bộ, cân nhắc có nên sử dụng loại bằng chứng này hay không.
Tư liệu của các kiểm toán viên khác: Công việc của kiểm toán viên chính
đôi khi cần sự hỗ trợ lớn từ các kiểm toán viên khác. Vấn đề này phát sinh khi
kiểm toán báo cáo tài chính của một đơn vị có nhiều bộ phận (chi nhánh, công ty
con, công ty liên doanh hay công ty thành viên của tập đoàn…) đã được kiểm toán
bởi các kiểm toán viên khác.
Không gọi là kiểm toán viên khác trong trường hợp hai hoặc nhiều kiểm toán
viên được bổ nhiệm đồng kiểm toán cho một đơn vị và cũng không đề cập đến mối
quan hệ giữa kiểm toán viên năm nay và kiểm toán viên năm trước.
Kiểm toán viên có thể thảo luận với kiểm toán viên khác về các thủ tục kiểm
toán đã được kiểm toán viên khác thực hiện hoặc xem xét hồ sơ kiểm toán của
kiểm toán viên khác. Việc thực hiện các thủ tục kiểm toán này phụ thuộc vào từng
tình huống của kiểm toán và sự đánh giá của kiểm toán viên chính về năng lực
chuyên môn của kiểm toán viên khác. Thay vì phải thực hiện lại công việc kiểm
toán tại các bộ phận, kiểm toán viên chính có thể sử dụng công việc của các kiểm
toán viên khác.
Tư liệu của các bên hữu quan: Bên liên quan và những mối quan hệ với các
bên liên quan có ảnh hưởng lớn đến nhận định của người sử dụng báo cáo tài
chính. Thông tin về các bên này cần phải được công bố những vấn đề cần thiết để
giúp người sử dụng hiểu được về bản chất của các mối liên hệ và những nhiệm vụ
phát sinh giữa các bên liên quan. Các bên được coi là liên quan nếu một bên có
khả năng kiểm soát hoặc ảnh hưởng đáng kể đối với bên kia trong việc ra quyết
định tài chính và hoạt động.
Mục đích của việc thu thập bằng chứng về các bên hữu quan để xác định liệu
ban giám đốc đã xác minh và thuyết minh một cách đầy đủ về các bên hữu quan và
nghiệp vụ với các bên hữu quan chưa. Theo yêu cầu của chuẩn mực kế toán, sự tồn
tại của các bên hữu quan và nghiệp vụ giữa các bên có thể ảnh hưởng tới báo cáo
tài chính.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 9
10. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
4. Yêu cầu của bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán phải đạt được những yêu cầu nhất định về mặt chất
lượng và số lượng, hai khái niệm thích hợp và đầy đủ được sử dụng để chỉ về hai
yêu cầu này.
4.1. Tính thích hợp
Sự thích hợp của bằng chứng kiểm toán là khái niệm chỉ chất lượng hay độ
tin cậy của bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng có tính thích hợp khi nó có độ tin
cậy, nó thể hiện đúng mục tiêu kiểm toán và phản ánh đúng tính chất của các hoạt
động, từ đó mới giúp kiểm toán viên chính xác hơn trong việc đưa ra báo cáo kiểm
toán. Hai khía cạnh của sự thích hợp phải được xem xét một cách đồng thời bởi vì
bằng chứng kiểm toán có thể có độ tin cậy cao nhưng không liên quan đến mục
tiêu kiểm toán, và ngược lại.
4.1.1. Tính tin cậy
Mức độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
như nguồn gốc và bản chất của thông tin. Để xem xét vấn đề này, kiểm toán viên
cần chú ý đến các nhân tố sau đây:
Nguồn gốc của bằng chứng kiểm toán.
Bằng chứng có nguồn gốc càng độc lập với đối tượng kiểm toán thì càng có
hiệu lực, độ tin cậy cao (xem lại phần phân loại bằng chứng theo nguồn gốc hình
thành).
Dạng bằng chứng kiểm toán.
Độ tin cậy còn phụ thuộc vào dạng của bằng chứng kiểm toán.
• Bằng chứng vật chất đạt được do kiểm kê hoặc tham gia kiểm kê và các
hiểu biết của kiểm toán viên về lĩnh vực kiểm toán được coi là hai dạng
bằng chứng có độ tin cậy cao nhất;
• Bằng chứng ở dạng tài liệu (chứng từ, sổ sách) có độ tin cậy kém hơn so với
dạng vật chất;
• Bằng chứng thu thập qua phỏng vấn có độ tin cậy thấp hơn so với bằng
chứng tài liệu;
• Bằng chứng gốc thì đáng tin cậy hơn bằng chứng photo hoặc fax.
Hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị
Bộ phận nào có kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì các bằng chứng kiểm toán có
liên quan đến các tài liệu kế toán, quy chế kiểm soát... của bộ phận đó sẽ có độ tin
cậy cao hơn.
Sự kết hợp giữa các loại bằng chứng
Một nhóm bằng chứng kiểm toán thu thập từ những nguồn khác nhau, ở các
dạng khác nhau nhưng cùng xác nhận như nhau về một vấn đề sẽ có độ tin cậy lớn
hơn so với từng bằng chứng riêng lẻ. Ngược lại, khi bằng chứng từ các nguồn khác
nhau lại cho kết quả trái ngược nhau, lúc này kiểm toán viên phải xem xét vấn đề
một cách thận trọng, và có thể phải thực thi các thủ tục kiểm toán bổ sung để xác
minh.
Thời điểm thu thập bằng chứng kiểm toán
Tính thời điểm của bằng chứng kiểm toán sẽ đặc biệt quan trọng trong việc
xác minh các tài sản lưu động, nợ ngắn hạn. Bằng chứng được thu thập càng
gần ngày lập báo cáo tài chính thì đáng tin cậy hơn. Chẳng hạn, đối với tài khoản
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 10
11. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
tiền mặt thời điểm kiểm kê càng gần ngày khóa sổ thì bằng chứng kiểm kê có độ
tin cậy cao hơn.
Các nhân tố khác
Trong từng trường hợp cụ thể, độ tin cậy còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố
khác. Ví dụ trong thủ tục phỏng vấn, sự hiểu biết của người được phỏng vấn về
vấn đề đang tìm hiểu sẽ ảnh hưởng đến độ tin cậy của các bằng chứng đạt được.
4.1.2. Tính liên quan
Tức là bằng chứng có liên quan đến mục tiêu kiểm toán. Chẳng hạn khi mục
tiêu kiểm toán là sự hiện hữu của hàng tồn kho, kiểm toán viên phải lựa chọn mẫu
gồm số dư các khoản mục hàng tồn kho trên sổ sách kế toán và thu thập bên chứng
từ về sự tồn tại của chúng trong thực tế tại kho. Thế nhưng khi mục tiêu kiểm toán
là sự đầy đủ, kiểm toán viên phải lựa chọn một số hàng tồn kho trong kho và thu
thập bằng chứng chứng minh những mặt hàng này đã được ghi chép đầy đủ vào sổ
sách.
Như vậy, có thể thấy bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ khác nhau với
mỗi mục tiêu kiểm toán khác nhau, nhưng để được coi là thích hợp, các bằng
chứng kiểm toán phải liên quan đến mục tiêu kiểm toán. Rõ ràng là kiểm toán viên
không thể lấy các bằng chứng xác minh sự tồn tại của hàng tồn kho để làm bằng
chứng cho sự đầy đủ của việc ghi chép.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, trong một số trường hợp, một loại bằng
chứng kiểm toán vẫn có thể sử dụng cho nhiều mục tiêu kiểm toán cụ thể. Kiểm
toán viên cần nắm bắt được vấn đề này để có thể phối hợp công tác kiểm toán sao
cho thích hợp, tránh bị trùng lặp nhưng vẫn đạt hiệu quả. Ví dụ việc chọn mẫu gởi
thư xin xác nhận của khách hàng có thể sử dụng cho mục tiêu sự tồn tại và quyền
nghĩa vụ.
Bên cạnh độ tin cậy, sự thích hợp của bằng chứng kiểm toán trong các thử
nghiệm cơ bản còn đòi hỏi sự phù hợp giữa bằng chứng với cơ sở dẫn liệu mà
kiểm toán viên muốn xác minh. Bởi lẽ, một bằng chứng kiểm toán có thể có độ tin
cậy cao nhưng vẫn không thích hợp với cơ sở dẫn liệu cần xem xét. Ví dụ, thư xác
nhận của khách hàng tuy là một bằng chứng có độ tin cậy cao do được cung cấp
trực tiếp cho kiểm toán viên, nhưng nó chỉ chứng minh rằng khoản phải thu đó có
thật (cơ sở dẫn liệu hiện hữu và quyền) nhưng lại không thể chứng minh cho khả
năng thu hồi khoản phải thu (cơ sở dẫn liệu đánh giá).
4.2. Tính đầy đủ
Sự đầy đủ của bằng chứng kiểm toán là khái niệm chỉ số lượng của các bằng
chứng mà kiểm toán viên phải thu thập để dựa vào đó đưa ra ý kiến của mình. Đây
là một vấn đề không có thước đo chung, không có quy định nào của chuẩn mực về
yêu cầu cần bao nhiêu bằng chứng là đủ mà số lượng bằng chứng kiểm toán đưa
ra đủ để đưa ra ý kiến phụ thuộc vào sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Một bằng chứng tuy đạt yêu cầu thích hợp nhưng sẽ không thể sử dụng làm cơ sở
ý kiến cho kiểm toán viên nếu không đáp ứng yêu cầu đầy đủ. Thí dụ, để kết luận
rằng nợ phải thu hiện hữu trong thực tế, thư xác nhận là bằng chứng thích hợp
nhưng kiểm toán viên chỉ có thể đưa ra kết luận khi đạt được một cỡ mẫu cần thiết
và thủ tục được thực thi ở một thời điểm phù hợp.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến sự xét đoán của kiểm toán viên.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 11
12. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
Tính thích hợp của bằng chứng kiểm toán: Bằng chứng có độ tin cậy càng
thấp thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều. Một lượng ít bằng chứng có
độ tin cậy thấp chưa đủ để đưa ra ý kiến chính xác về đối tượng kiểm toán đó.
Tính trọng yếu của thông tin được kiểm toán: Trọng yếu là khái niệm tầm cỡ
và bản chất của các sai phạm của các thông tin tài chính hoặc từng nhóm hoặc là
đơn lẻ trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không
thể chính xác hoặc sẽ rút ra ý kiến sai.
Vì mục tiêu của kiểm toán tài chính là khẳng định báo cáo tài chính được
trình bày trung thực trên mọi khía cạnh trọng yếu nên nếu đối tượng cụ thể được
kiểm toán càng nhiều yếu tố trọng yếu thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu
thập càng nhiều. Kiểm toán viên phải ước lượng sai phạm có thể ảnh hưởng trọng
yếu đến báo cáo tài chính và có thể thay đổi trong quá trình kiểm toán khi các tình
huống thay đổi.
Ước lượng trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở đó báo cáo
tài chính có thể sai lệch nhưng chưa ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng
thông tin tài chính. Ước lượng này là một trong những quyết định quan trọng nhất
mà kiểm toán viên phải đối mặt. Sau khi ước lượng tính trọng yếu cho toàn bộ báo
cáo tài chính kiểm toán viên phân bổ mức trọng yếu cho từng khoản mục trên báo
cáo tài chính. Dựa vào mức trọng yếu cho từng khoản mục kiểm toán viên sẽ tiến
hành thu thập những bằng chứng phù hợp. khoản mục nào có mức độ trọng yếu
càng cao thì kiểm toán viên cần thu thập một lượng bằng chứng càng nhiều, và
ngược lại.
Mức rủi ro tiềm tàng và mức rủi ro kiểm soát: Số lượng bằng chứng cần
phải tăng lên ở những bộ phận, hay các trường hợp có mức rủi ro tiềm tàng hoặc
rủi ro kiểm soát cao. Nói cách khác, khi kiểm toán viên xác nhận mức rủi ro phát
hiện chấp nhận được là thấp thì số lượng bằng chứng cần thiết sẽ tăng thêm.
Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp cho
mỗi loại ý kiến của mình. Sự đầy đủ và tính thích hợp luôn đi liền với nhau và
được áp dụng cho các bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các thủ tục thử
nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản.
Để xem xét bằng chứng kiểm toán đã đầy đủ và thích hợp chưa, người ta
thường tính đến các yếu tố sau:
• Tính chất, nội dung và mức độ rủi ro tiềm tàng của toàn bộ báo cáo tài
chính, từng số dư tài khoản hoặc từng loại nghiệp vụ;
• Hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá về rủi ro kiểm
soát;
• Tính trọng yếu của khoản mục được kiểm tra;
• Kinh nghiệm từ các lần kiểm toán trước;
• Kết quả các thủ tục kiểm toán, kể cả các sai sót hoặc gian lận đã được phát
hiện;
• Nguồn gốc, độ tin cậy của tài liệu thông tin.
Ngoài 2 tính chất cơ bản trên, bằng chứng được coi là có tính thuyết phục khi
thoả mãn các tiêu chí sau:
Bằng chứng phải thu thập kịp thời, đúng lúc: Tính đúng lúc của Bằng
chứng kiểm toán có thể dựa vào hoặc thời gian bằng chứng được thu thập hoặc
thời kỳ được kiểm toán.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 12
13. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
Bằng chứng là sự tổng hoà của các khía cạnh cần xem xét: Sức thuyết
phục của bằng chứng chỉ có thể được đánh giá sau khi xem xét tổng hợp tính giá
trị, tính đầy đủ và tính đúng lúc.
Tính thuyết phục và chi phí: Trong quá trình ra quyết định về chứng cứ
đối với một cuộc kiểm toán đã định, cả tính thuyết phục và tính chi phí đều phải
được xem xét. Rất hiếm khi chỉ có một loại bằng chứng là đủ để thẩm tra thông
tin.Tính thuyết phục và chi phí phải được xem xét trước khi lựa chọn một loại hoặc
các loại bằng chứng tốt nhất.
III. Các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán
Mỗi phương pháp thu thập các bằng chứng kiểm toán sẽ cung cấp những loại
bằng chứng khác nhau với độ tin cậy khác nhau và từng phương pháp có ưu điểm
và hạn chế riêng của mình. Do đó, trong nhiều trường hợp, kiểm toán viên cần
phối hợp sử dụng nhiều phương pháp để đạt được các mục tiêu kiểm toán. Nói
cách khác, trong từng trường hợp cụ thể, tùy theo sự xét đoán nghề nghiệp của
minh, kiểm toán viên sẽ chọn lựa các phương pháp để thu thập bằng chứng kiểm
toán.
1. Phương pháp kiểm tra vật chất(kiểm kê)
Kiểm tra vật chất là quá trình kiểm kê tại chỗ hay tham gia kiểm kê các loại
tài sản của doanh nghiệp. Công việc kiểm kê thường được tiến hành ở một số
khoản mục chủ yếu như: khoản mục vốn bằng tiền, khoản mục tài sản cố định,
khoản mục hàng tồn kho. Với những tài sản dễ xảy ra mất mất hoặc thiếu thì việc
kiểm kê vật chất phải thực hiện và được kiểm tra toàn diện. Còn đối với những loại
tài sản khác thì tuỳ thuộc vào tầm quan trong, mức độ trọng yếu của từng loại mà
tiến hành kiểm tra cho phù hợp. Độ tin cậy của bằng chứng kiểm tra vật chất phụ
thuộc vào kỹ năng và hiểu biết của kiểm toán viên thực hiện kiểm kê. Nếu kiểm
toán viên thiếu sự am hiểu về đánh giá chủng loại các tài sản cần thiết hoặc kiểm
kê không cẩn thận thì bằng chứng thu thập được có thể có sự sai lệch.
Ưu điểm: Thủ tục này cung cấp bằng chứng vật chất là loại bằng chứng có
độ tin cậy rất cao vì kiểm kê là quá trình xác minh sự hiện hữu của tài sản,
mang tính khách quan. Hơn nữa cách thực hiện kỹ thuật này đơn giản, phù
hợp với chức năng xác minh của kiểm toán.
Nhược điểm:
• Đối với một số tài sản cố định như nhà xưởng, đất đai, phương tiện vận
tải... việc kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản đó, chứ không cho
biết về quyền sở hữu của đơn vị đối với chúng, bởi lẽ tuy chúng hiện hữu
nhưng có thể lại là tài sản đi thuê, hoặc đã bị đơn vị thế chấp...
• Đối với hàng tồn kho, việc kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của các loại
hàng này về mặt số lượng, nhưng không cho biết chúng có được đánh giá
đúng hay không, hoặc chất lượng và tình trạng của chúng như thế nào... Các
vấn đề trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số dư hàng tồn kho trên báo cáo tài
chính.
Do những hạn chế vốn có đó mà kỹ thuật kiểm tra vật chất cần đi kèm với
những kỹ thuật thu thập bằng chứng khác để chứng minh quyền sở hữu và giá trị
tài sản đó.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 13
14. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
2. Phương pháp lấy xác nhận
Xác nhận là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán thông qua
việc liên hệ trực tiếp với bên thứ ba để nhận được phúc đáp của họ về các thông tin
cụ thể ảnh hưởng đến cơ sở dẫn liệu được Ban Giám đốc lập và trình bày trong báo
cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán (Đoạn 06 VSA 505-thông tin xác nhận từ
bên ngoài).
Kiểm toán viên có thể xin xác nhận thông tin từ bên ngoài về các điều khoản
hợp đồng hay giao dịch của đơn vị được kiểm toán với bên thứ ba trong các trường
hợp như:
Số dư tài khoản tiền gửi, tiền vay và những thông tin khác từ ngân hàng,
kho bạc, tổ chức tài chính tương tự
Số dư các khoản phải thu, phải trả
Những văn bản, giấy tờ chứng nhận về quyền sở hữu tài sản do luật sư giữ,
hoặc đang giữ trong két sắt của ngân hàng
Hàng gia công, hàng gửi bán, hàng nhờ giữ hộ
Cổ phiếu gửi bên thứ ba; những khoản đầu tư nhờ các nhà môi giới mua
nhưng chưa được giao trước thời điểm lập báo cáo tài chính...
Theo VSA 505, kiểm toán viên có thể áp dụng thủ tục này theo một trong hai
cách sau đây:
• Thư xác nhận mở (dạng khẳng định): đề nghị người được yêu cầu trả lời,
ký nhận trong mọi trường hợp hoặc phúc đáp lại cho kiểm toán viên là đồng
ý hoặc không đồng ý với thông tin cần xác nhận bằng cách yêu cầu điền vào
thông tin.
• Thư xác nhận đóng (dạng phủ định): chỉ đòi hỏi sự phản hồi khi không
đồng ý với thông tin yêu cầu xác nhận. Khi đồng ý với thông tin xác nhận
thì không nhất thiết phải phản hồi. Thư xác nhận đóng (phủ định) thường
cung cấp bằng chứng ít tin cậy hơn so với việc sử dụng thư xác nhận mở
(khẳng định), vì thế kiểm toán viên cần xem xét thực hiện các thử nghiệm
cơ bản bổ sung.
Tuy có độ tin cậy thấp hơn thư xác nhận mở, nhưng chuẩn mực kiểm toán
cho phép sử dụng thư xác nhận đóng trong trường hợp rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát được đánh giá là thấp, các khoản phải xác nhận gồm rất nhiều các khoản
có số tiền nhỏ, khả năng xảy ra sai sót được đánh giá là thấp và kiểm toán viên tin
rằng người phản hồi sẽ quan tâm đến việc trả lời.
Việc xác nhận thì tương đối tốn kém về chi phí nhưng kết quả mà nó mang lại
lại không cao: có thể thư xác nhận bị thất lạc, bên thứ ba không chịu hợp tác, thư
trả lời về sau khi báo cáo tài chính phát hành….Do đó phạm vi áp dụng tương đối
giới hạn, nhất là khi đơn vị được kiểm toán có quy mô lớn, quan hệ rộng, đa quốc
gia… Hơn nữa kiểm toán viên cũng cần quan tâm đến khả năng các xác nhận của
bên thứ ba đã qua sự dàn xếp trước của đối tượng được kiểm toán.
3. Phương pháp xác minh tài liệu
Là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu các chứng từ sổ sách có liên quan
sẵn có trong đơn vị. Phương pháp này được áp dụng đối với: hoá đơn bán hàng,
phiếu nhập kho, xuất kho, hoá đơn vận tải, sổ kế toán… Kỹ thuật xác minh tài liệu
dựa trên phương pháp đối chiếu trực tiếp, theo phương pháp này khi áp dụng cho
kỹ thuật xác minh tài liệu sẽ có các trường hợp đối chiếu như: đối chiếu giữa
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 14
15. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
chứng từ với sổ kế toán, giữa sổ kế toán với báo cáo kế toán, giữa các báo cáo kế
toán với nhau, đối chiếu kỳ này với kỳ trước,…
Chứng từ với sổ kế toán
Kiểm toán viên có thể thực hiện theo hai cách:
• Cách thứ nhất là kiểm tra các tài liệu của một nghiệp vụ từ khi phát sinh đến
khi vào sổ sách theo hai hướng:
Đi từ chứng từ gốc lên sổ sách kế toán: kiểm toán viên đi theo hướng
này khi muốn thu thập bằng chứng về sự đầy đủ của việc ghi sổ (cơ sở
dẫn liệu sự đầy đủ). Ví dụ, kiểm toán viên thực hiện kiểm toán khoản
mục hàng tồn kho, cụ thể là nghiệp vụ xuất kho với chứng từ ghi sổ là
phiếu xuất kho. Muốn biết nghiệp vụ này có được kế toán đơn vị ghi vào
sổ không thì chỉ cần đối chiếu vào sổ cái và sổ chi tiết tài khoản liên
quan để xem xét.
Từ sổ sách kế toán kiểm tra ngược về chứng từ gốc: khi kiểm toán viên
muốn thu thập bằng chứng về tính có thật của nghiệp vụ (cơ sở dẫn liệu
sự tồn tại hoặc phát sinh). Ví dụ, kiểm toán viên xem xét nghiệp vụ xuất
kho trên sổ cái tài khoản hàng tồn kho, muốn biết nghiệp vụ này có phát
sinh thực sự hay không kiểm toán viên đi từ trên sổ cái về kiểm tra các
chứng từ gốc có liên quan như phiếu xuất kho, yêu cầu xuất vật tư, …
• Cách thứ hai là từ một kết luận có trước, kiểm toán viên thu thập tài liệu để
làm bằng chứng cơ sở cho các kết luận cần khẳng định. Ví dụ, kiểm toán
viên kiểm tra các tài liệu, hồ sơ pháp lý về quyền sở hữu tài sản cố định như
biên bản giao nhận tài sản cố định, biên bản bàn giao tài sản cố định, hóa
đơn mua hàng, hoặc kiểm toán viên kiểm tra các hóa đơn và vận đơn để
chứng minh nghiệp vụ bán hàng phát sinh.…
Sổ kế toán với báo cáo kế toán
Các báo cáo kế toán thường là đáp ứng thông tin cho người bên ngoài doanh
nghiệp trong khi đó sổ sách kế toán lại được lưu hành nội bộ trong doanh nghiệp.
Do đó, vì các lý do khác nhau hoặc cũng có thể là nhầm lẫm mà các báo cáo tài
chính không thể hiện đúng sự trình bày và khai báo hoặc các quy định và các
chuẩn mực khác được thừa nhận chung.
Các báo cáo kế toán với nhau
Vì các mục đích cung cấp thông tin cho các đối tượng khác nhau, doanh
nghiệp có thể lập các báo cáo tài chính khác nhau ví dụ như để giảm áp lực về thuế
thu nhập doanh nghiệp các báo cáo nộp cho cơ quan thuế doanh nghiệp có thể xử
lý để làm giảm lợi nhuận trước thuế bằng cách tăng chi phí hoặc giảm các khoản
doanh thu. Trong khi đó để công bố cho các cổ đông về tình hình phát triển của
công ty hay huy động vốn các báo cáo có thể được đánh bóng để gia tăng lợi
nhuận và thuyết minh về một tình hình phát triển triển vọng của công ty.
Đối chiếu kì này với kì trước
Để kiểm tra các hoạt động hay sự thay đổi bất thường trong nội bộ doanh nghiệp,
cách đơn giản là kiểm toán viên đối chiếu số liệu của kỳ này với các kỳ trước.
Thông thường một doanh nghiệp sẽ không có sự thay đổi quá lớn nếu không có
một nguyên nhân cụ thể nào đó. Căn cứ vào sự so sánh giữa các kỳ kiểm toán viên
có thể nhận xét sơ bộ và đánh giá các rủi ro cũng như các gian lận sẽ rơi vào các
khoản mục nào.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 15
16. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
Ưu điểm: Được sử dụng phổ biến, thực hiện tương đối thuận lợi bởi tài liệu
có sẵn phục vụ cho việc đối chiếu, chi phí kiểm toán thường thấp hơn so với các
kỹ thuật khác.
Nhược điểm của kỹ thuật này: Độ tin cậy của bằng chứng phụ thuộc rất nhiều
vào nguồn gốc của tài liệu, đồng thời đề phòng trường hợp tài liệu cung cấp bị sửa
chữa, giả mạo làm mất đi tính khách quan.
4. Phương pháp quan sát
Là quá trình sử dụng các giác quan để đánh giá và phát hiện các vấn đề nghi
vấn từ đó đưa ra nhận thức chung về các nghiệp vụ sự kiện và hoạt động của đơn
vị. Ví dụ, kiểm toán viên có thể đi thị sát đơn vị được kiểm toán để có ấn tượng
chung về máy móc thiết bị của đơn vị, quan sát tính cũ mới cũng như sự vận hành
của máy móc, hay quan sát các cá nhân thực hiện nhiệm vụ để đánh giá về thức tế
hoạt động của đơn vị, xem thủ tục đơn vị thiết lập có được vận hành đúng như quy
định hay không. Phương pháp này có thể áp dụng cho rất nhiều bộ phận được kiểm
toán nhưng tự nó khó thể cung cấp đầy đủ bằng chứng, mà phải đi kèm với các thủ
tục khác.
Bằng chứng thu thập được từ quan sát do trực tiếp kiểm toán viên thực hiện
nên nó mang tính khách quan, đáng tin cậy nhưng chỉ mang tính thời điểm, nhất
thời, không khẳng định được sự việc luôn xảy ra như vậy.
Kỹ thuật quan sát thường được áp dụng trong cả giai đoạn lập kế hoạch và
giai đoạn thực hiện kiểm toán. Nhưng chủ yếu kỹ thuật quan sát sẽ được kiểm toán
viên thực hiện ngay trong giai đoạn đầu lập kế hoạch.
5. Phương pháp phỏng vấn
Là quá trình kiểm toán viên thu thập thông tin bằng văn bản hay bằng lời nói
qua việc thẩm vấn những người hiểu biết về vấn đề kiểm toán viên quan tâm. Ví
dụ như yêu cầu người quản lý giải thích những quy định về kiểm soát nội bộ, hoặc
hỏi các nhân viên về ciệc thực hiện quy chế này... Thủ tục này quan trọng vì giúp
cho kiểm toán viên thu thập được những bằng chứng chưa có, hoặc củng cố các
luận cứ của mình. Độ tin cậy của bằng chứng thu thập bằng thủ tục phỏng vấn
không cao, và nó thường chỉ dùng để củng cố cho các bằng chứng khác, hoặc để
thu thập các thông tin phản hồi.
Đối với phương pháp phỏng vấn, để đạt kết quả tốt, kiểm toán viên cần
nghiên cứu trước về các nội dung cần trao đổi, lựa chọn các câu hỏi, có thái độ hòa
nhã... Cần chú ý là khi sử dụng, kiểm toán viên cần chú ý đến tính khách quan và
sự hiểu biết của người được phỏng vấn. Các kết quả thu thập được, nếu quan trọng
thì cần được ghi lại và lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán.
Trước khi tiến hành công việc phỏng vấn, kiểm toán viên phải chuẩn bị
danh mục câu hỏi, hỏi cái gì, hỏi như thế nào,… để có thể tạo được niềm tin
và khơi được sự sẵn sàng hợp tác của người được phỏng vấn. Các câu hỏi
cần ngắn gọn, dể hiểu, đúng mục đích, tạo tâm lý thoải mái cho người trả
lời. Vấn đề cần lưu ý là phải phỏng vấn nhiều người, không nên tin vào
thông tin từ một người mà cần so sánh thông tin đó với thông tin do đối
tượng phỏng vấn khác cung cấp. Thường thì phỏng vấn được thực hiện đối
với những người có trách nhiệm cao, phẩm chất tốt.
Khi phỏng vấn, kiểm toán viên có thể dùng hai loại câu hỏi mở hoặc câu hỏi
đóng. Câu hỏi mở cho kiểm toán viên câu trả lời chi tiết và đầy đủ, đôi khi
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 16
17. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
có thể thu thập được nhiều thông tin hơn ước tính, bằng cách đưa ra câu hỏi
và để đối tượng được phỏng vấn tự nêu câu trả lời theo hiểu biết của họ.
Dạng câu hỏi đóng sẽ giới hạn câu trả lời của người được phỏng vấn, các từ
khoá thường dùng: “có” hay “không”, thường sử dụng khi muốn xác minh
lại một vấn đề đã nghe hay đã biết, bằng cách nêu ra câu hỏi, cho những đáp
án trả lời sẵn và người được phỏng vấn chỉ cần chọn câu trả lời thích hợp.
Kết thúc phỏng vấn, trước khi đưa ra kết luận thì kiểm toán viên cần chú ý
đến tính khách quan và sự hiểu biết của người được phỏng vấn để có kết
luận xác đáng về bằng chứng thu thập. Kiểm toán viên thường kết luận từng
phần và cuối cùng là tóm tắt các điểm chính.
Ưu điểm: kỹ thuật phỏng vấn thực hiện đơn giản và dễ sử dụng, chi phí ít, sẽ
giúp kiểm toán viên thu thập được những bằng chứng mới, hoặc giúp thu thập
những thông tin phản hồi để củng cố ý kiến của kiểm toán viên.
Tuy nhiên, nhược điểm của kỹ thuật này là độ tin cậy của bằng chứng không
cao do đối tượng được phỏng vấn chủ yếu là người trong đơn vị được kiểm toán
nên thiếu tính khách quan; chất lượng của bằng chứng cũng phụ thuộc vào trình
độ, sự hiểu biết và tính độc lập, khách quan của người được hỏi.
6. Phương pháp tính toán
Đây là phương pháp được kiểm toán viên áp dụng khá rộng rãi, phổ biến
trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán nhằm thu thập bằng chứng về tính chính
xác số học của các khoản mục trên báo cáo tài chính khi thực hiện kiểm tra chi tiết
số dư của các khoản mục. Thông qua việc cộng dồn các số phát sinh của các tài
khoản theo đối ứng bên Nợ bên Có để xác định số dư cuối kỳ của các tài khoản. Ví
dụ, đối với kiểm tra việc tính toán, kiểm toán viên xem xét tính chính xác (bằng
cách tính lại) các hoá đơn, phiếu nhập, xuất kho; số liệu hàng tồn kho; tính lại chi
phí khấu hao; giá thành; các khoản dự phòng; thuế; số tổng cộng trên sổ chi tiết và
sổ cái,…. Đối với kiểm tra tính chính xác của việc ghi sổ, kiểm toán viên đối chiếu
các chứng từ có liên quan để xem cùng một thông tin được phản ánh trên chứng từ
khác nhau, ở những nơi khác nhau. Các số liệu sau khi tính toán lại sẽ được đối
chiếu với số liệu trên các sổ chi tiểt, sổ tổng hợp mà đơn vị cung cấp. Nếu có sự
chênh lệch kiểm toán viên cần phỏng vấn kế toán trưởng, kế toán phụ trách từng
phần hành để tìm hiểu rõ nguyên nhân của sự chênh lệch này. Các bảng số liệu
được coi là một bằng chứng về sự chính xác của số liệu trên Báo cáo tài chính của
đơn vị.
Kỹ thuật này chỉ quan tâm đến tính chính xác thuần tuý về mặt số học, không
chú ý đến sự phù hợp của phương pháp tính được sử dụng. Do đó kỹ thuật này
thường được sử dụng cùng với các kỹ thuật khác như kiểm tra tài liệu, kiểm tra vật
chất, phân tích…trong quá trình thu thập bằng chứng.
Ưu điểm: của kỹ thuật này là cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao, xét về
mặt số học.
Nhược điểm: của kỹ thuật này là các phép tính và phân bổ đôi khi khá phức
tạp, tốn thời gian đặc biệt khi đơn vị được kiểm toán có quy mô lớn, loại hình kinh
doanh đa dạng, luồng tiền ra vào rất lớn…Do đó cần có trang bị về máy tính, song
cần chú ý kiểm tra hệ thống xử lý trên máy, các nhân viên có can thiệp được vào
hay không.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 17
18. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
7. Phương pháp phân tích
Là sự xem xét các số liệu, thông tin của đơn vị thông qua việc so sánh và
nghiên cứu mối quan hệ giữa các thông tin tài chính với nhau, và giữa các thông
tin tài chính với các thông tin phi tài chính.
Khi phân tích, ta có thể so sánh những thông tin như:
So sánh giữa các thông tin tài chính trong kỳ này với thông tin tương ứng
của kỳ trước: Kiểm toán viên có thể so sánh số dư, hoặc số phát sinh tài
khoản giữa các kỳ để phát hiện các tài khoản có biến động bất thường. Ví
dụ: Một sự gia tăng bất thường của khoản phải thu khách hàng cuối kỳ có
thể là sự xuất phát từ sự thay đổi chính sách bán chịu, tình trạng nợ khó đòi,
gia tăng hoặc đang có lệch trọng yếu trong số dư cuối kỳ.
Kiểm toán viên cũng có thể so sánh tỷ số giữa các kỳ để phát hiện những tài
khoản có thể bị sai lệch. Thí dụ: số vòng quay của hàng tồn kho giảm đột ngột có
thể phản ánh những sai lệch trong số dư hàng tồn kho, hoặc hàng hóa ứ đọng hay
mất phẩm chất. Việc so sánh cũng có thể được tiến hành trên các đối tượng chi tiết
của tài khoản, hoặc sự biến động chi tiết giữa các kỳ trong tháng, quý, năm.
So sánh giữa số liệu thực tế và số liệu kế hoạch, dự toán: Việc điều tra các
sai biệt lớn giữa số liệu thực tế và kế hoạch có thể cho thấy những sai lệch
trong báo cáo tài chính, hoặc các biến động lớn trong tình hình sản xuất
kinh doanh của đơn vị.
So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với những chỉ tiêu bình quân ngành:
Về nguyên tắc, giữa một số chỉ tiêu của đơn vị và chỉ tiêu bình quân của
ngành có mối quan hệ tương đồng trong một phạm vi nhất định. Ví dụ: Tỷ
lệ lãi gộp trên doanh thu, tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chính trong giá
thành sản phẩm... Việc nghiên cứu những khác biệt lớn giữa chỉ tiêu của
đơn vị và chỉ tiêu bình quân ngành có thể sẽ cho biết các sai lệch, hoặc giúp
kiểm toán viên hiểu biết sâu sắc hơn về hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên,
khi áp dụng phương pháp này cần chú ý sự khác biệt về quy mô, về việc áp
dụng chính sách kế toán giữa các đơn vị.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa các thông tin tài chính trong kỳ: Với phương
pháp này, kiểm toán viên có thể dựa trên mối quan hệ bản chất giữa các số
dư, hay số phát sinh của tài khoản qua mối quan hệ giữa chúng với các tài
khoản khác. Ví dụ: có thể ước tính chi phí lãi vay bằng cách nhân lãi suất
bình quân tháng với số dư cuối tháng của tài khoản nợ vay. Sau đó, mọi sự
khác biệt trọng yếu giữa số liệu ước tính và số liệu sổ sách cần được điều
tra để xác định nguyên nhân. Tài khoản chi phí lãi vay có khớp được với tài
khoản vốn vay. Ngoài ra, một vài tài khoản có thể liên hệ theo cách khác.
Giả sử chi phí hoa hồng có thể là một tỷ lệ phần trăm cụ thể của doanh thu
và các khoản nợ khó đòi không thể vượt quá doanh thu bán hàng trả chậm.
Bằng cách kiểm tra mối quan hệ qua lại giữa các tài khoản, kiểm toán viên
có thể phát hiện các sai sót thuộc về xử lý kế toán.
Một phương pháp khác cũng có thể được áp dụng để xác định những khoản
mục có khả năng sai lệch, đó là chọn ra các đối tượng chi tiết, các nghiệp vụ bất
thường, chẳng hạn như số tiền vượt trội hằn, hoặc có nội dung không rõ ràng để
kiểm tra. Để phát hiện chúng, kiểm toán viên có thể đọc lướt trên sổ sách, tài
khoản và xác định các khoản bất thường.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 18
19. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và các thông tin phi tài
chính: Các thông tin phi tài chính là những dữ liệu kinh tế, kỹ thuật do các
hệ thống hạch toán nghiệp vụ, thống kê... cung cấp. Giữa các thông tin này
và thông tin tài chính có những quan hệ nhất định, nên kiểm toán viên có
thể phát hiện được những sai sót nhờ dựa trên mối quan hệ hợp lý giữa
chúng với nhau. Ví dụ: đối chiếu giữa chi phí tiền lương và số lượng công
nhân viên để xem mức lương bình quân có hợp lý không; so sánh giữa
lượng tồn kho của một số loại vật từ với khả năng chứa đựng rủi ro của kho
hàng... Khi sử dụng những thông tin phi tài chính, kiểm toán viên cũng cần
chú ý kiểm tra độ chính xác của chúng.
Trong quá trình so sánh, nếu phát hiện được các biến động bất thường, chẳng
hạn như khi có những sai biệt lớn, các tỷ lệ ngoài dự kiến, những thông tin tài
chính không nhất quán với các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được..., kiểm
toán viên cần tiến hành điều tra phỏng vấn bằng cách:
• Phỏng vấn người quản lý đơn vị, hoặc xác minh lại các giải trình của đơn
vị.
• Cân nhắc và sử dụng các thủ tục kiểm toán khác để có được kết luận hợp lý.
Thủ tục phân tích được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quy trình
kiểm toán:
• Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, phân tích giúp xác định nội dung, thời
gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán; đồng thời hướng dẫn sự chú ý
của kiểm toán viên đến những bộ phận cần phải điều tra đặc biệt.
• Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, phân tích là một loại thử nghiệm cơ
bản, nó cung cấp bằng chứng về sự hợp lý của những khoản mục trên báo
cáo tài chính, hoặc các thông tin tài chính riêng biệt.
• Trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán, phân tích được sử dụng để xem xét
lại tổng quát lần cuối về toàn bộ số liệu đã được kiểm toán nhằm củng cố
thêm cho kết luận đã được đề ra, hoặc giúp nhận thấy những vấn đề cần
phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán thì mới có thể kết luận.
Phân tích được đánh giá là một thủ tục kiểm toán có hiệu quả vì thời gian ít,
chi phí thấp, mà lại có thể cung cấp những bằng chứng về sự đồng bộ, hợp lý
chung về các số liệu kế toán; đồng thời giúp đánh giá được những nét tổng thể và
không bị sa vào các nghiệp vụ cụ thể.
Kỹ thuật phân tích gồm 3 nội dung: dự đoán, so sánh và đánh giá.
• Dự đoán: Là việc ước đoán về số dự tài khoản, giá trị tỉ suất hoặc xu
hường…
• So sánh: là việc đối chiếu ước đoán trên với số báo cáo.
• Đánh giá: là việc sử dụng các phương pháp chuyên môn, và các kỹ thuật
khác (phỏng vấn, quan sát) để phân tích và kết luận về các chênh lệch khi
so sánh. Kỹ thuật phân tích được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán
có hiệu lực gồm ba loại: kiểm tra tính hợp lý, phân tích xu hường và phân
tích tỉ suất.
Phân tích xu hướng là sự phân tích những thay đổi theo thời gian của số dư
tài khoản, hay nghiệp vụ. Phân tích xu hướng thường được kiểm toán viên sử dụng
qua so sánh thông tin tài chính kỳ này với thông tin tài chính kỳ trước hay so sánh
thông tin tài chính giữa các tháng trong kỳ hoặc so sánh số dư (số phát sinh) của
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 19
20. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
các tài khoản cần xem xem xét giữa các kỳ, nhằm phát hiện những biến động bất
thường để tập trung kiểm tra, xem xét.
Phân tích tỉ suất là cách thức so sánh những số dư tài khoản hoặc những loại
hình nghiệp vụ. Phân tích tỉ suất cũng giúp so sánh tính hợp lý về tình hình tài
chính của một công ty nào đó với công ty khác trong cùng tập đoàn hay với ngành
đó. Thông thường khi phân tích tỉ suất cũng phải xem xét xu hướng của tỉ suất đó.
Kiểm tra tính hợp lý: kiểm tra số phát sinh thực tế so với kế hoạch, kiểm tra
sự phù hợp của lãi vay…
Nhìn chung các loại hình phân tích áp dụng hiệu quả đối với các tài khoản
trong báo cáo kết quả kinh doanh và các loại nghiệp vụ liên quan hơn là đối với các
tài khoản trong bảng cân đối kế toán. Số dư các tài khoản trong báo cáo kết quả kinh
doanh được lấy từ số phát sinh nên dễ dự đoán hơn, trong khi đó tài khoản trong bản
cân đối kế toán được lấy từ số dư cuối kỳ phải tính toán phức tạp.
Loại hình phân tích
Đối tượng kiểm toán Phân tích xuhướng Phân tích tỉ suất Kiểm tra tính hợp lý
Khoản mục trong bảng cân
Hạn chế Hữu ích Hạn chế
đối kế toán
Khoản mục trong báo cáo
Hữu ích Rất hữu ích Rất hữu ích
kết quả kinh doanh
Ưu điểm của thủ tục phân tích là tương đối đơn giản, có hiệu quả vì ít tốn
thời gian, chi phí cho kiểm toán thấp mà vẫn có thể cung cấp bằng chứng về sự
đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị về mặt kế toán, giúp kiểm toán viên đánh giá được
tổng thể không bị sa và các nghiệp vụ cụ thể. Thủ tục phân tích do đó được sử
dụng trong tất cả các giai đoạn của qui trình kiểm toán và được xem là rất hữu ích.
Tuy nhiên, khi áp dụng kỹ thuật này, kiểm toán viên cần lưu ý một số điểm:
Mối quan hệ bản chất giữa các chỉ tiêu được so sánh: việc phân tích sẽ không
có ý nghĩa nếu các chỉ tiêu không có mối liên hệ với nhau. Ngoài ra kỹ thuật
này chỉ áp dụng đối với các chỉ tiêu đồng chất về nội dung và phương pháp
tính.
Đối với những khoản mục hay chỉ tiêu trọng yếu, kiểm toán viên không thể
chỉ sử dụng kỹ thuật phân tích đơn thuần mà cần kết hợp với các kỹ thuật
khác để tìm được bằng chứng thích hợp.
Trong điều kiện hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém, cần thận trọng trong
phân tích và nên kết hợp với nhiều kỹ thuật khác.
Đánh giá chênh lệch khi phân tích sẽ sai lầm nếu kiểm toán viên thiếu hiểu
biết về những mức chuẩn ngành kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
BẢNG TỔNG HỢP CÁC KỸ THUẬT THU THẬP BCKT
Kỹ thuật BCKT Độ tin CSDL
thu thập cậy Sự Sự Sự đầy Sự Sự Quyền Trình
BCKT tồn phát đủ đánh chính và bày và
tại sinh giá xác nghĩa khai
vụ báo
Quan sát Ngầm Cao
hiểu, ít
khi thể
hiện trên
giấy làm
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 20
21. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
việc
Kiểm tra Biên bản Cao
vật chất kiểm kê
hoặc
phiếu
kiểm kê
Phỏng vấn Bảng Thấp
câu hỏi
Xác minh Giấy Trung
tài liệu làm việc bình
Xác nhận Thư xác Cao
nhận
Tính toán Bảng số Cao
lại liệu
Phân tích Bảng Cao
phân
tích sơ
bộ
BCTC,
bảng
tổng hợp
phân
tích hệ
số
IV. Áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng vào kiểm toán việc thiết kế
các thủ tục kiểm toán trong kế hoạch và chương trình kiểm toán
Để thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên triển khai theo các thủ tục sau:
1. Thử nghiệm kiểm soát
Nếu đánh giá ban đầu của kiểm toán viên cho thấy khách hàng có hệ thống
kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì khi đó kiểm toán viên sẽ thực hiện thủ tục kiểm soát
nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán về thiết kế và hoạt động của hệ thống kiểm
soát nội bộ. Các bằng chứng kiểm toán cần chứng minh được thiết kế các hoạt
động kiểm soát cụ thể có thích hợp để ngăn ngừa những sai sót hay không đồng
thời cũng cần chứng minh được hệ thống đó có được triển khai theo đúng yêu cầu
thiết kế trong thực tế hay không. Các kỹ thuật thu thập BCKT thường được áp
dụng trong phần này như: phỏng vấn, quan sát, xác minh tài liệu.
2. Thử nghiệm cơ bản
2.1. Thủ tục phân tích
Trong việc tổ chức thực hiện thủ tục phân tích đòi hỏi nhiều ở sự phán đoán
của kiểm toán viên. Thông thường, thực hiện thủ tục phân tích phải trải qua các
giai đoạn sau:
Giai đoạn phát triển mô hình
Giai đoạn ước lượng giá trị và so sánh với giá trị ghi sổ
Giai đoạn phân tích nguyên nhân chênh lệch
Giai đoạn xem xét những phát hiện qua kiểm toán
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 21
22. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
Bằng chứng thu được từ thủ tục phân tích cần được đánh giá không chỉ bao
gồm những sai sót trong từng khoản mục mà cả việc quan sát hệ thống kiểm soát
nội bộ, hệ thống thông tin và những vấn đề liên quan.
2.2. Kiểm tra chi tiết nghiệm vụ, số dư
Kiểm tra chi tiết số dư và nghiệp vụ là bước cuối cùng trong giai đoạn thực
hiện kiếm toán. Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết tốn nhiều chi phí nhất trong
cuộc kiểm toán. Do đó, thủ tục này được thực hiện với những tài khoản được đánh
giá là điển hình nhất. Các kỹ thuật thu thập BCKT thường được áp dụng trong
phần này như: xác minh tài liệu, tính toán lại. Được tiến hành theo các bước sau:
Lập kế hoạch kiểm tra chi tiết: Trước hết, kiểm toán viên xác định mục tiêu
của các biện pháp kỹ thuật, tiếp theo kiểm toán viên tiến hành lựa chọn các
khoản mục trong tổng thể. Việc xác định tổng số khoản mục, nghiệp vụ cần
hướng tới tính đầy đủ và tin cậy của bằng chứng kiểm toán.
Lựa chọn các khoản mục để kiểm tra chi tiết: Kiểm toán viên có thể áp
dụng các biện pháp kiểm tra chi tiết không phải với tất cả các khoản mục
trong một tài khoản thì phải chấp nhận mức độ không chắc chắn của Bằng
chứng kiểm toán thu được. Khi đó kiểm toán viên có thể lựa chọn một số
khoản mục trên cơ sở chọn điển hình các khoản mục chính hoặc chọn mẫu
đại diện hay kết hợp cả 2 phương pháp.
Lựa chọn các khoản mục chính: Kiểm toán viên thu thập Bằng chứng kiểm
toán bằng cách điều tra kỹ các khoản mục chính. Dựa trên sự đánh giá, kinh
nghiệm và những hiểu biết về tình hình kinh doanh của khách hàng, kiểm
toán viên phát hiện ra một số khoản mục không phát sinh bình thường,
không dự đoán trước được hay dễ có sai phạm.
Thực hiện kiểm tra chi tiết trên khoản mục đã chọn: Có thể áp dụng các kỹ
thuật kiểm toán thích hợp đối với mỗi một khoản mục lựa chọn để tiến hành
kiểm tra chi tiết nhằm xác định khả năng tồn tại những chênh lệch đến mức
đòi hỏi điều tra và theo dõi. Trong các kỹ thuật kiểm tra chi tiết xác nhận và
kiểm tra thực tế là những biện pháp thường được áp dụng rộng rãi trong
kiểm toán tài chính và cần được thực hiện trên cơ sở xác định.
Đánh giá kết quả kiểm tra chi tiết: Kiểm toán viên cần đánh giá những
Bằng chứng kiểm toán đã thu được từ quá trình kiểm tra chi tiết và tiến
hành điều tra nguyên nhân đối với những chênh lệch kiểm toán.
Xử lý chênh lệch kiểm toán: Kết thúc giai đoạn kiểm tra chi tiết, kiểm toán
viên thực hiện xử lý các chênh lệch kiểm toán. Tuỳ theo loại chênh lệch và
thủ tục tiến hành khi phát hiện trong quá trình kiểm toán cho thấy có sai sót,
kiểm toán viên sẽ có những biện pháp xử lý thích hợp cho từng loại chênh
lệch.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 22
23. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
PHẦN 2
THỰC TẾ VIỆC ÁP DỤNG KỸ THUẬT THU THẬP BẰNG CHỨNG
KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ KẾ TOÁN AAC
I. Khái quát chung về công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC
Tên Công ty: Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC
Tên giao dịch: Auditing and accounting company, Ltd.
Tên viết tắt: AAC
Địa chỉ trụ sở chính: 217 Nguyễn Văn Linh, TP Đà Nẵng
Điện thoại: (84).0511. 3655 886
Fax: (84).0511. 3655 887
Logo :
E-mail: aac@dng.vnn.vn
Webside: http://www.aac.com.vn
* Ngoài ra, Công ty đã mở một chi nhánh tại TP. HCM
Địa chỉ:, Tầng 5 tòa nhà Hoàng Đan, 47-49 Hoàng Sa, Quận 1, Tp. Hồ Chí
Minh
Điện thoại: (08) 39102235
Fax: (08) 39102349
1. Quá trình hình thành và phát triển
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty kiểm toán và kế toán AAC, trước đây là công ty kiểm toán Đà Nẵng-
công ty kiểm toán độc lập trực thuộc Bộ Tài chính được thành lập theo quyết định
số 194/TC/TCCB ngày 01 tháng 4 năm 1993 và Quyết định số 106 TC/TCCB
ngày 13 tháng 02 năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, là một trong số rất ít các
công ty kiểm toán được thành lập đầu tiên tại Việt Nam. Việc thành lập công ty
được thực hiện trên cơ sở sáp nhập hai chi nhánh của hai công ty hành nghề kiểm
toán từ năm 1991, đó là: Chi nhánh Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Chi
nhánh công ty tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) tại khu vực Miền
Trung và Tây Nguyên.
Để phù hợp với tình hình mới về sự phát triển công ty, Bộ Tài chính đã có
quyết định số 139/2000/QĐ-BTC ngày 06/9/2000 về việc đổi tên “Công ty kiểm
toán Đà Nẵng – DAC” thành “Công ty Kiểm toán và Kế toán AAC”.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 23
24. Email: luanvan84@gmail.com dowload luận văn tại luanvan.forumvi.com
Ngày 07/05/2007, Công ty chuyển đổi sở hữu từ Doanh nghiệp Nhà nước
thành Công ty TNHH hai thành viên trở lên theo Quyết định phê duyệt phương án
chuyển đổi số 1335/QĐ-BTC ngày 02/04/2007 của Bộ Tài chính, và đổi tên thành
“Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC”.
Tháng 09/2008, Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC chính thức trở
thành thành viên của hãng kiểm toán quốc tế IGAF Polaris – một tổ chức chuyên
ngành kiểm toán, kế toán và tư vấn với hơn 200 hãng thành viên có mặt tại 90
quốc gia trên thế giới.
1.2. Mạng lưới khách hàng
AAC hoạt động trên phạm vi toàn quốc, được phép kiểm toán tất cả các loại
hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các ngành có quy chế riêng
về việc lựa chọn và bổ nhiệm kiểm toán độc lập có điều kiện như kiểm toán các tổ
chức niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. các tổ chức phát hành và kinh
doanh chứng khoán...
Hiện tại AAC đã và đang thực hiện cung cấp dịch vụ kiểm toán và tư vấn cho
hơn 1000 khách hàng trên toàn quốc. Theo thống kê của Hội Kiểm toán viên hành
nghề Việt Nam (VACPA) trong năm 2010, AAC nằm trong nhóm 10 Công ty
kiểm toán có số lượng khách hàng lớn nhất tính trên hơn 160 Công ty kiểm toán
đang hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng của AAC là các doanh nghiệp, tổ chức
và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước; bao gồm hơn 50 Công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán, 200 Công ty đại chúng, 150 Công ty có vốn
đầu tư nước ngoài và các tổ chức quốc tế
1.3. Đội ngũ nhân viên
Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới khách hàng, AAC luôn quan tâm đầu tư
phát triển nguồn nhân lực của Công ty. Đội ngũ kiểm toán viên và nhân viên
chuyên nghiệp của AAC được liên tục đào tạo và cập nhật các chương trình và nội
dung mới về kế toán, kiểm toán, thuế và các chuyên ngành có liên quan. Hơn 15%
cán bộ công nhân viên AAC đã hoàn thành chương trình đào tạo cao học tại các
trường đại học ở Việt Nam và các quốc gia tiên tiến như Úc, Nhật Bản, Ireland,
Bỉ….
Hiện nay, AAC là một trong số 10 Công ty kiểm toán trên toàn quốc có số
lượng kiểm toán viên hành nghề đông đảo nhất: hơn 132 nhân viên, trong đó
khoảng 31 người đã có chứng chỉ kiểm toán viên cấp quốc gia và sẽ tiếp tục tăng
lên trong thời gian tới.
AAC có 100% đội ngũ kiểm toán viên và trợ lỹ kiểm toán viên cao cấp được
đào tạo trực tiếp bởi các chuyên gia cao cấp về kiểm toán của Cộng đồng Châu Âu
thông qua chương trình hợp tác về kiểm toán và kế toán của dự án EURO –
TAPVIET do Cộng đồng Châu Âu tài trợ.
Bên cạnh đó, việc cử các kiểm toán viên tham gia các khóa đào tạo, hội thảo
chuyên đề do IGAF Polaris tổ chức hàng năm góp phần giúp cho các Kiểm toán
viên và Chuyên viên của AAC được trang bị, cập nhật các kiến thức mới, kỹ năng
thực hành kiểm toán, tư vấn hiện đại và cải thiện khả năng ngoại ngữ.
Do đó, với đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp, ý thức trách nhiệm cao, có
đạo đức nghề nghiệp trong sáng đã góp phần giúp AAC từng bước khẳng định
năng lực và uy tín của mình trên thị trường kiểm toán Việt Nam.
SVTH: Phạm Thị Tư- Lớp34K06.1 Trang 24