SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
XÁC LẬP MỨC TRỌNG YẾU VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÁC LẬP MỨC TRỌNG YẾU VÀ
ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
I TỔNG QUAN VỀ TRỌNG YẾU
1. Khái niệm:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA) số 320 – Tính trọng yếu trong kiểm
toán thì :
“Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một
số liệu kế toán) trong báo cáo tài chính”.
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính
chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo
tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của
sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm
chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông
tin phải xem xét cả trên phương diện định lượng và định tính. Khi lập kế hoạch kiểm
toán, kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được để làm tiêu
chuẩn phát hiện ra những sai sót trọng yếu về mặt định lượng. Tuy nhiên, để đánh giá
những sai sót được coi là trọng yếu, kiểm toán viên còn phải xem xét cả hai mặt định
lượng và định tính của sai sót. Ví dụ: Việc không chấp hành chế độ kế toán hiện hành có
thể được coi là sai sót trọng yếu nếu dẫn đến việc trình bày sai các chỉ tiêu trên báo cáo
tài chính làm cho người sử dụng thông tin tài chính hiểu sai bản chất của vấn đề; hoặc
trong báo cáo tài chính không thuyết minh những vấn đề có liên quan đến hoạt động
không liên tục của doanh nghiệp.
2. Đặc điểm:
2.1. Về qui mô:
Nếu một nghiệp vụ, một khoản mục bị sai phạm có qui mô lớn đến mức quyết
định bản chất đối tượng kiểm toán thì nghiệp vụ, khoản mục đó được coi là trọng yếu.
Ngược lại, qui mô sai phạm chưa đủ lớn để làm thay đổi nhận thức về đối tượng kiểm
toán thì khoản mục, nghiệp vụ không được coi là trọng yếu.
Qui mô của trọng yếu không thể được coi là một số tuyệt đối, bởi vì một khoản
mục, nghiệp vụ có qui mô nhất định, có thể là trọng yếu đối với công ty nhỏ nhưng lại
không trọng yếu đối với công ty lớn. Vì thế, tính trọng yếu xét về mặt qui mô cần được
đặt trong mối tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm toán. Nghĩa là xem xét tỷ lệ của
khoản mục nghiệp vụ so với một cơ sở tính toán tùy thuộc vào đặc trưng của từng khách
hàng như : tổng tài sản, hay tổng vốn chủ sở hữu, tổng doanh thu hay lợi nhuận trước
thuế.
Việc xác định trọng yếu về mặt qui mô không phải dễ dàng vì vậy để có thể xác
định đúng nội dung kiểm toán trên phương diện này chúng ta cần quán triệt các nguyên
tắc cơ bản sau:
- Thứ nhất, qui mô trọng yếu phải được xác định. Đó là việc xác định mức trọng
yếu dựa trên đối tượng nào( Báo cáo tài chính, toàn bộ tài liệu kế toán hay thực trạng tài
chính nói chung), khách thể kiểm toán thuộc lọai hình doanh nghiệp nào ( sản xuất, công
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 1
2. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, xây lắp hay vận tải...). Vì mỗi ngành,
mỗi lĩnh vực có có những đặc trưng riêng do đó qui mô trọng yếu là khác nhau.
- Thứ hai, qui mô các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét bằng một con số tuyệt
đối mà cần phải đặt trong mối tương quan với các đối tượng kiểm toán khác. Về định
lượng, đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với một cơ sở tính toán như:
tổng tài sản, tổng doanh thu, tổng lợi nhuận trước thuế...
- Thứ ba, qui mô trọng yếu còn phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu của cuộc
kiểm toán là kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp vụ với các chức năng xác minh hay
xác minh và tư vấn...
2.2. Về bản chất:
Khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của các nghiệp vụ, khoản mục. Thông thường,
các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận thì thông thường
được coi là trọng yếu. Ngoài ra, các sai sót hệ trọng cũng được xem là trọng yếu cho dù
qui mô nhỏ. Một số ví dụ về các sai lệch sau đây được đánh giá là sai lệch trọng yếu:
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian lận:
- Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp vì có thể có sự
móc nối giữa các bên nhằm thu lợi cho cá nhân.
- Các nghiệp vụ thanh lý tài sản: có khả năng liên kết giữa người tiến hành thanh
lý và người mua tài sản trong khi tài sản đó vẫn đang trong quá trình sử dụng.
- Các nghiệp vụ về tiền mặt: các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên, tiền mặt lại
có đặc điểm gọn nhẹ, dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận.
- Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: doanh nghiệp và khách hàng hoặc
nhà cung cấp có thể móc nối với nhau để báo cáo sai về thực trạng tài chính
của mình.
- Các nghiệp vụ bất thường: các nghiệp vụ này ít xảy ra nhưng chúng lại có ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: các nghiệp vụ liên quan đến quyền lợi bao
giờ cũng chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng muốn thu
lợi cho bản thân mình.
- Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách: các nghiệp vụ phát sinh đều phải được
ghi sổ, nếu đơn vị cố ý bỏ ngoài sổ sách đây là một biểu hiện của gian lận.
- Các nghiệp xảy ra vào cuối kỳ kế toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới phát
sinh. Thông thường, vào cuối kỳ kế toán để kết quả kinh doanh được như ý
muốn hoặc để điều chỉnh một số chênh lệch thừa, thiếu kế toán thường thay đổi
các bút toán hạch toán. Do đó các nghiệp vụ xảy ra cuối kỳ có khả năng gian
lận cao.
- Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa. Vì các sửa chữa này có thể làm sai lệch
các thông tin tài chính ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính.
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung: vì nó ảnh
hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của nhà quản lý doanh nghiệp và các cá
nhân có liên quan.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 2
3. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng thường do trình độ, năng lực yếu
kém và tính cẩn trọng của nhân viên kế toán thường bao gồm:
- Các khoản mục, nghiệp vụ có chênh lệch so với kỳ trước.
- Các khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần: các sai sót lặp lại nhiều lần cho dù
qui mô nhỏ cũng gây ra một sự nghi ngờ lớn về năng lực kế toán cũng như vấn
đề xem xét quản lý sổ sách không chặt chẽ. Hơn nữa, tổng cộng các sai sót nhỏ
có thể là một sai sót lớn có ảnh hưởng lớn đến Báo cáo tài chính.
- Các sai sót có ảnh hưởng tới lợi nhuận.
- Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc liên quan đến nhiều khoản mục,
nghiệp vụ khác.
Ngoài ra, tính trọng yếu còn được xem xét trong mối tương quan với một hoặc
một nhóm sai phạm. Nếu như một sai phạm được kiểm toán viên phát hiện và được đánh
giá là không trọng yếu, nhưng nếu kết hợp với một số sai phạm khác và tạo nên sai phạm
lớn có tính trọng yếu thì sai phạm phát hiện này cũng được coi là trọng yếu. Theo chuẩn
mực Kiểm toán Việt Nam số 320 – Tính trọng yếu trong kiểm toán: “Kiểm toán viên cần
xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng
yếu đến Báo cáo tài chính, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng có thể trở
thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi
tháng”.
3. Sự cần thiết phải thiết lập mức trọng yếu
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, do sự giới hạn về thời gian cũng như chi phí
kiểm toán kiểm toán viên không thể kiểm tra toàn bộ các chứng từ, nghiệp vụ và ngay cả
khi kiểm tra 100% chứng từ, nghiệp vụ thì kiểm toán viên cũng không thể phát hiện được
hết các sai phạm do sự hạn chế về trình độ của mình cũng như sự cố tình che dấu của nhà
quản lý. Vì vậy, nghiên cứu tính trọng yếu có vai trò quan trọng đối với việc lập kế hoạch
và thiết kế phương pháp kiểm toán với các mục đích cụ thể là: Ước tính mức độ sai sót
của BCTC có thể chấp nhận được. Dự kiến hợp lý về tính trọng yếu giúp kiểm toán viên
thu thập bằng chứng tương ứng phù hợp. Mức trọng yếu càng thấp, đồng nghĩa với việc
đòi hỏi sự chính xác của số liệu trên BCTC càng cao, lúc đó lượng bằng chứng thu thập
sẽ càng nhiều và ngược lại. Ngoài ra, xác định mức trọng yếu còn giúp xác định bản chất,
thời gian và phạm vi thời gian của các thử nghiệm kiểm toán.
4. Cơ sở xác lập mức trọng yếu
Trong bước lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần xác lập mức trọng yếu cho tổng thể
BCTC và mức trọng yếu cho từng khoản mục để từ đó có thể ước tính sai lệch có thể
chấp nhận được của BCTC cũng như từng khoản mục phục vụ cho việc kiểm tra chi tiết.
Mức trọng yếu cho tổng thể BCTC (PM) : được xác định tùy thuộc vào từng loại
hình doanh nghiệp, thực trạng hoạt động tài chính, mục đích của người sử dụng thông
tin. Kiểm toán viên thường căn cứ vào các chỉ tiêu tài chính sau để xác định:
- Doanh thu: được áp dụng khi đơn vị chưa có lãi ổn định nhưng đã có doanh thu
ổn định và doanh thu là một trong những nhân tố quan trọng để đánh giá hiệu
quả hoạt động. Tỉ lệ được các công ty kiểm toán lựa chọn thường từ 0.5%-3%
doanh thu.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 3
4. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
- Lợi nhuận trước thuế: được áp dụng khi đơn vị có lãi ổn định. Lợi nhuận là
chỉ tiêu được nhiều KTV lựa chọn vì đó là chỉ tiêu được đông đảo người sử
dụng báo cáo tài chính quan tâm, nhất là cổ đông của các công ty. Tỉ lệ được
lựa chọn thường từ 5% - 10% lợi nhuận trước thuế.
- Tổng tài sản : được áp dụng khi đối với các công ty có khả năng bị phá sản, có
lỗ lũy kế lớn so với vốn góp. Người sử dụng có thể quan tâm nhiều hơn về khả
năng thanh toán thì việc sử dụng chỉ tiêu tổng tài sản là hợp lý. Tỉ lệ được lựa
chọn thường nằm trong khoảng từ 0.5%-1% tổng tài sản.
- Vốn chủ sở hữu: được áp dụng khi đơn vị mới thành lập;doanh thu, lợi nhuận
chưa có hoặc có nhưng chưa ổn định.Tỉ lệ được lựa chọn từ 1%-2% vốn chủ sở
hữu.
Mức trọng yếu phân bổ cho từng khoản mục: là mức sai lệch tối đa của khoản
mục đó. Khi phân bổ mức trọng yếu cho từng khoản mục KTV căn cứ vào phương pháp
phân bổ của công ty mình, kinh nghiệm của KTV về khoản mục đó, bản chất của khoản
mục, các đánh giá về rủi ro tiểm tàng và rủi ro kiểm soát cũng như thời gian và chi phí
kiểm tra khoản mục đó để phân bổ cho hợp lý.
5. Quy trình xác lập mức trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Qui trình đánh giá trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch được thể hiện qua sơ đồ
sau:
Mức trọng yếu ước
Bước 1: Ước lượng mức trọng tính ban đầu cho toàn
yếu ban đầu cho toàn bộ BCTC bộ BCTC
Bước 2: Phân bổ mức trọng yếu Mức sai sót chấp nhận
cho từng khoản mục được của từng khoản
mục
5.1 Ước tính ban đầu về mức trọng yếu đối với toàn bộ BCTC (PM).
Mức ước lượng ban đầu về trọng yếu cho tổng thể BCTC hay còn gọi là mức trọng
yếu kế hoạch là giá trị sai lệch tối đa có thể được chấp nhận, nghĩa là với những sai lệch
(gian lận hoặc sai sót) nhỏ hơn hoặc bằng mức này thì không được coi là trọng yếu và có
thể bỏ qua. Mức này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng kế hoạch kiểm toán, nếu
mức trọng yếu càng thấp thì mức sai sót có thể bỏ qua càng nhỏ. Do đó, KTV phải thiết
lập các thủ tục kiểm toán nhiều hơn, cần lấy mẫu kiểm toán nhiều hơn để có thể thu thập
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 4
5. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
đầy đủ bằng chứng làm giảm sai lệch tổng thể đến bằng hoặc nhỏ hơn mức trọng yếu đã
được thiết lập.
Mức trọng yếu được xác lập dựa trên chỉ tiêu được lựa chọn và tỷ lệ tương ứng với
chỉ tiêu đó. Có các phương pháp để xác định mức trọng yêu cho tổng thể BCTC như sau:
Phương pháp 1: mức trọng yếu được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm so với chỉ
tiêu được lựa chọn.
Theo phương pháp này, mỗi công ty kiểm toán sẽ xây dựng cho mình một mức
ước lượng và các tỷ lệ thích hợp. Dưới đây là là bảng hướng dẫn của VACPA đối với
việc tính toán mức trọng yếu trên tổng thể BCTC:
Bảng 1: Bảng hướng dẫn của VACPA đối với việc tính toán mức trọng yếu
Cơ sở ước lượng Tỷ lệ ước lượng
Lợi nhuận trước thuế 5%-10%
Doanh thu 0,5% -3%
Tổng tài sản 2%
Vốn chủ sở hữu 2%
Sau khi đã xác định cơ sở cho việc tính toán mức trọng yếu, KTV cần có sự điều
chỉnh cơ sở này nếu có các khoản mục, nghiệp vụ bất thường… có thể làm cho cơ sở tính
toán đó không phản ánh đúng qui mô của khách hàng. Mục đích của việc điều chỉnh này
nhằm xác định được một cơ sở phản ánh đúng qui mô của khách thể kiểm toán, từ đó xác
định mức trọng yếu thích hợp. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào xét đoán của thành viên
ban quản trị liên quan trực tiếp tới cuộc kiểm toán. Thông thường, để thận trọng, KTV
thường xác lập mức trọng yếu tổng thể ban đầu thấp hơn mức chỉ đạo chung của công ty.
Việc thiết lập mức trọng yếu tổng thể thấp hơn sẽ đồng nghĩa với việc làm tăng thêm khối
lượng công việc kiểm toán, tăng thêm chi phí nhưng điều đó lại làm giảm đi mức độ rủi
ro kiểm toán và tăng khả năng loại trừ những sai phạm có thể mắc phải của KTV.
Phương pháp 2: mức trọng yếu được lựa chọn từ nhiều giá trị.
Theo phương pháp này, KTV sẽ sử dụng các chỉ tiêu khác nhau trên báo cáo tài
chính nhân với các tỷ lệ tương ứng, sau đó sẽ xác định mức trọng yếu bằng cách chọn số
lớn nhất, số nhỏ nhất hoặc số bình quân. Ví dụ minh họa:
Cơ sở xác lập Số liệu trên BCTC (Triệu VNĐ) Tỷ lệ (%) Số tiền
(Triệu VNĐ)
Tổng tài sản 40.000 2 800
Doanh thu thuần 20.000 2 400
LN trước thuế 3.000 10 300
Mức trọng yếu của tổng thể BCTC có thể được chọn từ:
Số nhỏ nhất: 200 (triệu VNĐ)
Số lớn nhất: 800 (triệu VNĐ)
Số bình quân: 500 (triệu VNĐ)
Thông thường, để đảm bảo nguyên tắc thận trọng KTV thường chọn số nhỏ nhỏ nhất,
số bình quân ít khi dùng số lớn nhất làm mức trọng yếu cho tổng thể BCTC.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 5
6. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
5.2 Xác định mức trọng yếu ban đầu cho các khoản mục trên BCTC
Mức trọng yếu cho từng khoản mục còn gọi là sai sót có thể bỏ qua đối với khoản
mục đó. KTV có thể phân bổ mức trọng yếu tổng thể cho các khoản mục trên bảng
CĐKT và trên bảng BCKQKD. Tuy nhiên, giữa bảng CĐKT và bảng BCKQKD có mối
quan hệ với nhau, phần lớn các sai lệch của các chỉ tiêu trên bảng CĐKT đều ảnh hưởng
tương ứng đến các chỉ tiêu trên bảng BCKQKD (vì theo nguyên tắc ghi kép, hầu hết các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh có liên quan đến các khoản mục trên bảng BCKQKD đều liên
quan đến các khoản mục trên Bảng CĐKT). Hơn nữa, các chỉ tiêu trên bảng BCKQKD
thực chất là tài sản nguồn vốn trên bảng CĐKT do đó không nhất thiết phải phân bổ mức
trọng yếu cho các khoản mục trên bảng BCKQKD.
Có 2 phương pháp xác định mức trọng yếu cho từng khoản mục như sau:
Phương pháp 1: phân bổ mức trọng yếu cho từng khoản mục theo tỷ trọng giá
trị từng khoản mục.
Sau khi xác lập được mức trọng yếu ban đầu cho tổng thể BCTC, KTV tiến hành
phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục, từng bộ phận, từng chỉ tiêu trên BCTC
để hình thành mức trọng yếu cho từng khoản mục, từng bộ phận hay từng chỉ tiêu. Giá trị
trọng yếu dùng để phân bổ cho từng khoản mục là mức trọng yếu thực hiện MP (MP
bằng một tỷ lệ % nào đó so với PM). KTV tiến hành phân bổ mức trọng yếu cho từng
khoản mục theo mức trọng yếu thực hiện để đảm bảo nguyên tắc thận trọng rằng tất cả
các sai sót được KTV phát hiện và các sai sót không được KTV phát hiện không vượt quá
mức trọng yếu tổng thể (PM) đã xác định. Việc phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng
yếu được thực hiện theo hai chiều hướng mà các gian lận và sai sót có thể xảy ra. Đó là
sai lệch do ghi khống (số liệu trên BCTC lớn hơn thực tế) và ghi thiếu (số liệu trên BCTC
nhỏ hơn thực tế).
Mức trọng yếu phân bổ cho từng khoản mục thường được thực hiện trên những cơ
sở chủ yếu sau:
+ Căn cứ vào chính sách phân bổ mức trọng yếu tổng thể cho từng khoản mục trên
BCTC.
+ Mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát mà KTV đánh giá sơ bộ cho khoản
mục. Nếu mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao đối với một
khoản mục nào đó thì khoản mục đó được phân bổ mức sai lệch có thể bỏ qua là thấp và
ngược lại.
+ Kinh nghiệm của KTV về những sai sót và gian lận đối với khoản mục đó.
Chẳng hạn, qua kiểm toán các đơn vị khác cùng ngành nghề hoặc kết quả kiểm toán của
năm trước chỉ ra rằng một khoản mục nào đó ít có sai lệch thì KTV sẽ phân bổ mức sai
lệch có thể bỏ qua lớn và ngược lại.
+Chi phí kiểm toán cho từng khoản mục. Nếu khoản mục nào đòi hỏi việc thu
thập bằng chứng tốn nhiều chi phí hơn thì phân bổ mức sai lệch có thể bỏ qua lớn hơn và
ngược lại.
Ưu điểm của phương pháp này là giúp KTV lựa chọn những đối tượng kiểm tra
chi tiết và lựa chọn những phương pháp kỹ thuật kiểm tra phù hợp. Sau khi kiểm tra, mức
trọng yếu của từng khoản mục sẽ là cơ sở để đối chiếu với sai sót dự kiến của khoản mục
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 6
7. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
đó để hình thành kết luận về khoản mục được kiểm tra. Tuy nhiên, phương pháp này
cũng có nhược điểm là việc phân bổ mức trọng yếu phụ thuộc rất lớn vào tính chủ quan
của KTV.
Phương pháp2:Lấy mức trọng yếu của tổng thể làm mức trọng yếu chung cho
tất cả các khoản mục trên BCTC
Theo cách này, KTV không phân bổ mức trọng yếu cho từng khoản mục mà lấy
một mức trọng yếu chung cho tất cả các khoản mục. Mức trọng yếu này khác nhau ở từng
công ty kiểm toán. Ở công ty kiểm toán AAC, mức trọng yếu này được gọi là mức trọng
yếu thực hiện và được xác định theo công thức:
MP= (50%-75%) * PM
Nhược điểm của phương pháp này là mức trọng yếu này được áp dụng chung thống
nhất cho tất cả các khoản mục khác nhau. Do vậy, tất cả các khoản mục, mặc dù có số dư
hay bản chất khoản mục khác nhau đều được áp dụng một mức trọng yếu chung thống nhất
cho toàn bộ cuộc kiểm toán.
II. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN:
1. Khái niệm:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VAS) số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ: "Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận
xét không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu" .
Thực tế, rủi ro kiểm toán thường xảy ra theo hướng: Báo cáo tài chính có những
sai sót trọng yếu nhưng kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ đối với Báo cáo
tài chính. Trong trường hợp này, ý kiến chấp nhận toàn bộ này là không thích hợp,
không đúng về Báo cáo tài chính. Điều đó có nghĩa là kiểm toán viên đồng ý với những
thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính, kết luận rằng Báo cáo tài chính không có
những sai phạm trọng yếu. Với cách lập luận như vậy, rủi ro kiểm toán được hiểu là xác
suất tồn tại các sai phạm trọng yếu trên Báo cáo tài chính mà kiểm toán viên không phát
hiện được, nêu ý kiến sai lệch về Báo cáo tài chính được kiểm toán.
Rủi ro kiểm toán luôn tồn tại do những nguyên nhân sau:
- Trình độ khả năng thực tế của kiểm toán viên.
- Giới hạn về thời gian và chi phí kiểm toán.
- Kỹ thuật chọn mẫu trong kiểm toán.
- Gian lận khó phát hiện hơn sai sót.
Người sử dụng thông tin luôn mong muốn rủi ro kiểm toán ở mức thấp, từ đó đòi
hỏi kiểm toán viên phải nổ lực để có một mức rủi ro kiểm toán ở mức chấp nhận được.
Nếu kiểm toán viên mong muốn có một tỷ lệ rủi ro kiểm toán thấp, nghĩa là kết luận của
kiểm toán viên có độ tin cậy cao, đòi hỏi kiểm toán viên phải thu thập lượng bằng chứng
nhiều hơn và chi phí kiểm toán sẽ cao hơn. Vì thế, mức rủi ro kiểm toán cao hay thấp
quyết định khối lượng công việc kiểm toán viên sẽ tiến hành. Việc xác định mức rủi ro
kiểm toán mong muốn thường dựa vào mức độ của người sử dụng thông tin cũng như
khả năng tài chính của khách hàng.Thông thường mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn là
từ 5%- 10%. Dưới đây là đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và chi phí
kiểm toán:
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 7
8. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Rủi ro KT
Rủi ro đạt tới
Rủi ro mong muốn
(DAR)
Chi phí KT
Ngoài việc đánh giá rủi ro kiểm toán mong muốn, người ta cần tìm hiểu ba bộ
phận cấu thành của nó là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
2. Các thành phần của rủi ro kiểm toán:
2.1 Rủi ro tiềm tàng(IR)
2.1.1 Khái niệm
Theo VSA số 400 về “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” thì: “Rủi ro tiềm tàng
là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC chứa
đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có
HTKSNB”.
Như vậy, rủi ro tiềm tàng là xác suất tồn tại những sai phạm trọng yếu trên báo cáo
tài chính do các vấn đề bất thường tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh, trong môi trường
kinh doanh hay trong bản chất các khoản mục. Đây là yếu tố rủi ro mang tính khách
quan, thuộc về bản chất của đối tượng kiểm toán, các hoạt động kiểm soát, kiểm toán
không tạo ra nó.
2.1.2 Trách nhiệm của KTV
KTV không tạo ra cũng như không kiểm soát được rủi ro tiềm tàng mà chỉ đánh
giá chúng dựa vào một số nguồn thông tin như kết quả của các cuộc kiểm toán năm
trước, chính sách kinh tế của khách hàng...Để đánh giá rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên có
thể xem xét trên 2 góc độ: doanh nghiệp và các khoản mục, nghiệp vụ.
Ở góc độ doanh nghiệp: rủi ro tiềm tàng nảy sinh từ đặc điểm kinh doanh của
doanh nghiệp và tiềm ẩn trong môi trường kinh doanh.
Ở góc độ các khoản mục, nghiệp vụ: rủi ro tiềm tàng nằm trong bản chất của các
số dư tài khoản hoặc bản chất của nghiệp vụ. Nói một cách khác, bản thân các khoản
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 8
9. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
mục, nghiệp vụ này đã ẩn chứa trong nó những rủi ro làm cho chúng có khả năng sai
phạm cao hơn những khoản mục, nghiệp vụ khác.
Khi phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng đòi hỏi KTV phải có một sự hiểu biết sâu
sắc, toàn diện, đầy đủ về thực trạng hoạt động của doanh nghiệp và các yếu tố tác động
đến rủi ro tiềm tàng cũng như đòi hỏi KTV phải có một sự xét đoán nghề nghiệp với
những kinh nghiệm khá tốt mới có thể có được một kết quả chính xác.
2.1.3 Các nhân tố phổ biến ảnh hưởng đến mức độ IR
- Ở góc độ doanh nghiệp:
Tính chính trực, kinh nghiệm, trình độ năng lực của nhà quản lý: nhà quản lý là
người có quyền quyết định phần lớn các chính sách, hoạt động của doanh. Nếu doanh
nghiệp được lãnh đạo bởi một người yếu kém về năng lực, không liêm khiết, ít kinh
nghiệm thì báo cáo tài chính dễ có sai phạm và do đó rủi ro tiềm tàng sẽ cao hơn.
Áp lực bất thường đối với nhà quản lý: KTV cần xem xét, đánh giá liệu Ban
Giám đốc và Kế toán trưởng doanh nghiệp có bị áp lực phải công bố BCTC sai sự thật.
Chẳng hạn, doanh nghiệp thực tế kinh doanh thua lỗ liên tục, mất khả năng thanh toán
không được các ngân hàng truyền thống tiếp tục cho vay nên dự kiến phát hành trái phiếu
để huy động vốn. Với áp lực này thì có khả năng dẫn đến việc trình bày BCTC sai sự thật
về các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lãi lỗ và khả năng thanh toán các khoản nợ.
Bản chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: quy trình công nghệ, số lượng
đơn vị phụ thuộc, sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp ra thị trường, số lượng
nhà cung cấp, giá cả ... có ảnh hưởng đến mức độ rủi ro tiềm tàng của doanh nghiệp.
Chẳng hạn như doanh nghiệp có nhiều nhà cung cấp và giá cả ổn định thì ít rủi ro hơn vì
ít bị ảnh hưởng do thiếu nguyên vật liệu hoặc giá cả đầu vào ổn định.
Yếu tố về môi trường kinh doanh và ngành nghề kinh doanh.
- Ở góc độ các khoản mục, nghiệp vụ:
Các khoản mục đã được yêu cầu điều chỉnh trước đây.
Sự phức tạp trong tính toán số liệu trong các nghiệp vụ kinh tế.
Những ước tính đối với một số khoản mục như: lập dự phòng, trích khấu hao,
phân bổ trích trước chi phí...
Một số tài sản dễ mất mát, tham ô: tiền, vàng, bạc, đá quý
Các nghiệp vụ bất thường và tính toán phức tạp
Các nghiệp vụ lần đầu tiên xảy ra.
Các giao dịch phát sinh cuối năm.
Khi phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng ở một doanh nghiệp, đòi hỏi KTV phải có
một sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện và đầy đủ về thực trạng hoạt động của doanh nghiệp
và các yếu tố tác động đến rủi ro tiềm tàng cũng như đòi hỏi KTV phải có một sự xét
đoán nghề nghiệp với những kinh nghiệm khá tốt mới có thể có được một đánh giá đúng
đắn vể rủi ro tiềm tàng.
2.2 Rủi ro kiểm soát
2.2.1 Khái niệm
Theo VSA số 400 thì “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng
nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang 9
10. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và
sửa chữa kịp thời.”
Như vậy, rủi ro kiểm soát là xác suất tồn tại các sai phạm trọng yếu trên báo cáo
tài chính mà hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không phát hiện và ngăn chặn kịp thời.
Rủi ro kiểm soát luôn tồn tại do những hạn chế vốn có của hệ thống kiểm soát nội
bộ:
- Phạm vi của KSNB bị giới hạn bởi vấn đề chi phí. Bởi vì các nhà quản lý luôn
đòi hỏi chi phí cho cuộc kiểm tra phải hiệu quả, nghĩa là phải ít hơn tổn thất do
sai phạm và gian lận gây ra.
- Hầu hết các biện pháp kiểm tra đều tập trung vào các sai phạm thông thường
hoặc có thể dự kiển được, vì thế khó phát hiện được các sai phạm đột xuất hay
bất thường.
- Sai phạm của nhân viên xảy ra do sự thiếu thận trọng, xao nhãng, sai lầm trong
xét đoán hoặc hiểu sai các hướng dẫn của cấp trên.
- Việc điều hành và kiểm tra có thể bị vô hiệu hóa do có sự thông đồng với bên
ngoài hoặc giữa các nhân viên trong đơn vị.
- Các thủ tục kiểm soát có thể không còn phù hợp vì điều kiện thực tế đã thay
đổi.
Tóm lại, hệ thống KSNB hữu hiệu sẽ hạn chế bớt những sai sót và gian lận nhưng
không thể loại trừ hoàn toàn các sai phạm có thể xảy ra. KTV chỉ có thể dựa vào KSNB
của đơn vị để giảm bớt một phần công việc kiểm tra của mình nhưng không thể dựa hoàn
toàn vào hệ thống này. Chính vì vậy, KTV vẫn phải tiến hành các thử nghiệm cơ bản
ngay cả khi hệ thống KSNB của đơn vị được đánh giá là rất hữu hiệu.
2.2.2 Trách nhiệm của KTV
KTV không tạo ra và cũng không kiểm soát được rủi ro kiểm soát, KTV chỉ có thể
đánh giá hệ thống KSNB của đơn vị mạnh hay yếu sau khi tìm hiểu và đưa ra mức rủi ro
kiểm soát (thấp, trung bình hoặc cao).
KTV có thể đánh giá rủi ro kiểm soát là cao trong trường hợp:
- Hệ thống KSNB không đầy đủ và hoạt động không hiệu quả.
- KTV không có được đầy đủ cơ sở để đánh giá sự thích hợp, đầy đủ và hiệu quả
của hệ thống KSNB doanh nghiệp.
KTV có thể đánh giá rủi ro kiểm soát là thấp khi:
- KTV có đầy đủ điều kiện và có kế hoạch để thực hiện các thử nghiệm kiểm
soát nhằm khẳng định việc đánh giá rủi ro của mình.
- KTV có đầy đủ bằng chứng và cơ sở để kết luận hệ thống KSNB có hiệu quả.
Tức là hệ thống này có khả năng ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các
gian lận, sai sót trọng yếu trong doanh nghiệp.
Sự đánh giá của KTV về rủi ro kiểm soát sẽ ảnh hưởng đến thời gian, nội dung và
phạm vi của các phương pháp kiểm toán.
2.2.3. Các nhân tố phổ biến ảnh hưởng đến CR
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
10
11. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Vì rủi ro kiểm soát phát sinh từ hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ nên
các thành phần của hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn vị cũng chính là các nhân tố ảnh
hưởng đến rủi ro kiểm soát. Do vậy, để đánh giá rủi ro kiểm soát KTV phải dựa vào sự
hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, cụ thể là các thành phần của
hệ thống kiểm soát nội bộ:
Môi trường kiểm soát: môi trường kiểm soát có ảnh hưởng đến sự nhất quán
giữa các chính sách của nhà quản lý và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và các thủ tục
hoạt động kiểm soát do đó khi tìm hiểu về môi trường kiểm soát KTV cần thu thập thông
tin về: các đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, các
yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới việc thiết kế và thực hiện hệ thống KSNB.
Hệ thống thông tin kế toán: kế toán không chỉ cung cấp thông tin cần thiết cho
quản lý mà còn thực hiện việc kiểm tra, giám sát nhiều mặt hoạt động của đơn vị, góp
phần bảo vệ tài sản của đơn vị không bị thất thoát, gian lận hoặc sử dụng lãng phí. Vì
vậy, hệ thống kế toán mạnh góp phần làm cho hệ thống KSNB của đơn vị hoạt động hiệu
quả.
Các thủ tục, hoạt động kiểm soát: KTV cần kiểm tra việc thực hiện các nguyên
tắc kiểm soát cơ bản được đề ra trong doanh nghiệp như: phê duyệt và ủy quyền, phân
công phân nhiệm, bất kiêm nhiệm và hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ trong đơn
vị.
2.3. Rủi ro phát hiện
2.3.1. Khái niệm
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA) số 400 thì “Rủi ro phát hiện là rủi ro
xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi
tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm
toán không phát hiện được.”
Như vậy, rủi ro phát hiện là xác suất các thủ tục kiểm toán của kiểm toán viên
không phát hiện được các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính được kiểm toán.
Đây là rủi ro mang tính chủ quan của KTV. Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt
nguồn trực tiếp từ nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản đã được
thực hiện. Thông thường mức rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu KTV tăng các thử
nghiệm chi tiết trên số dư hoặc nghiệp vụ, mở rộng phạm vi kiểm tra hoặc tăng cường cở
mẫu của các thử nghiệm.
2.3.2. Trách nhiệm của KTV
Ngược với rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên có trách nhiệm thực
hiện các các thủ tục thu thập bằng chứng kiểm toán để quản lý và kiểm soát đối với rủi ro
phát hiện.
2.3.3. Các nhân tố phổ biến ảnh hưởng đến DR
Rủi ro phát hiện thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
- Rủi ro do chọn mẫu: KTV chọn mẫu không đại diện cho tổng thể được kiểm
toán do đó kết luận của KTV dựa trên kết quả mẫu khác với kết quả thực tế
tổng thể
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
11
12. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
- Rủi ro không do chọn mẫu:
+ Phạm vi kiểm toán: nếu phạm vi kiểm toán càng rộng thì khả năng phát hiện
gian lận, sai sót càng tăng lên. Tức là khả năng không phát hiện gian lận, sai sót giảm đi
có nghĩa là rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
+ Phương pháp kiểm toán: nếu phương pháp kiểm toán càng khoa học, thích hợp
và hiệu quả thì khả năng phát hiện các gian lận, sai sót tăng lên tức là những gian lận, sai
sót không phát hiện được giảm xuống có nghĩa là rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
+ Trình độ, kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp của KTV: KTV có
trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm và khả năng xét đoán tốt thì dễ phát hiện
được nhiều gian lận và sai sót và do đó rủi ro phát hiện sẽ giảm và ngược lại. Việc xác
định phạm vi kiểm toán và lựa chọn phương pháp kiểm toán lại lệ thuộc vào trình độ và
kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Không thể tùy tiện
mở rộng phạm vi kiểm toán để hạn chế rủi ro phát hiện. Nếu KTV có trình độ cao, nhiều
kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp tốt thì sẽ xác định phạm vi kiểm toán
thích hợp và lựa chọn phương pháp kiểm toán phù hợp, nhờ đó hạn chế được rủi ro phát
hiện ở mức hợp lý.
2.4 Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và các thành phần của nó:
Rủi ro kiểm toán do ba bộ phận cấu thành là: rủi ro tiểm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi
ro phát hiện và giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát là hai loại rủi ro vẫn luôn tồn tại trong hoạt động và môi trường kinh doanh của
doanh nghiệp cũng như tồn tại trong bản chất của các khoản mục, nghiệp vụ kinh tế.
KTV không tạo ra và cũng không thể kiểm soát được chúng. KTV chỉ có thể thông qua
thu thập bằng chứng kiểm toán tại đơn vị khách hàng và bằng kinh nghiệm của mình để
đánh giá mức độ của chúng. Ngược lại, KTV có thể kiểm soát và điều chỉnh mức độ rủi
ro phát hiện thông qua việc lập kế hoạch kiểm toán phù hợp, định hướng, giám sát và
kiểm tra chặt chẽ, điều chỉnh nội dung, thời gian, phạm vi và thực hiện có hiệu quả các
thủ tục kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát quyết định đến khối lượng, quy
mô, phạm vi và chi phí kiểm toán. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì
KTV phải dự kiến rủi ro phát hiện là thấp. Có nghĩa là, trong trường hợp này, KTV phải
làm nhiều công việc kiểm toán với quy mô, chi phí kiểm toán lớn. Mức độ rủi ro phát
hiện luôn có quan hệ ngược chiều với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Mối quan hệ
giữa ba bộ phận rủi ro này được thể hiện thông qua 2 dạng mô hình định tính và định
lượng.
Mô hình định tính:
Dựa trên cơ sở đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, mức rủi
ro phát hiện được xác định theo ma trận sau:
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
12
13. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Bảng 2: Ma trận đánh giá mức rủi ro phát hiện:
Rủi ro phát hiện Đánh giá của KTV về rủi ro kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Đánh giá của KTV về
Trung bình Thấp Trung bình Cao
rủi ro tiềm tàng
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Ma trận minh họa về mối quan hệ giữa các loại rủi ro do KTV dự kiến thường
được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi
thực hành kiểm toán, nếu KTV có bằng chứng để điều chỉnh lại rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát thì rủi ro phát hiện cũng được KTV điều chỉnh lại.
Mô hình định lượng:
Về mặt định lượng mối quan hệ giữa các loại rủi ro được thể hiện qua công thức
sau:
AR = IR x CR x DR
AR
Hay: DR=
CR x IR
Trong đó:
- AR: Rủi ro kiểm toán (Audit risk)
- IR : Rủi ro tiềm tàng (Inherent risk)
- CR: Rủi ro kiểm soát (Control risk)
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
13
14. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
- DR: Rủi ro phát hiện (Detection risk).
Tuy được biểu thị bằng công thức nhưng cần phải lưu ý rằng đây không phải là
công thức thuần túy về mặt toán học mà là mô hình dùng để trợ giúp KTV trong việc
phán đoán và xác định mức độ sai sót có thể chấp nhận được để làm cơ sở thiết kế các thủ
tục kiểm toán . Việc đánh giá rủi ro kiểm toán (bao gồm cả đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi
ro kiểm soát, rủi ro phát hiện) có thể được thay đổi trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Ví dụ: khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, KTV phát hiện thêm những thông tin khác
biệt so với thông tin ban đầu thì KTv phải thay đổi lại kế hoạch thực hiện thử nghiệm cơ
bản cho phù hợp với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đã được KTV điều chỉnh lại.
2.5 Một số lưu ý khi sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán
- Việc vận dụng mô hình rủi ro trong thực tế là một vấn đề phức tạp. Khi vận
dụng sẽ có sự khác nhau giữa các đơn vị được kiểm toán và các công ty kiểm toán do
việc đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát ở các đơn vị được kiểm toán có sự khác
nhau và tính thận trọng của mỗi KTV và công ty kiểm toán cũng có sự khác nhau.
- KTV chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động đến rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát. Trong trường hợp không thể đánh giá được thì chấp nhận ở mức tối đa.
- KTV chủ động quyết định mức rủi ro phát hiện bằng cách điều chỉnh nội dung,
phạm vi và thời gian của các thử nghiệm cơ bản.
-Khi lập kế hoạch kiểm toán KTV thường phải ấn định mức trọng yếu hay những
sai phạm có thể chấp nhận được ở mức thấp hơn so với mức dùng làm căn cứ để đánh
giá của KTV nhằm tạo ra một khoảng lề an toàn cho KTV trong quá trình kiểm toán.
-Rủi ro kiểm soát luôn luôn không được loại trừ vì những hạn chế vốn có của hệ
thống KSNB, và rủi ro kiểm toán không bao giờ bằng không.
-Dù cho rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức độ thấp nhất thì
KTV vẫn phải thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với các nghiệp vụ và số dư tài khoản
trọng yếu.
-Rủi ro kiểm soát ở đơn vị có qui mô nhỏ khác với đơn vị có qui mô lớn, vì hệ
thống kiểm soát có sự khác nhau. Ở đơn vị có qui mô lớn, quá trình kiểm soát tuân thủ
nguyên tắc bất kiêm nhiệm, còn đơn vị có qui mô nhỏ lại vi phạm nguyên tắc này.
Thường một người kiêm nhiệm nhiều việc, vừa làm vừa kiểm tra kiểm soát. Trường hợp
này, kết luận của KTV phải hoàn toàn dựa trên bằng chứng thu được từ các thử nghiệm
cơ bản.
2.6 Sự cần thiết phải xác định rủi ro kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ): "Đánh giá rủi ro kiểm toán là việc KTV và công ty kiểm toán xác định mức độ rủi ro
kiểm toán có thể xảy ra là cao hay thấp, bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch và trước
khi thực hiện kiểm toán".
Chúng ta biết rằng rủi ro kiểm toán luôn tồn tại trong mọi cuộc kiểm toán do đó,
khả năng để kiểm toán viên nhận xét không xác đáng về báo cáo tài chính là điều luôn có
thể xảy ra. Vấn đề đặt ra là phải đánh giá hợp lý các loại rủi ro để đánh giá đúng bản chất
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
14
15. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
đối tượng kiểm toán cũng như đảm bảo tính hợp lý trong việc lập kế hoạch và thực hiện
cuộc kiểm toán. Do đó, ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro kiểm toán là rất lớn, mang lại lợi
ích thiết thực trong tất các các giai đoạn của cuộc kiểm toán, nhất là trong giai đoạn đầu
tiên của cuộc kiểm toán.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp kiểm
toán viên:
- Giới hạn phạm vi công việc kiểm toán ở mức độ cần thiết để vừa tiết kiệm được
thời gian vừa đảm bảo chất lượng kiểm toán với mức phí hợp lý và cạnh tranh.
- Xác định được những khoản mục hoặc nhóm nghiệp vụ chứa rủi ro cao, từ đó tập
trung nguồn lực để thỏa mãn các mục tiêu kiểm toán.
2.7 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, việc xác định
mức trọng yếu có ý nghĩa rất lớn đối với việc đánh giá rủi ro kiểm toán. Nếu mức trọng
yếu (mức sai sót có thể chấp nhận được) tăng lên thì rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống. Nói
cách khác, khi nào KTV tăng giá trị sai sót có thể bỏ qua, lúc đó khả năng có sai lệch
trọng yếu sẽ giảm và rủi ro kiểm toán rõ ràng sẽ giảm. Ngược lại, nếu giảm mức sai sót
có thể chấp nhận được, lúc đó rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Mối quan hệ này có một ý
nghĩa rất quan trọng đối với KTV khi lập kế hoạch kiểm toán để nhằm xác định về nội
dung, phạm vi, thời gian của các thủ tục kiểm toán cần áp dụng. Chẳng hạn như khi lập
kế hoạch kiểm toán, KTV xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được là thấp thì rủi
ro kiểm toán sẽ tăng lên, trường hợp này, để giảm mức độ rủi ro kiểm toán, KTV có thể :
-Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá, KTV sẽ thực hiện bằng cách mở
rộng hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm
soát; hoặc
-Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của
những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán của KTV ở thời điểm lập kế
hoạch kiểm toán có thể khác với kết quả đánh giá ở các thời điểm khác nhau trong qua
trình kiểm toán. Sự khác nhau này là do sự thay đổi tình hình thực tế hoặc thay đổi hiểu
biết của KTV về đơn vị được kiểm toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
15
16. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
PHẦN HAI: THỰC TẾ CÔNG TÁC XÁC LẬP MỨC TRỌNG YẾU VÀ
RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI AAC
I. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ KẾ TOÁN AAC
1. Quá trình hình thành và phát triển
Tên công ty: Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC
Tên viết tắt : AAC
Tên giao dịch bằng tiếng Anh : AAC Auditing and Accounting Co.,Ltd
Trụ sở chính : 217 Nguyễn Văn Linh. TP Đà Nẵng
Điện thoại : (84) 0511 3 655 886
Fax : (84) 0511 3 655 887
E-mail : aac@dng.vnn.vn
Website : http://www.aac.com.vn
Logo:
Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC (trước đây là Công ty
Kiểm toán và Kế toán AAC ) trực thuộc Bộ Tài Chính, là một trong số rất ít các công ty
kiểm toán được thành lập đầu tiên tại Việt Nam, được thành lập trên cơ sở quyết định số
194/TC/TCCB ngày 01/04/1993 và Quyết định số 106/TC-BTC ngày 13/02/1995 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính. Hiện nay, AAC là một thành viên của Hãng kiểm toán quốc tế
IGAF Polaris.
AAC hoạt động trên phạm vi toàn quốc, được phép kiểm toán tất cả các loại hình
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các ngành có qui chế riêng về việc lựa
chọn và bổ nhiệm kiểm toán độc lập có điều kiện như kiểm toán các tổ chức niêm yết trên
sàn giao dịch chứng khoán, các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán...
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
16
17. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Liên tiếp trong hai năm 2007 và 2008, AAC được Bộ Công Thương bình chọn là
một trong 05 công ty kiểm toán hoạt động tốt nhất tại Việt Nam và được trao giải
“Thương mại dịch vụ - Top Trade Services” .
Năm 2009, AAC được Đài Tiếng nói Việt Nam, Bộ Công Thương, Bộ Lao Động
Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa Thể thao và
Du lịch, … bình chọn và trao cúp vàng “Doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu”.
Tháng 10/2009, AAC được Hiệp hội kinh doanh Chứng khoán Việt Nam (VASB),
Tạp chí Chứng khoán Việt nam (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), trung tâm thông tin
Tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC), Công ty Cổ phần truyền thông Tài chính
Chứng khoán Việt Nam (VNSF media), Công ty Cổ phần Chứng khoán Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VICS), Công ty Cổ phần Văn hóa Thông tin Thăng Long
(TIC.media) trao tặng danh hiệu “Tổ chức kiểm toán niêm yết uy tín”.
Từ nhiều năm nay, AAC được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận đủ điều
kiện để kiểm toán các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng
khoán tại Việt Nam.
2. Phương châm hoạt động
Phương châm hoạt động của AAC là “Chất lượng trong từng dịch vụ” và AAC
luôn đề cao nguyên tắc độc lập, khách quan, trung thực và bí mật số liệu của khách hàng
trong các giao kết dịch vụ.
AAC giúp khách hàng và những người quan tâm bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ,
cung cấp cho họ những thông tin đích thực và cần thiết để tổ chức điều hành hoạt động
của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các quyết định quản lý phù hợp với thực tiễn. Hoạt
động của AAC còn nhằm góp phần phát hiện và ngăn ngừa những rủi ro cho doanh
nghiệp, trợ giúp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi và đạt hiệu
quả kinh tế cao nhất.
Công ty AAC thực hiện kiểm toán theo đúng các Nguyên tắc, Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam và thông lệ kiểm toán quốc tế, phù hợp với những quy định hiện hành về
hoạt động kiểm toán của Nhà nước Việt Nam.
Hiện nay, AAC có đội ngũ gồm trên 150 nhân viên chuyên nghiệp, 100% tốt
nghiệp đại học và trên đại học, 15% đã được công nhận là chuyên gia kinh tế, thạc sỹ
kinh tế từ các trường đại học trong và ngoài nước.Nhân viên của công ty có ý thức trách
nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp, làm việc chuyên nghiệp, được đào tạo có hệ thống ở
Việt Nam, Anh, Bỉ, Pháp, Úc,Ai-len, Nhật Bản… và có nhiều năm kinh nghiệm thực tiễn
về kiểm toán và tư vấn tài chính - kế toán - thuế ở Việt Nam và quốc tế. 100% đội ngũ
Kiểm toán viên và Trợ lý Kiểm toán viên cao cấp của AAC được đào tạo trực tiếp bởi các
Chuyên gia cao cấp về Kiểm toán của Cộng đồng Châu Âu thông qua chương trình hợp
tác về Kiểm toán và Kế toán của Dự án EURO – TAPVIET do Cộng đồng Châu Âu tài
trợ.
Trong quá trình phục vụ khách hàng, bản lĩnh nghề nghiệp, hiệu quả công việc và
thiện chí của nhân viên AAC được khách hàng đánh giá cao, góp phần tạo ra mối quan hệ
tốt đẹp của AAC và khách hàng.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
17
18. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
3. Chức năng và lĩnh vực hoạt động
Bốn năm sau thời gian chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Tài
chính sang mô hình Công ty TNHH hoạt động độc lập, AAC đã từng bước khẳng định
năng lực và uy tín của mình trên thị trường kiểm toán Việt Nam. Hoạt động của AAC
ngày càng đi vào chiều sâu với sự chú trọng vào các lĩnh vực dịch vụ mang tính giá trị gia
tăng cao như tư vấn tài chính, tư vấn thuế, dịch vụ tin học, tư vấn quản lý và đào tạo song
song với việc không ngừng hoàn thiện các dịch vụ kiểm toán và đảm bảo truyền thống:
Dịch vụ kiểm toán:
Đây là hoạt động mang lại doanh thu chính cho công ty. Các dịch vụ kiểm toán mà
AAC cung cấp cho khách hàng là:
Kiểm toán Báo cáo tài chính.
Kiểm toán Báo cáo tài chính vì mục đích thuế.
Kiểm toán Hoạt động.
Kiểm toán Tuân thủ.
Kiểm toán Nội bộ.
Kiểm toán Thông tin tài chính trên cơ sơ thủ tục thỏa thuận trước.
Kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB.
Kiểm toán Báo cáo dự toán vốn đầu tư XDCB.
Trong đó, kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán xây dựng cơ bản là hai mảng
kiểm toán chính của công ty.
Dịch vụ kế toán:
Dịch vụ ghi sổ và giữ sổ kế toán.
Hướng dẫn nghiệp vụ kế toán cho các nhân viên kế toán của các đơn vị.
Lập báo cáo tài chính định kỳ.
Chuyển đổi các báo cáo tài chính được lập theo VAS, IAS.
Thiết kế và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy kế toán cho các đơn vị.
Dịch vụ tư vấn tài chính :
AAC cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính sau:
Tư vấn thành lập và quản lý doanh nghiệp.
Tư vấn thiết lập cơ chế tài chính nội bộ.
Tư vấn việc sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán – tài chính phù hợp với yêu cầu
quản lý.
Soát xét BCTC.
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá hoặc phá sản doanh nghiệp.
Thẩm định tình hình tài chính và giá trị tài sản tranh chấp, kiện tụng.
Dịch vụ tư vấn thuế:
• Đăng ký và kê khai thuế.
• Tư vấn kế hoạch thuế.
• Cung cấp các văn bản thuế có liên quan.
Tư vấn quản lý và đào tạo:
Các dịch vụ tư vấn & đào tạo do AAC cung cấp bao gồm:
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
18
19. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Đăng ký chế độ kế toán doanh nghiệp.
Tư vấn thực hành thuế.
Tư vấn đầu tư và thủ tục cấp phép.
Tư vấn thành lập doanh nghiệp.
Tư vấn xác định giá trị và cổ phần hóa doanh nghiệp.
Tư vấn tổ chức bộ máy kế toán.
Tư vấn tài chính.
Tổ chức lớp chuẩn mực kiểm toán và kế toán.
Tổ chức lớp kiểm toán nội bộ.
Tổ chức lớp ôn tập và cấp chứng chỉ hành nghề kế toán.
Tổ chức lớp bồi dưỡng kế toán trưởng.
Tổ chức lớp thực hành kế toán.
Tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức chứng khoán.
Dịch vụ tin học
Cung cấp và tư vấn việc lựa chọn các phần mềm tin học về kế toán và quản lý .
Tư vấn việc lựa chọn trang bị các thiết bị tin học.
Các dịch vụ khác có liên quan.
4. Cơ cấu tổ chức và quản lý:
TỔNG GIÁM ĐỐC
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý
PHÓ TGĐ KHỐI PHÓ TGĐ KHỔI
KIỂM TOÁN KIỂM TOÁN BCTC
XDCB
PHÒNG PHÒNG
KHỐI TƯ VẤN KHỔI
KIỂM CHI KẾ KIỂM
- ĐÀO NHÁNH TOÁN
TOÁN TẠO TOÁN
XDCB TP. HCM HÀNH BCTC
CHÍNH
Phòng Ban Phòng Phòng Phòng Phòng
Ban Phòng
kiểm kiểm kiểm kiểm kiểm kiểm
kiểm kiểm
SVTH: Nguyễn Thị Như toán
soát toán soát
Quỳnh_ Lớp 34k06.3 toán toán toánTrang toán
XDCB 19
chất XDCB XDCB XDCB XDCB
chất XDCB
2 lượng 1 2 3 4
lượng 1
20. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Sơ đồ tổ chức nhân sự:
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
20
21. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Tổng giám đốc: Là người đại diện toàn quyền của công ty, chịu trách nhiệm
trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của công ty:
Đánh giá rủi ro của một hợp đồng kiểm toán liên quan đến hoạt động của công
ty.
Duy trì mối quan hệ với các cán bộ cao cấp của công ty.
Chịu trách nhiệm giải đáp các thắc mắc về kế toán và kiểm toán có tầm quan
trọng.
Chịu trách nhiệm đánh giá công việc kiểm toán đã được thực hiện.
Chịu trách nhiệm ký Báo cáo kiểm toán và thư quản lý.
Chịu trách nhiệm tham gia buổi họp với khách hàng sau khi kết thúc cuộc kiểm
toán hoặc ủy quyền lại.
Phó tổng giám đốc:
Phó giám đốc được phân công uỷ quyền giải quyết cụ thể các vấn đề liên quan
đến nhân lực, hành chính, khách hàng và các vấn đề về nghiệp vụ.
Phó giám đốc chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật Nhà nước về
những vấn đề được phân công và uỷ quyền.
Giám đốc các khối:
Phụ trách chuyên môn nghiệp vụ, nhân sự, hành chính, tổ chức phối hợp công
việc thực hiện giữa các nhóm làm việc trên hai lĩnh vực hoạt động Xây dựng cơ bản và
Báo cáo tài chính.
Trưởng, phó phòng:
Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Tổng Giám Đốc và đóng vai trò quan
trọng trong lĩnh vực hoạt động của công ty. Trưởng phòng giữ vai trò lãnh đạo
trong ban quản lý của công ty, họ có chức năng như một cầu nối giữa Tổng
Giám Đốc, ban quản lý và các nhân viên trong công ty, chịu trách nhiệm về các
vấn đề liên quan đến nhân sự, phối hợp hoạt động và đảm nhận các vấn đề về
công việc hành chính.
Phó phòng là người tham mưu trực tiếp cho trưởng phòng, thay mặt trưởng
phòng điều hành toàn bộ công việc trong thời gian trưởng phòng đi vắng và
thực hiện các công việc do trưởng phòng uỷ quyền.
Kiểm toán viên chính:
Giám sát công việc của các trợ lý.
Báo cáo trực tiếp với người quản lý phụ trách một vụ việc kiểm toán.
Xem xét giấy tờ làm việc sơ bộ, hỗ trợ đào tạo nhân viên, sắp xếp nhân sự cho
các cuộc kiểm toán.
Được ký vào các báo cáo kiểm toán theo sự phân công của trưởng phòng.
Trợ lý kiểm toán viên: Là những người tham gia thực hiện công tác kiểm toán
nhưng chưa được Nhà nước công nhận trúng tuyển kỳ thi Kiểm toán viên cấp Quốc gia.
Tùy vào năng lực, thâm niên công tác mà trợ lý kiểm toán viên chia làm ba cấp:
Trợ lý kiểm toán viên cấp 1: là người sau thời gian thử việc ba tháng, được
trúng tuyển chính thức vào công ty cho đến một năm sau đó. Theo thông lệ,
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
21
22. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
những người mới tốt nghiệp các trường các trường kinh doanh, các trường đại
học và những người có trình độ, kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực kiểm
toán và kế toán có thể làm việc cho công ty với tư cách là một trợ lý mới vào
nghề.
Trợ lý kiểm toán viên cấp 2: là người làm việc ở công ty kiểm toán được hai
năm chịu trách nhiệm về các công việc mà nhóm trưởng giao phó.
Trợ lý kiểm toán viên cấp 3: là người làm việc ở công ty được ba năm, có
nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán và có thể làm trưởng đoàn kiểm
toán.
5. Tổng quan quy trình kiểm toán BCTC áp dụng tại công ty Kiểm toán và
Kế toán AAC:
Hiện nay, công ty đang áp dụng chương trình kiểm toán mẫu do Hội kiểm toán
viên hành nghề Việt Nam VACPA ban hành. Chương trình kiểm toán gồm các giai đoạn
sau:
Bảng 3: Quy trình kiểm toán do VACPA ban hành
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
22
23. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
5.1 Lập kế hoạch kiểm toán:
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện
trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều kiện cần
thiết khác cho kiểm toán. Lập kế hoạch có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và
hiệu quả chung của cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập
được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị để làm cơ sở đưa ra các ý kiến xác
đáng về Báo cáo tài chính, từ đó giúp kiểm toán viên hạn chế những sai sót, giảm thiểu
trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững uy tín nghề nghiệp với
khách hàng. Bên cạnh đó, kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với
nhau cũng như phối hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ, các
chuyên gia bên ngoài…Đồng thời qua sự phối hợp hiệu quả đó, kiểm toán viên có thể
tiến hành cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với các chi phí ở mức hợp lý,
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
23
24. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho công ty và giữ vững uy tín với khách hàng trong
mối quan hệ làm ăn lâu dài. Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ dể công ty kiểm toán
tránh xảy ra những bất đồng với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm
toán viên thống nhất với khách hàng về nội dung công việc đã thực hiện, thời gian tiến
hành kiểm toán cũng như trách nhiệm mỗi bên. Điều này tránh xảy ra hiểu lầm đáng tiếc
giữa hai bên. Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, kiểm toán viên có thể
kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán, từ đó thắt chặt hơn mối quan hệ
giữa AAC và khách hàng. Việc lập kế hoạch do một kiểm toán viên giàu kinh nghiệm
thực hiện tùy theo qui mô khách hàng, tính chất phức tạp của công việc kiểm toán, kinh
nghiệm và những hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị và hoạt động của đơn vị được
kiểm toán. Trình tự các công việc cần thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch như sau:
Thứ nhất, xem xét chấp nhận khách hàng và đánh giá rủi ro hợp đồng. Công việc
này đòi hỏi kiểm toán viên phải xem xét trên các khía cạnh : tính độc lập, khả năng phục
vụ tốt khách hàng của công ty kiểm toán cũng như tính chính trực của Ban giám đốc của
doanh nghiệp được kiểm toán để đưa ra quyết định có chấp nhận hay duy trì một khách
hàng hay không. Việc đánh giá khả năng chấp nhận khách hàng tùy thuộc vào từng loại
khách hàng :
Đối với các khác hàng mới và chưa được công ty nào kiểm toán trước đây. Kiểm
toán viên cần nghiên cứu sách, báo, tạp chí chuyên ngành; từ luật sư của khách hàng;
ngân hàng, các doanh nghiệp có quan hệ với khách hàng, qua các phương tiện thông tin
đại chúng và thuê các nhà điều tra chuyên nghiệp… để có được những thông tin về khách
hàng.
Đối với khách hàng mới và đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán khác
KTV có thể liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm để có được những thông tin hữu ích về
khách hàng.
Những thông tin KTV cần thu thập là: loại hình của doanh nghiệp; các cổ đông
chính, HĐQT và BGĐ; mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng và công ty kiểm toán
được thiết lập như thế nào; mô tả ngành nghề kinh doanh của DN, hàng hóa, dịch vụ cung
cấp; kiểm tra các thông tin liên quan đến DN và những người lãnh đạo; lý do mời kiểm
toán là gì và phải giải thích lý do thay đổi công ty kiểm toán của BGĐ; mâu thuẫn lợi ích
của công ty với khách hàng; các sự kiện năm hiện tại của khách hàng… để có thể đánh
giá đúng rủi ro của hợp đồng cũng như quyết định có chấp nhận cung cấp dịch vụ cho
khách hàng hay không.
Đối với các khác hàng cũ, do công ty đã kiểm toán trước đây nên KTV chỉ cần cập
nhật các thông tin mới liên quan đến khách hàng chẳng hạn như những xung đột về lợi
ích, hoặc giữa đôi bên có sự mâu thuẫn về phạm vi kiểm toán, hoặc đang xảy ra tranh
chấp giữa khách hàng và KTV… và từ đó đánh giá xem có tiếp tục duy trì khách hàng
hay không.
Thứ hai, lập hợp đồng kiểm toán và lựa chọn nhóm kiểm toán.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
24
25. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Khi đã chấp nhận, duy trì khách hàng thì công ty cần phải tiến hành lựa chọn đội ngũ
kiểm toán.Việc lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán được tiến hành dựa trên yêu cầu về
số người, trình độ khả năng của KTV và yêu cầu về chuyên môn kỹ thuật. Thông thường
nhóm kiểm toán có một hoặc hai trợ lý kiểm toán, một KTV cao cấp và một chủ nhiệm
kiểm toán. Đối các hợp đồng kiểm toán lớn công ty luôn bố trí các nhân viên có các mức
độ kinh nghiệm khác nhau và có sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực thống kê,
tin học… Còn với những hợp đồng kiểm toán nhỏ thì công ty chỉ cần bố trí một hoặc hai
nhân viên kiểm toán. Khi lựa chọ đội ngũ kiểm toán công ty luôn xem xét đến tính độc
lập của kiểm toán viên, nếu có sự vi phạm đến tính độc lập thì tìm các biện pháp nằm
khắc phục vấn đề trên.
Sau đó, một hợp đồng kiểm toán giữa khách hàng và công ty sẽ được ký kết. Việc
ký kết hợp đồng kiểm toán nhằm xác định mục đích và phạm vi kiểm toán, trách nhiệm
của Ban giám đốc công ty khách hàng và KTV, hình thức thông báo kết quả kiểm toán,
thời hgian tiến hành cũng như căn cứ và hình thức thanh toán phí kiểm toán.
Thứ ba, tìm hiểu khách hàng và môi trường hoạt động. Với mục tiêu xác định và
hiểu các sự kiện, giao dịch và thông lệ kinh doanh của KH có ảnh hưởng trọng yếu tới
BCTC, KTV cần tìm hiểu về môi trường hoạt động và các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng
đến doanh nghiệp, các hiểu biết về doanh nghiệp để từ đó xác định sơ bộ các rủi ro và các
thủ tục kiểm toán cho các rủi ro đó.
Thứ tư, tìm hiểu chính sách kế toán và chu trình kinh doanh quan trọng. KTV tiến
hành hoạt động này nhằm xác định và hiểu được các giao dịch và sự kiện liên quan tới
chu trình kinh doanh quan trọng, đánh giá về mặt thiết kế và thực hiện đối với các thủ tục
kiểm soát chính của chu trình kinh doanh này, quyết định xem liệu có thực hiện kiểm tra
hệ thống KSNB, thiết kế các thủ tục kiểm tra cơ bản phù hợp và có hiệu quả. KTV sẽ
xem xét các chu trình sau:
Chu trình bán hàng_phải thu_thu tiền.
Chu trình mua hàng_ phải trả_chi tiền.
Chu trình hàng tồn kho_ giá thành_ giá vốn.
Chu trình lương và trích theo lương.
Chu trình TSCĐ và XDCB.
Thứ năm, phân tích sơ bộ báo cáo tài chính. Phân tích sơ bộ báo cáo tài chính giúp
KTV xác định các biến động bất thường cần được tìm hiểu các nguyên nhân lý giải hoặc
lưu ý khi tiến hành kiểm toán.
Thứ sáu, đánh giá chung về kiểm soát nội bộ và rủi ro gian lận. Việc đánh giá hệ
thống KSNB ở cấp độ DN giúp KTV xác định sơ bộ nhân tố rủi ro, gian lận, lập kế hoạch
kiểm toán và xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán. KTV
tiến hành trao đổi, phỏng vấn Bộ phận Kiểm toán nội bộ/ Ban Kiểm soát về các thủ tục
mà Bộ phận Kiểm toán nội bộ/ Ban Kiểm soát đã thực hiện trong năm nhằm phát hiện
gian lận và phản ứng, biện pháp xử lý của Ban Giám đốc đối với các phát hiện đó.
Thứ bảy, xác định mức trọng yếu và phương pháp chọn mẫu, cỡ mẫu. trên cơ sở
các thông tin có được KTV tiến hành xác định mức trọng yếu (kế hoạch - thực tế) được lập
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
25
26. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
và phê duyệt theo chính sách của công ty từ đó xác định phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
cho các vùng kiểm toán chính.
Cuối cùng, tổng hợp kế hoạch kiểm toán. KTV tiến hành tổng hợp các công việc
đã thực hiện để xác định lại các vấn đề cần lưu ý trước khi tiến hành kiểm toán.
5.2 Thực hiện kiểm toán
Trong giai đoạn này KTV tiến hành theo kế hoạch kiểm toán đã được lập ở giai
đoạn trước. KTV sẽ tiến hành kiểm tra lại hệ thống KSNB của khách hàng để soát xét lại
tính hoạt động hữu hiệu của các thủ tục KSNB đối với từng chu trình, khoản mục để từ
đó điều chỉnh cho phù hợp các thử nghiệm kiểm toán đã được lập trong giai đoạn lập kế
hoạch. Căn cứ vào việc đánh giá hệ thống KSNB, KTV sẽ tiến hành các thử nghiệm kiểm
soát, thử nghiệm cơ bản( khi rủi ro kiểm soát ở mức thấp, trung bình) hoặc chỉ tiến hành
thử nghiệm cơ bản( khi rủi ro kiểm soát ở mức cao) đối với tài sản, nợ phải trả, nguồn
vốn chủ sở hữu và các tài khoản ngoài bảng, báo các kết quả hoạt động kinh doanh và các
nội dung khác như: kiểm tra tính tuân thủ pháp luật và các quy định, soát xét các bút toán
tổng hợp, các giao dịch với các bên liên quan, các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc
năm tài chính, đánh giá khả năng hoạt động liên các tài sản, nợ tiềm tàng và các khoản
cam kết, các thay đổi chính sách kế toán và sai sót… Khi thực hiện kiểm toán KTV có
thể sử dụng các kĩ thuật như: kiểm kê, gửi thư xác nhận, xác minh tài liệu, quan sát,
phỏng vấn, tính toán, phân tích… để có thể thu thập được các bằng chứng thích hợp.
Đánh giá lại mức trọng yếu là công việc cuối cùng KTV cần thực hiện trong giai đoạn
thực hiện kiểm toán nhằm đánh giá ảnh hưởng của các gian lận, sai sót được điều chỉnh
và ảnh hưởng của những sai sót chưa được điều chỉnh (nếu có) đối với BCTC.
5.3 Kết thúc kiểm toán
Dựa trên các bước công việc đã thực hiện, KTV tiến hành tổng hợp kết quả kiểm
toán. KTV sẽ tổng hợp kết quả kiểm tra các vấn đề phát hiện trong giai đoạn lập kế
hoạch, các vấn đề phát sinh trong quá trình kiểm toán, hướng xử lý cũng như các vấn đề
lưu ý khi thực hiện kiểm toán trong năm sau. Sau đó, KTV sẽ tiến hành phân tích tổng thể
báo cáo tài chính lần cuối, thống nhất những bút toán điều chỉnh với khách hàng và tiến
hành lập báo cáo tài chính (lưu ý: lập báo cáo tài chính là trách nhiệm của khách hàng),
thu thập thư giải trình của Ban giám đốc. KTV tiến hành xem xét các sự kiện phát sinh
sau ngày kết thúc niên độ cũng như xem xét giả thiết hoạt động liên tục. Cuối cùng KTV
lập báo cáo kiểm toán, đóng hồ sơ. Để đảm bảo cuộc kiểm toán đã được kiểm soát chặt
chẽ từ khâu lập kế hoạch kiểm toán đến khi kết thúc kiểm toán, tuân thủ các Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam, các bằng chứng kiểm toán thích hợp đã được thu thập đầy đủ phục
vụ cho việc đưa ra ý kiến kiểm toán trưởng nhóm kiểm toán gửi hồ sơ làm việc và bản
thảo báo cáo kiểm toán lên phòng kiểm soát, giám đốc kiểm tra phê duyệt và xin ý kiến .
Sau khi bản thảo được duyệt, trưởng nhóm lập báo cáo kiểm toán chính thức, thư quản lý
và trình lên ban soát xét và giám đốc ký duyệt. Sau đó gửi cho hội đồng quản trị khách
hàng.Tất cả những thông tin về cuộc kiểm toán sẽ được trình bày giữ lại và lưu trong hồ
sơ kiểm toán của công ty.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
26
27. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
II. CÔNG TÁC XÁC LẬP MỨC TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI AAC.
1. Xác định rủi ro kiểm toán
Trước khi xác định nội dung, phạm vi, các thử nghiệm kiểm toán cần thực hiện
KTV của AAC luôn tiến hành tìm hiểu khách hàng và môi trường hoạt động, hệ thống
kiểm soát nội bộ của khách hàng để từ đó xác định rủi ro kiểm toán chung cho Báo cáo
tài chính, rủi ro cho từng khoản mục, chu trình. Ngoài ra, quá trình phân tích sơ bộ
BCTC cũng giúp KTV hiểu rõ hơn về hoạt động kinh doanh của khách hàng, các biến
động bất thường cần phải lưu ý trong quá trình kiểm toán.
1.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Tại công ty Kiểm toán và kế toán AAC,việc đánh giá rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ
báo cáo tài chính và trên từng khoản mục không được thể hiện trên giấy tờ làm việc.
1.1.1 Ở mức độ tổng thể BCTC
Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phạm vi toàn bộ báo cáo tài chính được KTV
lồng vào khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán được lưu giữ ở mục [A110], và tìm
hiểu khách hàng và môi trường hoạt động ở mục [A310].
Trong đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng: AAC đưa ra 3 mức đánh giá rủi ro hợp
đồng kiểm toán là cao, trung bình và thấp. Cụ thể là:
- Nếu rủi ro kiểm toán được đánh giá là thấp thì cuộc kiểm toán được chấp nhận
mà không có sự xem xét gì thêm.
- Nếu rủi ro kiểm toán được đánh giá là trung bình thì trưởng nhóm phụ trách
hợp đồng thu thập thêm sự đồng ý của trưởng phòng kiểm toán, phù hợp với
chính sách và thủ tục trong công ty.
- Nếu rủi ro kiểm toán được đánh giá là cao thì Giám đốc phải xem xét đưa ra
kết luận cuối cùng.
Thông thường, một hợp đồng có mức độ rủi ro cao khi có một trong các đặc điểm
sau:
- Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.
- Công ty đại chúng.
- Công ty có dấu hiệu nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục.
- Công ty có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Có nghi ngờ về tính chính trực của BGĐ/Ban Quản trị.
- BGĐ Công ty có sức ép lớn phải hoàn thành các chỉ tiêu tài chính năm.
- Công ty đang có kiện tụng, tranh chấp.
- Công ty đang có kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước.
- Các năm trước có lãi lớn nhưng năm nay bị lỗ lớn.
- BCTC có nhiều khoản nợ phải trả lớn, đầu tư tài chính dài hạn lớn, nhiều hoạt
động liên doanh, liên kết…lớn.
- Thường xuyên thay đổi HĐQT, BGĐ, Kế toán trưởng.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
27
28. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
Khi tìm hiểu về khách hàng và môi trường hoạt động KTV sẽ thu thập những
thông tin liên quan đến :
Môi trường kinh doanh chung, môi trường pháp lý mà DN hoạt động.
Ngành nghề kinh doanhcủa DN.
Hoạt động và tình hình kinh doanh.
Cấu trúc tổ chức của DN .
Các thay đổi lớn về quy mô hoạt động của DN.
Hiểu biết về hệ thống kế toán áp dụng.
Việc thu thập các thông tin cần thiết về tình hình kinh doanh của đơn vị là một quá
trình bao gồm thu thập, đánh giá và đối chiếu thông tin thu thập được với các bằng
chứng. Tuy nhiên, thời gian thu thập những thông tin này phụ thuộc vào quy mô của đơn
vị được kiểm toán, những kinh nghiệm và hiểu biết trước đây của KTV về đơn vị được
kiểm toán.
Các thông tin chung về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động kinh doanh cũng như các
thông tin liên quan đến các chính sách kế toán được áp dụng sẽ giúp KTV có thể xác
định được các rủi ro tiềm tàng trên phương diện BCTC. Và theo đó, KTV thường đánh
giá rủi ro tiềm tàng cao nếu sự thu thập hiểu biết về khách hàng cho thấy các điều kiện
sau:
• Hoạt động trong ở những ngành nghề chứa đựng nhiều rủi ro .
• Hoạt động trong môi trường với mức độ phức tạp cao của các qui định có liên
quan.
• Sự thay đổi về ngành nghề hoạt động kinh doanh của đơn vị.
• Có sự thay đổi lớn trong cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp như tái tổ chức
lại hay có các sự kiện bất thường diễn ra.
• Thiếu các nhân sự chủ chốt về mặt tài chính.
• Sự thay đổi của hệ thống công nghệ thông tin liên quan đến việc báo cáo thông
tin tài chính.
• Sự áp dụng các nguyên tắc kế toán mới….
Những thông tin thu thập được ở bước này sẽ giúp KTV có hiểu biết chung về
doanh nghiệp, nhận định những rủi ro tiềm tàng liên quan đến lĩnh vực kinh doanh đó
của khách hàng.
Trong thực tế, trong cuộc kiểm toán năm đầu tiên tại khách hàng KTV mới chú
trọng đến quá trình này còn trong các cuộc kiểm toán năm tiếp theo, các KTV thường ít
chú trọng mà chủ yếu sử dụng lại những thông tin đã thu thập được trong năm trước.
1.1.2 Ở mức độ khoản mục
Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục chủ yếu phụ thuộc vào đặc
điểm của khoản mục đó cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp của KTV. Công tác phân
tích sơ bộ BCTC góp phần giúp KTV xác định rủi ro tiểm tàng ở mức độ khoản mục.
Qua việc phân tích sơ bộ BCTC (được thực hiện theo mẫu [A510]-“Phân tích sơ bộ
BCTC”) KTV sẽ xác định được các khoản mục, các biến động bất thường cần được tìm
hiểu nguyên nhân hoặc cần tìm những lời giải thích hợp lý.
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
28
29. Email: luanvan84@gmail.com GVHD: TS. Đường Nguyễn Hưng
1.2 Đánh giá rủi ro kiểm soát
1.2.1 Ở mức độ tổng thể BCTC
Thực chất của việc đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện tổng thể BCTC là
đánh giá sự hữu hiệu của hệ thống KSNB của khách hàng. Việc xem xét hệ thống kiểm
soát nội bộ sẽ được thực hiện thông qua bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ và xem xét rủi
ro xảy ra gian lận hay sai sót và AAC đã sử dụng mẫu [A610] - " Đánh giá hệ thống
KSNB của đơn vị " để thực hiện bước công việc này. KTV sẽ đánh giá trên 3 yếu tố:
Môi trường kiểm soát: môi trường kiểm soát tốt góp phần tạo nên sự hiệu quả của
hệ thống KSNB. Môi trường kiếm soát liên quan đến sự điều hành ban quản trị; thái độ,
nhận thức và hành động của ban quản trị liên quan đến sự kiểm soát nội bộ của doanh
nghiệp.
Việc xem xét và đánh giá môi trường kiểm soát bao gồm việc xem xét các yếu tố
chủ đạo sau:
- Cơ cấu tổ chức và sự phân bổ quyền hạn và trách nhiệm: Cơ cấu tổ chức có
phù hợp với quy mô, hoạt động kinh doanh và vị trí địa lý kinh doanh của đơn
vị không? DN có các chính sách và thủ tục cho việc uỷ quyền và phê duyệt các
nghiệp vụ ở từng mức độ phù hợp không? Có sự giám sát và kiểm tra phù hợp
đối với những hoạt động được phân quyền cho nhân viên không? Nhân viên
của DN có hiểu rõ nhiệm vụ của mình hay không? Sự bất kiêm nhiệm có được
thực hiện phù hợp trong đơn vị không?
- Sự truyền đạt thông tin trong doanh nghiệp và sự tuân thủ các đạo đức, sự
truyền đạt thông tin và phương pháp điều hành của ban quản trị là những yếu
tố cần thiết ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thiết kế, quản lí và chỉ đạo thực
hiện các hoạt động kiểm soát. Đề cập các yếu tố này, KTV xem xét những vấn
đề sau:
- Triết lí điều hành của ban quản trị.
- Trình độ, năng lực của nhân viên.
- Chính sách nhân sự.
Để có được sự đánh giá về các yếu tố trên, KTV thường tiến hành thẩm vấn BGĐ
hay các nhân viên trong doanh nghiệp; quan sát việc ứng dụng của một vài hoạt động
kiểm soát cụ thể; xem xét các tài liệu…
Quy trình đánh giá rủi ro:
KTV tìm hiểu và đánh giá các rủi ro kinh doanh liên quan tới BCTC như:
Các nhà quản lý xác định rủi ro kinh doanh liên quan tới BCTC như thế nào? DN
có ước tính ảnh hưởng về mặt tài chính không? Có đánh giá khả năng xảy ra rủi ro kinh
doanh không ? Các rủi ro kinh doanh phát hiện được giải quyết như thế nào?
Giám sát các hoạt động kiểm soát: KTV có thể tiến hành phỏng vấn, quan sát để
biết các thông tin về việc giám sát thường xuyên và định kỳ, báo cáo các thiếu sót của hệ
thống KSNB như: DN có chính sách xem xét lại hệ thống KSNB định kỳ và đánh giá
tính hiệu quả của hệ thống không? Bộ phận kiểm toán nội bộ có đủ kinh nghiệm chuyên
môn và được đào tạo đúng đắn không? Bộ phận kiểm toán nội bộ có quyền tiếp cận sổ
SVTH: Nguyễn Thị Như Quỳnh_ Lớp 34k06.3 Trang
29