Cẩm nang hướng nghiệp 2017 - Đại học Hoa Sen là tài liệu được tổng hợp giúp thí sinh hiểu rõ hơn về ngành nghề và lựa chọn đúng trường xét tuyển.
Không còn bao lâu nữa bạn sẽ rời xa ghế nhà trường, chắc hẳn bạn sẽ không khỏi băn khoăn trước muôn ngàn câu hỏi đặt ra về việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp trong tương lai . Thế nhưng, để trả lời được những câu hỏi đó thì quá là không dễ dàng, chẳng hạn: " Trong vài năm nữa ta trở thành ai? Ta muốn làm nghề gì? Ta cần chuẩn bị gì cho tương lai?" hoặc " Làm sao để biết mình phù hợp với ngành gì? Nên chọn trường nào?" Và càng nan giải hơn cho việc ra quyết định khi lại nhận được nhiều ý kiến tư vấn không trùng khớp.
Bởi lẽ, bạn chưa rõ mình thích gì, sở trường, sở đoản của mình ra sao? Bạn chưa chơi với, lạc lối giữa thế giới nghề nghiệp muôn vàn sắc màu và cấp độ. Cũng dễ hiểu vì bạn chưa một làn tiếp xúc với ngành nghề đó, bạn chỉ mới nghe qua với những lời quảng cáo, truyền tai đầy cảm dỗ như ngành này đang "hot", ngành kia đang là "một" mà chưa lường được những khó khăn, thử thách mà bạn sẽ phải nếm trải.
Để trả lời tất cả những câu hỏi đó, đồng thời giúp bạn tự tin, có quyết định đúng đắn khi lựa chọn cho mình một nghề nghiệp tương lai chúng tôi mong muốn gửi đến bạn một hành trang không thể thiếu: Cẩm nang hướng nghiệp. Qua đó, bạn sẽ thấy rằng được giáo dục hướng nghiệp là việc hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng.
1. Cẩm nang 2017
Tự nhận biết mình
Tự đánh giá năng lực của bản thân
Hướng dẫn chọn ngành nghề phù hợp
HƯỚNG NGHIỆP
http://huongnghiep.hoasen.edu.vn
Lưu hành nội bộ
2. PHỤ LỤC
Phần 3 NHU CẦU LAO ĐỘNG VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VIỆT NAM
Giới thiệu hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
Dự báo nhu cầu nhân lực tại TP. HCM đến năm 2020
Phụ lục CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN
Thông tin tuyển sinh các chương trình chính quy 2013
Chương trình Cử nhân Quản lý khách sạn nhà hàng quốc tế
Chương trình hợp tác Quốc tế Cao đẳng Kinh doanh
Chương trình hợp tác Quốc tế Cao đẳng Marketing
Chương trình hợp tác Quốc tế Cao đẳng quản trị khách sạn nhà hàng
Chương trình Công nghệ thông tin quốc tế GNIIT
Thiết kế đồ họa và Multimedia
Kế toán quốc tế FIA
41
42
47
51
52
53
54
55
56
57
58
59
Lời tựa
Phần 1 TỔNG QUAN VỀ HƯỚNG NGHIỆP VÀ CHỌN NGHỀ
Hướng nghiệp là gì ?
Khái niệm chung về nghề
Phân loại nghề
Xây dựng công thức nghề
Phần 2 TƯ VẤN CHỌN NGHỀ VÀ CHỌN TRƯỜNG
Tầm quan trọng của việc chọn nghề
1. Chọn nghề - Quyết định quan trọng cả đời
2. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc chọn lầm nghề
3. Nhận biết mình để chọn đúng nghề
4. Mối quan hệ giữa tính cách và nghề nghiệp
5. Mối quan hệ giữa nghề nghiệp và năng lực
6. Điều kiện chọn nghề đúng
7. Vấn đề chọn trường
Thực hiện phương pháp trắc nghiệm
Thực hành nghề nào của bạn
04
05
06
07
08
11
13
14
15
16
21
24
27
35
37
38
39
4. 04
Tài liệu cẩm nang hướng nghiệp này bao gồm các
nội dung chính như sau:
Phần 1
Hướng nghiệp là gì?
Tầm quan trọng của công tác hướng nghiệp
Giới thiệu hệ thống ngành nghề trong xã hội
Phần 2
Tư vấn chọn nghề
Tư vấn chọn trường
Phần 3
Tìm hiểu về hệ thống Giáo dục quốc dân Việt Nam
Lời tựa
Không còn bao lâu nữa bạn sẽ rời xa ghế nhà trường, chắc hẳn bạn sẽ không khỏi băn khoăn trước muôn ngàn câu
hỏi được đặt ra về việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp trong tương lai. Thế nhưng, để trả lời được những câu
hỏi đó thì quả là không dễ dàng, chẳng hạn: “Trong vài năm nữa ta trở thành ai? Ta muốn làm nghề gì? Ta cần chuẩn
bị gì cho tương lai?” hoặc: “Làm sao để biết mình phù hợp với ngành gì? Nên chọn trường nào?” Và càng nan giải hơn
cho việc ra quyết định khi bạn lại nhận được nhiều ý kiến tư vấn không trùng khớp.
Bởi lẽ, bạn chưa rõ mình thích gì, sở trường, sở đoản của mình ra sao? Bạn như chơi vơi, lạc lối giữa thế giới nghề
nghiệp muôn vàn sắc màu và cấp độ. Cũng dễ hiểu vì bạn chưa một lần tiếp xúc với ngành nghề đó, bạn chỉ mới
nghe qua với những lời quảng cáo, truyền tai đầy cám dỗ như ngành này đang “hot”, ngành kia đang là “mốt” mà
chưa lường được những khó khăn, thử thách mà bạn sẽ phải nếm trải.
Để trả lời tất cả những câu hỏi đó, đồng thời giúp bạn tự tin, có quyết định đúng đắn khi lựa chọn cho mình một
nghề nghiệp tương lai, chúng tôi mong muốn gửi đến bạn một hành trang không thể thiếu: Cẩm nang hướng
nghiệp. Qua đó, bạn sẽ thấy rằng được giáo dục hướng nghiệp là việc hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng.
5. Hướng nghiệp là gì?
Tầm quan trọng của công tác hướng nghiệp
Giới thiệu hệ thống ngành nghề trong xã hội
6. Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá
nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp
phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời
thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực
nghề nghiệp (thị trường lao động) ở cấp độ địa
phương và quốc gia.
Lâu nay chúng ta vẫn tưởng rằng hướng nghiệp chỉ là
sự lựa chọn một nghề nghiệp mà mình yêu thích, chọn
một trường Đại học phù hợp với mình. Thực tế cho thấy,
các bạn thường lựa chọn theo cảm tính, do "nổi hứng"
nhất thời, do chạy theo phong trào hoặc do bị mất
phương hướng nên "nhắm mắt đưa chân"...
Tuy nhiên đây chỉ là phần ngọn của một quá trình, một
hoạt động trong số rất nhiều các hoạt động của hướng
nghiệp. Thuật ngữ hướng nghiệp (career mentoring)
nếu được hiểu chính xác nó là sự kết hợp của nhiều
lĩnh vực như đánh giá nghề nghiệp (career assessment),
quản lý nghề nghiệp (career management), phát triển
nghề nghiệp (career development)...
Trong đó lựa chọn nghề nghiệp chỉ là một giai đoạn
đầu trong tiến trình hướng nghiệp của mỗi người.
Hướng nghiệp là một quá trình liên tục tác động từ khi
người học còn ngồi học ở bậc phổ thông, qua quá
trình trau dồi chuyên môn nghề nghiệp và tìm được
nơi lao động phù hợp.
Khi mỗi cá nhân đều có được chuyên môn nghề
nghiệp vững vàng, ổn định, họ sẽ có nhiều cơ hội nâng
cao chất lượng cuộc sống cá nhân. Ở một góc độ khác,
hướng nghiệp có hiệu quả tạo ra một lực lượng lao
động có định hướng rõ ràng, do họ có năng lực nghề
nghiệp tốt, làm tăng năng suất lao động, góp phần cho
sự phát triển về kinh tế xã hội một cách toàn diện:
Về giáo dục:
– Giúp học sinh có hiểu biết về thế giới nghề nghiệp
– Hình thành nhân cách nghề nghiệp cho học sinh
– Giáo dục thái độ đúng đắn đối với lao động
– Tạo ra sự sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề nghiệp
Về kinh tế:
– Góp phần phân luồng học sinh phổ thông tốt nghiệp
các cấp
– Góp phần bố trí hợp lý ba nguồn lao động dự trữ
bảo đảm sự phù hợp với nghề
– Giảm tai nạn lao động
– Giảm sự thuyên chuyển nghề, đổi nghề
– Là phương tiện quản lý công tác kế hoạch hoá
phát triển kinh tế, xã hội trên cơ sở khoa học
Về xã hội
– Giúp học sinh tự giác đi học nghề
– Khi có nghề sẽ tự tìm việc làm
– Giảm tỉ lệ thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội, giảm
tội phạm
– Ổn định được xã hội
Cẩmnanghướngnghiệp
06
ƯỚNG NGHIỆP
LÀ GÌ ?
7. Cẩmnanghướngnghiệp
07
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong
đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri
thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật
chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu
cầu của xã hội.
Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố
định, cứng nhắc. Nghề nghiệp cũng giống như một cơ
thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu vong.
Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên
đã hình thành công nghệ điện tử, do sự phát triển vũ
bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành cả một
nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế,
chế tạo cả phần cứng, phần mềm và các thiết bị bổ
trợ… Công nghệ các hợp chất cao phân tử tách ra từ
công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành
dịch vụ, du lịch tiếp nối ra đời…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, sự chuyển biến
của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
cơ chế thị trường đã gây ra những biến đổi sâu sắc
trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị
trường, nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai,
sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ
hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay
nghề, khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội
đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do “hàm
lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết
định. Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong
quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Con người
phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh,
nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm
việc làm, tự tạo việc làm…
Khi giúp đỡ thanh niên chọn nghề, một số nhà nghiên
cứu thường đặt câu hỏi: “Bạn biết được tên của bao
nhiêu nghề?”. Nghe hỏi, nhiều bạn trẻ nghĩ rằng
mình có thể kể ra nhiều nghề, song khi đặt bút viết thì
nhiều bạn không kể được quá 50 nghề. Bạn tưởng
như thế đã là nhiều, song nhà nghiên cứu lại nhận xét:
“Chà, sao biết ít vậy!”
Để hiểu vì sao nhà nghiên cứu lại nói như vậy, chúng
ta hãy cùng nhau làm sáng rõ hai khái niệm Nghề và
Chuyên môn.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó,
nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức,
những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay
tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã
hội.
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một
lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng
năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những
giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao
động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm
nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh
tồn và phát triển của xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng
chục nghìn chuyên môn. Ở Liên Xô trước đây, người ta
đã thống kê được 15.000 chuyên môn, còn ở nước Mỹ,
con số đó lên tới 40.000.
Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề
và chuyên môn nhiều như vậy nên người ta gọi hệ
thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều nghề chỉ
thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác.
Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái
biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng
như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất
hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa. Theo
thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500
nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở
nước ta, mỗi năm ở cả 3 hệ trường (Dạy nghề, Trung học
chuyên ngiệp và Cao đẳng - Đại học) đào tạo trên dưới
300 nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau.
HÁI NIỆM CHUNGVỀ NGHỀ
8. Cẩmnanghướngnghiệp
08
HÂN LOẠI NGHỀ
Muốn nhận thức một cách khoa học về các sự vật và
hiện tượng, người ta thường dùng phương pháp
phân loại. Ví dụ: phân loại động vật, thực vật, ôtô,
máy bay, tên lửa, vệ tinh nhân tạo, các nền văn minh,
các loại kiến trúc… Song, khi phân loại nghề nghiệp,
các nhà khoa học vấp phải không ít khó khăn vì số
lượng nghề và chuyên môn quá lớn, tính chất và nội
dung các nghề quá phức tạp.
1/ PHÂN LOẠI NGHỀ THEO HÌNH THỨC LAO ĐỘNG
(LĨNH VỰC LAO ĐỘNG)
Lĩnh vực quản lý, lãnh đạo có 10 nhóm nghề:
1. Lãnh đạo các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể
và các bộ phận trong các cơ quan đó
2. Lãnh đạo doanh nghiệp
3. Cán bộ kinh tế, kế hoạch tài chính, thống kê, kế toán...
4. Cán bộ kỹ thuật công nghiệp
5. Cán bộ kỹ thuật nông, lâm nghiệp
6. Cán bộ khoa học giáo dục
7. Cán bộ văn hóa nghệ thuật
8. Cán bộ y tế
9. Cán bộ luật pháp, kiểm sát
10. Thư ký các cơ quan và một số nghề lao động
trí óc khác
Lĩnh vực sản xuất có 23 nhóm nghề:
1. Làm việc trên các thiết bị động lực
2. Khai thác mỏ, dầu, than, hơi đốt, chế biến than
(không kể luyện cốc)
3. Luyện kim, đúc, luyện cốc
4. Chế tạo máy, gia công kim loại, kỹ thuật điện và
điện tử, vô tuyến điện
5. Công nghiệp hóa chất
6. Sản xuất giấy và sản phẩm bằng giấy, bìa
7. Sản xuất vật liệu xây dựng, bê tông, sành sứ, gốm, thủy tinh
8. Khai thác và chế biến lâm sản
9. In
10. Dệt
11. May mặc
12. Công nghiệp da, da lông, da giả
13. Công nghiệp lương thực và thực phẩm
14. Xây dựng
15. Nông nghiệp
16. Lâm nghiệp
17. Nuôi và đánh bắt thủy sản
18. Vận tải
19. Bưu chính viễn thông
20. Điều khiển máy nâng, chuyển
21. Thương nghiệp, cung ứng vật tư, phục vụ ăn uống
22. Phục vụ công cộng và sinh hoạt
23. Các nghề sản xuất khác
9. Cẩmnanghướngnghiệp
09
2/ PHÂN LOẠI NGHỀ THEO ĐÀO TẠO
Theo cách phân loại này, các nghề được chia thành hai loại:
Nghề được đào tạo: Khi trình độ sản xuất và khoa học, công
nghệ được nâng cao, dân cư được phân bố đồng đều trong
cả nước thì số nghề cần có sự đào tạo qua các trường lớp sẽ
tăng lên. Ngược lại quốc gia nào có trình độ dân trí thấp,
trình độ sản xuất, khoa học và công nghệ chậm phát triển,
dân cư phân tán thì tỉ lệ nghề không qua đào tạo rất cao.
Nghề không được đào tạo: Nước ta đã có danh mục các
nghề được đào tạo, còn các nghề không được đào tạo rất
khó thống kê. Bên cạnh đó còn có rất nhiều nghề được
truyền trong các dòng họ hoặc gia đình, những nghề này rất
đa dạng và trong nhiều trường hợp được giữ bí mật được
gọi là nghề gia truyền. Do vậy, những nghề này được đào
tạo trong gia đình và cũng thường chỉ liên quan đến người
được chọn để nối tiếp nghề của cha ông.
3/ PHÂN LOẠI NGHỀ THEO YÊU CẦU CỦA NGHỀ ĐỐI VỚI
NGƯỜI LAO ĐỘNG
3.1/ Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính
Công việc trong nghề hành
chính mang tính chất sắp đặt,
bố trí, trình bày, phân loại, lưu
trữ... các loại hồ sơ, giấy tờ. Cán
bộ nhân viên trong những
nghề này thường phải hệ
thống hóa, phân loại, xử lý các
tài liệu, công văn, sổ sách.
Những chuyên môn thường gặp là nhân viên văn phòng,
thư ký, kế toán, thống kê, lưu trữ, kiểm tra, chấm công...
Nghề hành chính đòi hỏi con người đức tính bình
tĩnh, thận trọng, chín chắn, chu đáo. Mọi thói quen,
tác phong xấu như tính cẩu thả, bừa bãi, thiếu ngăn
nắp, đại khái, qua loa, thờ ơ, lãnh đạm... đều không
phù hợp với công việc hành chính.
Người làm nghề hành chính phải có tinh thần kỷ luật
trong việc chấp hành những công việc mang tính sự
vụ, biết giữ trật tự, nghiêm túc khi làm việc. Ngoài ra họ
lại phải am hiểu cách phân loại tài liệu, cách sắp xếp tài
liệu ngăn nắp, có năng lực nhận xét, phê phán, cách
chấp hành thủ tục giấy tờ, cách soạn thảo văn bản...
thiếu cơ sở khoa học. Bản thân họ cũng cần thành thạo
công việc viết văn bản.
3.2/ Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người
Ở đây, ta có thể kể đến những nhân
viên bán hàng, những thầy thuốc,
thầy giáo, những người phục vụ
khách sạn, những cán bộ tổ chức…
Những người này luôn phải có thái
độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế
nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt,
3.3/ Những nghề thợ (công nhân)
Tính chất nội dung lao động của
nghề thợ rất đa dạng. Có những
người thợ làm việc trong các ngành
công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ
phay, thợ nguội, thợ chỉnh công
cụ…), trong các ngành tiểu thủ
công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây
tre đan, sơn mài…), trong lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa
chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác
như lái tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác
tài nguyên…
Nghề thợ đại diện cho nền sản xuất công nghiệp. Tác
phong công nghiệp, tư duy kỹ thuật, trí nhớ, tưởng
tượng không gian, khéo tay… là những yếu tố tâm lý cơ
bản không thể thiếu được ở người thợ. Nghề thợ đang
có sự chuyển biến về cấu trúc: những nghề lao động
chân tay sẽ ngày càng giảm, lao động trí tuệ sẽ tăng
lên. Ở những nước công nghiệp hiện nay như Mỹ, Pháp,
Anh… số công nhân “cổ trắng” (công nhân trí thức) đã
đông hơn công nhân “cổ xanh” (công nhân làm những
công việc tay chân nặng nhọc).
08
ân cần, cởi mở…Thái độ và hành vi đối xử lạnh nhạt,
thờ ơ, thiếu thông cảm, thiếu nâng đỡ, vụ lợi… đều xa
lạ với các công việc nói trên.
10. Cẩmnanghướngnghiệp
10
3.4/ Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật
Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của
các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất. Nghề kỹ
thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công
việc thiết kế và vận hành kỹ thuật, nắm chắc những
tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với
công nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có
nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ còn
đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức
có vị trí cơ bản.
3.5/ Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật
Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng
mà tính sáng tạo là một đặc trưng nổi bật. Tính không lặp
lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết
trong mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu
diễn nghệ thuật… Trong hoạt động văn học và nghệ
thuật, ta thấy có rất nhiều gương mặt nhà văn, nhà thơ,
nhà soạn nhạc, nhà viết kịch, nhà ảo thuật, các diễn viên
điện ảnh, xiếc, ca nhạc, nhà nhiếp ảnh, nhà đạo diễn
phim, người trang trí sân khấu và cửa hàng…
Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với họ là phải có cảm
hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc
sống, lối sống có cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc
sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người làm công
tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư
tưởng và tình cảm, năng lực tác động đến người khác
bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.
3.6/ Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học
Đó là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời
sống xã hội, trong thế giới tự nhiên cũng như trong tư duy con
người. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải say mê tìm
kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật
khách quan trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa
học phải rèn luyện tư duy logic, tích lũy tri thức, độc lập sáng
tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn,
trung thực, bảo vệ chân lý đến cùng.
3.7/ Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên
Đó là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc
vật, nghề trồng trọt, khai thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây
cảnh… Muốn làm những nghề này, con người phải yêu thích
thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác,
họ phải cần cù, chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động
ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.
3.8/ Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt
Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái
máy bay thí nghiệm, du hành vũ trụ, khai thác tài nguyên dưới
đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề này phải có lòng
quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của
công việc, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh,
thích ứng với cuộc sống không ổn định.
11. Cẩmnanghướngnghiệp
11
ÂY DỰNG CÔNGTHỨC NGHỀ
Một trong những cách phân loại nghề hợp lý là xây dựng
công thức nghề. Những nghề có cùng công thức được
xếp vào một loại. Nếu phù hợp với một nghề thì tất nhiên
sẽ phù hợp với những nghề cùng loại.
Người ta lập công thức nghề như sau vì nhận thấy
rằng nghề nào cũng có bốn dấu hiệu cơ bản là:
Đối tượng lao động
Mục đích lao động
Công cụ lao động
Điều kiện lao động
1/ Đối tượng lao động:
Đối tượng lao động là hệ thống những thuộc tính,
những mối quan hệ qua lại của các sự vật, các hiện
tượng, các quá trình mà ở cương vị lao động nhất
định, con người phải vận dụng chúng.
Ví dụ: Đối tượng lao động của người làm nghề trồng
trọt là những cây trồng cùng những điều kiện sinh sống
và phát triển của chúng như đất đai, cỏ dại, đặc điểm
khí hậu, thời tiết, tác dụng của thuốc trừ sâu các loại…
Những thuộc tính của cây trồng, của môi trường phát
triển rất đa dạng và phức tạp: sức phát triển của mầm,
phương thức diệt cỏ dại, khả năng thích ứng của cây đối
với cách thức chăm sóc, với thời tiết thay đổi.
Căn cứ vào đối tượng lao động, người ta chia các
nghề ra thành năm kiểu. Đó là:
■ Nghề “Người tiếp xúc với thiên nhiên” (trồng
trọt, chăn nuôi, thú y, bảo vệ rừng…). Kiểu nghề
này được ký hiệu là Nt.
■ Nghề “Người tiếp xúc với kỹ thuật” (các loại thợ
nề, thợ tiện, thợ nguội, lắp ráp máy truyền hình và
máy tính, thợ sửa chữa công cụ…). Kiểu nghề này
được ký hiệu là Nk.
■ Nghề “Người tiếp xúc với người” (nhân viên bán
hàng, nhân viên phục vụ khách sạn, thầy thuốc,
thầy giáo, thẩm phán…). Kiểu nghề này được ký
hiệu là N2.
■ Nghề “Người tiếp xúc với các dấu hiệu” (chế bản
vi tính, ghi tốc ký, sắp chữ in, lập trình máy tính…).
Kiểu nghề này được ký hiệu là Nd.
■ Nghề “Người tiếp xúc với nghệ thuật” (họa sĩ, nhà
soạn nhạc, thợ trang trí, thợ sơn…). Kiểu nghề này
được ký hiệu là Nn.
2/ Mục đích lao động:
Mục đích lao động là kết quả mà xã hội đòi hỏi, trông
đợi ở người lao động. Mục đích cuối cùng của lao động
trong nghề phải trả lời được câu hỏi: “Làm được gì?”.
Ví dụ: Mục đích của người dạy học là mang lại kiến thức,
học vấn cho con người, giúp cho con người hình thành
một số phẩm chất nhân cách. Mục đích của thầy thuốc là
làm cho người bệnh trở thành người khỏe mạnh, giúp cho
con người bảo vệ và phát triển sức khỏe, thể lực trong đời
sống hàng ngày.
Căn cứ vào mục đích lao động, người ta chia các nghề
thành ba dạng sau đây:
■ Nghề có mục đích nhận thức đối tượng (thanh tra
chuyên môn, điều tra vụ án, kiểm tra kho hàng, kiểm
kê tài sản…). Dạng nghề này được ký hiệu là N.
■ Nghề có mục đích biến đổi đối tượng (dạy học,
chữa bệnh, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thủ
công nghiệp…). Dạng nghề này được ký hiệu là B.
■ Nghề có mục đích tìm tòi, phát hiện, khám phá
những cái mới (nghiên cứu khoa học, sáng tác văn
học nghệ thuật, tạo giống mới, thiết kế thời trang…).
Dạng nghề này được ký hiệu là T.
12. Cẩmnanghướngnghiệp
3/ Công cụ lao động:
Công cụ lao động bao gồm các thiết bị kỹ thuật, các
dụng cụ gia công, các phương tiện làm tăng năng
lực nhận thức của con người về các đặc điểm của đối
tượng lao động, làm tăng sự tác động của con người
đến đối tượng đó. Những máy móc để biến đổi năng
lượng, xử lý thông tin, đo lường chất lượng sản
phẩm, những công thức và quy tắc tính toán cũng
được coi là công cụ lao động.
Ví dụ: Cần cẩu là công cụ lao động, là “cánh tay kéo
dài” của thợ lái máy xúc đất và mang chuyển hàng
hóa từ vị trí này sang vị trí khác. Xe vận tải là công cụ
lao động của những người chuyên chở hàng hóa, làm
tăng sức mang vác của họ có khi đến hàng nghìn,
hàng vạn lần.
Căn cứ vào công cụ lao động, người ta chia các nghề
thành bốn loại sau đây:
■ Nghề với những hình thức lao động chân tay
(khuân vác, khơi thông cống rãnh, lắp đặt ống
nước, quét rác…). Loại nghề này được ký hiệu là Lt.
■ Nghề với những công việc bên máy (tiện, phay,
xây dựng, lái xe…). Loại nghề này được ký hiệu là Lm1.
■ Nghề làm việc bên máy tự động (làm việc ở bàn
điều khiển, các loại máy thêu, máy dệt, máy in hoa
trên vải, tiện hoặc phay các chi tiết theo chương
trình máy tính...) Loại nghề này được ký hiệu là Lm2.
■ Nghề lao động bằng những công cụ đặc biệt như
ngôn ngữ, cử chỉ (dạy học, làm thơ, múa hát, nghiên
cứu lý luận…). Loại nghề này được ký hiệu là Lđ.
4/ Điều kiện lao động:
Điều kiện lao động ở đây được hiểu là những đặc
điểm của môi trường làm việc. Căn cứ vào điều kiện
lao động, người ta chia các nghề thành bốn nhóm
sau đây:
■ Nghề cần phải tính đến môi trường đạo đức,
chính trị là chủ yếu (xử án, chữa bệnh, dạy học,
quản giáo tội phạm…). Nhóm nghề này được ký
hiệu là Đ.
■ Nghề được tiến hành trong không gian sinh hoạt bình
thường (kế toán, đánh máy, trực điện thoại, lưu trữ tài
liệu, thợ may…). Nhóm nghề này được ký hiệu là Ks.
■ Nghề làm trong khoảng không gian khoáng đạt, gần
gũi với thiên nhiên (chăn gia súc, súc vật trên đồng cỏ,
trồng rừng, bảo vệ rừng, trồng hoa…). Nhóm nghề này
được ký hiệu là Kk.
■ Nghề được tiến hành trong điều kiện đặc biệt (du
hành vũ trụ, thám hiểm đáy biển, lái máy bay thí
nghiệm, xây dựng dưới nước…). Nhóm nghề này được
ký hiệu là Kđ.
Tổ hợp các dấu hiệu Kiểu, Dạng, Loại, Nhóm của
một nghề cho ta công thức của nghề đó.
Ví dụ: Công thức của nghề dạy học là: N2BLđĐ; - Công thức
của nghề lái xe là: NkBLm1Kk
Thật ra công thức nghề cũng chỉ bảo đảm mức độ
tương đối chính xác về các dấu hiệu nói trên. Hiện nay,
việc phân loại nghề theo công thức nghề là một bước
tiến mới trong quá trình nhận thức thế giới nghề
nghiệp. Đến đây ta thấy rằng, có một số nghề chung
nhau công thức. Do vậy, nếu không chọn được một
nghề nào đó, ta có thể chọn cho mình một nghề khác
có cùng công thức. Cũng có những nghề khác nhau
nhiều hoặc ít về công thức nghề. Một người sẽ rất khó
chuyển từ nghề này sang nghề khác mà giữa hai nghề
ấy có sự khác biệt quá lớn trong công thức nghề.
12
14. Cẩmnanghướngnghiệp
14
ẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC CHỌN NGHỀT
Theo thống kê, có khoảng 70% học sinh vào đời chưa được giáo dục
hướng nghiệp. Người ta ví von:
“Một người được định hướng nghề trước khi vào đời giống như một lữ khách trên
đường dài với hành lý trên vai nặng trĩu, bước những bước nặng nề, chậm chạp
nhưng chắc chắn vì họ đã xác định được hướng đi, cơ chế thị trường khắc nghiệt
nhưng công bằng giúp họ đứng vững trên đôi chân của mình.
Một người không được định hướng nghề trước khi bước vào đời giống như một lữ
khách lang thang trên con đường dài vô tận không bến bờ, hành lý trên vai nhẹ
tênh nhưng đầu thì nặng trĩu, họ rất dễ bị vấp ngã trước những mặt trái của cơ chế
thị trường.”
Điều đó cho thấy việc chọn đúng nghề quan trọng như thế nào. Nếu chọn nghề
đúng, con người phấn khởi, năng suất lao động cao; nếu chọn nghề sai, con
người buồn chán, năng suất lao động giảm, tệ hơn thế là con người bị
hụt hẫng, mất phương hướng, hành động sai lầm, tương lai u tối.
13
15. Cẩmnanghướngnghiệp
15
Có bao giờ bạn tự hỏi: “Mình nên theo đuổi công
việc nào để xây dựng sự nghiệp?”
Sẽ có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc bạn
quyết định chọn lựa ngành nghề nào. Chúng tôi có
bốn gợi ý sau đây:
Bạn hãy tìm hiểu thật kỹ hướng đi lâu dài của ngành
nghề mà bạn dự định theo đuổi. Bạn sẽ có thể phải đối
mặt với những rủi ro nào? Trong trường hợp ngành
nghề yêu thích của bạn có một tương lai khá mờ mịt
trong vòng 5-10 năm tới (bạn có thể dựa vào những số
liệu thống kê trên các phương tiện truyền thông hay
dùng khả năng phán đoán của mình để xác định), bạn
nên chuyển hướng sang ngành nghề khác có khả
năng phát triển tốt hơn.
Có thể bạn có nhiều lựa chọn cho sự nghiệp trong tương
lai; nhưng bạn phải xác định được công việc nào thật sự
quan trọng và hấp dẫn đối với bạn. Bạn nên so sánh
giữa điều lợi và bất lợi của từng lựa chọn để đưa ra
quyết định đúng đắn.
Có một cách đơn giản giúp bạn đấy: bạn hãy lên một
danh sách liệt kê những lợi thế và những bất lợi của
công việc bạn yêu thích. Khi đó bạn sẽ so sánh dễ dàng
hơn. Bạn cũng có thể tham khảo ý kiến của những người
có kinh nghiệm để có được những lời khuyên hữu ích.
Hãy nhớ rằng, một quyết định trước đây không bao giờ
ràng buộc bạn mãi mãi. Trong quá trình làm việc, có thể
bạn sẽ mong muốn phát triển theo hướng khác, vì thế,
đừng ngại thay đổi. Luôn có những cơ hội mới đang chờ
đón phía trước giúp bạn tìm hướng đi phù hợp nhất
cho mình.
1.CHỌN NGHỀ -
QUYẾT ĐỊNH QUAN TRỌNG CẢ ĐỜI
Thu nhập cao, cơ hội phát triển nghề nghiệp, cả hai, một
công việc nhàn hạ và ổn định, hay còn điều gì khác nữa?
Bạn nên cân nhắc kỹ việc bạn mong muốn gì ở công việc
trong tương lai. Đa số nhân viên có xu hướng chọn những
công việc có cơ hội phát triển nghề nghiệp bởi vì sớm hay
muộn họ sẽ có thu nhập cao hơn từ những cơ hội như thế.
B. Điều gì quan trọng nhất đối với bạn?
C. Đánh giá hướng phát triển của ngành nghề
bạn muốn theo đuổi
D. Quyết định chọn nghề
Bạn cần hết sức thực tế khi xác định công việc yêu
thích của mình. Hãy tự hỏi bạn thích làm việc gì nhất.
Điều quan trọng là bạn cần có thế mạnh và khả năng
phù hợp với yêu cầu công việc này.
Ví dụ, nếu bạn thích gặp gỡ nhiều người và có khả
năng giao tiếp tốt, bạn có thể hướng mình phát triển
ở lĩnh vực quan hệ công chúng. Hoặc nếu bạn giỏi
môn toán và yêu thích công việc tính toán, bạn có thể
nghĩ đến nghề nghiệp trong lĩnh vực tài chính, đầu tư
hay ngân hàng.
Bạn cũng nên cân nhắc những điều bạn không thích,
thậm chí là ghét nhất bởi vì nhiều công việc có vẻ rất thú
vị nhưng lại có một số yếu tố không phù hợp với bạn.
A. Xác định thế mạnh của bạn phù hợp với công
việc bạn mơ ước
16. Cẩmnanghướngnghiệp
16
2.CÁC NGUYÊN NHÂN ẢNH HƯỞNG
ĐẾN VIỆC CHỌN LẦM NGHỀ
A. Cho rằng nghề thợ thấp kém hơn
kỹ sư, giáo viên THCS thua kém giáo viên
THPT…
Thực ra mỗi nghề (hay đúng hơn là mỗi chuyên môn)
có những bậc thang tay nghề của nó. Ví dụ, công
nhân cơ khí có 7 bậc tay nghề. Người công nhân
được đào tạo theo chương trình riêng, họ có vai trò
quan trọng riêng trong các nhà máy, xí nghiệp. Một
số bạn đã coi nhẹ công việc của người thợ, của thầy
giáo cấp I, của cô y tá, chỉ coi trọng công việc kỹ
thuật, của thầy giáo dạy ở bậc Trung học hoặc Đại
học, của bác sĩ… Chính vì thế mà chỉ định hướng vào
những nghề có sự đào tạo bậc Đại học.
B. Thành kiến với một số nghề trong xã hội
Chẳng hạn, coi lao động chân tay là nghề thấp hèn,
chê nhiều công việc dịch vụ là không “thanh lịch”…
Thường thường, những bạn này không thấy hết ý
nghĩa của yếu tố lao động nghề nghiệp, đóng góp
của nghề với xã hội. Đã là nghề được xã hội thừa nhận
thì không thể nói đến sự cao sang hay thấp hèn được.
C. Dựa dẫm vào ý kiến người khác, không độc lập
việc quyết định chọn nghề
Vì thế đã có nhiều bạn chọn nghề theo ý muốn của cha
mẹ, theo ý thích của người lớn, theo lời rủ rê của bạn bè.
Cách chọn nghề này đã dẫn đến nhiều trường hợp chán
nghề vì không phù hợp.
Chọn lầm nghề là chọn nhầm một nghề không tương thích
với mình. Ở đây có hai ý: nghề mình chọn phải là nghề mình
thích, đương nhiên, nhưng còn phải xét đến yếu tố tương
hợp. Tương hợp chủ yếu về hai mặt: phẩm chất và năng lực.
Ngoài ra, còn phải xét đến giới tính, sức khỏe, hoàn cảnh... và
chí hướng của bản thân.
Yếu tố tương hợp quan trọng hơn cả. Nếu không tương
hợp với yêu cầu của nghề, dù ta có thích đến đâu, sớm
muộn cũng sẽ bị nghề đào thải. Hơn nữa, sở thích chưa
phải là sở trường. Sở thích thiên về cảm tính, không ổn
định. Sở trường mới là tố chất của năng lực, ổn định hơn,
bền vững hơn.
Nhưng bạn chỉ có thể biết nghề đó có tương hợp với bạn
hay không khi bạn hiểu rất rõ nghề mình chọn, những đặc
điểm cũng như yêu cầu đặc biệt của từng loại ngành nghề.
Suy cho cùng, có hai loại nguyên nhân chính dẫn đến việc
chọn nghề không tính đến những dấu hiệu của sự tương
hợp. Loại nguyên nhân thứ nhất thuộc “thái độ không
đúng”, còn loại nguyên nhân thứ hai do thiếu hiểu biết về
các nghề. Dưới đây là một số nguyên nhân đó:
THÁI ĐỘ KHÔNG ĐÚNG
17. Cẩmnanghướngnghiệp
17
D. Bị hấp dẫn bởi vẻ ngoài của nghề, thiếu
hiểu biết nội dung lao động của nghề đó
Ví dụ, như với các nghề diễn viên điện ảnh, dẫn
chương trình, người mẫu thời trang… rất hấp dẫn với
các bạn trẻ, nhưng để thạo nghề thì phải rèn luyện
gian khổ, vì vậy cũng dễ gây nhầm lẫn đối với ai chỉ
thích vẻ hào hoa bề nổi của nghề đó. Hoặc nhiều bạn
thích đi đây đi đó nên chọn nghề thăm dò địa chất,
khi vào nghề, thấy công việc của mình gắn với rừng
núi, quanh năm phải tiến hành công việc khảo sát, ít
có dịp tiếp xúc với cuộc sống thành thị, thiếu điều
kiện để giao lưu văn hóa và khoa học, do đó tỏ ra chán
nghề. Có người chỉ tin vào quảng cáo của các cơ sở
đào tạo mà chọn nghề vào học cũng sẽ dễ chán
trường, chán nghề.
E. Cho rằng đạt thành tích cao trong việc học
tập một môn văn hóa nào đó là làm được nghề
cần đến tri thức của môn đó
Ví dụ, có người học giỏi môn văn đã chọn nghề làm
phóng viên báo chí. Đúng là nghề này cần đến người
viết văn hay, diễn đạt tư tưởng rành mạch. Song, nếu
không nhanh nhẹn, tháo vát, năng động, dám xông
xáo… thì không thể theo đuổi nghề này được. Sai lầm
ở đây là do không thấy rằng năng lực đối với môn học
chỉ là điều kiện cần, chứ chưa là điều kiện đủ để theo
đuổi nghề mình thích.
F. Có quan niệm “tĩnh” về tính chất, nội dung
lao động nghề nghiệp trong các lĩnh vực sản
xuất, quên mất những tác động mạnh mẽ của
cách mạng khoa học công nghệ ngày nay
Vì vậy, có bạn cho rằng học xong cấp I là đủ kiến thức
để xin vào học nghề tại các trường dạy nghề. Có bạn lại
nghĩ, với vốn liếng lớp 12, mình học ở trường nghề nào
mà chẳng được. Thực ra, nghề nghiệp luôn thay đổi nội
dung, phương pháp, tính chất lao động của nó. Người
lao động không luôn luôn học hỏi, trau dồi năng lực thì
khó có thể đáp ứng với yêu cầu về năng suất và hiệu
quả lao động.
G. Không đánh giá đúng năng lực lao động của
bản thân nên lúng túng trong khi chọn nghề
Do đó, có hai tình trạng thường gặp: hoặc đánh giá quá
cao năng lực của mình, hoặc đánh giá không đúng mức
và không tin vào bản thân. Cả hai trường hợp đều dẫn
đến hậu quả không hay: Nếu đánh giá quá cao khi vào
nghề sẽ vấp phải tình trạng chủ quan ban đầu, thất
vọng lúc cuối. Còn nếu đánh giá quá thấp, chúng ta sẽ
không dám chọn những nghề mà đáng ra là nên chọn.
Có trường hợp ngộ nhận mình có năng khiếu về nghề
hấp dẫn, thời thượng mà chọn nghề, khi vào nghề gặp
thất bại sẽ chán nản.
H. Thiếu sự hiểu biết về thể lực và sức khỏe của
bản thân, lại không có đầy đủ thông tin về những
chống chỉ định y học trong các nghề
Điều này cũng rất dễ gây nên những tác hại lớn: người
yếu tim lại chọn nghề nuôi dạy trẻ, người hay viêm
họng và phổi lại định hướng vào nghề dạy học, người
có bệnh ngoài da lại đi vào nghề “dầu mỡ”…
18. Cẩmnanghướngnghiệp
18
THIẾU HIỂU BIẾT NHỮNG YÊU CẦU CỦA NGHỀ
Nghề trong xã hội hết sức đa dạng và những yêu
cầu của nghề đặt ra cho người lao động cũng hết
sức khác nhau. Ngoài những yêu cầu chung nhất là
lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề
nghiệp… còn cần quan tâm tránh những khuyết
tật của cơ thể. Hầu như các“thiếu sót”đó không hại
gì đến sức khỏe, nhưng chúng lại không cho phép
ta làm nghề này hay nghề khác. Ví dụ, với nghề
thêu thủ công, chỉ cần hay ra mồ hôi ở lòng bàn tay
là các bạn không thể làm tốt công việc kỹ thuật của
nghề đó, mặc dù mồ hôi tay không làm cho bạn suy
giảm thể lực. Nghề đòi hỏi đứng bên máy không
cho phép tuyển người mắc tật bàn chân bẹt (sự tiếp
xúc của bàn chân đối với mặt đất quá lớn).
Có những nghề nhìn hình thức bề ngoài thì giống
nhau, nhưng những yêu cầu để lao động thuận tiện
với người lao động lại khác nhau. Ví dụ như công
việc của người lái xe vận tải và người lái xe cần trục,
cả hai đều cùng ngồi sau tay lái, điều khiển tốc độ
xe luôn thay đổi và đòi hỏi người lao động không
được mắc chứng mù màu, chứng ngủ gật, lại phải
có phản ứng nhanh. Nhưng đối với lái xe cần trục,
do xe cần trục khi nâng chuyển một khối lượng
hàng lớn nên không được đỗ ở nơi có mặt phẳng
nghiêng quá ba độ vì nó rất dễ bị lật xe, người lái xe
cần trục phải có năng lực bằng mắt để đánh giá độ
nghiêng của mặt đất nơi đỗ xe thật chính xác và
phải cảm nhận được tốc độ và hướng gió bằng da
của mình, vì khi quay cần trục đang móc hàng phải
tính đến tốc độ và hướng của gió. Chỉ với người có
năng lực như vậy mới hạn chế được tai nạn khi cẩu
một vật nặng.
19. Cẩmnanghướngnghiệp
19
Nghề nào cũng yêu cầu con người có thể lực tốt, dẻo
dai trong công việc. Song có nghề cần đến sự dẻo dai
về cơ bắp, có nghề lại đòi hỏi sự dẻo dai của hệ thần
kinh. Người công nhân bốc vác ở bến cảng phải liên
tục bê vác nặng hay lái xe chuyển hàng nhiều giờ liên
tục. Còn người nghiên cứu khoa học có khi phải đọc
liền 10 giờ một ngày ở thư viện, hơn nữa việc đó
thường kéo dài hàng tháng. Cả hai đều cần sức khỏe
tốt, dẻo dai, nhưng một bên dùng cơ bắp, bên kia
dùng trí óc.
Vậy, khi chọn nghề mỗi người chúng ta phải biết nghề
có yêu cầu như thế nào đối với người lao động. Không
có đủ những phẩm chất tâm lý và sinh lý để đáp ứng
yêu cầu của một nghề cụ thể thì đừng chọn nghề đó.Ví
dụ: Người phản ứng chậm chạp không nên vào nghề
lái xe, người tính quá hiếu động, không nên chọn nghề
điều động thông tin giao thông, điện lực, qua hệ thống
mạng màn hình…
Nghề nào cũng yêu cầu người lao động phải chú
ý vào công việc. Có nghề đòi hỏi người lao động
phải tập trung sự chú ý vào một đối tượng (quan
sát màn hình của máy vi tính…), nhưng có nghề
cần ở người lao động sự phân phối chú ý đến
nhiều đối tượng trong cùng một lúc (dạy học,
huấn luyện phi công, điều động ở ga…). Lại có
nghề cần đến sự di chuyển chú ý, tức là nhanh
chóng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối
tượng khác (lái xe, lái tàu, phiên dịch…).
20. Cẩmnanghướngnghiệp
20
THIẾU THÔNG TIN VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
Nhiều người đã chọn được nghề phù hợp nhưng thiếu điều kiện tài chính
theo học như không đủ tiền đóng học phí, không có điều kiện ở trọ đi học.
Nhiều gia đình có con thi đỗ vào trường Đại học nhưng đành phải cho con ở
nhà vì thu nhập của gia đình không đủ sức cung ứng cho việc học của con em.
THIẾU ĐIỀU KIỆN TÀI CHÍNH ĐỂ THEO HỌC NGHỀ
Thị trường lao động là phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hóa vận động
theo cơ chế thị trường. Nó hình thành, phát triển và hoạt động trong mối
quan hệ hữu cơ với các thị trường khác (thị trường hàng hóa, thị trường tiền
tệ...) trong một thị trường xã hội thống nhất. Thị trường lao động biểu hiện
quan hệ lao động diễn ra giữa một bên là người lao động và một bên là người
sử dụng lao động dựa trên nguyên tắc thỏa thuận, thông qua các hợp đồng
lao động.
Người lao động được đào tạo hoặc không được đào tạo đều tham gia vào thị
trường lao động và bị chi phối bởi quy luật cạnh tranh, thuê mướn, lợi nhuận
và hiệu quả. Do vậy, người lao động phải quan tâm đầy đủ tới chất lượng (tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo) - giá thành - thời điểm (đáp ứng) khi họ tham gia vào
thị trường lao động. Đó là yêu cầu hết sức khắt khe đòi hỏi sự tích lũy kinh
nghiệm và học nghề suốt đời của người lao động nếu như họ muốn có việc
làm và thu nhập cao.
Thông tin về thị trường lao động: là những thông tin về nhu cầu sử dụng
nhân lực của tỉnh, thành phố trong kế hoạch năm: nhu cầu sử dụng nhân lực
các loại cho các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu chế xuất và
cho các loại doanh nghiệp và liên doanh của các thành phần kinh tế khác.
21. Cẩmnanghướngnghiệp
21
3. VẬY TRƯỚC KHI CHỌN NGÀNH
LÀM SAO ĐỂ NHẬN BIẾT MÌNH ?
A. Tại sao muốn “Nhận biết mình”?
Nhận biết mình là yêu cầu trước tiên của chọn ngành
nghề. Điều này đã có ý nghĩa rất quan trọng như đối
với ngành nghề lựa chọn của chúng ta, duy trì sự tiến
hành của hoạt động ngành nghề, hiệu quả của hoạt
động ngành nghề.
Thứ nhất: Nhận biết mình một cách chính xác là
mấu chốt của chọn nghề
Chúng ta cho rằng nhận biết bản thân mình là mấu
chốt của lựa chọn ngành nghề. Nhà tâm lý học người
Anh Adrer cho rằng khái niệm bản thân do nhận thức
bản thân rõ nét là sự hình thành ổn định tương đối, là
một mắt xích trong hướng dẫn ngành nghề. Lựa chọn
nghề nghiệp chỉ là vấn đề thời gian, mỗi người đều
biết dựa vào mục tiêu của chính mình và tâm trạng
nhận thức bản thân mà đưa ra sự đánh giá cao thấp
đối với chính mình. Sau đó lại phối hợp đối với sự hiểu
biết về nghề nghiệp và những tin tức nghề nghiệp có
liên quan đến nhu cầu của xã hội, cuối cùng mới làm
ra những giải quyết chính sách nghề nghiệp.
Thứ hai: Nhận biết mình một cách chính xác là động
lực duy trì việc tiến hành bình thường hoạt động
nghề nghiệp
Tiến hành bình thường hoạt động nghề nghiệp cần
phải duy trì một số động lực. Những động lực này có
những yếu tố của bên ngoài là những yếu tố khách
quan như thu nhập kinh tế, địa vị xã hội của nghề
nghiệp, phúc lợi xã hội của nghề nghiệp, quyền lợi
nghề nghiệp v.v… Ngoài ra, còn có một số yếu tố nội bộ
là những yếu tố chủ quan mang lại sự tiến hành bình
thường của hoạt động nghề nghiệp như năng lực kết
cấu có phối hợp với yêu cầu của hoạt động ngành
nghề, quan niệm nghề nghiệp, phẩm chất, ý chí nghề
nghiệp, hứng thú nghề nghiệp, phản ánh lại thành tích
trong hoạt động nghề nghiệp v.v… Những nhân tố chủ
quan này hạn chế nhận thức của bản thân. Do đó muốn
bảo đảm tiến hành thuận lợi hoạt động nghề nghiệp
cần phải nhận biết bản thân mình một cách chính xác.
Thứ ba: Nhận biết mình một cách chính xác ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc
Năng lực ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất của hoạt động. Hoàn thành thuận lợi bất cứ công việc nào đều phải có
hai loại khả năng là khả năng thông thường và khả năng đặc biệt. Các nhà tâm lý học đều cho rằng, mỗi loại năng
lực đặc biệt đều là hạn chế, cấu thành những phẩm chất tâm lý của chất lượng hoạt động ngành nghề, như tài xế xe
buýt chuyên nghiệp cần có cảm giác đặc tính vận động, động tác trắc nghiệm mắt, thị giác và chi phối cao, thay đổi
tốc độ nhạy bén… Đây là những thành phần tổ chức tâm lý quan trọng trong hoạt động ngành nghề này. Những
thành phần này ảnh hưởng tính hiệu quả của công việc. Mà năng lực ngành nghề của mỗi cá thể đặc biệt cũng phải
không ngừng được bồi dưỡng và nâng cao nhận thức của bản thân.
22. Cẩmnanghướngnghiệp
22
B. Nhận biết mình như thế nào?
Thứ hai: Thông qua sự so sánh của người khác mang lại
sự nhận thức cho chính bản thân
Có so sánh mới có phân biệt. Trên thực tế, mọi người đối
với quá trình nhận thức bản thân, luôn phải thông qua
việc so sánh với người khác mới biết năng lực của mình
như thế nào. Trong khi so sánh, dĩ nhiên là chúng ta
không thể không xem trọng điểm số, ngược lại cần phải
chú trọng đến năng lực và thành tích thực tế. Thông qua
việc so sánh, chúng ta có thể nhận thức được sở trường và
khuyết điểm của chính mình, nhận biết chính xác chính
mình trong sự so sánh vị trí và tất cả các mặt trong đám
đông, để tránh tình trạng gọi là lời nói không đi đôi với
việc làm. Một người có yêu cầu lựa chọn nghề nghiệp nếu
như không chú ý đến vấn đề so sánh giữa người chọn
ngành cạnh tranh trong cộng đồng, thì rất khó phán đoán
xác suất thành công của chính mình.
Thứ nhất: Thông qua thái độ của người khác nhận
biết mình
Nhà tâm lý học Henny nói: “Giữa người với người có
thể xem như là cái gương để soi sáng cho nhau, đều
có thể chiếu ra hình tượng của người này trước mặt
người khác.”
Người bên cạnh quan sát chính xác thông qua “người
đứng ngoài quan sát”, chiếu ra được nhận thức đối
với bản thân. Nếu như bạn học hoặc đồng nghiệp
của bạn đều bằng lòng với việc học tập và làm việc
cùng với bạn, vui vẻ với việc giúp đỡ bạn, có thể nói
rằng bạn nhất định có tài năng khác; nếu như bạn
học và đồng sự tôn trọng bạn, thầy cô và lãnh đạo
thích bạn, vui vẻ kết bạn với bạn, điều này có thể nói
nhất định bạn có đầy đủ những phẩm chất vui vẻ mà
người khác nhận được. Ngược lại, nếu như bạn học
hoặc đồng sự đối với bạn tôn kính mà không dám
gần, không bằng lòng asống cùng với bạn, thậm chí
chán ghét bạn. Trong những tình huống thông
thường, thì nên nói rõ bạn có những khuyết điểm
như thế nào mà khiến một số người chán ghét.
Đương nhiên, “thái độ của người đứng ngoài quan
sát, không nhất định có khả năng đánh giá toàn diện
một người, nhưng thái độ của đại đa số ít nhất cũng
khiến cho bạn nhận ra nhược điểm của mình”.
Thứ ba: Chăm chú lắng nghe những người xung quanh đánh giá về bản thân mình
Trước tiên, nên lắng nghe ý kiến của người thân, bạn bè. Tục ngữ nói: “Tri tử mạc như phụ”, có nghĩa là hiểu rõ bản
tính của người con không ai giỏi hơn bằng người làm cha mẹ. Nói rõ hơn vì họ là những người đi trước, là người từng
trải, vì thế ý kiến của họ chúng ta không thể không lắng nghe. Trên thực tế có rất nhiều người trẻ tuổi học cao,
nhưng trong vấn đề lựa chọn nghề lại không chịu lắng nghe ý kiến của cha mẹ một cách nghiêm túc, thậm chí còn
ỷ lại một cách quá đáng. Đây cũng là một xu hướng mà chúng ta phải chú ý khắc phục. Kế tiếp là phải khiêm tốn
tiếp nhận sự hướng dẫn, phê bình của thầy cô, lãnh đạo. Bạn cần phải biết tiếp nhận ý kiến, sự phê bình, đánh giá
công bằng khách quan của nhiều người, đồng thời dựa vào đó để nhận thức bản thân một cách chính xác. Hay nói
rõ hơn là phải nghiêm túc lắng nghe những lời khuyên chân thành của người thân, bạn bè, đồng sự…
23. Cẩmnanghướngnghiệp
23
C. Khi chọn nghề nên chú ý những điểm nào?
Khi chúng ta lựa chọn ngành nghề, cần phải làm được những điểm sau:
Thứ nhất: Phải có độ nhìn xa trông rộng
Có rất nhiều người khi lựa chọn cơ quan làm việc thường
có cái nhìn quá gần, một mực coi trọng điều kiện đãi ngộ
tốt, thù lao khá cao mà bỏ đi những nơi có cơ sở hạ tầng
hoặc những nơi hẻo lánh. Quan niệm này nói ra thì rất
đơn giản nhưng đại đa số đều có xu hướng như vậy. Nên
biết, từ xưa đến nay, có rất nhiều người thành tựu đều là
từ tầng lớp thấp nhất, nhưng thông qua sự nỗ lực của bản
thân, cộng với khi làm việc có mục tiêu rõ ràng, họ đã
thành công rất rực rỡ. Vì thế mới nói: “Tể tướng cũng từ
quận châu, mãnh tướng cũng từ lính tốt”.
Thứ hai: Phải khiến năng lực của bản thân mình
phù hợp tương xứng với chức vụ của mình
Chức vụ của cơ quan và tiền lương thu hút bạn thì nhiều
vô kể, nhưng trình độ và năng lực làm việc của bạn như
thế nào, đó là một vấn đề hết sức quan trọng. Bởi lẽ, mặc
dù chức vụ của cơ quan nào đó rất đơn giản, nhưng lại
không phù hợp với trình độ năng lực và loại hình của bạn.
Ngược lại có một số chức vụ hết sức quan trọng và yêu
cầu đòi hỏi phải có năng lực làm việc rất cao, nhưng lại
phù hợp với trình độ làm việc chuyên môn của bạn. Vì
thế, người có yêu cầu việc làm cần phải cân nhắc cho kỹ
vấn đề chức vụ và năng lực, trình độ làm việc chuyên môn
của mình. Có như vậy, bạn mới có thể phát huy được tài
năng của chính mình một cách thích hợp.
Thứ ba: Cần phải chú trọng hiệu ứng xã hội của cơ quan
làm việc
Có một số cơ quan có điều kiện vật chất ưu đãi rất tốt
nhưng lại không được xã hội tôn trọng, ngược lại có một
số cơ quan tuy điều kiện vật chất kém ưu đãi nhưng lại
được xã hội tôn trọng. Đó là điều không ai có thể chối cãi
được. Vấn đề đó bạn cũng cần phải cân nhắc cho thật kỹ.
24. Cẩmnanghướngnghiệp
24
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH CÁCH
VÀ NGHỀ NGHIỆP
A. ĐẶC TRƯNG VÀ PHÂN LOẠI CỦA TÍNH CÁCH
Chúng ta cần phải lựa chọn nghề nghiệp thích hợp với
chính mình, trước tiên phải biết nhận thức tính cách của
mình chính là một nhân tố hết sức quan trọng. Nhận biết
tính cách của bản thân thì cần phải nắm bắt đặc trưng cơ
bản của tính cách. Những đặc trưng này thông thường có
thể khảo sát bốn phương diện sau đây:
(1) Đặc trưng ý chí của tính cách
Đây là cái mốc điều tiết hành vi bản thân và trình độ của
người tự giác, biểu hiện ở một người đối với mục đích của
hành vi bản thân chính xác mà sâu sắc, có thể kìm chế
mình một cách chủ động hay không, trong tình huống khó
khăn và khẩn cấp có khả năng nhanh chóng đưa ra chọn
lựa một cách chính xác hay không và với nghị lực kiên
cường có thể đưa ra quyết định một cách triệt để hay
không? Những đặc trưng tính cách thuộc về các mặt này
bao gồm: tính độc lập, tính kỷ luật, tính tổ chức, tính chủ
động, sức tự kìm chế, tính quyết đoán, tính dũng cảm, tính
kiên nhẫn, tính cẩn thận, cùng với những đức tính trái
ngược như tính nóng vội, tính mù quáng, tính lỗ mãng,
nhát gan, do dự thiếu quyết đoán, gặp việc lại sợ không
thích, tự do ngạo mạn, đầu hổ đuôi rắn, khinh suất thiếu
suy nghĩ v.v… đều là những nhân tố hết sức quan trọng.
(2) Đặc trưng thái độ của tính cách
Đặc trưng thái độ của tính cách trước tiên là biểu hiện ở
những thái độ của một người đối với xã hội, đối với người
khác và đối với chính mình. Ví dụ như có tràn đầy lòng tin
đối với xã hội, đối với sự nghiệp, đối với cuộc sống; có sự
quan tâm đối với tập thể, đối với người khác; yêu mến đối
với công việc, thành quả lao động; có yêu cầu nghiêm
khắc đối với bản thân v.v… Những thái độ trên đều có mối
quan hệ với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau.
25. Cẩmnanghướngnghiệp
25
(3) Đặc trưng lý trí của tính cách
Chúng ta lấy sự khác biệt cá thể của mặt nhận thức
tính cách gọi là đặc trưng lý trí của tính cách. Những
cái khác biệt này biểu hiện trong những đặc điểm tri
thức, có thể phân thành tri thức bị động và quan sát
chủ động; hoặc phân thành liệt kê chi tiết và khái
quát; thô sơ và tinh tế. Ở phương diện trí nhớ thì được
biểu hiện ở tính quan sát khách quan hoặc tính trừu
tượng. Về mặt tư duy thì có thể biểu hiện ở sự nông
cạn hay sâu sắc của sự tư duy, ổn định và không ổn
định của tư tưởng, giỏi về suy nghĩ độc lập hay lẩn
tránh vấn đề. Về mặt tưởng tượng thì có thể biểu hiện
về cảm giác hiện thực hoặc thoát ly thực tế, nội dung
quảng đại hoặc nhỏ hẹp v.v…
(4) Đặc trưng tinh thần của tính cách
Thông thường biểu hiện ở bốn mặt như thái độ mạnh
mẽ của hoạt động tinh thần, tính ổn định, tính bền bỉ và
quan điểm chính. Có một số người có thể nghiệm tinh
thần sâu sắc, biểu hiện tinh thần vui vẻ, sinh động thì
dễ bị tinh thần chi phối, năng lực khống chế thấp có
ảnh hưởng rất lớn đối với công việc. Một số người tinh
thần thể nghiệm yếu ớt, năng lực khống chế ý chí cao,
không dễ bị tinh thần lung lay, tinh thần cũng ảnh
hưởng không nhỏ đối với công việc. Một số người có
tinh thần ổn định, bền bỉ đứng trước những việc trọng
đại thường bị thất bại. Một số người có bệnh nóng lạnh
thì dễ kích động, tâm trạng không ổn định, khi đứng
trước thành công thì lại quên hết những gì trước kia,
khi đứng trước thất bại thì mặt mày ủ ê. Người có tinh
thần dồi dào, sống lạc quan vui tươi, chí khí mạnh mẽ,
luôn hướng về phía trước. Người bi quan thường có
những phiền não u trầm, không có tinh thần làm việc,
thất vọng…
Các loại đặc trưng của tính cách là một thể hữu cơ có
liên quan lẫn nhau, chỉ dẫn nghề nghiệp giúp người có
yêu cầu làm việc hiểu rõ các mặt của đặc trưng tính
cách của chính mình, nó phụ thuộc vào sự chọn lựa
nghề nghiệp một cách chính xác, đặc biệt là có ý nghĩa
quan trọng thích ứng với ngành nghề.
26. Cẩmnanghướngnghiệp
26
B. ĐỊNH VỊ NGHỀ NGHIỆP VÀ LOẠI HÌNH TÍNH CÁCH
Quan hệ giữa nghề nghiệp và tính cách có thể là
quan hệ xúc tiến với nhau, hạn chế lẫn nhau.
Trước tiên, lựa chọn nghề nghiệp phải xem xét phẩm
chất tính cách nghề nghiệp của cá thể, cố gắng chọn
lựa công việc mà nó phù hợp với đặc điểm tính cách
của cá thể. Do đó mỗi một công việc đều phải đưa ra
yêu cầu đặc điểm nhất định của phẩm chất, tính
cách của người làm việc. Muốn thích ứng với ngành
nghề nào thì cần phải có đầy đủ các đặc trưng tính
cách của yêu cầu ngành nghề đó. Ví dụ để trở thành
một thầy giáo nổi tiếng, ngoài việc phải có nguồn
kiến thức phong phú ra thì còn phải có sự yêu mến
ngành giáo dục, phải có những phẩm chất tốt đẹp
như trách nhiệm, nhiệt tình, chính trực, khiêm tốn
đối với học sinh; để trở thành bác sĩ tất nhiên cần
phải có tinh thần chủ nghĩa nhân đạo cứu giúp
người hoạn nạn, giàu lòng thương người và tinh
thần trách nhiệm phải cao, với thái độ làm việc
không chút cẩu thả, có tinh thần cầu tiến; để trở
thành một nhân viên kỹ sư kỹ thuật, cần phải có tinh
thần hợp tác của chủ nghĩa tập thể và tính cẩn thận,
tính kiên trì, tinh thần cải cách mới; để trở thành
một cán bộ nổi tiếng, tất cần phải có sự quan tâm
đến vinh dự và lợi ích của tập thể, có tác phong dân
chủ của tinh thần vì việc công, quên lợi ích cá nhân
và phải có quan hệ mật thiết với quần chúng. Ngược
lại, nếu không có những phẩm chất tính cách tốt
tương ứng với yêu cầu ngành nghề thì không thể có
công việc tốt thích ứng.
Mặt khác, tính cách được dần dần hình thành trong thực
tiễn cuộc sống qua một thời gian dài. Người làm chung
một công việc hoặc sống chung một hoàn cảnh, về tính
cách cũng luôn luôn có những đặc điểm chung nào đó,
đây cũng gọi là tính cách nghề nghiệp. Tính cách nghề
nghiệp là những hoạt động mà bản thân yêu cầu. Tính
cách nghề nghiệp chính là nhân tố tạo nên những hoạt
động trong nghề nghiệp. Nghề nghiệp đặc biệt sẽ tạo nên
tính cách đặc biệt, nhân viên phục vụ có tính cách nhiệt
tình, chu đáo, kiên nhẫn, thái độ ôn hòa, người làm công
tác văn nghệ có đặc trưng là hoạt bát, vui tươi, tình cảm
phong phú, người làm công việc khoa học có thái độ tôn
trọng sự thật, đều được hình thành trong hoạt động nghề
nghiệp để thích ứng với yêu cầu nghề nghiệp. Những
công việc khác nhau cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự
hình thành của tính cách, sự thô kệch, hào phóng của
công nhân dầu mỏ, sự tinh tế, chính xác của người sửa
chữa những máy móc tỉ mỉ, sự dũng cảm, gan dạ của
những người làm việc trên không trung đều là những kết
quả của địa vị đặc biệt trong thực tiễn cuộc sống để thích
ứng hoàn cảnh học tập thực tiễn.
27. Cẩmnanghướngnghiệp
27
5. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGHỀ NGHIỆP
VÀ NĂNG LỰC
A. NĂNG LỰC VÀ NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP
Năng lực là chỉ đặc trưng tâm lý cá tính mà ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu suất, làm cho nhiệm vụ đó có thể
hoàn thành thuận lợi. Năng lực luôn liên kết hòa hợp
với người hoàn thành hoạt động nhất định. Đồng
thời, nó là một loại hoạt động nào đó khảo sát năng
lực của con người, ví dụ: hòa tấu và điệu khúc đối với
người từng hoạt động âm nhạc là chuyện không thể
thiếu được, tỷ lệ của sự chính xác quan hệ đối với
người từng hoạt động hội họa là không thể thiếu sót.
Thiếu những đặc trưng tâm lý này thì sẽ ảnh hưởng
đến hiệu suất của hoạt động, làm cho những hoạt
động này không thể tiến hành thuận lợi, vì những đặc
trưng tâm lý này chính là bảo đảm có liên quan đến
hoạt động hoàn thành của năng lực.
Nhưng đồng thời không phải biểu hiện ra những đặc
trưng tâm lý trong tất cả hoạt động đều là năng lực,
và trực tiếp ảnh hưởng hiệu quả hoạt động. Làm cho
nhiệm vụ hoạt động để hoàn thành thuận lợi của đặc
trưng tâm lý, mới là năng lực. Giống như những đặc
trưng: nôn nóng, hoạt bát, vững vàng. Tuy nhiên với
hoạt động có thể tiến hành thuận lợi hay không có
quan hệ nhất định, nhưng thông thường mà nói,
chúng đồng thời không phải là điều kiện cơ bản ảnh
hưởng đến hiệu suất hoạt động, vì vậy không thể gọi
là năng lực.
Năng lực nghề nghiệp là sự phát triển đi lên theo thời
gian về nghề nghiệp chuyên môn, trực tiếp ảnh hưởng
đến hiệu suất lao động, làm cho cá nhân hoàn thành
nhiệm vụ và thuận lợi trong thăng tiến nghề nghiệp.
Bất luận bạn làm nghề gì cũng luôn phải đảm bảo điều
kiện tâm lý nhất định, ví dụ người thầy giáo phải hoàn
thành hoạt động dạy học, ngoài lập trường, quan điểm,
tri thức chuyên nghiệp cụ thể, người thầy cũng phải
chuẩn bị cho mình năng lực tổ chức sắp xếp công việc
khoa học và hiệu quả, năng lực trí nhớ, năng lực biểu
đạt ý tưởng thông qua lời nói để giảng bài trên cơ sở
giáo án đã biên soạn,v.v.. Đối với người giám đốc, ngoài
kiến thức và am hiểu công ty cũng như sự vận hành của
công ty, bạn cần chuyên môn nghiệp vụ thật vững về
những kỹ năng quản lý và điều hành một tổ chức, biết
dự toán, kỹ năng giao tiếp… Nói chung, để phát triển
nghề nghiệp, bạn cần tích lũy và hội tụ nhiều năng lực,
kỹ năng phù hợp với mảng công việc bạn đang làm.
Hoạt động của con người là rất đa dạng, năng lực của con
người cũng có các loại hình đa dạng phong phú. Từ góc
độ không giống nhau có thể phân loại không giống nhau
đối với tiến hành năng lực. Thông thường có thể đem
năng lực phân thành năng lực thông thường, năng lực
đặc biệt, năng lực thao tác và năng lực giao tiếp xã hội.
28. Cẩmnanghướngnghiệp
28
B. PHÂN LOẠI NĂNG LỰC
(1). Năng lực thông thường:
Năng lực thông thường là các loại hoạt động đều có một số
năng lực chung mà cần thiết. Tương đương với những người
thông thường bao gồm:
Năng lực chú ý: Chỉ hoạt động tâm lý
tập trung và năng lực thiên hướng đối
với thế giới sự vật nhất định, là nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến hiệu suất
hoạt động nghề nghiệp. Khác biệt của
năng lực chú ý của con người chủ yếu
biểu hiện các mặt như phạm vi của chú
ý, phối hợp chú ý, tính ổn định của chú ý
và tính di chuyển của chú ý.
Năng lực trí nhớ: Là chỉ những
người có năng lực của phân biệt
sự vật, duy trì hồi ức đối với quá
khứ. Bao gồm các mặt như tốc
độ của trí nhớ, tính bền bỉ và
tính chính xác, là phần quan
trọng của kết cấu trí lực.
Năng lực tư duy: Là chỉ năng lực phân
tích, tổng hợp, trừu tượng, tổng quát
đối với sự vật, là trung tâm của kết cấu
trí lực. Sự khác biệt của năng lực tư duy
cá thể chủ yếu biểu hiện ở các mặt
như: tính rộng lớn và tính sâu sắc của
tư duy, tính độc lập và tính phê phán,
tính linh hoạt và tính nhạy cảm.
Năng lực tưởng tượng: Là chỉ năng lực biểu tượng tiến hành
gia công cải tạo mà sáng tạo hình tượng đã có trong não người
đối với não. Ai-yin-si-tan gọi nó là “nhân tố thực tại trong
nghiên cứu khoa học”. Năng lực tưởng tượng là những nhân
viên thiết kế công trình, kiến trúc sư, kỹ sư cơ giới, thiết kế thời
trang, người làm công việc nghệ thuật và tất cả những hoạt
động có tính sáng tạo.
Năng lực quan sát: Là một loại có mục tiêu dự
tính, có kế hoạch, quá trình tri giác của chủ động.
Quan sát tất cả địa vị xã hội của tri giác, trong tất cả
các lĩnh vực của thế giới tri thức nhân loại và thế
giới cải tạo, nếu đều có tác dụng quan trọng. Khác
biệt của năng lực quan sát chủ yếu thể hiện trong
loại hình quan sát không giống nhau. Ví dụ như:
loại hình phân tích của quan sát, loại hình tổng hợp
của quan sát và loại hình tổng hợp phân tích v.v…
29. Cẩmnanghướngnghiệp
29
Năm loại nhân tố của năng lực thông thường, trong quá trình nhận
thức, có tác dụng đặc biệt của các loại. Có thể nói, năng lực chú ý là
cảnh vệ của hoạt động nhận thức, lại là nhân tố duy trì của hoạt động
nhận thức; năng lực quan sát là đôi mắt của hoạt động nhận thức và là
nguồn nước của hoạt động nhận thức; năng lực trí nhớ là kho tàng của
năng lực nhận thức, cũng là một trong những phương pháp chủ yếu
của hoạt động nhận thức; năng lực tưởng tượng là đôi cánh cửa hoạt
động nhận thức, lại là điều kiện hoạt động của tính sáng tạo. Yếu tố
của năng lực thông thường vừa là quan hệ tương trợ lẫn nhau vừa là
thuốc dược chế tương hộ lẫn nhau. Trình độ của một nhân tố nào đó
không những ảnh hưởng đến trình độ của bốn loại nhân tố khác, cũng
ảnh hưởng đến trình độ trí lực. Năng lực của toàn mặt phát triển bản
thân, thì sẽ khiến năm yếu tố lớn đều có thể phát triển tốt. Nếu đeo
đuổi một yếu tố nào đó, mà xem nhẹ phát triển của các yếu tố khác,
đều sẽ tạo nên mất thăng bằng của kết cấu năng lực.
30. Cẩmnanghướngnghiệp
30
(2). Năng lực đặc biệt
Năng lực đặc biệt là chỉ năng lực hoàn thành thuận
lợi một hoạt động nào đó mà cần phải chuẩn bị. Ví
dụ làm công việc giáo dục có năng lực đọc và năng
lực biểu đạt; làm nghiên cứu toán học cần phải có
năng lực tính toán, năng lực không gian và năng lực
tư duy logic; làm công việc âm nhạc cần phải có cảm
giác tiết tấu và điệu khúc v.v… Bất cứ một loại nghề
nghiệp nào đều phải có yêu cầu năng lực chuyên
môn nhất định, một người nếu như thiếu năng lực
đặc biệt và thích ứng công việc thì rất khó mà đảm
nhận được công việc. Do đó, hiểu được năng lực đặc
biệt mà các loại hoạt động nghề nghiệp cần thiết và
tính có hiệu suất của hướng dẫn là điều rất cần thiết.
Năng lực thông thường và năng lực đặc biệt đồng
thời không tách rời mà là mối quan hệ hữu cơ. Năng
lực thông thường là sự phát triển, là điều kiện có lợi
để sáng tạo sự phát triển của năng lực đặc biệt.
Đồng thời là sự phát triển của năng lực đặc biệt
trong một loại hoạt động, cũng sẽ thúc tiến sự phát
triển của năng lực thông thường.
(3). Năng lực thao tác
Năng lực thao tác là chỉ năng lực của thao tác kỹ thuật, lao
động sản xuất. Xã hội hiện đại sẽ cần những người “tận
dụng trí óc”, người lao động trí óc cũng cần những thao
tác thực tế. Năng lực thao tác của học sinh trung học đã
trở thành nhân tố hạn chế của nghề nghiệp thích ứng. Bồi
dưỡng năng lực cử động tay là một trong những nội dung
quan trọng mà nhiều giáo trình của trường Đại học cải
cách. Bồi dưỡng năng lực thao tác không những biểu hiện
động tác bề ngoài mà còn giúp cho con người có ý thức
điều chỉnh bản thân không những tác dụng phụ thuộc
vào thế giới môi trường mà còn phụ thuộc vào việc bồi
dưỡng phẩm chất ý chí và trí lực mà nó tương quan cho
con người.
31. Cẩmnanghướngnghiệp
31
(4). Năng lực giao tiếp với người khác
Năng lực giao tiếp với người khác là chỉ năng lực tham gia cuộc sống quần thể xã hội, giao tiếp với những người
xung quanh và duy trì nhịp nhàng. Nó là một cơ bản của năng lực tiến cử bản thân mà bất kỳ người nào không thể
thiếu. Một người mà không biết giao tiếp với người khác, sẽ không nhận được sự tôn trọng của người khác. Xã hội
hiện đại, bất luận làm nghề nghiệp gì, hoàn thành công việc gì đều cần thiết phải giao tiếp với người khác.
Có người tiến hành phân tích đối với kết cấu năng lực của người làm công việc quản lý, đưa ra người làm công việc
quản lý nên có đầy đủ năng lực của ba mặt: năng lực nghiệp vụ, năng lực quản lý và năng lực giao tiếp. Năng lực
nghiệp vụ của nhân viên quản lý và năng lực quản lý của cấp bậc không giống nhau và có thể có khác biệt, nhưng
bất cứ nhân viên quản lý mà dù ở cấp bậc nào đều nên có đầy đủ năng lực giao tiếp với người khác khá cao. Do đó,
năng lực giao tiếp là điều kiện rất nhiều nghề nghiệp không thể thiếu.
Nghiên cứu lý luận và biểu hiện rõ thực tiễn, năng lực giao tiếp chủ yếu
bao gồm mấy mặt dưới đây:
THỨ NHẤT, năng lực cảm nhận
giao tiếp, là chỉ năng lực cảm tri
của trạng thái tâm lý hoặc hoạt
động tâm lý như đối với tư
tưởng, tình cảm, nhu cầu, động
cơ khác và ảnh hưởng đến năng
lực cảm nhận của trình độ khác
đối với lời nói và hành động của
bản thân.
THỨ NĂM, năng lực phong độ và
biểu đạt. Đây là biểu hiện bên
ngoài của năng lực giao tiếp với
người. Cử chỉ, lời nói, phong độ
và lưu loát, có cách biểu đạt tình
cảm của sức cảm hóa là biểu hiện
của năng lực giao tiếp với người
khá cao.
THỨ BA, năng lực lý giải giao tế.
Tức là năng lực mà tư tưởng, tình
cảm và hành vi lý giải người
khác. Lý giải là cầu nối của nối
liền hai tâm linh, giỏi về lý giải
người khác là điều kiện mà
không thể thiếu để chiến thắng
tín nhiệm của người khác.
THỨ TƯ, năng lực tưởng tượng
giao tế, đặt mình vào hoàn cảnh
của đối phương để suy nghĩ, từ
chức vị, lập trường và hoàn cảnh
suy nghĩ vấn đề của đối phương
và đánh giá năng lực của hành vi
đối phương.
THỨ HAI, năng lực trí nhớ sự vật,
là năng lực trí nhớ của con
người biểu hiện đặc biệt trong
giao tiếp, nội dung trí nhớ sự
việc là tất cả tin tức có liên quan
đến hoạt động giao tiếp và đối
tượng giao tiếp. Ví dụ như họ
tên giao tiếp, tuổi tác, hoàn
cảnh gia đình, sở thích hứng
thú, trạng thái tâm trạng, đặc
trưng cá tính của đối tượng
v.v… Nội dung giao tiếp và hoàn
cảnh giao tiếp với nhau cũng
phụ thuộc vào phạm vi của trí
nhớ nhân vật.
32. Cẩmnanghướngnghiệp
32
Tổng hợp của năm loại năng lực kể trên, chính là
cấu thành một năng lực giao tiếp của con người.
Thiếu năng lực này chính là không có cách sáng
tạo không khí tâm lý quần thể tốt đẹp, không có
cách để xử lý nhịp nhàng các mối quan hệ của
những người xung quanh, không hiệu quả tiến
hành sức sống nghề nghiệp.
Năng lực giao tiếp với người khác không chỉ
phân cao thấp, cũng tồn tại sự khác biệt trong
các loại hình phong cách giao tiếp.
Nhà nghiên cứu tâm lý học hiện đại biểu hiện rõ
năng lực cũng có thể phân thành hiển năng và
tiềm năng. Cái gọi là hiển năng chính là chỉ người
biểu hiện rõ nét năng lực trong các loại hoạt
động. Ví dụ như nhân viên quản lý biểu hiện rõ
nét những năng lực tổ chức, năng lực cổ động,
năng lực biểu đạt; vận động viên giành được
thành tích vận động; năng lực quan sát, năng lực
trí nhớ, năng lực suy nghĩ của học sinh v.v… Cái gọi là
tiềm năng, chính là chỉ người có năng lực của tố chất tốt
đẹp mà phát triển, phát hiện trong các loại hoạt động,
ví dụ : trong thế vận hội lần thứ 24, vận động viên bơi lội
của nước bạn có đủ khả năng giành lấy thành tích mang
tính đột phá, chính là nhờ vào giáo viên huấn luyện đã
phân tích tố chất thân thể của vận động viên, phát hiện
và đã khai phát năng lực mà nó tiềm ẩn. Ví dụ bạn quen
thuộc với một giáo viên trẻ tuổi mà có thành tích cao
ngất, vốn là một người tính cách nội tâm, không câu nệ
với những ngôn ngữ, vừa nói ra thì mặt đã đỏ, người mà
có nhiều ấp úng, khi bắt đầu lên lớp, ngay cả đầu cũng
không dám ngẩng lên, chỉ là cúi đầu giảng bài. Trải qua
một giai đoạn rèn luyện, hiện giờ anh ấy có thể linh hoạt
vận dụng tất cả những tri thức, tả như thật, vui vẻ mà nói
ở trên lớp, nhận được những lời bình tốt đẹp ăn khớp của
học sinh, dạy học thực tiễn đã khai phát tiềm năng mà
qua cách biểu đạt ngôn ngữ của anh ấy.
33. Cẩmnanghướngnghiệp
33
C. PHÂN TÍCH NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP
Căn cứ vào một số phân tích của học giả đối với năng lực
nghề nghiệp, thông thường có thể tiến hành phân tích năng
lực thành 9 mặt dưới đây.
Năng lực ngôn ngữ
Nó chỉ năng lực sử dụng và lý giải của con người đối với
những từ có hàm ý khác, năng lực lý giải đối với từ vựng,
câu, đoạn, bài văn. Người giỏi về năng lực là biểu đạt
quan điểm của mình và giới thiệu tin tức cho người khác
một cách rõ ràng và chính xác, nói một cách đơn giản, nó
bao gồm năng lực biểu đạt lời nói và năng lực giải thích
của văn chữ ngôn ngữ. Nghề nghiệp không giống nhau
yêu cầu không giống nhau đối với năng lực ngôn ngữ
của con người. Ví dụ những nghề nghiệp cần có chuẩn bị
đầy đủ năng lực ngôn ngữ khá cao như giáo viên, luật sư,
nhân viên kinh doanh, nhân viên tư vấn, y tá.
Năng lực học tập thông thường
Nó chỉ năng lực của giải thích vấn đề như nhận thức,
giải thích khách quan sự vật và vận dụng tri thức kinh
nghiệm của mọi người, lại có thể gọi là trí lực. Nó bao
gồm năng lực trí nhớ, năng lực quan sát, năng lực chú
ý, năng lực tưởng tượng, năng lực tư duy, đặc biệt là
năng lực tư duy logic. Năng lực học tập thông thường
là năng lực cần được chuẩn bị đầy đủ, sử dụng rộng
rãi trong học tập, công việc và trong hoạt động
thường ngày của mọi người.
Năng lực tính toán
Là chỉ năng lực tính toán với tốc độ nhanh mà chính
xác. Đa số nghề nghiệp đều yêu cầu mọi người có
năng lực tính toán nhất định, nhưng những nghề
nghiệp không giống nhau yêu cầu trình độ không
giống nhau đối với năng lực tính toán của con người.
Ví dụ như đối với những nghề như kế toán, thủ quỹ,
thống kê, kiến trúc sư, thầy thuốc thì nhân viên làm
việc cần phải có năng lực tính toán khá cao; đối với
quan tòa, luật sư, người nghiên cứu lịch sử học, y tá,
bác sĩ chụp X quang v.v… yêu cầu nhân viên làm việc
có chuẩn bị đầy đủ năng lực tính toán trong trình độ
trung bình; đối với diễn viên, nhân viên trực tổng đài,
nhân viên tiếp tân, đầu bếp, thợ cắt tóc, hướng dẫn
viên du lịch, công nhân hầm mỏ.v.v… những nghề
nghiệp này yêu cầu rất thấp đối với năng lực tính
toán.
Năng lực phán đoán không gian
Là chỉ mối quan hệ có thể nhìn hiểu được của hình học
không gian, phân biệt vật thể trong vận động không
gian, giải quyết năng lực của những đề hình học không
gian. Nếu như một sở thích của một người về hình học
không gian và hình lập thể, năng lực phán đoán của
người này thì rất cao. Những công việc mà có liên quan
như đồ họa, kỹ sư, kiến trúc sư, với những nghề nghiệp
như bác sĩ nha khoa, bác sĩ khoa nội, ngoại, những
nghề này yêu cầu rất cao đối với năng lực phán đoán
không gian; đối với thợ may, thợ điện, đồ mộc, nhân
viên sửa chữa điện thoại không dây, công nhân cỗ máy,
những nghề này mà nói cũng yêu cầu có năng lực phán
đoán không gian nhất định, mới có thể đảm nhận được.
34. Cẩmnanghướngnghiệp
34
Ngoài ra, người làm công việc quản lý và người làm công việc xã hội đều nên chuẩn bị năng lực giao
tiếp với người khác khá tốt. Năng lực giao tiếp là chỉ năng lực tham gia cuộc sống quần thể xã hội,
giao tiếp với những người xung quanh, duy trì nhịp nhàng, rất khó tưởng tượng một người mà
không biết giao tiếp với người khác, có đủ khả năng đưa ra những thành tựu trong công việc xã hội.
Quá trình của người chọn nghề chính là quá trình giao tiếp với người khác, không biết giao tiếp với
người khác thì rất khó tìm được công việc như ý.
Độ linh hoạt của ngón tay
Là chỉ năng lực mà tốc độ của ngón tay thao tác vật
thể nhỏ một cách chính xác, hài hòa. Công nhân
dệt, nhân viên đánh chữ, thợ may, bác sĩ khoa
ngoại, y tá, nhà điêu khắc, họa sĩ, nhạc sĩ v.v… ngón
tay cần thiết phải linh hoạt hơn người bình thường.
Độ kỹ xảo của ngón tay
Là chỉ năng lực hoạt động của ngón tay linh hoạt
mà nhanh, giống như công việc của vận động viên
thể dục, nhà vũ điệu, họa sĩ, bác sĩ thú y v.v… Ngón
tay cần phải hoạt động linh hoạt.
Năng lực văn mật (văn thư, lưu trữ tài liệu)
Là chỉ năng lực tri giác của chi tiết tài liệu đối với
ngôn ngữ và cách thức biểu đạt. Ví dụ như phát
hiện chữ sai hoặc chính xác của năng lực đính
chính chữ số v.v… giống như công việc của nhà
thiết kế, kinh tế. Ghi chép, thủ quỹ, văn phòng,
đánh chữ v.v… đều chuẩn bị đầy đủ năng lực văn
mật nhất định.
Năng lực nhịp nhàng của tay và mắt
Đây là năng lực phản ứng vận động đưa ra động tác
chính xác của tay và mắt, nhịp điệu và tốc độ. Đối
với nhân viên lái tàu, nhân viên lái máy bay, nhân
viên thao tác tính toán, bác sĩ nha khoa, bác sĩ khoa
ngoại, nhà điêu khắc, vận động viên, diễn viên múa
mà nói năng lực này biểu hiện rất quan trọng.
Năng lực tri giác trạng thái
Là chỉ năng lực tri giác mà có quan hệ chi tiết đối với
vật thể và hình tượng. Ví dụ như đưa ra sự so sánh và
khác biệt tri giác của độ dài và độ rộng của tuyến, có
thể nhìn thấy sự khác biệt của những chi tiết khác.
Đối với nhà sinh vật học, kiến trúc sư, nhân viên đo
đạc, nhân viên đồ họa, nhân viên kỹ thuật nông
nghiệp, nhân viên kỹ thuật động thực vật, bác sĩ, bác
sĩ thú y, người chế thuốc, họa sĩ, nhân viên sửa chữa
vô tuyến điện, nhu cầu tri giác trạng thái khá cao,
mà đối với nhà lịch sử học, nhà chính trị học, nhân
viên phục vụ xã hội, nhân viên tiếp tân, người bán
vé, nhân viên văn phòng tri giác trạng thái là rất
quan trọng khi không hiển thị ra ngoài.
35. 1. Tôi thích nghề gì?
Câu này nên trả lời trước tiên. Muốn làm nghề gì, trước hết
bản thân ta có thích nó hay không, tức là có thực sự hứng
thú với nó không. Nếu không thích thì đừng chọn. Đó là
nguyên tắc. Chúng ta không thể thay đổi nghề dễ như thay
đổi cái áo được. Hơn nữa, ta không dễ gì đến với nghề khác
theo sở thích của bản thân mình ngay sau khi ta chán cái
nghề đã chọn…
Chỉ khi nào thích nghề của mình thì cuộc sống riêng mới
thanh thoát. Chúng ta mới gắn bó với công việc, với đồng
nghiệp, với nơi làm việc.
Khi bạn đã hiểu rõ các nguyên nhân khiến bạn ra quyết định sai lầm
khi chọn nghề thì điều kiện để chọn nghề đúng đơn giản là bạn phải
tránh xa các nguyên nhân dẫn đến sự sai lầm đó, cụ thể là khi bắt đầu
chọn cho mình một nghề, bạn cần xác định:
Thái độ đúng
Các yêu cầu của nghề
Thị trường lao động
Năng lực tài chính
Lý giải vì sao chọn nghề này mà không chọn nghề kia
Trả lời được ba câu hỏi mấu chốt: muốn, có thể, cần phải
Thực hiện các bước chọn nghề
Để trả lời câu hỏi tại sao cần tìm hiểu cặn kẽ mối tương quan
giữa hai yếu tố: đặc điểm, yêu cầu của nghề và đặc điểm của
bản thân xem có phù hợp với nhau không.
Khi đắn đo cân nhắc về nghề cần chú ý tới những mặt khó,
không hấp dẫn của nghề.
Tiếp theo, bạn cần:
Lý giải vì sao chọn nghề này mà không chọn nghề kia
Trả lời được ba câu hỏi mấu chốt: muốn, có thể, cần phải
2. Tôi có thể làm được nghề gì?
Để trả lời câu này, phải tự kiểm tra năng lực của
mình. Năng suất lao động của chúng ta có cao hay
không là do năng lực của chúng ta đạt trình độ nào.
Các bạn nên nhớ rằng, có những nghề bạn thích
nhưng lại không làm được (thiếu năng lực tương
ứng). Song cũng có nghề bạn làm được nhưng lại
không thích nó. Vì thế sau khi câu hỏi thứ hai được
giải đáp, ta lại phải đối chiếu xem nó có thống nhất
với câu hỏi thứ nhất hay không.
3. Tôi cần làm nghề gì?
Có những nghề được các bạn thích, các bạn lại có
năng lực đối với chúng, song những nghề đó lại
không nằm trong kế hoạch phát triển thì cũng
không thề chọn được. Vì vậy, để trả lời câu hỏi này,
ta phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất của địa
phương, kế hoạch phát triển ngành nghề ở địa bàn
tỉnh, huyện, kế hoạch tuyển sinh của các trường Đại
học, Cao đẳng và trường nghề, khả năng tìm được
việc làm khi học xong nghề. Cần biết định hướng
vào những nghề cần và có điều kiện phát triển, điều
chỉnh hứng thú vào những nghề đó và tự rèn luyện
để có năng lực đối với chúng. Ngày nay lại phải chọn
nghề sao cho dễ chuyển nghề khi tình thế bắt buộc.
Ba câu hỏi trên cần được mỗi người giải đáp trong
sự cân nhắc đồng thời. Như vậy, việc chọn nghề sẽ
vừa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội, vừa
bảo đảm mức độ phù hợp với hứng thú, sở thích, sở
trường và năng lực của từng cá nhân.
Muốn
Có thể Cần phải
6. ĐIỀU KIỆN CHỌN NGHỀ ĐÚNG
Cẩmnanghướngnghiệp
35
36. Cẩmnanghướngnghiệp
36
Thực hiện các bước chọn nghề trên cơ sở bảng phân
loại nghề
Bước 1: Xác định loại nghề (lĩnh vực lớn
của hoạt động) theo dấu hiệu đối tượng lao động
Người - Thiên nhiên
Người - Người Người - Dấu hiệu Người - Nghệ thuật
Người - Kỹ thuật
Đối tượng LĐ
Sẽ phù hợp với em hay
không nếu em làm việc
với đối tượng lao động là
Các quá trình sinh vật
Con người
Chữ số, con số
Nghệ thuật
Kỹ thuật
Bước 2: Thu nhỏ lĩnh vực hoạt động, chọn đến ngành,
nhóm nghề trong loại nghề đó
Người - Người
Giáo dục
Dịch vụ
Ngân
hàng
Tài
chính
Bảo
hiểm
Thương
mại
Du
lịch
Khách
sạn
Nhà
hàng
Y tế
Tòa ánCông an
Bước 3: Tiếp theo nhóm nghề hãy chọn lấy
một nghề trong nhóm. Ví dụ: trong nhóm
nghề dịch vụ chọn nghề hướng dẫn viên
du lịch
Bước 4: Chọn trường có đào tạo ngành
nghề đó
37. Cẩmnanghướngnghiệp
37
7. VẤN ĐỀ CHỌN TRƯỜNG
Bạn cần nắm học lực của bạn ở các môn thuộc khối thi mình chọn ở mức nào. Nếu bạn chọn một ngành học nào
đó nhưng chưa tự tin vào học lực của mình, bạn có thể mạnh dạn chọn một trường có điểm chuẩn thấp hơn (các
trường ĐH vùng, trường địa phương…) hoặc nhắm đến bậc học Cao đẳng, TCCN, Trung cấp nghề sau đó liên
thông lên Đại học, Cao đẳng; hoặc chọn các trường ngoài công lập. Bạn nên chọn những trường có đào tạo liên
thông ngay tại trường hoặc những trường có liên kết đào tạo liên thông với các trường Đại học khác.
Bạn cần phải tham khảo điểm chuẩn các năm trước của trường mình định đăng ký dự thi để đối chiếu với mức
điểm tối thiểu dự kiến của mình có thể đạt được ở khối dự thi (lưu ý: nên chọn trường có mức điểm chuẩn chênh
lệch thấp hơn so với điểm dự kiến mình đạt từ 1 - 2 điểm).
Bạn cần thường xuyên theo dõi thông tin qua báo, đài, mạng Internet để nắm bắt những thông tin mới nhất về
tuyển sinh. Một số trang tiêu biểu như:
o Bộ Giáo dục và Đào tạo: www.ts.edu.net.vn (Cổng thông tin thi và tuyển sinh)
o Bộ Giáo dục và Đào tạo: www.moet.gov.vn
o Báo Thanh niên: www.thanhnien.com.vn
o Báo Tuổi trẻ: www.tuoitre.vn
Bạn cũng đừng quên thường xuyên theo dõi thông tin trên Website của các trường. Đồng thời, lưu giữ tất cả các
tờ gấp, Brochure, cẩm nang tuyển sinh của trường để tham khảo.
Xem xét điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình của mình có phù hợp với mức học phí của trường đã chọn không?
Nếu có điều kiện tài chính, bạn cũng có thể quan tâm đến các trường của nước ngoài, không thi tuyển theo quy
định của Bộ.
Sau khi bạn chọn được ngành nghề phù hợp thì bạn cần phải xác định
bạn muốn học ngành này ở bậc học nào và học ở đâu. Để xác định
được điều đó, bạn cần tham khảo những lời khuyên sau đây:
www.hoasen.edu.vn
38. Cẩmnanghướngnghiệp
38
HỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM
Nếu bạn vẫn còn hoang mang sau khi thực hiện các
bước chọn nghề thì phương pháp trắc nghiệm khách
quan phần nào cũng có thể giúp ta biết được về cơ
bản, ta có hợp (hay không hợp) với nghề định chọn.
Hiện nay, trên mạng lưới tư vấn giáo dục, có nhiều
trung tâm tư vấn hướng nghiệp mà tại đó có cả trắc
nghiệm hướng nghiệp hoặc tại trang Tư vấn chọn
ngành nghề của ĐH Quốc gia:
aad.vnuhcm.edu.vn/huongnghiep
Trắc nghiệm hướng nghiệp là một loại hình trắc
nghiệm khách quan hướng về việc chẩn đoán và phát
hiện những đặc điểm tư chất của cá nhân đối với nghề
nghiệp. Kết quả trắc nghiệm này được coi là cơ sở
khoa học để tư vấn hướng nghiệp, góp phần hỗ trợ
cho học sinh tự hiểu mình một cách khách quan hơn.
Từ đó biết chọn học ngành nghề nào cho phù hợp,
đồng thời tránh được những nghề không phù hợp.
Trong bài trắc nghiệm, ngoài IQ test (đo chỉ số thông
minh – Intelligent Quotient), còn thêm loại hình trắc
nghiệm khác như EQ test (đo chỉ số cảm xúc - Emotion
Quotient), AQ test (đo chỉ số vượt khó - Adversity
Quotient), CQ test (đo chỉ số sáng tạo - Creation Quo-
tient)... Bài trắc nghiệm có ít nhất hai loại test: IQ và
EQ sẽ cho sự chẩn đoán gần chính xác.
Trước đây, người ta chỉ dựa vào kết quả của IQ test. Nhưng
kết quả của IQ test chỉ cho ta biết về sức bật trí tuệ và khả
năng nhận thức, chưa thể cho biết về tính cách cá nhân và
năng lực tinh thần. Mà điều thứ hai (tính cách và tinh thần)
đặc biệt quan trọng hơn điều thứ nhất (trí tuệ và nhận thức).
Nó nói lên những phẩm chất đặc trưng của con người và
những giá trị bản thân của người đó tương thích (hoặc
không tương thích) với nghề nào. Nghề sẽ chọn và "yêu"
người nào không chỉ thành thạo kỹ năng làm việc, nó còn
kén chọn những ai có một tâm hồn và thái độ làm việc tương
xứng với nghề.
Nói một cách dễ hiểu hơn, chỉ số thông minh (IQ) chỉ nói
lên được người đó mạnh hay yếu về sức học và năng lực
nhận thức, nghĩa là mới xác định được phần Trí, trong khi
nhân cách của mỗi người lại gồm tối thiểu 5 yếu tố: Nhân,
Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng. Bốn phần còn lại (ngoài Trí) phải được
đo đạc bằng những chỉ số khác, trong đó, riêng chỉ số cảm
xúc (EQ) là đo gần được cả Nhân, Lễ, Nghĩa... Chính những
giá trị đó nói lên phần "hồn" của con người trực tiếp liên
quan đến nghề nghiệp. Tâm lý học hiện đại đã khẳng định
điều này. Các nhà doanh nghiệp khả kính và thành công
(theo nghĩa chân chính) đều có chỉ số EQ và AQ cao chứ
không nhất thiết IQ cao.
IQ cần cho con người khi nghiên cứu sâu về khoa học tự
nhiên và kỹ thuật. EQ giúp người đó tìm hiểu sâu và thấm
đượm nhiều về khoa học xã hội và nhân văn. Tiêu chí đặc
trưng để đo đạc về IQ là tư duy logic, về EQ là tư duy nhân
văn. IQ giúp tạo nên kỹ năng học và khám phá, EQ giúp
hình thành kỹ năng sống và trải nghiệm. Thực chất EQ cũng
đo sự thông minh dưới một hình thái khác: IQ thiên về
thông minh lý trí (mang tính logic), EQ thiên về thông minh
cảm xúc (mang tính nhân bản). Bởi vậy, EQ còn được hiểu là
trí tuệ cảm xúc - thứ trí tuệ bao quát, thấm đẫm chất người,
còn được gọi là văn hóa người. Thông thường, những ai có
IQ và EQ đều cao thì đa năng, giỏi nhiều nghề thuộc cả hai
lĩnh vực: khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
http://huongnghiep.hoasen.edu.vn
T