3. ÂU DƯƠNG CHIÊM
3
LỜI ĐẦU SÁCH
*****
Năm 1956, có lần gặp nhau ở phố Lê Văn
Hưu (Hà Nội), Nguyễn Bính hỏi tôi:
- Dạo này thỉnh thoảng còn dịch thơ chữ nho
không?
Tôi đã đọc cho ông nghe hai bản dịch bài thơ
"Gửi người xa" của Lý Bạch đời Đường. Nguyên
văn như sau:
KÝ VIỄN
Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường.
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng
Sàng trung tú bị quyển bất khởi.
Chí kim tam tải văn dư hương.
Hương diệc cánh bất diệt
Nhân diệc cán bất lai
Tương tư hoàng diệp lạc
Bạch lộ thấp thanh đài.
GỬI NGƯỜI XA
Em còn ở đây nhà hoa ngát
Em xa rồi ngơ ngác giường xưa
4. 4
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Chăn thêu nếp nếp hững hờ
Ba năm hương mãi bây giờ còn bay…
Thơm nào nghe quyện đâu đây
Người đi bữa ấy mai này còn sang
Tương tư để rụng lá vàng
Cho sương lạnh trắng mấy làn rêu xanh.
BẢN DỊCH II
Người đẹp ở, hoa thơm đầy buồng
Người đẹp đi rồi trơ giường suông
Trên giường chăn thêu nếp hờ hững
Đến nay ba năm thơm còn vương.
Hương cũng vương không dứt
Người cũng không về chơi
Tương tư vàng lá rụng
Sương lạnh trắng rêu hoài.
Sở dĩ, thêm bản dịch 2, tôi muốn thử nghiệm cách
dịch bám sát nguyên tác. Và trong trường hợp cụ thể
5. ÂU DƯƠNG CHIÊM
5
này, bản dịch 1 được nhiều người thích hơn. Có
người đã phê bình kiểu dịch này là "Câu nệ".
Từ đấy tôi vẫn tiếp tục dịch thơ theo hướng thứ 2
nhiều hơn, chủ yếu là chữ Hán. Vì phần lớn sáng tác
của tác giả Việt Nam, từ đầu thế kỷ 20 về trước, đều
viết bằng chữ Hán và Nôm.
(*)
Cho tới những năm 80 của thế kỷ trước, những
thơ văn chữ Hán mà tôi đã dịch và được đăng in trên
sách báo, có thể tạm kể:
1. Toàn bộ thơ chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông
2. Toàn bộ thơ chữ Hán và tập "Truyền kỳ Tân
Phả" của Đoàn Thị Điểm
3. Toàn bộ thơ chữ Hán trong tập "Lưu Hương Ký"
của Hồ Xuân Hương
4. Chinh Phụ Ngâm của Hồng Liệt Bá….v.v…
(*)
Đầu năm Sửu (2009) ông bạn nhà văn, nhà báo
Hàm Châu mang cho tôi tờ báo "Sai Gòn giải
phóng". Trong có in bài ký của ông viết về một nhà
khoa học trẻ tuổi Việt kiều ở Mỹ. Cuối bài, ông có
nhắc tới 4 câu thơ tôi dịch của Nguyễn Trãi viết khi
về chơi lại Côn Sơn. Quan điểm của ông về thơ dịch
là phải "sát và hay".
(*)
6. 6
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Mùa hè năm Sửu này (2009), ông bạn nhà thơ
Vũ Minh Tân cho tôi một số tư liệu về thơ chữ Hán,
và thỉnh thoảng, ông lại trao đổi với tôi về việc dịch
thơ chữ Hán. Mấy việc kể trên, đã khuyến khích tôi
hoàn thành hai tập thơ dịch.
Một là: 129 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát (8
câu 7 chữ)
Hai là: 300 bài thơ Đường - Tống ( 4 câu 7 chữ).
Bản dich thơ này chắc chắn có những thiếu sót. Rất
mong quý vị độc giả vui lòng chỉ bảo cho.
Tập thơ dịch này có 441 bài thơ (4 câu 7 chữ)
của một số các tác giả các thời Đường và Tống của
Trung Quốc. Để tiện việc tra cứu, thơ được xếp theo
A, B, C về họ tên tác giả. Một tác giả có nhiều bài
thơ thì thơ cũng xếp theo thứ tự A, B, C.
7. ÂU DƯƠNG CHIÊM
7
ÂU DƯƠNG CHIÊM
Quê Tấn Giang, Châu Tuyền (Phúc Kiến), tự là Hà Chu,
đỗ tiến sĩ năm 792, đời Đường, bạn thân với Hàn Dũ. Làm
chức Tứ môn trợ giáo, tính phóng khoáng, ưa ngao du.
ĐỀ DIÊN BÌNH KIẾM ĐÀM
Tưởng tượng tinh linh dục kiến nan
Thông tân nhất khứ thủy man man
Không dư tích nhật lăng sương sắc
Trường dữ trừng đàm sinh trú hàn.
ĐỀ ĐẦM GƯƠM DIÊN BÌNH∗
Muốn thấy gươm thiêng khó vạn ngàn
Sang đò một chuyến nước mênh mang
Suông bao ngày tháng nhòa sương móc
Dài với đầm trong sáng lạnh tràn.
■
∗
Diên Bình nay là Nam Bình, thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ở đây có sông
Mân, thượng lưu sông gọi là Khe Gươm. Thời nhà Tấn có Lôi Hoán
và bạn là Trương Hoa tìm được hai thanh gươm quý ở trong đất. Mỗi
người giữ một thanh. Thanh của Hoa không rõ thất lạc ở đâu. Còn
thanh gươm của Hoán, sau này con trai ông đeo nó, khi đi qua bến
Diên Bình, thì gươm rơi xuống sông, nhìn theo thấy hai con rồng bơi
lội trong nước. Do đó gọi đoạn sông này là sông Gươm, đầm Gươm.
8. 8
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ÂU DƯƠNG TU
(1007 – 1072)
Tự là Vĩnh Thúc, hiệu là
Túy Ông, quê Lư Lăng
(Giang Tây), một học giả
nổi tiếng thời Tống.
HỌA MI ĐIỂU
Bách chuyển thiên thanh tùy ý di
Sơn hoa hồng tử thụ cao đê
Thủy tri tỏa hướng kim lung thính
Bất cập lâm gian tự tại dề.
CHIM HỌA MI
Trăm điệu nghìn làm tuỳ ý thích
Hoa bừng cây núi bóng so le
Mới hay nghe giữa lồng son khóa
Chả sánh rừng xanh hót thoả thuê.
■
ÂU DƯƠNG TU
9. BẠCH CƯ DỊ
9
BẠCH CƯ DỊ
(772- 846)
Tên tự là Lạc Thiên, về già lấy hiệu
Hương Sơn cư sĩ, quê ở Hạ Khuê
(Thiểm Tây) dỗ tiến sĩ năm 802, đời
Đường. Từng làm các chức quan
như Hàn Lâm học sĩ, Tả thập di, Tư
mã Giang Châu, Thượng thư bộ
Hình…Ông chủ trương thơ phải theo
“thời sự” sáng tác. Lời thơ của ông
rất bình dị. Ông là tác giả những bài
“Trường hận ca” và “Tỳ bà hành”, v.v…
BẠCH VÂN TUYỀN
Thiên Bình∗ sơn thượng Bạch Vân tuyền,
Vân tự vô tâm thuỷ tự nhàn.
Hà tất bôn xung sơn hạ khứ,
Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian.
SUỐI BẠCH VÂN
Bạch Vân dòng suối đỉnh Thiên san,
Mây tự vô tâm nước tự nhàn.
Hà tất ào ào tuôn xuống núi,
Lại thêm sóng lớn chốn nhân gian.
■
∗
Thiên Bình: Tên núi (Tân Cương)
10. 10
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CẢM CỐ TRƯƠNG BỘC XẠ CHƯ KỸ
Hoàng kim bất tích mãi nga mi,
Giản đắc như hoa tam tứ chi.
Ca vũ giáo thành tâm lực tận,
Nhất triêu thân khứ bất tương tuỳ.
CẢM NGHĨ VỀ NHỮNG KỸ NỮ CỦA CỐ
BỘC XẠ HỌ TRƯƠNG
Bạc vàng không tiếc mua người ngọc,
Ba bốn hoa xinh kén chuốc về.
Hát múa dạy xong tâm lực hết,
Ra đi chả có kẻ theo đi.
■
11. BẠCH CƯ DỊ
11
CHIÊU QUÂN∗ TỪ
Hán sứ khước hồi bằng ký ngữ,
Hoàng kim hà nhật thục nga mi.
Quân vương nhược vấn thiếp nhan sắc,
Mạc đạo bất như cung lý thì.
CHIÊU QUÂN TỪ
Sứ Hán nhớdùm câu nhắn gửi,
Bạc vàng bao nữa chuộc nhau về.
Nhà vua nếu hỏi dung nhan thiếp,
Đừng bảo không bằng thuở mới đi.
■
∗
Chiêu quân: Tên thực là Vương Tướng được vua Hán chọn
"giả làm công chúa" để gả cho vua Hung Nô. Theo lệ xưa, mỗi
cung nữ đều được vẽ tranh chân dung, để vua chọn lựa. Nhiều
người hối lộ hoa lộ Họa sĩ Mao Diên Thọ để hắn vẽ cho đẹp.
Chiêu Quân không làm thế. Mao bèn vẽ xấu, nên không được
vua Hán vời bao giờ. Đến khi gả sang Hồ, nên trước ngày đi
có nghi lễ nhà vua tiễn công chúa lên xe hoa. Lúc ấy nhìn
người thực thấy Chiêu Quân đẹp quá. Vua Hán rất tiếc, nhưng
chuyện đã rồi. Sau đó, Vua Hán ra lệnh chém Mao Diên Thọ.
12. 12
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CUNG TỪ
Lệ tận la cân mộng bất thành,
Dạ thâm tiền điện án ca thanh.
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn,
Tà ỷ huân lung toạ đáo minh.
LỜI CUNG NỮ
Lệ đẫm khăn thêu mộng chả thành,
Đêm khuya điện trước vẫn đàn sênh.
Má hồng còn đậm ân tình dứt,
Ngồi tựa lồng hương đợi sáng canh.
■
13. BẠCH CƯ DỊ
13
ĐẠI LÂN TẨU NGÔN HOÀI
Nhân sinh hà sự tâm vô định,
Túc tích như kim ý bất đồng.
Túc tích sầu thân bất đắc lão,
Như kim hận tác bạch đầu ông.
THAY ÔNG GIÀ XÓM CẢM HOÀI
Đời người hà cớ tâm vô định?
Dạo trước ngày nay ý chả cùng.
Dạo trước buồn thân không thọ lão,
Bạc đầu nay lại hận thành ông.
■
14. 14
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐẠI MÃI TÂN NỮ TẶNG CHƯ KỸ
Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,
Hiểu đạp Hàn sơn tự phụ tân.
Nhất chủng Tiền Đường giang bạn
nữ,
Trước hồng kỵ mã thị hà nhân.
THAY LỜI CÔ GÁI BÁN CỦI TẶNG
CÁC KỸ NỮ
Bòng bong đầu tóc quàng khăn vải
Sớm vượt non Hàn∗
kiếm củi gai.
Cánh gái Tiền Đường∗
sông bến ấy,
Xiêm hồng ngựa tía hỏi là ai?
■
∗
- Non Hàn: Tên núi ở Giang Tô.
∗
- Tiền Đường: Tên sông ở Giang Tô
15. BẠCH CƯ DỊ
15
ĐÔNG DẠ VĂN TRÙNG
Trùng thanh đông tứ khổ ư thu,
Bất giải sầu nhân văn diệc sầu.
Ngã thị lão nhân thính bất uý,
Thiếu niên mạc thính bạch quân đầu.
TIẾNG DẾ ĐÊM ĐÔNG
Đêm đông tiếng dế khổ hơn thu,
Người chả sầu nghe cũng hoá sầu.
Ta đã già nua nghe chả sợ
Tuổi xanh nghe tới bạc luôn đầu.
■
16. 16
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀM ĐAN ĐÔNG CHÍ DẠ TƯ GIA
Hàm Đan dịch lý phùng đông chí
Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân.
Tưởng đắc gia trung thâm dạ toạ,
Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân.
ĐÊM ĐÔNG CHÍ Ở HÀM ĐAN NHỚ NHÀ
Hàm Đan∗
giữa trạm ngày đông chí
Ôm gối bên đèn bóng một thân
Nghĩ tới canh khuya quê cũ cũng
Đang ngồi kể chuyện kẻ xa xăm.
■
∗
- Hàm Đan: Kinh đô nước Triệu thời xưa. Một nơi phụ nữ rất
xinh đẹp.
17. BẠCH CƯ DỊ
17
KHÚC GIANG ỨC NGUYÊN CỬU
Xuân lai vô hạn nhàn du thiểu
Hành lạc tam phân giảm nhị phân.
Hà huống kim triêu hạnh viên lý,
Nhàn nhân phùng tận bất phùng quân.
Ở SÔNG KHÚC NHỚ NGUYÊN CỬU
Xuân về không bạn ngao du ít,
Giảm nửa phần vui ngán quá chừng.
Cho tới hôm nay vườn hạnh cũ,
Người dưng gặp cả chỉ người không.
■
18. 18
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRIỆU THÔN HỒNG HẠNH
Triệu thôn hồng hạnh mỗi niên khai,
Thập ngũ niên trung khán kỷ hồi.
Thất thập tam nhân nan tái đáo,
Kim niên lai thị biệt hoa lai.
HOA HẠNH THÔN TRIỆU
Hạnh∗
hồng thôn Triệu mỗi năm ngời,
Hơn chục năm qua mấy bận chơi.
Người bảy mươi ba gân cốt mỏi,
Năm nay tới để biệt hoa thôi.
■
∗
- Hạnh: Một loại cây mận.
19. BẠCH CƯ DỊ
19
TAM NIÊN BIỆT
Du du nhất biệt dĩ tam niên,
Tưởng vọng tương tư minh nguyệt thiên.
Trường đoạn thanh niên vọng minh nguyệt,
Biệt lai tam thập lục hồi viên
BA NĂM LI BIỆT
Ba năm đằng đẵng biệt li rồi,
Mỗi bận nhìn trăng nhớ đến người.
Ngao ngán trời xanh ngó trăng sáng,
Tròn ba mươi sáu lượt xa xôi.
■
20. 20
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÁI LIÊN KHÚC
Lăng diệp oanh ba hà điểm phong,
Hà hoa thâm xứ tiểu thuyền thông.
Phùng lang dục ngữ đê đầu tiếu,
Bích ngọc tao đầu lạc thuỷ trung.
KHÚC HÁT HÁI SEN
Lá ấu xô làn sen gió rung,
Thuyền con lách giữa đám hoa hồng.
Gặp chàng muốn nói, cười nghiêng mái,
Thoa ngọc trên đầu rớt nước trong.
■
21. BẠCH CƯ DỊ
21
THƯƠNG XUÂN KHÚC
Thâm thiển thiềm hoa thiên vạn chi,
Bích sa song ngoại chuyển hoàng ly.
Tàn trang hoà lệ há liêm toạ,
Tận nhật thương xuân xuân bất tri.
TIẾC THƯƠNG XUÂN
Ngàn vạn hoa thềm đậm nhạt cây,
Ngoài song đâu đó giọng oanh bay.
Buông rèm ngồi lặng xiêm đằm lệ,
Suốt buổi thương xuân xuân chả hay.
■
22. 22
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÙNG DƯƠNG TỊCH THƯỢNG
PHÚ BẠCH CÚC
Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng,
Trung hữu cô tùng sắc tự sương.
Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch,
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.
TIỆC RƯỢU NGÀY TRÙNG DƯƠNG
VỊNH HOA CÚC TRẮNG
Đầy vườn bông cúc sắc vàng ươm,
Giữa có cây hoa trắng*)
tựa sương.
Cũng giống hôm nay trên chiếu rượu,
Ông già đầu bạc với hoa lang.
■
*)
Cây tùng mốc trắng sương
23. BẠCH CƯ DỊ
23
TRỰC TRUNG THƯ SẢNH∗
Ty luân các hạ văn chương tĩnh,
Chung cổ lâu đài khắc lậu trường.
Độc toạ hoàng hôn thuỳ thị bạn,
Tử vi hoa đối Tử vi lang.
TRỰC Ở TOÀ TRUNG THƯ
Ty luân∗
dưới gác văn chương lặng,
Đây đó lâu đài rộn trống chuông.
Chiều tới ngồi mình không có bạn,
Tử vi hoa∗
với Tử vi lang∗
.
■
∗
Trung thư sảnh: Như dinh Tể Tướng.
∗
Ty luận: Tên nơi phụ trách việc ban chiếu, sắc của vua.
∗
Tử vi hoa: Hoa Tường Vi.
∗
Tử vi lang: Chức quan tỏng dinh Tể Tướng.
24. 24
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯỜNG AN CHÍNH NGUYỆT THẬP NGŨ
NHẬT
Huyên huyên xa kỵ đế vương châu,
Cơ bệnh vô tâm trục thắng du.
Minh nguyệt thanh phong tam ngũ dạ,
Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.
RẰM THÁNG GIÊNG Ở TRƯỜNG AN
Ngựa xe rộn rịp khắp thành đô,
Quán trọ đau nằm, chả dạo đâu.
Gió mát trăng trong rằm đúng buổi,
Muôn người vui thú một người sầu.
■
25. BẠCH CƯ DỊ
25
TƯ PHỤ MI
Xuân phong dao đãng tự đông lai,
Chiết tận anh đào triển tận mai.
Duy dư tư phụ sầu mi kết,
Vô hạn xuân phong xuy bất khai.
LÔNG MÀY NGƯỜI PHỤ NỮ ĐANG
MONG NHỚ
Gió xuân lả lướt từ đông tới,
Bẻ hết anh đào nở hết mai.
Chỉ có mày người đan nỗi nhớ,
Gió dồn thổi mãi cũng không lơi.
■
26. 26
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỰ KHUYẾN
Ức tích cơ hàn ứng cử niên,
Thoát y điển tửu Khúc Giang∗ biên.
Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,
Hà huống quan cung bất trị tiền.
TỰ MỜI
Thi cử cơ hàn thuở thiếu niên,
Bên sông cố áo rượu say mèm.
Mười ngàn một đấu còn không ngại,
Huống nữa giờ lương đã sẵn tiền.
■
∗
- Khúc Giang: Tên con sông ở Tường An. Đỗ Phủ từng
có mấy bài thơ rất hay về sông Khúc. (Vì dòng sông khúc
khuỷu quanh co, nên gọi là Khúc Giang). Trong có câu
khá quen thuộc.
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ la hy
Tạm dịch:
Nợ rượu tầm thường đâu cũng có
Đời người bảy chục hiếm xưa nay
27. BẠCH NGỌC THIỀM
27
BẠCH NGỌC THIỀM
Còn gọi là Cát Tường Canh – Tên tự là Hải
Quynh, đạo sĩ thời nam Tống, thơ và vè đều giỏi.
TẢO XUÂN
Nam chi tài phóng lưỡng tam hoa
Tuyết ký ngâm hương lộng phấn ta
Đạm đạm trước yên, nồng trước nguyệt
Thâm thâm lung thuỷ đạm lung sa.
XUÂN SỚM
Cành nam vừa nở một vài hoa
Giữa tuyết màu thơm vẫn thoáng qua
Khói nhạt lơ thơ, trăng đậm ánh
Nông sâu cát nước bóng giao hoà.
■
28. 28
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BAO HÀ
Quê ở Diên Lăng, Chuân Nhuận (Giang Tô). Tên chữ
là Ấu Tự. Năm 748 đỗ tiến sĩ, giữ chức Khởi Cư Xá
nhân thời Đương Đại Lịch. Học phong cách thơ Mạnh
Hạo Nhiên.
KÝ DƯƠNG THỊ NGỰ∗
Nhất quan hà hạnh đắc đồng thì
Thập tải vô môi độc kiến di
Kim nhật bất luân yêu hạ tổ
Thỉnh quân khán thủ mấn biên ty.
GỬI THỊ NGỰ HỌ DƯƠNG
Làm quan may gặp được cùng thời
Không mối∗
mười năm bị bỏ rơi
Trước mắt bàn chi đeo túi ấn
Xin ai ngó tóc muối tiêu∗
rồi.
■
∗
- Dương Thị Ngự: Có thể là Dương Dự, bạn đỗ Tiến sĩ
cùng khoa, có làm Thứ sử châu Từ (Sơn Tây)
∗
- Không mối: Không người giới thiệu, cất nhắc.
∗
- Muối tiêu: Tóc hoa râm.
BAO HÀ
29. CẢNH VỸ
29
CẢNH VỸ
ĐẠI VIÊN TRUNG LÃO NHÂN
Dung nhẫm nan kham nhất lão thân,
Ba ba lực dịch tại thanh xuân.
Lâm viên thủ chủng duy ngô sự,
Đào lý thành âm qui biệt nhân.
THAY LỜI NGƯỜI GIÀ TRỒNG
VƯỜN
Làm mướn thân già mấy khó khăn,
Còn gì sức lực thuở thanh xuân.
Vườn rừng trồng tốt tay ta cả,
Ngọt mật thơm đào kẻ khác ăn.
■
30. 30
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CAO BIỀN
( ? – 887)
Quê Châu U (Bắc Kinh). Tự là Thiên Ly. Thời Đường
Hi Tông, làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam*)
– Giỏi cả phong
thuỷ.
SƠN ĐÌNH HẠ NHẬT
Lục thụ âm nùng hạ nhật trường
Lâu đài đảo ảnh nhập trì đường
Thuỷ tinh liêm động vi phong khởi
Mã giá tường vi nhất viện hương.
ĐÌNH NÚI NGÀY HÈ
Cây cối ngày hè tán thắm rườm
Lâu đài loáng bóng đẹp ao chuôm
Thuỷ tinh rèm động trời hiu gió
Đầt dậu tường vi khắp viện thơm.
■
*)
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Năm 866, Cao Biền đem quân tiêu
diệt giặc Nam Chiếu ở Long Biên (sau là Thăng Long – Hà Nội).
Thắng giặc được vua Đường Ý Tông cho làm Tĩnh Hải Quân (tức
Giao Châu) Tiết độ sứ, nhậm chức ở đó đến năm 875 thỉ đổi đi làm
Tiết độ sứ ở Tây Xuyên. (Chú thích của NL)
31. CAO BIỀN
31
CẨM THÀNH XUÂN SẮC
Thục giang ba ảnh bích du du,
Tứ vọng yên hoá táp quận lâu.
Bất hội nhân giai đa thiểu cẩm,
Xuân lai tận quải thụ sao đầu.
CẢNH XUÂN THÀNH CẨM
Sóng lan sông Thục∗
bóng xanh làu,
Hoa khói tư bề giáp gác lầu.
Chả hiểu mọi nhà nhiều ít gấm,
Xuân sanh treo hết ngọn cây cho.
■
∗
- Sông Thục: Ở Tứ Xuyên.
32. 32
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KHIỂN HOÀI
Hoa mãn tây viên nguyệt mãn trì,
Sinh ca dao duệ hoạ thuyền đi.
Như kim ám dữ tâm tương ước,
Bất động chinh kỳ, động tửu kỳ.
THƯ DÃN
Hoa khắp vườn tây nguyệt khắp hồ,
Đàn ca đưa đẩy động thân đò.
Từ nay ngầm với lòng giao ước,
Không động cờ quân, động rượu cờ.
■
33. CAO BIỀN
33
KHUÊ OÁN
Nhân thế bi hoan bất khả tri,
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
Như kim hựu hiến Bình nam sách,
Tảo vãn thôi phùng hiệu đới y.
NỖI OÁN PHÒNG KHUÊ
Vui ngán đời người chả biết chi,
Chồng vừa diệt giặc hắc Sơn về.
Lại dâng ngay kế Bình nam tiếp,
Sớm tôi bao lần giục chiến y.
■
34. 34
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KÝ ĐÀI TY PHÓ AN NAM
Tằng khu vạn lý thướng Thiên San,
Phong khứ vân hồi khoảnh khắc gian.
Kim nhật hải môn Nam quốc sự,
Mạc giao hoàn tự Phụng Lâm∗ quan.
GỬI VIÊN ĐÀI TY ĐI AN NAM
Từng phi muôn dặm ngựa Thiên San,
Vùn vụt mây bay gió cuốn tràn.
Sông biển bây giờ Nam quốc tới,
Về đừng trắc trở tựa Lâm quan.
■
∗
Phụng Lâm: Tên cửa ải ở Cam Túc – thời Đường hay
xảy ra nhiều loạn.
35. CAO BIỀN
35
KÝ ĐỀ LA PHÙ BIỆT NGHIỆP
Bất tương chân tính nhiễm ai trần,
Vị hữu yên hà bạn thử thân.
Đới nguyệt Trường Giang tương hảo tín,
Bác La sơn hạ bích đào xuân.
ĐỀ NHÀ RIÊNG Ở LA PHÙ
Không cho thiên tính nhuốm nhơ trần,
Vì có luôn luôn khói ráng gần.
Trăng sáng Trường Giang bao mới đẹp,
Bác La đào núi rộn màu xuân.
■
36. 36
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KÝ HUYNH
Lệ ngạc phân trương tín sứ hi,
Kỷ đa hương lệ sái chính y.
Già thanh vị đoạn hồn tiên đoạn,
Vạn lý Hồ thiên điểu bất phi.
GỬI ANH
Anh em cách biệt lối tin thưa,
Áo chiến miền quê lệ chửa khô.
Chưa dứt tiếng khèn hồn đã đứt,
Cánh chim muôn dặm vắng trời Hồ.
■
37. CAO BIỀN
37
TỐNG TÀO BIỆT SẮC TỰ AN NAM HỒI
TRIỀU
Vân thuỷ thương mang nhật dục thâu,
Dã yên thâm xứ giá cô sầu.
Tri quân vạn lý triều thiên khứ,
Vị thuyết chinh nam dĩ ngũ thu.
TIỄN HỌ TÀO TỪ AN NAM TRỞ VỀ
Mênh mông mây nước chiều dần thẳm,
Nội vắng đồng hoang giọng cuốc sầu.
Muôn dặm anh về chầu điện ngọc,
Tâu dùm nam tiến đã năm thu.
■
38. 38
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CAO THÍCH
(707 - 765)
Quê ở Bột Hải, Châu Thương (Sơn Đông), tên tự là Đạt
Phu, Trọng Vũ, tính cách phóng khoáng, ham cờ bạc,
được làm chức Uý Phong Khâu (Hà Nam), nhưng bỏ
chức quan đi ngao du đây đó. Sau lại được Tiết Độ sứ
Hà tây là Kha Thư Hãn mời làm việc, dần được đề bạt
chức Gián Nghị Đại Phu. vì nói thẳng, bị bọn quyền thần
ghét, đưa đi làm Thứ sử Châu Thục, rồi Châu Bành (đều
ở Tứ Xuyên). Về sau được thay chức Tiết độ sứ Tây
Xuyên, rồi về kinh làm Thị lang bộ Hình. Từ năm 50 tuổi
thích sáng tác thơ. Là bạn thân của Lý Bạch, Đỗ Phủ.
BIỆT ĐỔNG ĐẠI*
Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân
Bắc phong suy nhạn tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ thuỳ nhân bất thức quân
►
*
Đổng Đại: Tức nhạc sĩ Đổng Đình Lan. Lý Kỳ có bài
thơ “Nghe Đổng Đại gảy đàn cầm”.
39. CAO THÍCH
39
CHIA TAY ĐỔNG ĐẠI∗
Ngàn dặm mây vàng nắng mỏng manh
Gió may thổi nhạn, tuyết mông mênh
Đừng buồn đường trước không tri kỷ
Thiên hạ ai người chẳng biết anh.
■
TRỪ DẠ TÁC
Lữ quán hàn đăng độc bất miên
Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên
Cố hương kim dạ tư thiên lý
Sương mấn minh triêu hựu nhất niên.
VIẾT ĐÊM 30 TẾT
Quán lạnh đèn trơ ngủ chả nên
Cớ sao nỗi khách chợt sầu lên
Đêm nay làng cũ mong ngàn dặm
Tóc bạc ngày mai tuổi lại thêm.
■
40. 40
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CỬU KHÚC TỪ
Thiết mã hoành hành Thiết lĩnh∗
đầu
Tây khán La Sa∗
thủ phong hầu
Thanh Hải∗
chỉ kim tương mã ẩm
Hoàng Hà bất dụng cánh phòng thu∗
BÀI TỪ CHÍN KHÚC∗
Dọc ngang ngựa khỏe đầu non Thiết
Tây ngó La Sa hỏi ấn Hầu
Thanh Hải hồ giờ cho ngựa uống
Sông Hoàng khỏi nghĩ chuyện phòng thu.
■
∗
Thiết lĩnh: Tên núi ngoài ải Tây bắc
∗
La Sa: Tức La Sa ở Tây Tạng hiện nay.
∗
Thanh Hải: Tên một hồ lớn của tỉnh Thanh Hải.
∗
Phòng thu: Đề phòng mùa thu. Ngày xưa, nước ngoài thường
xâm chiếm Trung Hoa vào mùa thu. Lúc này Cao Thích đang
làm việc dưới trướng Tiết độ sứ Lũng Hữu Hà Tây tên là Kha
Thư Hãn. Kha đã đánh thắng quân Thổ Phồn năm 754 thời
Đường Huyền Tông.
∗
Chín khúc: Là tên một khúc trong nhạc phủ, "Ý nói sông
Hoàng Hà có đoạn chín khúc", nay thuộc Thanh Hải.
41. CAO THÍCH
41
TÁI THƯỢNG VĂN XUY ĐỊCH
Tuyết tịnh Hồ∗ thiên mục mã hoàn
Nguyệt minh Khương địch thú lâu nhàn
Tá vấn mai hoa∗ hà xứ lạc
Phong xuy nhất dạ mãn quan san∗.
TRÊN ẢI NGHE THỔI SÁO
Trời Hồ tuyết sạch ngựa theo đàn
Trăng sáng lầu quân rộn tiếng khèn
Thử hỏi hoa mai đâu chốn rụng
Gió bay một tối khắp non ngàn.
■
∗
Hồ, Khương: Tên gọi các nước khác ở Trung Quốc thời
xưa
∗
Lạc mai hoa: Tên bản nhạc "Hoa mai rụng".
∗
"Quan sơn nguyệt": Trăng quan ải, cũng là tên một
khúc nhạc.
42. 42
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CAO THIỀM
Quê Bột Hải (Hà Bắc). Đậu tiến sĩ thời Đường
Hi Tông, lám chức Ngự sử Trung thừa.
THƯỚNG CAO THỊ LANG∗
Thiên thượng bích đào hoà lộ chủng
Nhật biên hồng hạnh ỷ vân tài
Phù dung∗
sinh tại thu giang thượng
Bất hướng đông phong oán vị lai
DÂNG THỊ LANG HỌ CAO
Đào biếc ngang trời sương móc trong
Nắng soi hồng hạnh ánh mây hồng
Phù dung nở chốn sông thu ấy
Chả có bao giờ oán gió đông
■
∗
- Cao Thị Lang: Cao Biên – Một người văn võ toàn tài.
∗
- Phù dung: Một loại cây hoa màu hồng, sáng nở tối tàn.
CAO THIÊM
43. CHÍ NAM
43
CHÍ NAM
( ? )
Một vị sư thời Nam Tống
TUYỆT CÚ
Mộc cổ âm trung hệ đoản bồng
Trượng Lê phù ngã quá kiều đông
Chiêm nghi dục thấp hạnh hoa vũ
Suy diện bất hàn dương liễu phong
THƠ BỐN CÂU
Dưới gốc cây xưa buộc mái bồng∗
Gậy Lê∗
mình chống vượt cầu đông
Mưa hồng hạnh muốn làm xiêm ẩm
Gió liễu đùa tai chả lạnh lùng
■
∗
Mái bồng: Mui thuyền thường lợp bằng lá gồi, bồng.
∗
Lê: Một loại cây như song, sậy, dùng làm gậy chống.
44. 44
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CHU HI
( 1030 – 1120)
Quê ở Vụ Nguyên (Giang Tây) tự là Nguyên Hối, nhà lý
học nổi tiếng thời Tống
CHỢT VIẾT
Trẻ trai dễ lão học khôn thành
Một tấc quang âm chẳng được khinh
Chưa tỉnh giấc mơ xuân cỏ bãi (bến)
Tiếng thu đã động lá ngô xanh.
DẠO THUYỀN
Tối trước sông xuân trời nổi dáng
Thuyền to vùn vụt lướt như phi
Bấy nay đẩy kéo hao bao mẻ
Giờ giữa dòng trôi thoải mái đi.
■
45. CHU HI
45
LỰU HOA
Ngũ nguyệt lựu hoa chiếu nhãn minh
Chi gian thời hiện tử sơ thành
Khả lân thử địa vô xa mã
Điên đảo thương đài lạc giảng anh.
HOA LỰU
Tháng năm hoa lựu nở trên cành
Thấp thoáng vài ba quả mới thành
Đáng tiếc nơi đây xe ngựa vắng
Ngả nghiêng cánh tía rụng rêu xanh.
■
46. 46
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
QUAN THƯ HỮU CẢM
Bán mẫu phương đường nhất kính khai
Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi
Vân cừ na đắc thanh như hử
Vị hữu nguyên đầu hoạt thuỷ lai.
XEM SÁCH CÓ CẢM XÚC
Nửa mẫu hồ gương ảnh sáng ngời
Trời quang mấy sáng thảy bồi hồi
Hỏi hồ sao được trong như vậy
Vì có đầu nguồn nước chảy xuôi.
■
47. CHU HI
47
TỰ CẢNH
Thập niên phù hải nhất thân khinh
Quy ngộ Lê Oa khước hưu tình
Thế thượng vô như nhân dục hiểm
Kỷ nhân đáo thử ngộ bình sinh.
TỰ RĂN
Mười năm bãi biển tấm thân khinh
Về gặp Lê Oa∗
lại có tình
Cuộc thế duyên tình nguy hiểm quá
Bao người tới đó lỡ bình sinh.
■
∗
Lê Oa: Đúng nghĩa là má lúm đồng tiền. nhưng ở đây chỉ tên
một ca nữ xinh đẹp là Lê Thanh cũng có má lúm đồng tiền.
Chuyện kể Hàn Đạm sau khi bị biếm đày ra biên rồi được ân
xá về kinh. Trên đường ghé qua Tương Đàm, được mời dự tiệc
rượu. Trong tiệc ượu, Hàn gặp ca nữ Lê Thanh, nhân đó làm
bài thơ, trong đó có 2 câu:
Quân ân hứa quy thử nhất túy
Bảng hưu Lê Giáp sinh Vi Oa.
Tạm dịch:
Ơn vua được về, dự tiệc rượu
Ngồi bên cô gái lúm đồng tiền.
Sau này, Chu Hi có việc quan Tương Đàm, biết chuyện
và làm bài thơ trên.
48. 48
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN NHẬT
Thắng nhật tầm phương Tứ thủy tân
Vô biên quang cảnh nhất thời tân
Đẳng nhàn thức đắc đông phong diện
Vạn tử thiên hồng tổng thuỵ xuân.
NGÀY XUÂN
Ngày đẹp tìm hoa bến Tứ gần
Mênh mang quang cảnh mới vô ngần
Nơi nơi thấy mặt làn Đông đấy
Muôn tía ngàn hồng thảy thảy xuân.
■
49. CHU KHÁNH DƯ
49
CHU KHÁNH DƯ
Nhà thơ thời Đường
CUNG TRUNG TỪ
Tịch tịch hoa thời bế viện môn,
Mỹ nhân tương tịnh lập quỳnh hiên.
Hàm tình dục thuyết cung trung sự,
Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn.
TRONG CUNG
Lặng lẽ nhìn hoa cửa chặt then,
Sáng nay người đẹp tựa Quỳnh hiên.
Những toan kể chuyện nơi cung điện,
Thấy vẹt bay vào, lại lặng yên.∗
■
∗
- Các cung phi định nói chuyện riêng cung cấm, nhưng
thấy con vẹt, lại sợ chúng “nói lại”!
50. 50
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CẬN THÍ THƯỚNG TRƯƠNG THUỶ BỘ
Động phòng tạc dạ đình hồng chúc,
Đãi hiểu đường tiền bái cữu cô.
Trang bãi đê thanh vấn phu tế,
Hoạ my thâm thiểm nhập thời vô.
GẦN LÚC THI, DÂNG TRƯƠNG THUỶ BỘ
Động phòng tối trước thôi hồng đuốc,
Đợi sáng lên nhà lậy mẹ cha.
Trang điểm vừa xong hỏi chồng nhỏ,
Vữ mày đậm nhạt hợp thời chưa?
■
51. CHU TẤT ĐẠI
51
CHU TẤT ĐẠI
( 1126 - 1204)
Quê Lư Lăng (Giang Tây). Tự là Tử Sung,
Hằng Đạo. Hiệu là “Bình nguyên lão nhân”.
Đậu tiến sĩ thời Tống Thiệu Hưng, làm chức Tả
Thừa Tướng.
NHẬP TRỰC
Lục hoè giáp đạo tập lôn nha
Sắc sứ truyền tuyên toạ tứ trà
Qui đáo Ngọc Đường thanh bất mị
Nguyệt câu sơ thướng Tử Vi hoa.
VÀO TRỰC BAN
Hoè xanh bên lối chiều đông qua
Sứ tới truyền cho uống ngự trà
Về điện Ngọc Đường chưa muốn ngủ
Trăng liềm vừa rạng Tử Vi hoa
■
52. 52
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CHU THỤC CHÂN
Còn gọi là Chu Thục Trinh. Quê Tiền Đường (Chiết
Giang). Năm tháng sinh chưa rõ. Thời Tống chồng là
nhà buôn.
CUNG SẦU
Tịch tịch sơ liêm quải ngọc lâu
Lâu đầu tân nguyệt khúc như câu
Bất tu vấn ngã tình thâm thiển
Câu động trường thiên viễn thuỷ sầu.
NỖI SẦU
Hiu quạnh rèm thưa rủ ngọc lâu
Đầu lầu trăng mới uốn vòng câu
Tình ta sâu cạn xin đừng hỏi
Trăng động trời xa nước loáng sầu.
■
CHU THỤC CHÂN
53. CHU THỤC CHÂN
53
TỨC CẢNH
Trúc dao thanh ảnh trạo u song
Lưỡng lưỡng thời cầm táo tịch dương
Tạ khước hải đường phi tận nhứ
Nhàn nhân thiên khí nhật sơ trường.
TỨC CẢNH
Trúc lay bóng mảnh xoà song vắng
Vài tiếng chim nào rộn tịch dương
Từ biệt hải đường bay hết cánh
Người nhàn trời đẹp tứ mênh mang.
■
54. 54
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LẠC HOA
Liên lý chi đầu hoa chính khai
Đố hoa phong vũ tiện tương tồ
Thỉnh giao thanh đế thường vi chủ
Mạc khiển phân phân điểm thuý đài.
HOA RỤNG
Đầu những cành giao hao nở tươi
Ghen hoa mưa gió tới tơi bời
Chúa xuân xin hãy luôn làm chủ
Đừng để làn rêu hứng cánh rơi.
■
55. CHU THỤC CHÂN
55
CÁC THUỶ NGUYỆT TẠI CHỦ
Vô sự giang đầu lộng bích ba
Phân minh chưởng thượng kiến Hằng Nga
Bất tri Lý Trích tiên nhân tại
Tằng hướng giang đầu tróc đắc ma.
VỐC NƯỚC THẤY TRĂNG Ở TAY
Vô sự đầu sông đùa sóng biếc
Trên tay rành thấy dáng cô Hằng
Chẳng hay Lý Trích tiên khi sống
Từng tới đầu sông bắt đựơc trăng?
■
56. 56
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LỘNG HOA HƯƠNG MÃN Y
Diễm hồng ảnh lý biệt phương phi
Chiêm nhạ xuân phong lưỡng tụ y
Giáp lộ lộ đào hồn dục tiếu
Bất câm phong điệp nhiễu nhân phi
ĐÙA HOA THƠM ĐẦY ÁO
Giữa vùng hồng tía ngát thơm tươi
Thấm đượm làn xuân vạt áo dài
Cạnh lối đào sương như mỉm miệng
Ngăn sao ong bướm lượn quanh người.
■
57. CỐ HUỐNG
57
CỐ HUỐNG
Nhà thơ thời Đường. Người Tô Châu, tự là Bô Ông (ông lẫn),
đỗ tiễn sĩ năm 757 (Đường Túc Tông), làm chức Bí thư lang,
từng theo đòi việc quan dưới quyền Lý Bật, sau được thăng
chức Trước tác lang. Tể tướng Lý Bật mất, vì làm thơ châm
biếm, bị đổi đi Châu Nhiêu làm chức Tư hộ Tham quân. Cố
đưa gia đình rời đến Mai Sơn, rồi không rõ tung tích, có người
nói “đi tu tiên”
CUNG TỪ
Ngọc lâu thiên bán khởi sênh ca,
Phong tống cung tần tiếu ngữ hoà.
Nguyệt điện ảnh khai văn dạ lậu,
Thuỷ tinh liêm quyển cận thu hà.
TRONG CUNG
Ngang trời lầu ngọc nổi đàn ca,
Cung nữ cười vui gió dịu hòa
Trăng sáng đồng hồ nghe động giọt,
Thuỷ tinh rèm cuốn giáp Ngân Hà.
■
58. 58
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÍNH GIÁC TƯ QUY
Cố viên hoàng diệp mãn thanh đài,
Mộng phá thành đầu hiểu giác ai.
Thử dạ đoan trường nhân bất kiến
Khởi hành tàn nguyệt ảnh bồi hồi.
NGHE TIẾNG ỐC NGHĨ NGÀY VỀ
Vườn xưa vàng lá xám rêu dầy
Ốc sớm bên thành tỉnh mộng say
Nẫu ruột đêm này người chả thấy
Bâng khuâng cất bước bóng trăng đầy.
■
59. CỐ HUỐNG
59
HỒ TRUNG
Thanh Thảo hồ biên nhật sắc đê
Hoàng mao chướng lý giá cô đề
Trượng phu phiêu đãng kim như thử
Nhất khúc trường ca Sở thuỷ tê.
GIỮA HỒ
Thanh Thảo∗
hồ bên nắng xế chiều
Giữa vùng gianh úa∗
giá cô∗
kêu
Trẻ trai phiêu bạt nay như thế
Bến Sở ca∗
dài mấy quạnh hiu.
■
∗
Thanh Thảo: Hồ Thanh Thảo ở phía đông bắc hồ Động
Đình, vì khi nước cạn thì đây là bãi cỏ xanh, nên có tên là
“Thanh Thảo”
∗
Gianh úa: Cỏ gianh úa do một loại sâu bệnh.
∗
Giá cô (đa đa) là loại chim phương nam, có giọng kêu
nghe như “đi không được, ai ơi” (Bắt cô trói cột)
∗
- Sở ca: Bài ca dài ở đây chỉ khúc “Ly tao” của Khuất
Nguyên, người nước Sở thời Chiến quốc bị đuổi đi khỏi
nước.
60. 60
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÚC CHIÊU ỨNG
Vũ Đế kỳ linh Thái Ất đàn
Tân Phong thụ sắc nhiễu thiên quan
Na tri kim dạ Trường Sinh điện
Độc bế không sơn nguyệt ảnh hàn.
NGỦ TRƯA CHIÊU ỨNG∗
Vũ Đế∗
cầu thiêng Thái Ất đàn
Tân Phong cây cối đẹp non ngàn
Đêm nay đâu biết Trường Sinh điện
Trăng lẻ đồi hoang ánh lạnh tràn.
■
∗
Chiêu Ứng: Ở Tây bắc núi Ly (nay thuộc Thiển Tây),
trước gọi là Hội Xương. Thời Đường Huyền Tông (748),
có tin đồn Lão Tử ( họ Lý, nhà Đường nhận Lão Tử là Tổ
sư) giáng lâm ở gác Tiêu huyền, Cung Hoa Thanh núi
Ly, nên đổi là Chiêu Ứng. Huyền Tông dựng đàn ở gác
Tiêu Huyền cầu Trường Sinh nhưng rồi bị loạn An Lộc
Sơn phá hoại
∗
Xưa Hán Vũ Đế cũng lập đàn Tập Linh ở Hoa Sơn để
cầu thần linh.
61. DÃ TĂNG
61
DÃ TĂNG
NGUYỆT VỊNH*)
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Nhất tự ngân câu nhất tự cung.
Nhất phiết ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thuỷ để, bán phù không
VỊNH TRĂNG
Mồng ba mồng bốn nguyệt mơ mòng
Một tựa vòng câu, một tựa cung.
Hồ ngọc một vầng hai nửa cắt,
Nửa chìm đáy nước, nửa ngang không.
■
*)
Bài thơ này có thuyết cho là có liên quan tới bài thơ PHONG
KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế. Hai câu đầu là của sư cụ chùa Hàn
San làm giữa đêm khuya, đến đây bí, nghĩ mãi không ra; được chú
tiểu tiếp hai câu sau. Sư cu cho là được Phật Tổ phù hộ, cho dóng
chuông tạ ơn . Đó chính là tiếng chuông trong câu “Bán dạ chung
thanh đáo khách thuyền” của Trương Kế. (NL chú thích)
62. 62
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DIỆP THÁI
( ? )
Quê Phúc Kiến. Hiệu là Bình Nhan. Có làm quan
đời Tống.
MỘ XUÂN TỨC SỰ
Song song ngoã tước hành thư án
Điểm điểm dương hoa nhập nghiễn trì
Nhàn toạ tiểu song độc Chu Dịch
Bất tri xuân khứ kỷ đà thì.
XUÂN MUỘN TỨC CẢNH
Chập chờn đôi sẻ ngang bán lượn
Loáng thoáng hoa dương đĩa mực ngời
Ngồi rỗi bên song đọc Chu Dịch
Chả hay xuân trảy tự bao rồi.
■
DIỆP THÁI
63. DIỆP THIỆU ÔNG
63
DIỆP THIỆU ÔNG
Tự là Đắc Tôn, hiệu là Tĩnh Đạt quê Long
Tuyền (Chiết Giang).
DU TIỂU VIÊN BẤT TRỊ
Ưng hiềm kỹ sỉ ấn thương đài
Thập khấu sài phi cửu bất khai
Xuân sắc mãn viên quan bất trụ
Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai.
ĐẾN CHƠI TRẠI VƯỜN KHÔNG GẶP
Những hiềm dấu dép in rêu xám
Gõ cửa mười phen chín vắng người
Xuân sắc đầy vườn ngăn chả nổi
Một cành hồng hạnh vượt tường chơi.
■
64. 64
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG BỊ
Thời Tống
PHONG HỎA ĐÀI
Nhất đới đông lưu đương phức khuyết
Trúc đài tương vọng thủy vân gian
Diễm hoa ưng bất như Bao Tự
Kỷ hửa lang yên đắc phá nhan.
ĐÀI NỔI LỬA∗
Miền đông một dải đang nguy khốn
Đài dựng gần nhau nối suối ngàn
Xinh đẹp đừng như Bao Tự nhé!
Mấy rồi khói lửa xém hồng nhan.
■
∗
- Thời xưa có lệ, nếu có giặc ngoại xâm, thì đắp dựng
cài cao, đốt lửa, báo cho các nước láng giềng tới cứu
viện.
65. DƯƠNG BỊ
65
TÀM THẤT
Trích kiển trừu ty nữ tại ky
Mao thiềm vi bạc cựu đường phi
Niên niên tang thác như vân lục
Phiên chức thùy gia cẩm địa y.
NHÀ TẰM
Nhặt kén ươm tơ cô gái dệt
Mái xưa cỏ bái với rèm lau
Năm năm dâu duối như mây biếc
Áo gấm chuyên may đẹp chốn nào?
■
66. 66
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG CỰ NGUYÊN
( ? )
Quê Đường Phố (Sơn Tây). Đậu tiến sĩ thời Đường
Trịnh Nguyên.
HOẠ LUYỆN TÚ TÀI DƯƠNG LIỄU
Thuỷ biên dương liễu lục yên ti
Lập mã phiền quân chiết nhất chi
Duy hữu xuân phong tối tương tích
Ân cần cánh hướng thủ trung xuy.
HOẠ BÀI THƠ “DƯƠNG LIỄU” CỦA
TÚ TÀI HỌ LUYỆN
Bên bờ dương liễu tơ buông thắm
Xin một cành xanh duổi ngựa về
Chỉ có gió đông là luyến tiếc
Quanh tay cầm liễu vẫn theo đi.
■
67. DƯƠNG CỰ NGUYÊN
67
THÀNH ĐÔNG TẢO XUÂN
Thi gia thanh cảnh tại tân xuân
Lục liễu tài hoàng, bán vị quân
Nhược đãi Thượng Lâm∗
hoa tự cẩm
Xuất môn câu thị khán hoa nhân
XUÂN SỚM MIỀN ĐÔNG THÀNH PHỐ
Xuân về cảnh đẹp mắt thi gia
Lá liễu xanh vàng sắc chớm pha
Nếu đợi Thượng Lâm hoa tựa gấm
Ra đường chỉ gặp khách xem hoa.
■
∗
Thượng Lâm: Tên vườn hoa của vua Tần (Thiểm Tây)
được vua Hán mở rộng. Có chỗ dùng để nhà vua săn bắn.
68. 68
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG VẠN LÝ
( 1124 - 1206)
Quê Cát Thuỷ. Hiệu là Thành Trai. Có làm quan thời
Tống. Bạn thân của Lục Du, Phạm Thành Đại v.v.
THƯƠNG XUÂN
Chuẩn nghĩ kim xuân lạc sự nồng
Y nhiên uổng khước nhất đông phong
Niên niên bất đới khan hoa nhãn
Bất thị sầu trung tức bệnh trung.
THƯƠNG XUÂN
Cứ ngỡ xuân nay thú lạ lùng
Nào ngờ để uổng cả làn Đông
Năm năm đều đặn xem hoa đẹp
Sầu cũng không mà ốm cũng không.
■
69. DƯƠNG VẠN LÝ
69
HIỂU HÀNH ĐẠO BÀNG ĐỖ QUYÊN HOA
Khấp lộ đề hồng tái mố sinh
Khai thời thiên trị đỗ quyên thành
Đỗ quyên khẩu huyết năng đa thiểu
Bất thị chinh nhân lệ trích thành.
HOA ĐỖ QUYÊN BÊN ĐƯỜNG SỚM
Khóc thắm gào sương nỗi đã rành
Quyên kêu đúng lúc nở hoa xinh
Đỗ quyên gào máu nhiều không nhỉ
Hay lệ chinh phu đỏ rọng thành.
■
70. 70
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HẠ THUỴ KHỞI
Mai tử lưu toàn tiện sỉ nha
Ba tiêu phân lục thướng song sa
Nhật trường thuỵ khởi vô tình tứ
Nhàn khán nhi đồng tróc liễu hoa.
SAU GIẤC NGỦ NGÀY HÈ
Chảy thêm nước miếng ngó mai già
Tàu chuối xanh xanh rợp mái nhà
Ngủ dậy ngày dài tình tứ rỗng
Rỗi nhìn đàn trẻ đuổi săn hoa.
■
71. DƯƠNG VẠN LÝ
71
TIỂU TRÌ
Tuyền nhãn vô thanh tích tế lưu
Thụ âm chiếu thuỷ ái tình nhu
Tiểu hà tài lộ tiêm tiêm giốc
Tảo hữu thanh đình lập thượng đầu.
AO CON
Không làn gợn nhỏ mặt sao sâu
Bóng nước hình cây cảnh rõ màu
Sen búp thon thon vừa nhú ngọn
Chuồn chuồn sớm đã đậu trên đầu.
■
72. 72
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÚC TÂN THỊ TỪ CÔNG ĐIẾM
Ly lạc sơ sơ nhất kính thâm
Thụ đầu hoa lạc vị thành âm
Nhi đống cấp tẩu truy hoàng điệp
Phi nhập thái hoa vô xứ tầm.
QUA ĐÊM TẠI CỬA HÀNG ÔNG TỪ
CHỢ MỚI
Dâu thưa heo hút ngõ mòn sâu
Hoa rụng nên cây chửa rợp mầu
Lũ trẻ chạy ào săn đuổi buớm
Bay vào vườn cải biết tìm đâu.
■
73. DƯƠNG VẠN LÝ
73
HIỂU XUẤT TĨNH TỪ TỰ TỐNG LÂM
TƯ PHƯƠNG
Tất kính Tây hồ lục nguyệt trung
Phong quang bất dữ tứ thời đồng
Tiếp thiên liên diệp vô cùng bịch
Ánh nhật hà hoa biệt dạng hồng.
SÁNG RA CHÙA TỊNH TỪ TIỄN
LÂM TƯ PHƯƠNG
Tháng sáu Tây hồ gương sáng trong
Bốn mùa phong cảnh khác vô cùng
Lá sen xanh biếc chân trời thẳm
Đẵm nắng hoa sen đỏ lạ lùng.
■
74. 74
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
DƯƠNG PHÁC
( 921 - 1003)
Quê Tân Trịnh (Hà Nam). Tự là Khế Nguyên. Hiệu là
Đông Dã dật dân - Thời Tống. Ở ẩn.
THẤT TỊCH
Vị hội Khiên Ngưu ý nhược hà
Chỉ tu Chức Nữ lộng kim thoa
Niên niên khất giữ nhân gian sảo
Bất đạo nhân gian sảo dĩ đa.
ĐÊM RẰM THÁNG 7
Chưa rõ Ngưu Lang nghĩ thế nào
Chỉ cần Chức Nữ dẻo tay thêu
Năm năm giúp khéo trần gian mãi
Chả kể nhân gian khéo đã nhiều.
■
DƯƠNG PHÁC
75. DƯƠNG SĨ NGẠC
75
DƯƠNG SĨ NGẠC
Quê ở Thái Sơn (Sơn Đông). Năm 735 đỗ tiến sĩ. Thời
Đường Thuận Tông, làm chức Tuần tra châu Tuyên
(An Huy). Vì tính tình nóng nảy, trái ý quyền thần
Vương Thúc Văn, bị dời làm chức Uý Ninh Hoá (Phúc
Kiến). Năm 807 được tể tướng Lý Cát Phủ tiến cử làm
chức Giám sát ngự sử, nhưng sau đó lại xung đột với
Tể tướng, bị biếm làm Thứ sử châu Tư (Tứ Xuyên).
ĐĂNG LÂU∗
Hoè liễu tiêu sơ nhiễu quận thành
Dạ thiêm sơn vũ tác giang thanh
Thu phong nam mạch vô xa mã
Độc thướng cao lâu cố quốc tình.
LÊN LẦU
Hoè liễu đìu hiu khắp quận thành
Đêm nghe mưa núi ngỡ sông dềnh
Gió thu xe ngựa bờ nam vắng
Nước cũ lầu cao diệu vợi tình.
■
∗
Có thể đây cũng là bài thơ Dương viết ở châu Tư nơi
Dương làm việc quan.
DƯƠNG SỸ NGẠC
76. 76
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
QUẬN TRUNG TỨC SỰ∗
Hồng y lạc tận án hương tàn
Diệp thượng thu quang bạch lộ hàn
Việt nữ hàm tình dĩ vô hạn
Mạc giao trường tụ ỷ lan can.
CẢM HỨNG NƠI DỊCH SỞ
Xiêm hồng∗
rơi hết thoáng hương tàn
Trên lá màu thu móc lạnh tràn
Gái Việt∗
tình thầm kể khôn xiết
Đừng thêm vạt múa∗
tựa lan can.
■
∗
Bài thơ có thể viết khi tác giả làm việc ở quận Tư
Dương ( Tứ Xuyên)
∗
Xiêm hồng: Ở đây chỉ cánh hoa sen.
∗
Gái Việt: Việt là tỉnh Chiết Giang, nơi nhiều phụ nữ
xinh đẹp. Ở đây, là những ca nhi, vũ nữ dự tiệc ở quận
(châu Từ).
∗
Vạt múa: Loại áo múa.
77. ĐOÀN THÀNH THỨC
77
ĐOÀN THÀNH THỨC
( ? - 863)
Người quê ở Lâm Trung, Châu Tề (Sơn Đồng), biểu tự là
Kha Cổ. Vì là con Tể tướng thời Đường Mục Tông là
Đoàn Văn Xương, nên nhờ công lao của cha mà được bổ
nhiệm chức quan Hiệu Thư Lang, rồi Thượng Thư Lang,
rồi Thứ Sử châu Cát (tỉnh Giang Tây), Thái Thường
Thiếu Khanh. Ông học rộng biết nhiều. Có tập tuỳ bút
“Đậu Dương Tạp Trở” rất nổi tiếng.
CHIẾT DƯƠNG LIỄU
Chi chi giao ảnh toả Trường Môn
Nộn sắc tằng chiêm vũ lộ ân
Phượng liễn bất lai xuân dục tận
Không lưu oanh ngữ đáo hoàng hôn.
►
78. 78
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BẺ CÀNH DƯƠNG LIỄU∗
Cành cành giao bóng khoá Trường Môn
Mưa móc đòi phen thấm lá non
Kiệu Phượng∗
không qua xuân muốn hết
Tiếng oanh suống giọng tới hoàng hôn.
■
∗
Bẻ dương liễu: Tên một bài hát trong nhạc phủ. Bài này với
nội dung tả nỗi buồn than của Trần Hoàng hậu bị ruồng bỏ,
giam hờ ở cung Trường Môn. Sau bà cho người tặng Tư Mã
Tương Như một ngàn lạng vàng, nhờ Tương Tư viết bài “Phú
Trường Môn”. Bởi vậy, lại được Hán Vũ Đế chiều chuộng hơn
trước. Đây là một trong bẩy bài thơ của Đoàn lấy tên điệu
nhạc phủ này.
∗
Kiệu Phượng: Kiệu có chạm vẽ chim phượng hoàng, dùng
cho nhà vua.
79. ĐỖ LỖI
79
ĐỖ LỖI
Quê Lâm Xuyên (Chiết Giang). Tự là Tử Dã. Hiệu
là Tiểu Dã. Bạn học cùng Vương An Thạch thời
Tống.
HÀN DẠ
Hàn dạ khách lai trà đáng tửu
Trúc lô thang phí hoả sơ hồng
Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt
Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.
ĐÊM LẠNH
Đêm lạnh khách thăm chè thế rượu
Bếp lò đun nước lửa đang hồng
Ngoài song trăng vẫn thường như trước
Chỉ có hoa mai khác lạ lùng
■
80. 80
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỖ MỤC
(803 – 852)
Đời Đường có 2 đôi “Lý Đỗ” – một là Lý Bạch và Đỗ
Phủ - hai là Lý Thường và Đỗ Mục. Người ta còn gọi Đỗ
Mục là “Tiểu Đỗ”.
CẢM HOÀI
Lạc phách giang hồ tải tửu hành,
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hạnh danh.
CẢM HOÀI
Phiêu bạt hồ sông rượu áp bình,
Lưng eo∗
gái Sở sẵn bên mình.
Mười năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,
Kiếm được lầu xanh tiếng “bạc tình”.
■
∗
- Lưng eo: Vua nước Sở ngày xưa chỉ kén những cô gái
lưng eo vào cung.
ĐỖ MỤC
81. ĐỖ MỤC
81
DẠ BẠC TẦN HOÀI
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa.
ĐÊM ĐỖ BẾN TẦN HOÀI
Nước lồng khói lạnh cát trắng nhoà,
Đêm đậu Tần Hoài cạnh tửu gia
Cô gái chả hay hờn mất nước,
Cách sông còn hát Hậu đình hoa∗
.
■
∗
- Hậu đình hoa: Một sáng tác của Trần Hậu chủ - lời ca
uỷ mị,
82. 82
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
GIANG NAM XUÂN
Thiên lý oanh đề lục ánh hồng
‘Thuỷ thôn sơn quách tửu kỳ phong
Nam triều∗
tứ bách bát thập tự
Đa thiểu lâu đài yên vũ trung.
XUÂN GIANG NAM
Ngàn dặm oanh kêu thắm điểm hồng
Cờ bay quán rượu gió thôn sông
Bốn trăm tám chục chùa Nam ấy
Lầu gác trong mưa loáng khói lồng.
■
∗
Nam triều: Gồm các triều Đông Tấn, Tống, Tề, Lương,
Trần
83. ĐỖ MỤC
83
KIM CỐC∗ VIÊN
Phồn hoa sự tán trục hương trần,
Lưu thuỷ vô tình thảo tự xuân.
Nhật mộ đông phong oán đề điểu,
Lạc hoa do tự truỵ lâu nhân∗
.
VƯỜN KIM CỐC
Phồn hoa hết chuyện nhạt hương trầm,
Nước chảy vô tình cỏ tự xuân.
Ngày tới gió đông chim khắc khoải,
Hoa rơi còn tựa gái gieo thân.
■
∗
Kim Cốc: Tên vườn hoa của Thạch Sùng, nhà giàu có
bậc nhất đời Tấn.
∗
Truỵ lâu nhân: Người nhảy lầu – đây nói về chuyện Lục
Châu một kỹ nữ của Thạch Sùng nhảy lầu quyên sinh để
biểu thị tình yêu chung thuỷ.
84. 84
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
KÝ DƯƠNG CHÂU HÀN XƯỚC PHÁN QUAN
Thanh sơn ẩn ẩn thuỷ thiều thiều,
Thu tận Giang Nam thảo mộc điêu.
Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ,
Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu.
GỬI PHÁN QUAN HÀN XƯỚC Ở CHÂU
DƯƠNG
Thấp thoáng non xanh nước dập dìu,
Giang Nam thu hết nội đìu hiu.
Hai mươi bốn nhịp cầu trăng sáng,
Người ngọc nơi nào rộn tiếng tiêu.
■
85. ĐỖ MỤC
85
QUÁ HOA THANH CUNG
Trường An hồi vọng tú thành đôi,
Sơn đỉnh thiên môn thứ đệ khai.
Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu,
Vô nhân tri thị lệ chi lai.
ĐI QUA CUNG HOA THANH∗
Trường An ngó lại gấm hoa bời,
Đỉnh núi ngàn song mở bốn trời.
Vó ngựa bụi hồng, Nàng∗
mỉm miệng,
Không ai hay biết vải về rồi.
■
∗
Hoa Thanh: Tên cung điện ở núi Ly, nơi Đường Huyền
Tông và Dương Quý Phi thường tới đó tắm suối nước
nóng.
∗
Nàng: Ở đây là Dương Quý Phi, mỉm miệng cười khi
thấy người chạy ngựa khoẻ để đưa kịp vải ngon về tiến.
86. 86
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SƠN HÀNH
Viễn thướng hàn sơn thạch kính tà,
Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia.
Đình xa toạ ái phong vân lãm,
Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.
ĐƯỜNG NÚI
Lối đá chênh leo núi lạnh xa,
Ở nơi mây trắng có ngôi nhà.
Dừng xe hóng gió rừng phong tối,
Lá đẵm sương hồng tựa cánh hoa.
■
87. ĐỖ MỤC
87
TẶNG BIỆT
Đa tình khước tự tổng vô tình,
Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
Thế nhân thuỳ lệ đáo thiên minh.
TẶNG BIỆT
Nhiều tình mà lại tựa vô tình,
Cười gượng bên li cũng chả thành.
Nến sáp có lòng thương tiếc biệt,
Thay người lệ nhỏ mãi tàn canh.
■
88. 88
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÁN HOA
Tự thị tầm phương khứ hiệu trì,
Bất tu trù trướng oán phương thì.
Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắc,
Lục diệp thành âm, tử mãn chi.
THAN HOA
Tự biết tìm hoa lỡ chậm chầy,
Chả nên ngao ngán oán hương bay.
Gió đông rụng hết màu tươi đỏ,
Lá thắm um tùm quả trĩu cây.
■
89. ĐỖ MỤC
89
THANH MINH
Thanh minh thời tiết vũ phân phân
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia hà xứ thị
Mục đồng dao chỉ Hạnh hoa thôn.
TIẾT THANH MINH
Thanh minh thời tiết bụi mưa phùn
Khắp nẻo người đi muốn đứt hồn
Xin hỏi nơi đâu là quán rượu
Trẻ chăn xa chỉ Hạnh hoa thôn.
■
90. 90
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THU TỊCH
Ngân chúc thu quang lãnh hoạ bình,
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh.
Thiên gia dạ sắc lương như thuỷ,
Toạ khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh.
ĐÊM THU
Đuốc bạc màu thu lạnh hoà bình,
Nhẹ xua quạt lụa đóm bay quanh.
Bầu trời đêm mát như màu nước,
Chức Nữ Khiên Ngưu ngắm thoả tình.
■
91. ĐỖ MỤC
91
XÍCH BÍCH HOÀI CỔ
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều.
NHỚ CHUYỆN XƯA Ở XÍCH BÍCH
Sáo gãy chìm sông chưa rỉ sắt,
Rửa lau tìm lại dấu tiền triều.
Chàng Chu∗
chả được làn đông giúp,
Đồng Tước∗
cung sâu khoá nhị Kiều∗
.
■
∗
Chàng Chu: Chu Du, Đại đô đốc của Đông Ngô thời
Tam quốc.
∗
Đồng Tước: Tên đài do Tào Tháo xây dựng.
∗
Nhị Kiều: Hai chị em nàng Kiều - Chị là vợ Tôn Sách
vua Đông Ngô, em gái là vợ Chu Du. Truyền thuyết, Táo
Tháo xây đài Đồng Tước để khi nào đánh thắng Đông
Ngô thì sẽ đưa hai nàng Kiều về đó. Hai chị em họ Kiều.
92. 92
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỖ PHỦ
(712 - 770)
Tên tự là Tử Mỹ, cháu nội Đỗ Thẩm Ngôn, người Kinh
Triệu (có thuyết nói người
Tương Dương). Lúc trẻ nhà
nghèo túng, đi chơi các nơi,
rồi về dự thi ở Trường An,
không đỗ. Năm 755 được
cử giữ chức Tham quân,
ông đưa vợ con đi chơi
Phụng Tiên (Thiểm Tây).
Loạn An Lộc Sơn, ông
tham gia đạo quân của Túc
Tông ở Linh Vũ (Ninh Hạ),
bị quân giặc bắt, giam tại
Trường An. Năm sau, ông
cải trang trốn thoát, tới yết kiến Đường Túc Tông ở
Phượng Tường (Thiểm Tây), được trao chức Tả Thập Di.
Dẹp loạn xong, vì tính hay nói thẳng bị quyền thần ghét,
chuyển làm Tham quân ở Hoa Châu (Thiểm Tây). Vì
năm đói kém, ông bỏ quan, đưa vợ con đi lưu lạc, rời nhà
tới Tần Châu (Tam Cúc). Được Nghiêm Vũ giúp đỡ,
nhưng không được bao lâu. Năm 765 ông lại bỏ đi, xuôi
dòng Đại Giang (Trường Giang) tới Quỳ Châu (Tứ
Xuyên). Ba năm sau lại từ Hồ Bắc về Trường An, rồi lại
từ Nhạc Dương đi Tương Giang (Miền Nam), và qua đời
trên đò dọc đường.
93. ĐỖ PHỦ
93
BẦN GIAO HÀNH∗
Phiên thủ tác vân phú thủ vũ
Phân phân khinh bạc hà tu số
Quân bất kiến: Quản Bão∗ bần thời giao
Thử đạo kim nhân khí như thổ.
HÀNH KHÚC BẠN LÚC NGHÈO
Làm mây tay sấp làm mưa ngửa
Thói đời bạc bẽo kể chi nữa
Người thấy chăng: Quản Bão bạn nghèo
Kiểu ấy nay rẻ như bùn vữa.
■
∗
Năm 752 Đỗ Phủ sống ở Trường An, sinh hoạt túng
thiếu, ít được giúp đỡ.
∗
Quản Bão: Quản Trọng và Bão Thúc Nha, hai người
cùng làm tướng cho Tề Hoàn Công. Lúc trẻ nghèo túng
chơi với nhau, cùng buôn chung, nhưng khi chia phần lãi,
bao giờ Bão cũng nhận số ít, nhường cho Quản Trọng
nghèo hơn và còn phải nuôi mẹ già.
94. 94
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
GIẢI MUỘN
Nhất từ cố quốc kỷ kinh thâu
Mỗi kiến thu qua ức cố khâu
Kim nhật nam hồ thái vi quyết∗
Hà nhân vị mịch Trịnh qua châu∗.
GIẢI SẦU
Một từ quê cũ mấy thu qua∗
Mỗi thấy dưa thu lại nhớ nhà
Giờ ở Nam Hồ∗
hái rau ngót
Dưa châu Trịnh ấy hỏi giùm ta.
■
∗
Vi quyết: Nói chung các thứ rau thường ngày.
∗
Trịnh Qua Châu:
1. Trịnh Thẩm, làm Bí Thư giám (coi thư viện), kiêm
Thiếu doãn Giang Lăng (thuộc tỉnh Hồ Bắc), bạn của Đỗ.
2. Ở Nam Trường An có trang trại gọi là Qua Châu (làng
dưa), nơi ở của nhà thơ Trịnh Kiên, cùng họ với Thẩm.
Qua Châu: Có sách ghi Viên Châu. Vì Trịnh Thẩm có thời kỳ
làm Thứ sử châu Viên
∗
Lúc này Đỗ Phủ đang ở Châu Quỳ
Đời Hán có ông Đông Lăng trồng dưa ở phía ngoài cửa
đông Trường An. Thời đó dưa Đông Lăng có tiếng rất ngon.
Quê Đỗ Phủ cũng ở Trường An, nên nhớ tới dưa.
∗
Nam Hồ: Có thể là tên chung, các nơi thường có tên hồ như thế.
95. ĐỖ PHỦ
95
GIANG NAM PHÙNG LÝ QUY NIÊN
Kỳ vương trạch lý tầm thường kiến,
Thôi Cửu đường tiền kỷ độ văn.
Chính thị Giang Nam hảo phong cảnh,
Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân.
GẶP LÝ QUY NIÊN Ở GIANG NAM
Phủ lớn Kỳ vương luôn hội ngộ,
Trước dinh Thôi Cửu mãi đàn sênh.
Giang Nam phong cảnh bao kỳ đẹp,
Hoa rụng đang mùa lặi gặp anh.
■
96. 96
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÂM GIANG TỐNG HẠ TIÊM
Bi quân lão biệt lệ triêm cân,
Thất thập vô gia vạn lý thân.
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.
BÊN SÔNG TIỄN HẠ TIÊM
Thương ông già lão lệ đằm khăn,
Bảy chục không nhà, vạn dặm thân.
Buồn thấy thuyền đi gió lại nổi,
Bạc đầu sóng cuốn bạch đầu nhân.
■
97. ĐỖ PHỦ
97
MẠN HỨNG
Trường đoạn xuân giang dục tận đầu,
Trượng lê trừ bộ lập Phương Châu.
Điên cuồng liễu nhứ tuỳ phong vũ,
Khinh bạc đào hoa trục thuỷ lưu.
HỨNG VUI TẢN MẠN (1)
Ngán ngẩm sông xuân mãi tận đâu,
Gậy lê chậm rãi dạo Phương Châu.
Điên cuồng tơ liễu ngang làn múa,
Nênh nổi hoa đào nước cuốn mau.
HỨNG LAN MAN
[HỨNG VUI TẢN MẠN (2)]
Tìm ngọn sông xuân dạ não sầu,
Gậy lê chậm rãi dạo Phương Châu.
Điên cuồng tơ liễu theo mưa gió,
Lờ lững hoa đào nước quyện nhau.
■
98. 98
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẶNG HOA KHANH
Cẩm thành ty quản nhật phân phân
Bán nhập giang phong bán nhập vân
Thử khúc chỉ ưng thiên thượng hữu
Nhân gian năng đắc kỷ hồi văn
TẶNG HOA KHANH∗
Thành Cẩm∗
đàn tơ sớm tối ngân
Nửa sông vào gió nửa mây vần
Nhạc này chỉ dạo trên thiên giới
Hỏi mấy ai nghe ở cõi trần
■
∗
Hoa Khanh: Tên ca nữ. Có thuyết nói là Hoa Kính
Định, một viên tướng, nhân có công dẹp loạn rồi cậy thế
đàn hát tiệc tùng quá mức.
∗
Thành Cẩm: Mội tên gọi khác của Thành Đô, tỉnh Tứ
Xuyên.
99. ĐỖ PHỦ
99
TẶNG LÝ BẠCH
Thu lai tương cố thượng phiêu bồng,
Vị tựu đan sa quý Cát Hồng.
Thống ẩm cuồng ca không độ nhật,
Phi dương bạt hỗ vị thuỳ hùng.
TẶNG LÝ BẠCH
Thu về lại gặp vẫn thân bồng,
Thuốc luyện chưa nên thẹn Cát Hồng∗
.
Uống thoả, ca cuồng, suông sớm tối
Nghênh ngang bay nhảy vị ai hùng?
■
∗
Cát Hồng: Tên một đạo sĩ, giỏi về thuốc, có phép
trường sinh.
Thời Đường có hai cặp nhà thơ được gọi là Lý Đỗ
Một là: Lý Bạch và Đỗ Phủ
Hai là: Lý Thương Ẩn và Đỗ Mục – (Đỗ Mục còn
được gọi là Tiểu Đỗ).
100. 100
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THƯ ĐƯỜNG ẨM KÝ DẠ, PHỤC YÊU
LÝ THƯỢNG THƯ HẠ MÃ NGUYỆT
HẠ PHÚ TUYỆT CÚ
Hồ nguyệt lâm phong tương dữ thanh
Tàn tôn hạ mã phục đồng khuynh
Cửu biền dã hạc như song mấn
Già mạc lân kê hạ ngũ canh.
UỐNG RƯỢU Ở PHÒNG SÁCH
TRỜI ĐÃ TỐI, LẠI MỜI THƯỢNG
THƯ HỌ LÝ∗
XUỐNG NGỰA CÙNG
UỐNG RƯỢU VIẾT THƠ
Rừng gió hồ trăng cảnh rất thanh
Rượu tàn xuống ngựa lại nghiêng bình
Bồng đôi mái tóc như lông hạc
Chả kể thôn gà gáy rộn canh.
■
∗
Thượng thư họ Lý: Tên là Chi Phương.
101. ĐỖ PHỦ
101
TRÙNG TẶNG TRỊNH LUYỆN
Trịnh tử tương hành bãi sứ thần
Nang vô nhất vật hiến tôn thân
Giang sơn lộ viễn cơ ly nhật
Cừu mã thuỳ vi cảm khích nhân.
LẠI TẶNG TRỊNH LUYỆN∗
Anh Trịnh sắp đi, chào sứ thần
Túi không một vật biếu hai thân
Núi sông khách trọ đường xa ngái
Giàu có ai người thấy động tâm.
■
∗
Trịnh Luyện: Có thể quê ở Tương Dương, làm chức
quan nhỏ ở Thành Cẩm. Lúc này từ quan, đời sống thanh
bạch.
102. 102
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TUYỆT CÚ
Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.
Song tiền Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.
THƠ 4 CÂU
Hai chiếc oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Song mờ Tây Lĩnh∗
ngàn năm tuyết,
Cổng đậu Đông Ngô∗
vạn dặm mành∗
.
■
∗
Tây Lĩnh: Tức núi Mân
∗
Đông Ngô: Phía đông Trường Giang – Một trong ba
nước thời Tây Thục
∗
Mành: Thuyền to.
103. ĐỖ THẨM NGÔN
103
ĐỖ THẨM NGÔN
(646 – 708)
Người Kinh Triệu (Có sách nói là người Tương
Dương), tự là Tất Giản, ông nội của Đỗ Phủ, đỗ tiến sĩ
năm 670, làm chức Uý ở Thấp Thành (tỉnh Sơn Tây)
rồi làm chức Thừa ở Lạc Dương. Vì có lỗi phải giáng
làm Tham quân tư hộ châu Cát, nhưng được Võ Tắc
Thiên biết tài và được Trương Dịch Chi nâng đỡ, lại
được làm Trước tác tá lang, rồi Thiện bộ viên ngoại
lang. Khi Dịch Chi bị giết, phải đầy ra Châu Phong
(Việt Nam). Sau được tha lỗi, về làm Chủ bạ Quốc Tử
Giám rồi Tu văn quán Trực học sĩ.
ĐỘ TƯƠNG GIANG∗
Trì nhật viên lâm bi tích thu
Kim xuân hoa điểu tác biên sầu
Độc lân Kinh quốc nhân nam thoán
Bất tự Tương giang thuỷ bắc lưu.
QUA SÔNG TƯƠNG
Vườn ngự năm xưa nhớ chuyến chơi
Xuân giờ biên ải cỏ hoa ngùi
Sang nam thương nỗi người Kinh Triệu∗
Chả giống dòng Tương phía bắc trôi.
■
∗
Bài làm khi sang Châu Phong.
∗
Kinh Triệu: Kinh đô, Đỗ là người Đỗ Lăng, Trường An.
104. 104
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÝ TẶNG TRIỆU SỨ QUÂN MỸ NHÂN
Hồng phấn thanh nga ánh Sở vân
Đào hoa mã thượng thạch lưụ quần
La Phu độc hướng đông phương khứ
Mạn học tha gia tác sứ quân.
ĐÙA TẶNG NGƯỜI ĐẸP NHÀ SỨ QUÂN
HỌ TRIỆU
Người đẹp má hồng mây Sở∗
rạng
Ngựa hoa đào∗
mượt thạch lựu quần∗
La Phu∗
đi lẻn về đông đấy
Hãy học làm như Triệu sứ quân∗
.
■
∗
Mây Sở: Mây mưa – làm tình, chuyện thần nữ núi Vu
gặp vua Sở
∗
Ngựa hoa đào: Ngưạ đóng yên màu trắng và đỏ
∗
Thạch lựu quần: Quần mầu hoa thạch lựu.
∗
La Phu: Tên vợ Vương Nhân, làm chức lệnh nhà Triệu
Vương thời Chiến quốc. La phu họ Tần, người Hàm Đan,
thường hái dâu trong rừng, vua Triệu muốn cướp lấy làm
vợ, La phu bèn làm bài ca “Dâu đầu bờ” rồi gảy đàn và
hát. Bài hát hết sức ca ngợi chồng mình. Trong có câu thơ:
“ Sứ quân tự có vợ / La phu tự có chồng”.
Vua Triệu bèn thôi.
∗
Triệu sứ quân: Sứ quân là một chức quan đứng đầu châu.
105. ĐỖ TUÂN HẠC
105
ĐỖ TUÂN HẠC
TÁI KINH HỒ THÀNH HUYỆN
Khứ tuế tằng kinh thử huyện thành,
Huyện dân vô khẩu bất oan thanh,
Kim lai huyện tể gia chu phất.
Tiện thị sinh linh huyết nhiễm thành.
LẠI QUA HUYỆN HỒ THÀNH
Năm trước từng qua chốn huyện thành,
Kêu oan khắp nẻo tiếng dân lành.
Năm nay quan huyện thêm tua đỏ∗
,
Hẳn máu người dân đã nhuộm thành.
■
∗
Thêm tua đỏ: Ý nói được thăng quan tiến chức
106. 106
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỚI THÚC LUÂN
Quê Kim Đàn (Giang Tô) vì tránh loạn, dời nhà sang
Phiên Dương. Chuyên chú học vấn, từng là học trò Tiêu
Dĩnh Sĩ. Năm 800 đỗ tiến sĩ, làm Thứ sử châu Phủ
(Giang Tây), được dân các nơi ca ngợi là cai trị tốt. Về
sau, xin từ chức, làm Đạo sĩ.
DẠ PHÁT VIÊN GIANG KÝ LÝ DĨNH XUYÊN
LƯU THỊ LANG
Bán dạ hồi châu nhập Sở hương
Nguyệt minh sơn thuỷ cộng thương thương
Cô viên cánh khiếu thu phong lý
Bất thị sầu nhân diệc đoạn trường.
ĐÊM TỪ SÔNG VIÊN∗
GỬI LÝ
DĨNHXUYÊN VÀ THỊ LANG HỌ LƯU
Giữa tối quay đò vào đất Sở
Trăng soi sông núi biếc mênh mang
Gió thu vượn lẻ ngân dài hú
Người chẳng buồn thương cũng nát gan.
■
∗
- Sông Viên: Ở phía tây tỉnh Giang Tây.
ĐỚI THÚC LUÂN
107. GIẢ CHÍ
107
GIẢ CHÍ
Tự Ấu Lân (hoặc Ấu Cơ), người Lạc Dương (Hà Nam),
đỗ khoa Minh Kinh 753. Làm chức Xá Nhân, Tri chế
cáo. Khi An Lộc Sơn làm loạn, ông theo Huyền Tông
vào Thục, phụng mệnh viết chiếu văn truyền ngôi cho
Túc Tông. Vì phạm tội, phải đầy đi Ba Lăng Hà Nam),
Giả đã gặp Lý Bạch ở đây. Năm 770 ông được nhận chức
Doãn Kinh Triệu kiêm Ngự Sử Đại phu, rồi Hữu Tán Ky
Thường Thị.
NHẠC DƯƠNG LÂU TRÙNG YẾN VƯƠNG
BÁT VIÊN NGOẠI BIẾM TRƯỜNG SA
Giang lộ đông liêu thiên lý triều
Thanh vân bắc vọng Tử Vi∗ diêu
Mạc đạo Ba Lăng hồ thuỷ khoát
Trường Sa nam bạn cánh tiêu điều.
►
∗
- Tử Vi: (1) Tên sao (2) Chỉ kinh đô, nơi vua ở
108. 108
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÊN LẦU NHẠC DƯƠNG∗
MỞ TIỆC TIỄN
VIÊN NGOẠI HỌ VIÊN BỊ BIẾM ĐI
TRƯỜNG SA
Sông chảy về đông vạn dặm triều
Kinh kỳ bắc ngó cách mây đèo
Đừng bảo Ba Lăng hồ nước rộng
Nam Trường Sa∗
ấy quá đìu hiu.
■
∗
Lầu Nhạc Dương: Ở trên cửa tây thành Nhạc Dương.
Nơi này gần hồ Động Đình.
∗
Trường Sa: Cách Nhạc Dương và Động Đình khoảng
150 km về phía nam
109. GIẢ CHÍ
109
SƠ CHỈ BA LĂNG∗ DỮ LÝ THẬP NHỊ∗
BẠCH ĐỒNG PHIẾM ĐỘNG ĐÌNH HỒ
Phong ngạn phân phân lạc diệp đa
Động Đình thu thuỷ vãn lai ba
Thừa hứng kinh châu vô cận viễn
Bạch vân minh nguyệt điếu Tương Nga∗
MỚI ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÝ BẠCH
CHƠI THUYỀN HỒ ĐỘNG ĐÌNH
Xao xác cành phong lá ngợp bờ
Động Đình chiều xuống sóng thu xa
Đò nhẹ gần xa theo hứng thú
Trăng vàng mây trắng nhớ Tương Nga.
■
∗
Ba Lăng: Tức Nhạc Dương
∗
Thập nhị: Có thể Lý Bạch là con thứ 12 hoặc là xếp thứ
12 trong số anh em kết nghĩa
∗
Tương Nga: Nữ thần hồ Động Đình, vốn là con gái vua
Nghiêu, vợ vua Thuấn
110. 110
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÂY ĐÌNH∗ XUÂN VỌNG
Nhật trường phong noãn liễu thanh thanh
Bắc nhạn quy phi nhập diểu minh
Nhạc Dương thành thượng văn xuy địch
Năng sử xuân tâm mãn Động Đình.
MÙA XUÂN Ở TÂY ĐÌNH NGẮM CẢNH
Ngày dài gió ấm liễu xanh xanh
Nhạn bắc bay sang ngó chả rành
Nhạc dương nghe sáo trên thành nổi
Những khiến lòng xuân rộn Động Đình.
■
∗
Tây Đình: Ở phía tây thành Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam
111. GIẢ CHÍ
111
TỐNG LÝ THỊ LANG PHÓ THƯỜNG
CHÂU
Tuyết tình vân tán bắc phong hàn,
Sở thuỷ Ngô sơn đạo lộ nan.
Kim nhật tống quân tu tận tuý,
Minh triêu tương ức lộ man man
TIỄN LÝ*
THỊ LANG ĐI CHÂU THƯỜNG* (1)
Tuyết lạnh mây tan gió bấc hàn,
Núi Ngô sông Sở lối gian nan.
Tiễn anh nay hãy say thêm nữa,
Mai nhớ mong nhau lối dặm ngàn.
TIỄN THỊ LANG HỌ LÝ ĐI CHÂU
THƯỜNG (2)
Mây tan tuyết lạnh gió may hàn,
Sông Sở∗
non Ngô khổ vạn ngàn.
Tiễn bác hôm nay say hết mức,
Nhớ nhau mai sớm lối mênh mang.
■
* Lý thị Lang : Thị lang Lý Việp, từ Nhạc Dương đi..
*
Sông Sở: Tức Nhạc Dương.
∗
Châu Thường: Thuộc tỉnh Giang Tô, thuộc đất Ngô
xưa.
112. 112
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN TỨ ( I )
Thảo sắc thanh thanh liễu sắc hoàng,
Đào hoa lịch loạn lý hoa hương.
Đông phong bất vị xuy sầu khứ,
Xuân nhật thiên năng sử hận trường.
TỨ XUÂN ( IA )
Sắc cỏ xanh xanh sắc liễu vàng
Đào hoa nở loạn mận hoa thơm
Gió đông chẳng thổi sầu bay hết
Xuân tới thêm gieo nỗi hận tràn.
■
TỨ XUÂN ( IB )
Cỏ sắc xanh xanh liễu sắc vàng,
Đào hoa bời rối, mận hoa thơm.
Gió đông chả đuổi sầu đi khỏi,
Để mỗi ngày xuân mãi hận vương.
■
113. GIẢ CHÍ
113
XUÂN TỨ ( II )
Hồng phấn đương nhô lược liễu thuỳ
Kim hoa lạc tửu giải đồ mi
Sênh ca nhật mộ năng lưu khách
Túy sái Trường An khinh bạc nhi.
TỨ XUÂN ( II )
Son phấn bên lò thân liễu mảnh∗
Đồ mi∗ rượu chạp nhạt hoa vàng∗
Sênh ca ngày muộn hay lưu khách
Say khướt Trường An kẻ sỗ sàng.
■
∗
Câu thứ nhất ý nói tới chuyện Tư Mã Tương Như rửa
bát chén, còn Trác Văn Quân ngồi bên lò bán rượu cho
khách trong quán nhỏ giữa chợ Lâm Cùng thời Hán.
∗
Đồ mi: Ở đây là một loại rượu để nguyên cả “cái” (Vừa
là tên một loài hoa Trà Mi)
∗
Hoa vàng: Tên một thứ rượu (cũng là tên của đất Lâm
Lăng).
114. 114
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
GIẢ ĐẢO
( 779 - 843)
Người quê Phạm Dương (Hồ Bắc), tên tự là Lãng Tiên.
Thi mãi không đỗ, đi tu lấy hiệu là Vô Bản, trụ trì ở chùa
Thành Long, Trường An. Giả phản đối lối thơ bình dị của
Nguyên Chẩn – Bạch Cư Dị lúc đó, bèn ra công rèn
luyện câu chữ và nổi tiếng. Hàn Vũ khen có tài. Giả bèn
bỏ chùa thi đỗ tiến sĩ, nhưng vì vô lễ với Đường Huyền
Tông trong lúc vua vi hành, nên bị đuổi khỏi Kinh đô, đi
làm Chủ bạ Trường Giang (Tứ Xuyên), sau chuyển làm
Tư Thương Tam quân ở Phổ Châu (tỉnh Tứ Xuyên),
nghèo túng, khi mất cũng chỉ có một con lừa ốm và cây
đàn cũ.
ĐỘ TANG CÀN
Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương
Uy tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô đoan cách độ Tang Càn thủy
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.
►
GIẢ ĐẢO
115. GIẢ ĐẢO
115
QUA SÔNG TANG CÀN∗
(1)
Làm khách Tinh Châu∗
trải chục sương
Mong về sớm tối nhớ Hàm Dương∗
Không dưng vượt bến Tang Càn ấy
Lại ngó Tinh Châu gọi cố hương.
■
QUA SÔNG TANG CÀN (2)
Khách trọ Tinh Châu chục độ sương
Ngày đêm mong nhớ đất Hàm Dương
Tang Càn chợt lại sang qua bến
Quay ngó Tinh Châu hóa cố hương
■
∗
Sông Tang Càn: Từ phía bắc tỉnh Sơn Tây chảy vào tỉnh Hà
Bắc.
∗
Tinh Châu: Tức Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây.
∗
Hàm Dương: Ở tây bắc Trường An. Xưa nhà Tần đóng đô tại
đây.
116. 116
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TAM NGUYỆT HỐI NHẬT TỐNG XUÂN
Tam nguyệt chính đương tam thập nhật
Phong quang biệt ngã khổ ngâm thân
Cộng quân kim dạ bất tu thụy
Vị đáo hiểu chung do thị xuân.
30 THÁNG 3 TIỄN XUÂN NGÀY CƯỚI
Tháng ba vào đúng hôm tròn tháng
Xuân biệt ly mình thơ khổ thân
Không ngủ đêm nay cùng người đấy
Chuông mai chưa đóng vẫn còn xuân.
■
117. GIẢ ĐẢO
117
TUYỆT CÚ
Phá khước thiên gia tác nhất trì,
Bất tài đáo lý, chủng tường vi.
Tường vi hoa lạc thu phong khởi,
Kinh cức mãn đình quân thủy tri.
TUYỆT CÚ
Phá dỡ ngàn nhà đào hồ nước,
Không trồng đào mận, cắm tường vi.
Tường vi hoa rụng làn thu nổi,
Gai góc đầy sân anh nghĩ gì?
■
118. 118
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HẠ TRI CHƯỞNG
( 659 - 744)
Quê ở Cối Kê tỉnh Chiết Giang. Tự Quý Chân. Đậu tiến
sĩ năm 696 đỡi Võ Tắc Thiên, làm Thái Thường bác sĩ.
Đời Đường Minh Hoàng (725), làm Lễ bộ thị lang kiêm
Tập hiền viện bác sĩ, đổi làm Thái tử tân khách, chức Bí
thư giám. Là bạn thân của Lý Bạch. Sau từ quan về làm
Đạo sĩ. Là thành viên trong nhóm Ngô trung tứ sĩ (Hạ
Trương Chi, Trương Húc, Bao Dung, Bao Dung, Trương
Nhược Hư). Ông giỏi văn từ, tinh thông chữ thảo, chữ lệ,
có tài hùng biện, tính tình phóng khoáng. Ông lấy biệt
hiệu là “Tứ minh Cuồng khách” và “Bí thư Ngự
giám”, v.v… rong chơi các nơi. Năm Thiên Bảo thứ 3
(744) ông mơ thấy cùng tiên ngao du, bèn dứt khoát theo
đạo, nhà ở Kinh chuyển thành Đaọ quán.
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( I )
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa,
Cận lai nhân sự bán tiêu ma.
Duy hữu môn tiền Kính Hồ thủy,
Xuân phong bất cải cựu thời ba.
►
119. HẠ TRI CHƯỞNG
119
VỀ QUÊ CHỢT VIẾT ( I )
Quê hương ly biệt tháng năm qua,
Việc thế gần đây nửa nhóa nhòa.
Chỉ có Hồ Gương ngay trước cổng,
Gió xuân chưa đổi sóng xa xưa.
■
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ ( II )
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
Hương âm vô cái mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?
VỀ QUÊ CHỢT VIẾT ( II )
Bé nhỏ xa nhà, già trở lại,
Giọng quê không đổi, tóc râu phai.
Trẻ con gặp mặt nhưng không biết,
Cười hỏi nơi nào khách tới chơi?
■
120. 120
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀN CÂU
( ? )
VỊ Á KHANH TÁC
Quân tại giang tân khởi họa lâu
Thiếp cư hải dốc tống triều đầu
Triều trung hữu thiếp tương tư lệ
Lưu đáo lâu tiền cánh bất lưu.
VIẾT GIÙM Á KHANH
Chàng ở bên sông lầu vẽ dựng
Thiếp nơi góc biển chốn triều dâng
Tương tư lệ thiếp hòa trong sóng
Tôi tới ngang lầu lại tự ngưng.
■
HÀN CÂU
121. HÀN DŨ
121
HÀN DŨ
( 768 - 824)
Quê ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam). Có sách nói quê
ở Xương Lê, Hồ Bắc. Tên tự là Thoái Chi (sau tên
thụy là văn công). Khi trẻ bố và anh
mất, ở nhờ anh rể. 25 tuổi đỗ tiến sĩ
nhưng không được nhận chức quan,
làm việc trong trướng Tiết độ sứ.
Năm 802 được cử làm Giám sát
Ngự sử. Vì đàn hặc Kinh triệu doãn
là Lý Thực, bị biếm làm Lệnh ở
Dương Sơn (tỉnh Quảng Đông), sau đó được tha
tội, làm Quốc tử bác sĩ, Hà Nam Lệnh, Sử quán Tu
soạn, Trung thư Xá nhân, Thị lang Bộ hình. Đường
Hiếu Tông mê Phật giáo, ông dâng bài “Biểu xương
Phật”, bị nhà vua giận, đày đi làm Thứ sử châu Trào
(tỉnh Quảng Đông). Sau lại được vời về kinh làm Thị
lang bộ binh, Thị lang bộ Hình. Khi mất được tặng
Thượng thư bộ Lễ. Ông cùng Liễu Tông Nguyên, là
hai học giả đời Đường, chủ trương cải cách văn xuôi.
►
122. 122
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SƠ XUÂN TIỂU VŨ
Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô
Thảo sắc giao khan cận nhược vô
Tối thị nhất niên xuân hảo xứ
Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô.
MƯA BỤI ĐẦU XUÂN
Đường như dải sữa loáng trong mưa
Mài cỏ gần xa lúc tỏ mờ
Suốt cả năm dài xuân đẹp nhất
Tuyệt vời khỏi liễu khắp hoàng đô∗
.
■
∗
- Hoàng đô: Kinh đô
123. HÀN DŨ
123
VÃN XUÂN
Thảo mộc tri xuân bát cửu qui,
Bách ban hồng tử đấu phương phi.
Dương hoa thâu giáp vô tài tứ,
Duy giải man thiên tác tuyết phi.
XUÂN MUỘN
Cây cỏ hay xuân sẽ sớm về,
Trăm ban hồng tía thảy đua khoe.
Hoa dương kém cỏi không tài trí,
Chỉ biết bay tơ tuyết bốn bề.
■
124. 124
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀN HOẰNG (HOÀNH)
Quê ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam), tên tự là Quân
Bình. Năm 735 đỗ tiến sĩ, làm việc dưới trướng Hầu
Hy Dật – Tiết độ sư Trung – Thanh, sau đó từ chức,
rong chơi các nơi hơn 10 năm, rồi làm việc với Lý
Miễn, tiết độ sứ Tuyên Vũ. Về sau, Đường Đức Tôn
biết Hán là người có tài, cho giữ chức Giá bộ Lang
trung Tri chế cáo, rồi Trung thư lệnh. Ông là một
trong 10 tài tử thời Đại Lịch.
HÀN THỰC∗
Xuân thành vô xứ bất phi hoa
Hàn thực đông phong ngự liễu tà
Nhật mộ hán cung truyền lạp chúc
Thanh yên tán nhập ngũ hầu gia.
►
∗
Hàn thực: Mồng 3 tháng 3, truyền thuyết: Thời Xuân Thu,
Giới Chi Thôi theo hầu Tấn Văn Công (khi còn là công tử
Trùng Nhĩ), bôn ba nước ngoài, sau thu phục nước Tấn, dựng
nghiệp bá. Khi bàn công, quên mất họ Giới. Giới đưa mẹ già
vào ở ẩn nơi rừng núi. Tấn Văn Công cho người tới mời, ông
vẫn không chịu ra. Có người bàn nên “đốt rừng”, để mẹ con
ông chạy ra ngoài. Nhưng cuối cùng mẹ con Giới Tử Thôi chết
cháy chứ không ra nhận bổng lộc. Tấn Văn Công muốn ghi
công nên ra lệnh tới ngày đó, dân gian không được nấu nướng
bằng lửa. Do đó, mọi nhà phải làm sẵn thức ăn bánh trái từ
hôm trước, và ngày mống 3 tháng 3 chỉ ăn đồ lạnh (Hàn thực).
125. HÀN HOẰNG (HOÀNH)
125
HÀN THỰC
Thành xuân khắp chốn thảy tươi hoa
Hàn thực làn đông bóng liễu xòa
Cung Hán chiều về truyền đuốc nến
Năm dinh Hầu∗
tước khói bay nhòa.
■
TỐNG KHÁCH CHI NGẠC* CHÂU
Giang khẩu thiên gia đới Sở vân
Giang hoa loạn điểm tuyết phân phân
Xuân phong lạc nhật thùy tương kiến
Thanh Hãn châu trung hữu Ngạc quân.
TIỄN KHÁCH ĐI NHẬN CHỨC Ở CHÂU NGẠC
Cửa bến ngàn nhà mây Sở vân
Hoa sông nở loạn tuyết lâng lâng
Gió xuân ngày muộn ai quen biết
“Thanh Hãn”∗
trong thuyền có Ngạc quân∗
./.
∗
Ngũ Hầu: Năm anh em Hoàng Thái hậu họ Vương thời Hán
Thành Đế, được phong tước “Hầu”, giàu sang hết mực.
∗
Châu Ngạc: Tức Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc (xưa là đất nước Sở).
Nơi đây là chỗ hợp dòng của sông Kinh Hà (Đai Giang) và sông
Hán Thủy thành dòng Trường Giang.
∗
Thanh Hãn: Thuyền đẹp khắc hình chim, sơn xanh.
∗
Ngạc quân: Tên là Tích, người đẹp trai, họ hàng với vua
Sở, thường ngồi thuyền “Thanh Hãn” đi chơi.
126. 126
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÚC THẠCH ẤP SƠN TRUNG
Phù vân bất cộng thử sơn tề
Sơn ái thương thương vọng chuyển mê
Hiểu nguyệt tạm phi thiên thụ lý
Thu hà cách tại sổ phong tê.
NGỦ TRỌ TRONG NÚI THẠCH ẤP∗
Núi cao hờ hững với mây bay
Mắt ngó mờ sương biếc núi dầy
Trăng sớm tạm theo cây bụi chuyển
Sông thu xa cách mấy non tây.
■
∗
- Thạch Ấp: Tên núi ở cạnh Thạch Gia trang (gần
Thạch Lộc), tỉnh Hà Bắc.
127. HÀN TÔNG
127
HÀN TÔNG
MỘ XUÂN SẢN THỦY TỐNG BIỆT
Lục ám hồng hi xuất đế thành,
Mộ vân cung khuyết cổ kim tình.
Hành nhân mạc thính cung tiền thủy,
Lưu tận niên quang thị thử thanh.
NGÀY XUÂN MUỘN TIỄN NHAU
Ở SÔNG SẢN
Xanh đậm hồng thưa vượt đế thành,
Mây chiều cung điện trải bao tình.
Người đi đừng lắng dòng sông chảy,
Ngày tháng vèo trôi sóng cuốn nhanh.
■
128. 128
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HÀN TƯỜNG
Quê Nam Dương ( Hà Nam). Đậu tiến sĩ thời Đường
Huyền Tông. Là một trong nhóm 10 người tài thời
Đại Lịch.
HÀN THỰC
Xuân thành vô xứ bất phi hoa
Hàn thực đông phong ngự liễu tà
Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc
Khinh yên tán nhập ngũ Hầu gia∗.
TẾT HÀN THỰC
Thành xuân chốn chốn lộng màu hoa
Hàn thực, làn đông ngự liễu roà
Chiều tới, lệnh quan truyền đuốc sáng
Khói lan bay khắp các Hầu gia.
■
∗
Hầu gia: Các nhà quyền quý, công hầu.
HÀN TƯỞNG
129. HÀN TÔNG
129
HOA NHAN
ĐIỀN GIA
Kê xướng tam thanh thiên dục minh
An bài phạn uyển dữ trà bình
Lương nhân do khủng thôi canh tảo
Tự chỉ bồng song khán hiểu tinh.
NHÀ NÔNG
Gà gáy ba lần trời muốn sáng
Sẵn sàng cơm giỏ với trà bình
Lương nhân∗
những ngại đi cày sớm
Ra ngó sao trời dưới mái gianh.
■
∗
Lương nhân: Chồng (có thể là vợ)
HOA NHAN
130. 130
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀNG PHỦ NHIỄM
(714 - 767)
Người Yên Định (Phía Bắc Kinh Xuyên, tỉnh Hà Bắc),
tên tự là Mậu Chính. Sau dời nhà đến Đan Dương, định
ẩn dật với cảnh cày cuốc, câu cá, nhưng được Trương
Cửu Linh biết là có tài, nên tìm cách khuyến khích giúp
đời. Năm 756 đỗ tiến sĩ, làm chức Uý ở Vô Tích (tỉnh
Giang Tô). Năm 768 (niên hiệu Đại Lịch 1) làm thư ký
cho Tiết độ sứ Hà Nam, sau đó giữ các chức Tả thập di,
Tả bổ khuyết.
TĂNG SƠN∗ TỐNG BIỆT
Thê thê du tử khổ phiêu bồng
Minh nguyệt thanh tôn chỉ tạm đồng
Nam vọng thiên sơn như đại sắc
Sàu quân khách lộ tại kỳ trung.
►
∗
Tăng sơn: Không rõ. Có thể ở gần Thái Hồ, tỉnh Giang
Tây. Có sách chép “Lỗ” sơn (tỉnh Hà Nam). Vì có lúc
Hoàn làm việc dưới trướng Tiết độ sứ Hà Nam.
131. HOÀNG PHỦ NHIỄM
131
TIỄN BIỆT NON TĂNG
Khách du hiu quạnh kiếp phiêu bồng
Trăng sáng ly suông chỉ tạm cùng
Nam ngó ngàn non màu thẫm lại
Buồn anh quán trọ vẫn nằm trong.
■
VŨ TRUNG ĐĂNG NHẠC DƯƠNG LÂU
VỌNG QUÂN SAN
Đầu hoang vạn tử mấn mao ban
Sinh nhập Cồ Đường, Diễm Dự∗ quan
Vị đáo Giang Nam tiên nhất tiếu
Nhạc Dương lâu thượng vọng Quân san.
TRONG MƯA LÊN LẦU NHẠC
DƯƠNG NGĂM QUÂN SAN
Nội hoang đầy ải đầu râu bạc
Sống lại về qua mấy ải quan
Chưa tới Giang Nam cười trước đã
Lên lầu Nhạc ngắm đỉnh Quân san.
■
∗
- Cồ Đường, Diễm Dự: Tên các cửa ải biên giới
132. 132
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
BÀI 2
Mãn xuyên phong vũ độc bằng lan
Quán kết Tương Nga∗
nhập thị hoàn
Khả tích bất đương hồ thuỷ diện
Ngân sơn đôi lý khán thanh san.
BÀI 2
Đầy sông mưa gió tựa hiên mình
Bím tóc Tương Nga quấn lượn quanh
Ví được giữa hồ trên mặt nước
Trong cồn sóng bạc ngắm non xanh.
■
∗
Tương Nga: Nữ thần núi Quân. Thế núi trông như 12
bím tóc nữ thần.
133. HOÀNG PHỦ NHIỄM
133
TỐNG NGUỴ THẬP LỤC HOÀN TÔ CHÂU
Thu dạ trầm trầm thử tống quân
Âm trùng thiết thiết bất kham văn
Quy châu minh nhật Tỳ Lăng∗ đạo
Hồi thủ Cô Tô∗ thị bạch vân.
TIỄN ANH NGUỴ VỀ TÔ CHÂU
Thu tối trầm trầm lại tiễn anh
Dế giun rỉ rỉ ngán khôn đành
Tỳ Lăng mai sớm con đò lại
Mây trắng Cô Tô ngó rõ rành.
■
∗
- Tỳ Lăng: Tên đất thuộc Giang Tô
∗
- Cô Tô: Tên núi ở huyện Ngô, tỉnh Giang Tô.
134. 134
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀNG SÀO
(Đường)
ĐỀ HOA CÚC
Táp táp tây phong mãn viện tài,
Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai.
Tha niên ngã nhược vi thanh đế∗,
Bão dữ đào hoa nhất xứ khai.
ĐỀ HOA CÚC
Xào xạc làn tây khắp viện dài,
Nhị tàn hương lạnh bướm xa xôi.
Năm nao ta được làm thanh đế,
Sẽ báo hoa đào nở sánh đôi.
■
∗
Thanh đế: Chúa xuân.
HOÀNG SÀO
135. HỒNG TUÂN
135
HỒNG TUÂN
CẤM TOẢ
Cấm môn thâm toả tịch vô hoa
Nồng mặc lâm li lưỡng tướng ma
Xướng triệt ngũ canh thiên vi hiểu
Nhất trì nguyệt tẩm tử vi hoa
CỬA CẤM
Cửa cấm thâm nghiêm khoá lặng tờ
Chữ đề sắc chỉ mực chưa khô
“Năm canh” báo dứt, trời chưa rạng
Ánh nguyệt đầy sân đẵm bóng hoa.
■
136. 136
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HỨA HỒN
Quê ở Đan Dương, châu Nhuận (tỉnh Giang Tô). Tên
chữ là Trọng Hối. Năm 832 đỗ tiến sĩ, làm chức Lệnh
ở Đương Đô (An Huy) và Thái Bình (Sơn Tây)
nhưng vì ốm đau nên bị miễn chức. Năm 849 lại
được vời làm Giám sát Ngự sử, rồi Viên ngoại lang
ngu bộ (thuộc bộ Công, trông coi hồ đầm, vườn
tược…), Thứ sử châu Mục (tỉnh Chiết Giang) và châu
Sính (tỉnh Hồ Bắc). Thời gian này ông có mua đất ở
Khe Đinh Mão, cuối đời về ở đấy.
THU TỨ
Kỳ thụ tây phong chẩm đảm thu
Sở vân Tương thuỷ ức đồng du
Cao ca nhất khúc yểm minh kính
Tạc nhật thiếu niên kim bạch đầu.
►
TỨ THU∗
Gối trúc∗
cây kỳ∗
gió thu lộng
Sông Tương∗
mây Sở chuyến chơi lâu
∗
Tứ thu: Đầu đề thơ ở Nhạc phủ.
∗
Gối trúc: Gối đan bằng trúc, tre. Đất Sở có nhiều loại
cây này.
∗
Cây kỳ: Loại cây đẹp, mọc ở núi Côn Luân.
137. HỨA HỒN
137
Ca vang một khúc che gương sáng∗
Trai trẻ hôm nao giờ bạc đầu.
■
BẠC DU NGHIÊN LŨNG
Hải yến tây phong bạch nhật tà,
Thiên môn dao vọng ngũ hầu gia.
Lâu đài thâm toả vô nhân đáo,
Lạc tận đông phong đệ nhất hoa.
LƯỚT CHƠI MIỀN NGHIÊN LŨNG
Cánh én heo may nắng xế tà,
Công hầu dinh thự ngó gần xa.
Lâu đài kín cổng không ai tới,
Rụng hết xuân đầu một cánh hoa.
■
∗
Sông Tương: Chảy từ Hồ Nam vào Động Đình.
∗
Che gương sáng: Thơ Ban Tiệp Dư thời Hán có câu:
“Gió thu nổi…che gương”.
138. 138
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LA ẨN
TẶNG KỸ VÂN ANH
Chung Lăng từ biệt thập dư xuân,
Trùng kiến Vân Anh chưởng thượng thân,
Ngã vị thành danh quân vị giá.
Khả năng câu thị bất như nhân.
TẶNG KỸ NỮ VÂN ANH
Chung Lăng li biệt quá mười xuân,
Lại gặp Vân Anh vẹn mọi phần
Tôi chửa thành danh, người chửa cưới
Phải chăng số phận thảy phong trần.
■
139. LA ẨN
139
TÂY THI
Gia quốc hưng vong tự hữu thì
Ngô nhân hà khổ oán Tây Thi
Tây Thi nhược giải khuynh Ngô quốc
Việt quốc phong lai hựu thị thuỳ.
TÂY THI
Đất nước hưng vong – thời vận cả
Người Ngô chi khổ oán Tây Thi
Tây Thi khiến nước Ngô tan nát
Thì Việt sau đây bởi nỗi gì.
■
140. 140
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỰ KHIỂN
Đắc tức cao ca thất tức hưu
Đa sầu đa hận diệc du du
Kim triêu hữu tửu kim triêu tuý
Minh nhật sầu lai, minh nhật sầu
TỰ KHUÂY KHOẢ
Khi được ca vang, mất cũng âu
Hận sầu cho lắm ích gì đâu
Sáng nay có rượu, sáng nay khướt
Mai sớm sầu vương, mai sớm sầu.
■
141. LÂM CHẨN
141
LÂM CHẨN
LÃNH TUYỀN ĐÌNH
Nhất hoằng thanh khả thấm thi tỳ
Lãnh noãn niên lai chỉ tự tri
Lưu xuất Tây hồ tải ca vũ
Hồi đầu bất tự tại sơn thì.
ĐÌNH SUỐI LẠNH
Trong veo dòng nước hồn thơ đẫm
Nóng lạnh năm năm tự biết mình
Ra tới hồ Tây rồi hát múa
Quay nhìn chẳng giống thuở non xanh.
■
142. 142
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÂM THĂNG
ĐỀ LÂM AN ĐỂ
Sơn ngoại thanh sơn lâu ngoại lâu,
Tây Hồ ca vũ kỷ thời hưu?
Noãn phong huân đắc du nhân tuý,
Trực bả Hàng Châu∗
tác Biện Châu∗
.
ĐỀ NHÀ TRỌ LÂM AN
Non biếc ngoài non lầu lại lầu
Hồ Tây hát múa hỏi còn lâu?
Êm êm làn ấm say du khách
Gọi hẳn Hàng Châu hoá Biện Châu.
■
∗
Hàng Châu: Kinh đô của Nam Tống
∗
Biện Châu: Kinh đô của Bắc Tống
LÂM THĂNG
143. LÂU DĨNH
143
LÂU DĨNH
TÂY THI THẠCH
Tây Thi∗
tức nhật cán sa tân,
Thạch thượng thanh đài tứ sái nhân.
Nhất khứ Cô Tô bất phục phản,
Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân.
BẾN ĐÁ TÂY THI
Tây Thi ngày ấy giũ tơ tằm,
Bến đá rêu xanh ngán bội phần.
Một trẩy Cô Tô không trở lại,
Bên bờ đào mận vị ai xuân?
■
∗
Tây Thi: Một trong 4 đại mỹ nhân của Trung Quốc, nơi
nàng thường giũ lụa là bến đá Trừ La.
144. 144
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LIỄU TÔNG NGUYÊN
( 773 - 819)
Quê Hà Đông (Sơn Tây), tên tự
là Tử Hiệu, năm 793 đỗ Tiến sĩ.
Trải làm các chức Hiệu thư lang,
Úy Lam Điền, Giám sát Ngự sử.
Thời gian này, bên cạnh Hoàng
Thái tử (sau này là vua Thuận
Tông) là cánh Vương Thúc Văn,
Vi Chấp Nghị đang thử nghiệm
cải cách chính trị, Tông Nguyên cũng tham gia. Năm
805, Thuận Tông lên ngôi, bổ nhiệm Liễu làm Viên
ngoại lang bộ Lễ. Nhưng sau 7 tháng, Thuận Tông thoái
vị, cuộc cải cách thất bại, Liễu phải biếm làm Tư mã
châu Vĩnh (Linh Lăng, hồ Nam). Năm 815 ông được
triệu về kinh, đi làm Thứ sử châu Liễu (Liễu Giang,
Quảng Tây) đồng thời bổ nhiệm Lưu Vũ Tích làm Thứ
sử châu Bá (Tuân Nghĩa, Quý Châu). Nhưng với sự đồng
tình của mẹ già, ông đã xin đổi với Lưu. Tông Nguyên lại
về Châu Liễu rồi mất ở đó. Liễu và Hàn Dũ là hai lá cờ
đầu về việc vận động cải cách văn xuôi đời Đường. Do
đó người ta có câu "Hàn Liễu".
145. LIỄU TÔNG NGUYÊN
145
HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN KIẾN DI TUYỆT
CÚ DỤC ĐĂNG TIÊN NHÂN SƠN, NHÂN SĨ
THÙ CHI
Châu thụ linh lung cách thúy vi∗
Bệnh lai phương ngoại sự đa vi
Tiên sơn bất thuộc phân phù∗
khách∗
Nhất nhậm lăng không tích trượng phi.
NHÂN THẤY BÀI THƠ "MUỐN LÊN NÚI TIÊN"
CỦA HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN∗
ĐỂ LẠI, BÈN
VIẾT ĐÁP
Óng ánh cây châu∗
cách ráng mây
Ốm đau cõi tục lắm điều gay
∗
Thuý vi: Là mây ráng, nhưng cũng có thể hiểu là lưng
chừng núi
∗
Phân phù: Các chức quan lớn đứng đầu địa phương, đều
được chia một nửa bùa (phân là chia, phù là bùa) để làm
chứng cớ khi làm việc quan.
∗
Khách: Ở đây là tác giả khiêm tốn.
∗
Hạo Sơ Thượng Nhân: Là học trò (đệ tử) của Thiền sư
Chu Hải ở chùa Long Am (nay ở phía tây Tương Đàm,
tỉnh Hồ Nam). Khi Hạo Sơ mất, có người tới Chầu Liễu
nhờ Liễu Tông Nguyên viết văn bia. Hơn nữa, khi còn
sống, có lúc Hạo Sơ đã tới chỗ tác giả cho nên Liễu có
bài tựa “Tặng nhà sư Hạo Sơ”. Hạo Sơ gửi thơ tặng
Liễu, nên Liễu hoạ lại. Tác giả có chú “Núi Tiên ở địa
phận Châu Liễu”
146. 146
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Núi tiên không thuộc người đeo ấn
Gậy tích∗
bay cao tự ý thầy.
■
DỮ HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN ĐỒNG KHÁN
SƠN
Hải bạn tiêm sơn tự kiếm mang,
Thu lai xứ xứ cát sầu trường.
Nhược vi hoa đắc thân thiên ức,
Tán tác phong đầu vọng cố hương.
CÙNG NHÀ SƯ HẠO SƠ NGẮM NÚI
Núi biển nhô lên tựa lưỡi gươm,
Thu sang chốn chốn cắt sầu thương
Thân này hoá được thành muôn triệu
Tản khắp đầu non ngó cố hương.
■
∗
Cây châu: Tên một loài cây (trong truyền thuyết Trung
Quốc) mọc ở Phương Nam, lá nó toàn là ngọc châu. Liễu
Châu là địa phương miền Nam nên có cây này.
∗
Gậy tích: Cũng như thiền trượng, thứ gậy các vị sư
thường cầm ở tay (tích là dịch theo tiếng Phạn. Có nghĩa
là gõ có tiếng kêu làm cho người khác chú ý). Thời nhà
Lương (khoảng thế kỷ thứ V, thứ VI) có vị cao tăng tên
là Bảo Chí, khi muốn dựng am trên núi, ông liền quăng
“gậy tích” lên không, gậy bay đi, rơi xuống chỗ nào là
ông dựng nhà ở đấy.
147. LỘ ĐỨC CHƯƠNG
147
LỘ ĐỨC CHƯƠNG
(Tống)
HU DI LỮ XÁ
Đạo bàng thảo ốc lưỡng tam gia
Kiến khách lôi ma màn điểm trà
Tiệm cận Trung nguyên ngữ âm hảo
Bất tri Hoài thuỷ cận thiên nha.
NHÀ TRỌ HU DI
Bên đường mái cỏ một vài nhà
Thấy khách ……….. sắp ấm trà
Gần với Trung nguyên lời dễ hiểu
Sông Hoài đâu biết lại trời xa.
■
148. 148
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LỤC DU
(Thời Tống)
ĐẦU ĐÔNG ĐI CHƠI
(Bài này không có phần thơ Hán Việt)
Dong lừa thủng thẳng qua bờ khói
Mười dặm làng non hướng mới tinh
Quán rượu cờ xanh chùa lá úa
Gặp nhau tất thảy giống như tranh.
■
MAI HOA TUYỆT CÚ
Văn đạo mai hoa sách hiểu phong,
Tuyết đôi biến mãn tứ sơn trung.
Hà phương khả hóa thân thiên ức,
Nhất thụ mai tiền nhất phóng ông.
HOA MAI
Nghe nói hoa mai ưa gió sớm
Bốn bề tuyết phủ núi non chồng
Làm sao mình hóa thành ngàn triệu
Một gốc mai là một Phóng ông.
■
149. LỤC DU
149
THẬP NHẤT NGUYỆT TỨ NHẬT PHONG VŨ
ĐẠI TÁC
Cương ngọa cô thôn bất tự ai
Thượng tư vị quốc thú luân đài.
Dạ lan ngọa thính phong xuy vũ,
Thiết mã băng hà nhập mộng lai.
NGÀY 4 THÁNG 11 MƯA TO GIÓ LỚN
Nằm gượng thôn xa chả tự buồn,
Còn mong vì nước giữ biên cương.
Đêm khuya quạnh quẽ nghe mưa gió,
Ngựa sắt sông băng giấc mộng vương.
■
150. 150
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TUYẾT HẬU TẦM MAI
Thanh đế cung trung đệ nhất phi,
Bảo hương huân triệt tố tiêu y.
Định tri trích trụy bất dung cửu,
Vạn hộc ngọc trần lai sính quy.
SAU TUYẾT TÌM MAI
Giữa điện vua xuân bậc nhất phi
Ngạt ngào hương báu trắng xiêm y
Từng hay đầy ải không nhiều nữa
Vàng ngọc ngàn cân tới rước về.
■
151. LỤC DU
151
THẨM VIÊN ( I )
Thành thượng tà dương họa giác ai,
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.
VƯỜN THẨM∗
( I )
Nắng xế thành trên tiếng ốc dài,
Nào đâu vườn Thẩm mọi hồ đài.
Dưới cầu ngơ ngẩn xanh làn sóng,
Hồng nhạn từng phen bóng loáng trời.
■
∗
Vườn thẩm: Nơi ở của bố mẹ vợ Lục Du, họ Điền.