SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  74
Télécharger pour lire hors ligne
K I Ế N T R Ú C
P H Ậ T G I Á O
V I Ệ T N A M
QUYỂN III
Nguyễn Bá Lăng
2015
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam Quyển III
© Nguyễn Bá Lăng và con cháu
Liên lạc:
Nguyễn Bá Luyện, nguyenbaluyen@yahoo.com
Hình Bìa
Chùa Vĩnh Nghiêm, Sàigòn, Việt Nam
Lời Tựa
Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng bắt đầu viết bộ sách Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam từ
năm 1965. Quyển 1 và 2 được xuất bản năm 1971 tại Sài Gòn và 2001 tại Paris. Bản
thảo quyển 3 vừa viết xong thì kiến trúc sư ra đi năm 2005.
Bộ sách vừa là một biên khảo về kiến trúc vừa là một tạp ghi về văn hóa và lịch sử
Việt Nam. Bộ sách trình bầy những khái niệm về nét đặc thù của kiến trúc Phật Giáo
Việt Nam và của riêng một số ngôi chùa. Tác giả đưa ra những nhận xét về sự phát
triển của kiến trúc Phật Giáo Việt Nam qua từng miền đất nước, và từng giai đoạn
lịch sử cho đến khoảng năm 2000. Bộ sách ghi lại những sự kiện, hình ảnh về nhân
vật, xã hội, lịch sử và văn hóa liên quan đến các ngôi chùa Việt Nam. Tác giả đã viết
bộ sách từ những cuộc khảo sát, bảo tồn cổ tích, xây dựng mà tác giả tham dự, và từ
những gì đã nghe, thấy và nghiên cứu.
Tác giả viết về sự hủy hoại các di sản mỹ thuật và văn hóa quý báu của tổ tiên do
chiến tranh, cuồng sân, đố kị hoặc chủ trương tác hại cố ý của các chế độ cầm quyền.
Tập sách biểu lộ hoài bão suốt đời của tác giả - trân trọng gìn giữ các công trình văn
hóa của tiền nhân cho các thế hệ sau, và đóng góp vào các công trình mới. Cho đến
khi gần ra đi, kiến trúc sư vẫn không ngừng làm việc với bộ sách.
Để tiếp tục hoài bão của thân phụ, chúng tôi đã cố gắng hoàn tất bộ sách này. Chúng
tôi xin cám ơn tất cả các nhà khảo cứu, học giả, các cơ quan, các vị hảo tâm đã phát
hành các sách, tài liệu, và hình ảnh, in hay đăng ở trên mạng internet, về kiến trúc,
Phật Giáo và lịch sử Việt Nam mà bộ sách này đã tham khảo hoặc trích dẫn.
Với những khám phá và nghiên cứu không ngừng về Phật giáo, lịch sử và văn hóa
Việt Nam, bộ sách ắt hẳn còn nhiều sai sót. Chúng tôi xin cám ơn trước cho những
chỉ bảo và phê bình để học hỏi và hoàn chỉnh bộ sách này.
Chúng tôi cũng xin cám ơn Viện Việt Học tại Westminter, California đã có nhã ý phát
hành bộ sách về kiến trúc Phật Giáo Việt Nam này như một đóng góp khiêm nhường
của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vào kho kiến thức văn hóa Việt Nam mà Viện Việt
Học đang gìn giữ và phát huy.
Các con của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng
Paris, Sydney, Canberra và Los Angeles
Tết Ất Mùi, tháng 2 – 2015
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 1
Mục Lục
Mục Lục.................................................................................................................................. 1
1 Ðạo Phật Với Đất Cũ Phù Nam, Chiêm Thành................................................................... 3
1.1 Phù Nam ....................................................................................................................... 3
1.2 Miền Trung................................................................................................................... 4
2 Các Chúa Nguyễn Ở Đàng Trong Với Phật Giáo .............................................................. 8
2.1 Nguyễn Hoàng.............................................................................................................. 8
2.2 Các Chúa Nguyễn sau Nguyễn Hoàng ......................................................................... 9
3 Phật Gíao Đàng Trong....................................................................................................... 14
3.1 Nhân duyên phát triển................................................................................................. 14
3.2 Các thiền sư và chùa................................................................................................... 16
4 Hoằng Hoá Của Các Thiền Sư Ở Đồng Nai - Gia Định.................................................... 29
4.1 Một số thiền sư được biết ........................................................................................... 29
4.2 Tổ đình Long Thiền và các vị danh tăng .................................................................... 30
4.3 Các chùa khác được các thiền sư miền Trung khai sơn.............................................. 32
5 Nét Đặc Thù của Kiến Trúc Phật Giáo Đàng Trong......................................................... 34
5.1 Phối trí bình đồ. .......................................................................................................... 34
5.2 Hình khối: Mặt ngoài.................................................................................................. 38
5.3 Các hình thể mái ......................................................................................................... 40
5.4 Sườn nhà bên trong..................................................................................................... 40
6 Nhà Tây Sơn và Phật Giáo................................................................................................ 41
7 Các Vua Nhà Nguyễn Và Phật Giáo ................................................................................. 44
8 Những Danh Tăng và Chùa Thời Nhà Nguyễn................................................................. 48
9 Kiến Trúc Chùa Đàng Trong và Vùng Đất Mới Dưới Triều Nguyễn............................... 55
9.1 Chùa có hai lầu chuông trống. .................................................................................... 55
9.2 Chùa kiểu chữ Tam (三)............................................................................................. 56
10 Những Cảnh Chùa Danh Tiếng ở Miền Nam ................................................................ 57
11 Trùng Tu, Xây Cất ở Thăng Long Dưới Triều Nguyễn................................................. 68
11.1 Thăng Long tang thương......................................................................................... 68
11.2 Xây dựng ở Thăng Long lúc khởi đầu Nhà Nguyễn ............................................... 69
11.3 Từ triều Minh Mạng đến Thành Thái...................................................................... 77
12 Kiểu Cách Đền Chùa ở Thăng Long Qua Những Cuộc Trùng Tu Dưới Triều Nguyễn 91
12.1 Về bình đồ:.............................................................................................................. 91
12.2 Về lập diện............................................................................................................... 91
12.3 Cổ đẳng, cổ diêm..................................................................................................... 92
13 Tôn Giáo, Tín Ngưỡng và Hội Hè Về Cuối Thế Kỷ XIX Sang Nửa Đầu Thế Kỷ XX . 94
13.1 Hội thánh................................................................................................................. 94
13.2 Hội chùa .................................................................................................................. 97
14 Ảnh Hưởng Tây Phương Trong Kiến Trúc Đền Chùa................................................. 101
14.1 Ảnh hưởng lên kiến trúc dân dã ............................................................................ 101
14.2 Ảnh hưởng lên kiến trúc tôn giáo và tín ngưỡng................................................... 101
14.3 Một vài công trình xây cất đặc sắc về thập niên 30 thế kỷ XX............................. 104
14.4 Kiến trúc trang trí .................................................................................................. 107
15 Tình Trạng Đền Chùa ở Hà Nội Hồi Đầu Pháp Thuộc................................................ 109
16 Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam.................................................................................. 112
16.1 Hội Chấn Hưng Phật Giáo Bắc Kỳ ....................................................................... 112
16.2 Hội An Nam Phật học ........................................................................................... 114
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 2
17 Từ Thế Chiến Thứ Hai Đến Cuộc Chiến Việt Pháp 1945-1954.................................. 116
17.1 Tại Hà Nội:............................................................................................................ 116
17.2 Tại Bắc Ninh ......................................................................................................... 118
17.3 Tại Tỉnh Hải Dương .............................................................................................. 119
17.4 Tại Hà Đông.......................................................................................................... 120
17.5 Tại Vĩnh Yên......................................................................................................... 120
17.6 Công cuộc trùng tu do sở Quốc Gia Bảo Tồn Cổ Tích ......................................... 121
18 Từ Hiệp Định Genève Đến Năm 1975......................................................................... 125
18.1 Phật Giáo ở miền Nam .......................................................................................... 125
18.2 Phong Trào Tín Ngưỡng Và Xây Cất Tôn Giáo. .................................................. 127
19 Kết................................................................................................................................ 138
Một số Tài Liệu Tham Khảo hay trích dẫn............................................................................ 139
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 3
1 Ðạo Phật Với Đất Cũ Phù Nam, Chiêm Thành
1.1 Phù Nam
Phù Nam là phiên âm Trung hoa
từ danh từ phnom (núi) để chỉ
một quốc gia có thủ đô đóng ở
trên miền đất cao tại nơi biên giới
Miên Việt ngày nay, giữa khoảng
Phnom Da và Angkor Borei, do
một dòng vua mà vua cuối cùng
tên là Rudravarman, mất năm
545.
Miền Nam Việt Nam ngày nay là
một phần đất của Phù Nam xưa.
Di tích lớn nhất tìm thấy ở đây là
khu di chỉ Óc Eo ở chân dẫy núi
Ba Thê, thuộc tỉnh Long Xuyên.
Thời Phù Nam, thế kỷ IV-V, nơi đây là một hải cảng quan trọng, nơi giao thương giữa Ấn
Độ và Trung Hoa. Trong số các cổ vật tìm thấy ở đây có đủ sản phẩm công nghệ, mỹ nghệ
của hai xứ này, của bản xứ và có cả huy chương và tiền của La Mã. Trong số những di tích
kiến trúc ở đây, người ta tìm ra một cung thờ xây bằng
gạch cùng ngói có phủ men, và một số vật liệu trang trí
kiến trúc. Những di vật kiến trúc hiếm hoi này cho
thấy chúng thuộc văn hoá Ấn Độ.
Trong số cổ vật tìm thấy còn có một pho tượng nhỏ đúc
bằng kim loại, kiểu thức Bắc Ngụy (Trung Hoa) về
khoảng thế kỷ VI, chứng tỏ sự hiện diện của Phật giáo
Bắc Tông ở hải cảng này hoặc là đã có qua đây. Nhưng
có thể khẳng định là Phật giáo đã từng hiện diện và bắt
rễ ở Phù Nam qua các pho tượng Phật tìm thấy ở Bình
Hoà, Đồng Tháp và Sơn Thọ.
Tượng Bình-Hoà tạc bằng gỗ, cao 1,5 m thuộc nghệ
thuật Phù Nam, thế kỷ V, tạc theo thể dáng Phật đứng
thuyết giảng tương tự những pho tượng đồng Thích-Ca,
kiểu Gupta, nhưng thân người hơi uốn sang bên phải.
Tượng Đồng Tháp cũng bằng gỗ, cao tới 2,9m cũng
thuộc nghệ thuật Phù Nam về thế kỷ VI-VII. Phật ngồi
trên bệ, tay đặt trên đùi, mặt tròn, tóc xoắn ốc, có núm
nhô trên đỉnh đầu.
Tượng Phật Kiểu Gupta
Phù Nam với Angkor Borei và Óc Eo
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 4
1.2 Miền Trung
Miền Trung từ đèo Ngang vào tới Biên-Hoà là đất cũ của Lâm-Ấp, Hoàn-Vương1
và sau rốt
là Chiêm Thành. Những di tích xưa như tượng đá, tháp gạch rải rác từ Bắc xuống Nam của
miền Trung chứng tỏ đạo Bà-la-môn từng ngự trị xứ này. Tuy nhiên đạo Phật cũng đã xuất
hiện ở đây đồng thời với Bà-la-môn do các tu sĩ Ấn Độ đã từng đi theo các thuyền buôn mà
du nhập vào các xứ miền Đông Nam Á và Á Đông khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Chứng
tích của những cuộc hoằng hoá này là những pho tượng được tìm thấy ở Pong Tuc (Cam
bốt), ở Sungai (Mã Lai), ở Đồng Dương (Quảng Nam), ở Merbok (Mã-Lai), ở sông Kamara
(đảo Célèbes). Các pho tượng này đều đúc bằng đồng và kiểu giống nhau, hình dung đức
Thích-Ca đứng thuyết pháp, hai tay cũng giơ lên theo thế trấn an. Vai phải và một phần
ngực phải để trần, còn bên trái, ống tay áo chẩy dài xuống tới gần chân. Nếp áo gợn đều
như nước chảy.
Tượng tìm thấy ở đảo Célèbes thuộc đợt trước, theo nghệ thuật Amaravati (Nam Ấn) vào
thế kỷ II-III. Những tượng sau thuộc văn hoá Gupta vào thế kỷ IV-V. Các tượng này cao
từ 55cm tới 75cm, tượng Đồng Dương lớn nhất cao 108cm. Gupta là thời đại văn hoá rực
rỡ nhất của Ấn Độ, đã ảnh hưởng lan rộng ra các nước Á Đông và Đông Nam Á. Sử liệu
Trung-Hoa có ghi lại, một số tăng sĩ gốc người Lâm-Ấp và Phù-Nam có sang Trung-Hoa
vào thế kỷ V và VI như:
 Sanghabala (Tăng-Khải), người Phù-Nam, nổi tiếng vào khoảng năm 495-524 đã được
vời sang Trung-Hoa ; ngài đã dịch bộ luận Ahidhamma và bộ luật Vinaya.
 Mandala (Hoằng-Nhược), Santibodhi (Hiền Trí), Gunavarman (Công-Đức-Khải) đều là
người vùng Nha Trang, Phan-Thiết ngày nay.
Các vị này đem một số kinh điển tiếng Pali sang Trung-hoa để dịch ở đây.
 Nagasena, người Lâm-Ấp, từng làm tăng thống, đi sứ sang Tàu vào thế kỷ VI.
 Chân-Đế không rõ sinh quán ở đâu ; năm 546, bấy giờ đã 48 tuổi, ngài vượt biển từ Phù-
Nam đến Kiến Nghiệp (Nam-Kinh), được Lương Vũ Đế vời vào triều dịch kinh. Như
thế có nghĩa là khi ở Phù Nam, ngài đã từng hoằng pháp và nổi danh rồi. Năm 556, ngài
đến Quảng Châu, được thứ sử Âu-Dương-Nghệ tiếp đãi nồng hậu. Năm 558, Chân-Đế
đáp thuyền sang Tích Lan để sưu tầm thêm kinh điển, nhưng dọc đường gặp bão, phải
ghé lại Hải Nam.
Cho đến năm 560, Chân Đế trở lại Quảng Châu và mất tại đây năm 569, thọ 71 tuổi.
Chân-Đế đã dịch phần nhiều về Phương-Đẳng nhưng quan trọng nhất là đã dịch hết bộ
luận A-Ty-Hàm, làm nền tảng cho Câu-Xá-Tông tại Trung-Hoa. A-Ty-Hàm là bộ luận
căn bản của Nam-tông. Ảnh hưởng bộ luận không những đương thời ở Phù-Nam,
1
Hoàn Vương, vương quốc tại miền Trung Việt Nam, từ năm 757 đến 859 Tây Lịch, kinh thành ở huyện An
Phước, Ninh Thuận. Hoàn Vương kế tiếp nước Lâm Ấp (192-757 Tây Lịch)
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 5
Chùa Đồng Dương
Quảng-Đông, Hải-Nam mà còn cả đối với Phật giáo Việt-Nam, nhất là Phật giáo
Nguyên-Thuỷ ngày nay không phải là nhỏ vậy.
Ngày nay còn những di vật chứng minh rằng triều Tống (420-479) và triều Lương (502-
507) thời Nam-Bắc Triều của Trung Hoa có liên lạc ngoại giao với Chiêm-Thành và Phù-
Nam là những xứ đượm nhiều ảnh hưởng văn hoá Ấn-Độ. Một số quan trọng tranh và
tượng Phật của những xứ này theo kiểu thức Gupta, đã được đem đến Nam-Kinh để làm
cống phẩm. Nay những tranh, tượng này không còn thấy ở miền Hoa-Trung nữa, nhưng
năm 1956, người ta đã tìm ra được cả một kho tàng những tượng Phật, sản phẩm của thế kỷ
VI-VII phản ảnh ảnh hưởng Ấn-Độ của Phù-Nam và Chiêm-Thành trong tàn tích của một
ngôi chùa ở Thành-Đô, tỉnh Tứ-Xuyên. Do đó, người ta suy ra rằng kiểu thức này đã từ
Nam-Kinh ngược dòng sông Dương-Tử lên Thành-Đô rồi lan lên miền Bắc Trung-Hoa để
ảnh hưởng đến những tượng Phật của những triều đại Tề và Chu cùng những tranh bích hoạ
ở Đôn-Hoàng vào cuối thế kỷ VI.
Kiểu thức mới này trông đầy đặn, uyển chuyển hơn kiểu trước. Những tượng kiểu trước
trông dẹt và vạch rõ nét, kiểu sau được tạc đắp đầy lên, thân hình bỗng được nhận rõ bằng
những nếp y phục bó sát người, bằng những nếp vải và bằng những đồ trang sức.
Chiêm-Thành đến thế kỷ IX có vua Indravarman II theo Phật giáo đại-thừa và lập một tu
viện lớn ở thủ-đô Indrapura (‘kinh thành của thần Indra’) tức vùng làng Đồng-Dương, Tam-
Kỳ, tỉnh Quảng Nam ngày nay.
Tu viện xây từ năm 875, gồm có ba lớp khuôn viên, kéo dài 150m từ Tây qua Đông và bề
rộng nhất ở hai phần sau là 112m. Ba khuôn viên liên tiếp nhau có tường xây bao quanh và
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 6
Tượng Đồng Dương
đều có cổng lớn xây trên đường trục tim để thông sang nhau và để dẫn từ ngoài phía Đông
đi vào. Trong khuôn viên thứ nhất là khuôn viên dài hơn cả tới trên 70m có dựng một kiến
trúc bình đồ chữ nhật kích thước 17m x 40m với 4 hàng cột, để làm chính điện thờ Phật.
Giữa khuôn viên thứ nhì cũng là một kiến trúc chữ nhật nhưng nhỏ hơn, dựng trên nền cao,
có bậc thang để bước lên ở cả bốn mặt. Căn nhà này được dùng làm nơi hội họp. Khuôn
viên thứ ba có bề ngang được chia làm ba ngăn: ngăn giữa 40m x 50m có hai kiến trúc xây
trên đường trục tim và nhiều kiến trúc nhỏ xây rải rác xung quanh. Ngoài hai kiến trúc chữ
nhật ở khuôn viên trước lợp ngói, các kiến trúc khác có tường và mái đều xây bằng gạch
như ở các tháp Chàm khác.
Điểm đặc biệt ở tu viện Phật giáo này là những toà cổng chính dẫn vào mỗi khuôn viên.
Cổng xây đồ sộ như một ngọn tháp-đền thờ (kalan), nhưng có ba cửa với ba cầu thang dẫn
lên, theo nghĩa tam quan như ở kiến trúc Việt-Nam. Trong lòng hai cửa bên có dựng tượng
hộ pháp, được tạc với những cử chỉ rất sống động. Tam quan còn được tôn vẻ đồ sộ bằng
hai cây trụ lớn xây ở hai bên phía trước. Trụ xây dưới là một đế có nhiều cạnh vuông, được
trang trí bằng nhiều nét chạm trổ, điêu khắc. Trên là thân trụ hình ống tròn có chạm gờ chỉ
thành nhiều đốt và lên cao thu nhỏ dần trông tương tự hình dáng những cây bảo tháp của
Việt-Nam và Trung-Hoa. Dọc theo hai bên tường ở những khuôn viên 1 và 3 cũng được
trang trí bằng những cây trụ như vậy nhưng kích thước nhỏ hơn. Ba khuôn viên này nằm
trong một khuôn viên lớn: dài 320m, rộng 152m có toà cổng duy nhất với hai cây trụ
thường lệ xây trên trục tim hướng Đông.
Sau cổng, một bên là hồ nước rộng,
một bên là những dẫy nhà xây bằng
gạch. Phần còn lại xưa có những
kiến trúc bằng vật liệu nhẹ làm rải
rác trong những mảnh vườn hoặc
cánh rừng nhỏ. Trước cổng khuôn
viên này có một con đường dài
763m dẫn thẳng, hướng Đông đến
một khuôn viên chữ nhật lớn, bề
ngang 300m, bề dọc 240m, trong
lòng là một hồ nước rộng.
Thời đại Indrapura (thế kỷ IX-X)
Chiêm-Thành hùng cường thịnh trị,
văn hoá, mỹ thuật biểu lộ nét hùng
mạnh, thấy rõ nhất là ở điêu khắc.
Những pho tượng đá ở Đồng-
Dương, kể cả tượng Phật, thông
thường có thân hình vạm vỡ, chắc
nịch, nét mặt to, thô đến hoang rợ,
môi dầy, miệng rộng, mũi to, dẹt,
mắt lồi, mày rậm. Tựu trung,
những tượng và điêu khắc của thời
đại này có kiểu nét thật đặc biệt.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 7
Lâm Ấp và Chiêm thành từ thế kỷ VI đến thế kỷ IX phát triển rực rỡ, là thời đại hoàng kim
của nghệ thuật Chàm với những tác phẩm điêu khắc đá chan hoà vẻ hài hoà duyên dáng như
ở Trà Kiệu. Nhưng kể từ sau những cuộc tàn phá của những thái thú người Tầu ở Giao Chỉ,
rồi đến vụ vua Lê Đại Hành đem quân sang trừng phạt Lâm Ấp về việc bắt giam sứ thần Đại
Việt thì kinh thành Indrapura bị tàn phá năm 982. Người Chàm phải thiên đô, lập kinh đô
mới Vijaya (Đồ-Bàn) tại Bình Định ngày nay và từ đó suy dần. Đạo Bà La Môn là quốc
giáo, nhưng đạo Phật vẫn tồn tại, nên khi vua Lý Thánh Tôn đem quân đến Vijaya trừng
phạt Chiêm-Thành năm 1069, có bắt được một nhà sư là Thảo-Đường đem về tôn làm quốc
sư.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 8
2 Các Chúa Nguyễn Ở Đàng Trong Với Phật Giáo
2.1 Nguyễn Hoàng
Trong cuộc dấy binh phù Lê diệt Mạc, Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, hai người con của
Nguyễn Kim, có nhiều công trạng nên đều được phong quận công. Nhưng binh quyền bấy
giờ nằm cả trong tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm ghen tị
kiếm chuyện giết đi. Nguyễn Hoàng thấy vậy lo sợ nên cho người đến Cổ Am (tỉnh Hải
Dương) hỏi ý kiến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Được cho hay là ‘Hoành Sơn nhất
đái, vạn đại dung thân’, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị là Ngọc Bảo nói với
anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn nhậm miền đất phía Nam.
Được phép, năm 1558, Nguyễn Hoàng bèn đem những người thân thích, họ hàng ở huyện
Tống Sơn và quân lính người Thanh (Hóa) Nghệ (An) cùng vợ con đi theo vào đóng ở xã Ái
Tử, huyện Vũ Xương, trấn Thuận Hoá là huyện Đăng Xương, gần tỉnh lỵ Quảng Trị sau
này.
Sự việc đó đã khơi nguồn cho công cuộc xây dựng nghiệp chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đối
với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Nguyễn Hoàng tục danh là chúa Tiên (1558-1613) là người hiền đức, khôn ngoan, thu phục
được nhân tâm và biết thu nạp nhân tài nên được nhiều người kính mến và tin theo. Ông tỏ
ra là người sùng đạo Phật. Sau khi vào trấn đất Thuận Hoá được ít lâu, ông để ý ngay đến
việc xây dựng chùa chiền.
Năm 1601, ông tạo lập chùa Thiên Mụ ở xã Hà Khê (nay là xã An Ninh Thượng, huyện
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên). Nguyên do là trong một chuyến đi xem phong cảnh đất
nước, đến đây, ông thấy một quả đồi nhô ra sông rộng2
và nhìn về phía thượng lưu có những
ngọn núi nhấp nhô của dẫy Trường Sơn theo thế hồi long cố tổ, thực rất đáng lưu ý. Ông
bèn hỏi cư dân thì đuợc họ trình rằng: "Theo lời truyền của tổ tiên chúng tôi thì từ thời cổ
xưa, có một vị nữ thần vẫn thường xuất hiện ở đồi này. Đến thời nhà Đường, có Cao Biền
thường đi dò xét những quý địa của nước ta để triệt phá, khi đi đến đây, thấy đất có khí
mạch linh thiêng, y cho đào đầm rạch ở phía sau đồi để triệt yểm đi. Từ đó thần biến mất.
Cho mãi tới thời gần đây người ta mới lại bỗng nhiên thấy xuất hiện một bà già tóc và lông
mày trắng toát nhưng vẻ người thì vẫn trẻ, mặc áo dài đỏ, quần xanh lục, ngồi ờ sườn đồi
mà phán rằng: ‘Rồi sẽ có một vị chân chúa đến mở mang triều đại ở phương Nam này và
lập chùa ở đây để củng cố long mạch cho quốc thái dân an." Nói xong bà biến mất, mọi
người cho rằng bà chính là người nhà trời sai xuống để báo trước điềm lành. Vì vậy đồi này
được gọi là đồi Thiên Mụ’.
Được nghe trình bầy như vậy, Đoan Quốc công vô cùng mừng rỡ và càng vững tin là mình
được mệnh trời, ý Phật để thực hiện việc xây dựng một cơ nghiệp lớn lao. Ông bèn dựng
2
Sông Linh, nay gọi là sông Hương, do hai nguồn nước Kim Trà và Đan Điền chẩy vào, rất sâu và rộng ở
chỗ nay gọi là bến Tuần. Còn đồi này, theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, được gọi là núi Nam Sơn,
thuộc xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thì nay là đồi Thiên Mụ, xã An Ninh Thượng.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 9
chùa ở trên đồi và đặt tên là Thiên Mụ Tự. Sau này, nhiều người đến làm lễ, cầu khấn, thấy
ứng nghiệm nên gọi chùa là Linh Mụ Tự.
Đây là công trình đầu tiên về kiến trúc của các chúa Nguyễn tại Huế, tuy nhiên không phải
là lần đầu tiên chùa được lập ở đây, vì trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An, là sách ra
đời vào năm 1553 đời Mạc Phúc Nguyên, đã có ghi: ‘chùa (Thiên Mỗ) ở phía Nam xã Gian
Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông, tưởng như gang tấc bên trời,
vượt hẳn ba nghìn thế giới...’
Ở Quảng Nam tại Trà Kiệu3
năm 1607, chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho lập chùa Bảo Châu.
Năm 1609, chúa cho lập chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch (tỉnh Quảng Bình).
Sau đó Đoan Quốc Công được nhận thêm trấn Quảng Nam. Sau khi hoàn tất dinh trấn ở xã
Cần Húc, ông cho dựng chùa Long Hưng ở mé Đông gần đó. Những sự xây cất chùa chiền
này chứng tỏ chúa Tiên rất để ý đến đạo Phật. Theo nhận xét của Nguyễn Lang trong Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận thì: ‘như vậy trong thâm ý của chúa Nguyễn (Hoàng), đạo Phật có
thể làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn. Cũng vì vậy
cho nên sau này các chúa Nguyễn đều tỏ vẻ sùng thượng đạo Phật và nhân dân Đàng Trong
cũng nghênh đón các vị du tăng Trung quốc với một tấm lòng chân thật mặn nồng.’
2.2 Các Chúa Nguyễn sau Nguyễn Hoàng
Từ năm 1627 khởi sự cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, đánh nhau bẩy lần, đến năm 1661 mới
chấm dứt, nên trải qua đời các chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (trị vì 1613-1635), chúa
Thượng Nguyễn Phúc Lan (trị vì 1635-1648), không thấy có ghi công cuộc Phật sự nào vì
các chúa bận việc chiến tranh.
Đến năm 1662, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (trị vì 1648-1687) dạo thuyền qua sông ở xã
Triên Ân, huyện Phú Vang (xã Lai Âm, huyện Từ Vinh) thấy bờ phía Bắc có cây cối xanh
rậm, chim chóc bay đậu, chúa lấy làm mến cảnh ấy, bèn đậu thuyền lại thưởng ngoạn.
Nhận thấy có nền chùa xưa tại đó, chúa bèn khiến tái lập lại chùa, đặt tên là chùa Sùng Hoá.
Sau khi sông Gianh được lấy làm ranh giới phân định Bắc Nam, hoà bình được tái lập, thì
đến năm 1665 chùa Thiên Mụ mới được trùng tu theo sắc chỉ của chúa Nghĩa tức Nguyễn
Phúc Thái (1687-1691)4
. Chúa là người rất để ý đến đạo Phật, phong thiền sư Hưng Long
làm quốc sư và, theo lời đề nghị của Hưng Long quốc sư, đã hai lần cho người sang Quảng
Đông mời thiền sư Thạch Liêm. Nhưng đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725),
Thạch Liêm mới sang Đại Việt và đã ảnh hưởng nhiều đến vị chúa này. Chúa Nguyễn Phúc
Chu tục gọi là chúa Minh hay Quốc chúa, sinh năm 1675, lên ngôi chúa năm 17 tuổi, là
người ham học, viết chữ rất tốt, có khiếu về văn chương lẫn võ bị, lại là người rất hâm mộ
đạo Phật. Thạch Liêm đặt cho ông pháp danh là Hưng Long khi ông thọ bồ tát giới năm 20
tuổi và sau đó thêm đạo hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân.
3
Trà Kiệu là kinh đô cũ của Chiêm Thành. Tại đây, trường Viễn Đông Bác Cổ đã tìm thấy những tác phẩm
điêu khắc đứng vào hàng đầu của mỹ thuật Chàm vào thế kỷ VII.
4
Chúa Nghĩa cho dời phủ từ Kim Long đến Phú Xuân, trồng cây, đắp nền, xây tường, mở lộ, cất dựng cung
vàng, gác ngọc, cực kỳ xa hoa (theo Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương, Dư Địa Chí. Cũng theo
sách này thì chúa tên là Nguyễn Phúc Thái).
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 10
Lên ngôi được một năm, năm 1692 chúa cho sửa chữa chùa Mỹ Am ở núi Mỹ Am (nay là
núi Tuý Vân, chùa là Thánh Duyên). Chùa dựng trên sườn núi, nhìn xuống đầm Hà Trung,
phá Đá Bạc (cũng có tên là Đầm Thuỷ Tú) và bên kia phá là núi Bạch Mã thuộc dẫy Trường
Sơn. Cảnh trí phong quang, non nước mênh mông hùng vĩ. Ở đây cũng bắt đầu vào cửa
biển Tư Dung, nơi mà vua Lê Thánh Tôn khi đi đánh Chiêm Thành năm 1471 ghé ngang
qua có phán rằng ‘Núi sông này khí thế hùng dũng lắm thay, đời sau chắc có kẻ anh hùng
chiếm cứ chỗ này’. Vua bèn làm thơ và ghi chú rằng ‘Các cửa biển duy có cửa biển này,
trên núi dưới biển, hình thế hùng vĩ, ba đào hiểm trở, các vị đế vương lịch đại như Lý Thái
Tông, Lý Thánh Tông, Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành đều có trú ở đây.’
Bài thơ như sau:
Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long;
Bách nhị sơn hà5
thử yếu xung.
Liệt chướng huyền nhai thanh xúc xúc,
Kê thiên phách lãng bích trùng trùng.
Tiên triều sự nghiệp truyền di tích.
Nam quốc dư đồ chí cựu phong.
Nạp cấu tàng ô hà hải lượng 6
Cử gian vô xứ bất triều tôn.
Dịch như sau:
Trống vang thuyền đến Ô Long.
Núi sông hiểm yếu tận cùng.
Non cao xanh, dáng sườn đồ sộ,
Biển chập chùng, sóng vỗ dậy trời.
Tiên triều công nghiệp còn đời.
Bản đồ Nam quốc vẽ rành đã lâu.
Lượng cả bao dung không kể xiết.
Như nước chan hòa khắp mọi nơi.
Năm 1695, chúa cho người sang Quảng Đông, Trung Hoa mời thiền sư Thạch Liêm sang
giảng dậy cho quan dân và cũng để chính chúa thọ giáo nữa. Chúa rất khâm phục đạo đức
và kiến thức của thiền sư Thạch Liêm nên đã chịu ảnh hưởng của thiền sư không những về
quan niệm tu hành mà còn cả về những biện pháp trị dân theo giáo lý công minh, nhân đạo
của nhà Phật nữa.
Chúa cũng để ý nâng đỡ những vị cao tăng ở các tỉnh và ban biển ngạch, sắc tứ cùng câu đối
cho nhiều chùa. Những biển ngạch này được ký ở lạc khoản là Thiên Túng Đạo Nhân.
Năm 1710 chúa cho đúc một quả chuông lớn, nặng tới 3285 cân, để treo ở chùa Thiên Mụ.
Thân chuông đứng thẳng theo hình ống được trang trí bằng những tượng hình bát quái, chữ
thọ, đường triện, rồng, thuỷ ba, bát bửu, hoả cầu và có khắc trong bốn ô chữ nhật những
dòng chữ:
‘Quốc chúa Đại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Động chánh tông đời thứ 30, pháp
danh Hưng Long, đúc hồng chung này nặng 3285 cân; để ở Thiên Mụ thiền tự, để vĩnh viễn
cung phụng Tam Bảo, cầu nguyện gió hòa, mưa thuận, quốc thái dân an, chúng sinh trong
pháp giới đều vẹn toàn trí tuệ. Năm Vĩnh Thịnh thứ 6, ngày Phật Đản, tháng tư Canh Dần.’
5
Bách nhị sơn hà: nơi địa thế núi sông nhà Tần rất hiểm yếu, chỉ hai người là đủ đương cự lại với cả trăm
người (Từ Nguyên)
6
Nạp tang là chứa đựng; ô cấu là vật nhơ bẩn; ý nói là sông biển có độ lượng rộng rãi, bao nhiêu vật ô uế ở
trên cao, núi rừng chẩy về đều dung nạp cả.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 11
Quả đại hồng chung này cao trên 2,5 m, đường
kính 1,2 m, đến nay vẫn còn được treo trong một
nhà xây ở phía ngoài, bên trái tam quan.
Năm 1714, chúa trùng tu và làm cho to rộng chùa
Thiên Mụ, uỷ nhiệm cho chưởng cơ Tống Đức
Đạt thực hiện đại công tác này. Chùa bấy giờ
gồm từ ngoài cửa đi vào, có các điện: Thiên
Vương, Ngọc Hoàng, Đại Hùng, Thuyết Pháp
Đường, Tàng Kinh Lâu. Ở hai bên có lầu
chuông, lầu trống, điện Thập vương, Vân Thuỷ
đường, Tứ Vị đường, Thiền đường, điện Đại Bi,
điện Dược Sư. Ngoài ra còn có nhiều cơ sở cho
các sư có nơi ăn ở và học tập (tăng liêu và thiền
xá). Đằng sau trong vườn Tỳ Da lại có vài chục
nhà phương trượng. Tất cả đều rực rỡ vàng son.
Công việc làm một năm thì xong. Quy mô chùa
bấy giờ là đầy đủ nhất.
Khi khánh thành công cuộc khuyếch trương chùa,
chúa cho mở hội lớn. Chúa ở lại chùa cả tháng ăn
chay, phát chẩn tiền gạo cho người nghèo đói.
Dự hội có cả phiên vương Chiêm Thành là Kế Bà
Tử cùng vương gia và triều thần. Rồi chúa cử một phái đoàn tăng sĩ sang Trung Hoa mua
Đại Tạng kinh và luật luận hơn ngàn quyển đem về cất giữ tại nơi tàng kinh lâu của chùa.
Bài minh của chúa khắc trên bia như sau:
Việt quốc chi nam hề giai thủy, giai sơn,
Bảo sát chi tráng hề, nhật chiếu thiền quan,
Tánh chi thanh tịnh hề, khê hương sàn sàn.
Quốc chi điện an hề, tứ cảnh u nhàn,
Vô vi chi hoá hề, Nho Thích đồng ban,
Ký tư thắng khai hề, nhân quả hồi hoàn.
Kiến tiêu lập đích hề, thành tồn tà nhàn.
lược dịch như sau:
Phương Nam, nước Việt, đây, non xanh, nước biếc.
Chùa Phật tráng lệ, đây, nắng chiếu cửa thiền.
Tự tính trong sạch, này, khác chi suối chảy.
Nước non an bình, này, bốn cảnh thanh nhàn.
Cõi đời hư ảo, này, Khổng, Phật cùng chung.
Ghi chép vào đây, này, nhân quả xoay về
Lập bia truyền lại, này, thật còn, giả tan
Cuối năm 1715, chúa cho tạc 1 tấm bia lớn, bề cao 2,6m, bề rộng 1,2m, dựng trên một con
rùa, tạc bằng cẩm thạch. Trên bia có khắc bài văn của chúa ghi công đức chấn hưng đạo
Phật và việc trùng tu chùa. Bia này dựng trong nhà bát giác được xây đối diện với nhà
chuông ở phía bên hữu tam quan.
Chuông chùa Thiên Mụ
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 12
Khoảng năm 1738-1744, chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765) tự hiệu là
Từ Tế đạo nhân, lại cho trùng tu chùa Thiên Mụ rất tráng lệ và sai người sang Trung Hoa
thỉnh Đại Tạng kinh hơn nghìn bộ, về để tại chùa. Các chúa mấy lần cho người đi thỉnh
kinh, mặc dầu không đủ ba tạng nhưng cũng bù lại phần nào vào số sách thiếu hụt từ hồi
Minh thuộc.
Vũ Vương thích kiến trúc. Chúa xây dựng thêm ở Phú Xuân (nay là kinh thành Huế) nhiều
đình đài, đặt tên, đề biển, như điện Kim Hoa, điện Quang Hoà, các toà Tựu Lạc, Chính
Quan, Trung Hoà, Di Nhiên, cùng đài Sướng Xuân, Kinh Địa các, Triều Dương các, Quang
Thiên các, đình Thuỵ Vân, Hiên Đồng Lạc. Tại bờ phía Nam, trên mạn thượng lưu (làng
Dương Xuân ngày nay) lập phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ.
Những kiến trúc này đều nguy nga, rường mái rực rỡ, có hành lang bao quanh, tường thành
vây bọc; cửa ngõ mở thông ra tứ phía, được chạm trổ và trang trí rất công phu. Các toà nhà
được lát nền bằng gạch, đá rất bằng phẳng, trên lát ván gỗ kiền kiền, dưới mái nhà có máng
hứng nước trên chẩy xuống; có cây cối trồng xen cạnh. Những gốc sung, xoài, cây mít lớn
vừa người ôm. Trong vườn sau có hòn non bộ xây với những hòn đá lạ mắt, lại có ao
vuông, với những cây cầu vồng và nhà hóng mát (thủy tạ) cất giữa hồ. Những bức tường
trong, tường ngoài thẩy thẩy được xây dầy đến vài tấc; lại có những tượng hình rồng, hổ,
lân, phụng và hoa cỏ đắp tô bằng mảnh sứ và vôi mầu7
.
Đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, chùa Kim Tiên ở ấp Bình An, tương truyền do hoà thượng
Bích Phong trùng tu, lại được trùng tu lần nữa năm 1774, sơn thếp xanh vàng rực rỡ. Phía
trước dựng lầu vọng tiên, quy mô tráng lệ. Trước chùa có giếng sâu hơn 30 thước (ta)
(khoảng 12m), nước rất trong sạch. Tương truyền xưa có tiên nữ ban đêm xuống tắm ở
giếng ấy, nên có tên là Giếng Tiên.
Chùa Sơn Tùng ở xã Tùng Sơn, huyện Quảng Điền, cảnh trí u tịch. Vũ Vương Nguyễn
Phúc Khoát cho trùng tu lại năm 1756. Chúa ban cho một tấm biển khắc năm chữ : ‘Sắc Tứ
Sơn Tùng tự’ và những câu đối:
1- Thủy tú sơn minh, hải quốc vô song nguyên phước địa,
Trùng hưng cổ tự, Nam thiên đệ nhất thị Sơn Tùng
Dịch:
Sông đẹp, núi xinh, đất nước này, nơi đâu sánh kịp?
Chùa xưa sửa lại, Sơn Tùng cảnh đẹp nhất trời Nam.
2- Mai ngọc điện xuân phong, độc ái thanh hương cung Phật tọa.
Đào hoa khai lệ nhật, di lai thế sắc ảnh thiền cung.
Dịch :
Cành mai chào đón gió xuân, hương thanh thoát chỉ riêng cúng Phật
Hoa đào mừng báo ngày tươi, ánh hồng chiếu sáng chốn thiền môn.
Lê Quý Đôn có kiểm điểm lại những tên của sông, núi ở xứ Thuận Hoá (Quảng Trị - Thừa
Thiên ngày nay) ghi trong sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1553 đời
7
Theo Phan Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương, Dư Địa Chí.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 13
Mạc và nhận thấy: ‘Ngày nay vẫn y nguyên như thế ấy. Chỉ có thành hào trạm bến đò, chùa
và tháp thì ngày nay (năm 1776 viết trong Phủ Biên Tạp Lục) có phần đổi khác so với buổi
trước mà thôi.’
Đại lược về phần chùa, tháp, bấy giờ được ghi như sau:
1. Chùa Hoá Tự
Chùa Hóa Tự ở về địa phận xã Khang Lộc, gần xã Hữu Bộ. Ở ngoài ngôi chùa ấy, bốn mặt
nhìn ra đều là vũng và đầm nước mênh mông. Ở giữa đầm nước lớn này có một đám đất
đột khởi lên cao như một cái nền nhà.
2. Chùa Kính Thiên
Chùa Kính Thiên ở về địa phận xã Lệ Thuỷ, gần trạm Bình Giang (thuộc xã Yên Trạch hoặc
xã Tam Duyệt). Cảnh thanh u, chùa ở trong núi nhưng là một chùa lớn tại hạt Tân Bình.
3. Chùa Đại Phúc
Chùa ở địa phận hai xã Đại Phúc và Tuy Lộc, huyện Lệ Thuỷ. Tại chùa này người ta
thường cầu phúc và cầu mưa rất có linh nghiệm.
4. Chùa Sùng Hoá
Chùa ở về địa phận xã Lai Ân thuộc huyện Tư Vinh, sông Linh Giang quây bọc phía trước,
đầm lớn bọc đằng sau. Cung tiên rực rỡ, tượng Phật tôn nghiêm.
5. Chùa Thiên Mụ
Chùa ở giữa núi Sơn Nam, thuộc địa phận xã Hà Khê, huyện Kim Trà (nay là Hương Trà).
6. Đan Tháp
Tháp Trung Đan ở về địa phận xã Trung Đan, huyện Võ Xương. Tháp này cao có đến một
trăm thước ta (khoảng 40m) (Tháp Chàm này nay đã đổ)
7. Tháp Dương Lệ
Tháp ở về địa phận xã Dương Lệ, thuộc huyện Hải Lăng (tháp Chàm này nay cũng đã đổ,
chỉ còn lại mấy vật thờ bằng đá và một pho tượng đá được dân chúng địa phương xây một
ngôi miếu để bầy thờ).
Lê Quý Đôn có ghi riêng về ‘Trấn Thuận Hoá (Phú Xuân) có chùa công Thuận An (ở cửa
biển Thuận An), chùa công Kim Luông, chùa công Hà Trung, chùa công Quảng Xuân, chùa
công Thiên Mụ đều là những ngôi chùa lớn danh tiếng. Tại những ngôi chùa kể trên đều có
đặt chức tăng lục. Các chùa còn lại có ty tăng lục, ty nội pháp lục, ty huyền pháp, ty đạo sĩ
lục, ty tứ quý, ty đạo lục, ty lương y và ty trung tượng cơ lương y.’
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 14
3 Phật Gíao Đàng Trong
3.1 Nhân duyên phát triển
Phật giáo phát triển và hưng thịnh dưới hai triều đại Lý Trần. Khi nhà Minh xâm lăng Đại
Việt thì, để đồng hoá, họ đã huỷ diệt văn hoá Đại Việt: thiêu hủy, tịch thu hết kinh sách, đập
phá bia ký, chùa miếu. Đến khi Lê Lợi giành được độc lập, lập ra nhà Lê thì nhà Lê sùng
thượng Nho học.
Đến thời Mạc (1527-1593), Phật giáo được hưng phục ít nhiều, nhưng vì tình trạng nội
chiến Nam Bắc triều, nên cũng bị hạn chế. Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1778),
Phật giáo mới phát triển trở lại ở cả hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Sau khi vào trấn thủ Thuận Hoá (1558) nhất là từ 1600, Nguyễn Hoàng quyết định phát
triển xây dựng lãnh thổ Đàng Trong để chống lại họ Trịnh xứ Đàng Ngoài. Các chúa tiếp
theo đều sùng mộ đạo Phật, lấy đạo Phật làm điểm tựa chính sách trị dân.
Ngoài ra, sau mấy thế kỷ hết đuổi ngoại xâm đến phân chia nội bộ, nội chiến tương tàn rồi
phân tranh Trịnh Nguyễn, người dân Việt thấm đau cuộc đời vô thường giả tạo nên muốn
tìm nơi nương tựa, an ủi tâm linh ở tôn giáo. Do đó Phật giáo được phục hưng, phát triển ở
cả Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Thiền phái Trúc Lâm bị suy vong từ thời Minh đến nay được phục hưng trở lại ở Đàng
Trong với các thiền sư Viên Cảnh-Lục Hồ, Viên Khoan-Đại Thâm và nhất là thiền sư Minh
Châu-Hương Hải hoạt động trong khoảng thời gian 1660-1682.
Ngoài ra, vào cuối thế kỷ 17, khi nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Hoa, một số quân
dân Trung Hoa không phục tòng triều đình mới, bỏ nước ra đi qua xứ Đàng Trong sinh
sống. Trong số đó có một số thiền sư thuộc dòng Lâm Tế và một số ít thuộc thiền phái Tào
Động đã giúp cho sự phát triển hai thiền phái này ở xứ Đàng Trong và vùng đất mới Đồng
Nai-Lục Tỉnh.
Nguyên do sự ra đi của nhiều người Trung Hoa bấy giờ là vì Trung Quốc vừa trải qua một
cuộc thay đổi triều đại: Nhà Thanh thay thế nhà Minh mà đối với phần đông người Trung
Hoa bấy giờ (người Hán) coi Mãn Thanh là ngoại tộc nên không ưa, không hợp tác, thậm
chí đến bỏ ra nước ngoài để khỏi làm tôi của tân triều, như trường hợp 3000 quân nhà Minh
do các tướng Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình đi 50
chiếc thuyền sang xin làm dân Đại Việt năm 1679, và năm 1680, Mạc Cửu rời Lôi Châu
(Quảng Đông) sang mở mang đất Hà Tiên.
Về tín ngưỡng, tân triều Mãn Thanh hết sức phục hưng Nho giáo; đối với Phật giáo tuy có
ủng hộ nhưng không chu đáo lắm, chưa kể có những vụ như đốt chùa Thiếu Lâm; còn tín đồ
Trung Hoa bấy giờ cũng ít để ý đến việc nghiên cứu giáo lý. Đó là những nguyên cớ để
những thiền sư thích đi ra các nước lân bang, nhất là sang Đại Việt nơi mà các sư được đón
tiếp chân thành, nồng nhiệt ở Đàng Trong cũng như ở Đàng Ngoài. Riêng về thế kỷ XVII
đã ghi được sự có mặt ở Đàng Trong của các nhà sư Trung Hoa sau đây:
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 15
 Thiền sư Minh Hoằng, khai sơn chùa Ấn Tôn (nay là Từ Đàm) ở Thuận Hoá.
 Thiền sư Giác Phong, khai sơn chùa Thiên Thọ (nay là Báo Quốc) ở Thuận Hoá.
 Thiền sư Từ Lâm, khai sơn chùa Từ Lâm (gần nhà máy nước Huế).
 Thiền sư Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh ở Hội An (Quảng Nam).
 Quốc sư Hưng Liên, khai sơn chùa Tam Thai trên Ngũ Hành sơn (Quảng Nam) năm
1695.
 Thiền sư Pháp Hoa, khai sơn chùa Thiên Ấn năm 1694, ở Quảng Ngãi.
 Thiền sư Tế Viên, khai sơn chùa Hội Tông ở Phú Yên.
 Thiền sư Nguyên Thiều, khai sơn chùa Thập Tháp Di Đà ở bên góc Đông Bắc thành Đồ
Bàn, Bình Định và các chùa Quốc Ân năm 1665 và chùa Hà Trung ở cửa Thuận An,
Thuận Hoá.
Ngoại trừ hai vị Hưng Liên và Thạch Liêm thuộc thiền phái Tào Động, các vị khác đều
thuộc thiền phái Lâm Tế. Hai thiền phái này đã theo nhịp mở mang lãnh thổ mà phát triển
rộng rãi ở miền Nam.
Dưới thời các chúa Nguyễn (1558-1802) có ba thiền phái hoằng hoá ở Đàng Trong:
1) Phái thiền Trúc Lâm với các thiền sư Viên Cảnh-Đại Thâm, Viên Khoan-Lục Hồ và đặc
biệt là tổ sư Minh Châu-Hương Hải. Tổ sư Hương Hải hoằng dương Phật pháp ở Đàng
Trong trong khoảng thời gian 1660-1682, nhưng vì chúa Nguyễn nghi ngờ nên bỏ Đàng
Trong ra Đàng Ngoài hoằng hoá cho đến ngày viên tịch, năm 1715. Nhờ tổ sư Hương
Hải, phái thiền Trúc Lâm phục hưng và phát triển ở Đàng Trong một thời gian và còn
Chùa Chúc Thánh
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 16
ảnh hưởng tới phái Lâm Tế từ Trung Hoa truyền sang Đàng Trong vào hậu bán thế kỷ
XVII.
2) Phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong do tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch và các thiền sư
Minh Vật-Nhất Tri, Minh Giác-Kỳ Phương, Minh Hoằng-Tử Dung, Minh Hải-Pháp Bảo
phổ truyền nhưng có mang nhiều ảnh hưởng của phái thiền Trúc Lâm. Pháp môn tu
hành là Thiền Tông pha Mật Tông chứ không còn thuần tuý là ‘Thiền tham công cán’
của thiền phái Lâm Tế Trung Hoa. Thiền phái này phát triển mạnh ở Đàng Trong và
vẫn còn truyền thừa cho đến ngày nay.
3) Phái thiền Tào Động từ Trung Hoa truyền sang Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVII với
hoà thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) và thiền sư Hưng Liên- Quả Hoằng chỉ hoạt
động thịnh đạt dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sau đó thì tàn lụi.
3.2 Các thiền sư và chùa
Thiền sư Minh Châu-Hương Hải (1628-1715)
Thiền sư Minh Châu-Hương Hải còn được gọi là Tổ Cầu, tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện
Chân Phúc, tỉnh Nghệ An. Thiền sư Hương Hải sống ở làng Bình An, huyện Thăng Hoa,
tỉnh.Quảng Nam, đậu hương tiến (cử nhân) năm 18 tuổi (1645). Năm 1652 được chúa Hiền
Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) bổ làm tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị) lúc mới 25 tuổi.
Hương Hải bấy giờ đã mến đạo Phật, ông theo cầu Phật pháp với thiền sư Vân Cảnh-Lục
Hồ, được ban pháp hiệu là Minh Châu-Hương Hải.
Thiền sư cùng một đệ tử đi thuyền ra núi Tiêm Bút La, trên cù lao Đại Lãnh ngoài biển
Đông lập am tranh tu hành. Ở đây thiền sư bị ma quỷ thường hiện ra quấy phá, thiền sư cho
rằng đất đó là ác địa nên trở về quê trong đất liền tu hành. Nhưng dân ở đảo thiết tha mời
thiền sư trở lại nên thiền sư cùng đệ tử lên thuyền trở lại. Thiền sư hoằng hoá ở đó suốt tám
năm không gặp trở ngại gì nữa. Đạo hạnh càng ngày càng cao; thêm nghề chữa bệnh giỏi,
danh tiếng đồn xa, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cho người ra đảo đón thiền sư về dinh ở
Phú Xuân, thăm hỏi và tham vấn Phật pháp rồi lập Thiền Tịnh Viện ở núi Linh Thái tại cửa
biển Tư Dung để thiền sư cư trú hoằng hoá. Khoảng năm 1667, Quốc Thái phu nhân và ba
công tử, con của chúa Hiền cùng một số quan tướng triều đình chúa Nguyễn đến thọ giới
quy y thiền sư có đến 1300 người.
Được một thời gian, có người ghen ghét tâu với chúa Hiền, vu oan rằng thiền sư mưu đồ
cùng Gia Quận công (làm quan Đàng Ngoài, bị chúa Nguyễn bắt được khi chiếm được bẩy
huyện tỉnh Nghệ An, nhưng rồi tha và cho dậy học ở nội cung chúa) trốn ra Đàng Ngoài
theo chúa Trịnh. Chúa Hiền cho bắt hai người đem điều tra, nhưng không thấy bằng chứng
để kết tội. Tuy nhiên chúa không cho thiền sư ở Thiền Tịnh Viện nữa mà đuổi vào Quảng
Nam.
Do đó cho đến năm Nhâm Tuất, thiền sư cùng khoảng 50 đệ tử dùng thuyền vượt biển ra
Đàng Ngoài. Thuyền ghé vào trấn Nghệ An, ngài vào yết kiến quan trấn thủ. Quan trấn thủ
tâu về triều đình. Chúa Trịnh Tạc (1657-1686) sai Đường Quận công đem thuyền ra Nghệ
An đón rước thiền sư và các đệ tử vào Đông Đô tạm ngụ tại công quán và sai nội giám điều
tra lý lịch. Sau khi điều tra xong, chúa Trịnh Tạc cho mời thiền sư vào triều thăm hỏi và
phong chức Vụ Sử, thưởng 300 quan tiền, mỗi năm cấp 24 lâu thóc, 36 quan tiền, 1 tấm vải
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 17
trắng. Đệ tử của thiền sư, mỗi người được cấp mỗi năm 12 lâu thóc và 12 quan tiền. Chúa
Trịnh còn bảo thiền sư vẽ bản đồ lãnh thổ Đàng Trong. Bản đồ vẽ rất rõ ràng, chúa Trịnh
khen ngợi và thưởng cho 2000 quan tiền.
Tháng 8 năm ấy, chúa Trịnh đưa thiền sư đến nhà công quán ở trấn Sơn Tây. Được tám
tháng chúa Trịnh lại đưa thiền sư về ngụ ở trấn Sơn Nam. Chúa ra lệnh cho trấn thủ Sơn
Nam xây cất am và trích ra ba mẫu đất công để thiền sư cư trú và tu hành. Lúc đó thiền sư
đã 56 tuổi (1683). Ở đây thiền sư chuyên tâm vào việc dịch kinh ra chữ Nôm được 30
quyển, cho khắc bản in và ấn hành. Năm 1700, thiền sư sang hành đạo ở chùa Nguyệt
Đường gần thị trấn Phố Hiến. Lúc đó thiền sư có 70 đệ tử, tất cả đều tinh thông kinh luật.
Thiền sư cho trùng tu lại chùa Nguyệt Đường rộng lớn tráng lệ hơn nhiều và thành một
trung tâm quan trọng phục hưng lại thiền phái Trúc Lâm cho đến ngày nay.
Thiền sư Nguyên Thiều
Thiền sư Nguyên Thiều họ Tạ, pháp tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hưng, tỉnh Quảng
Đông, xuất gia năm 10 tuổi, thọ giáo hoà thượng Khoáng Viên tại chùa Bảo Tư.
Năm 1665, sư theo thuyền buôn sang Đại Việt. Lúc đầu ngài cư trú tại phủ Quy Ninh (tức
Bình Định bây giờ), sau lập chùa Thập Tháp Di-Đà8
ở làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn,
tại cạnh góc Đông Bắc thành Đồ Bàn. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì chùa này lập năm
8
Theo truyền thuyết thì trong việc xây cất, chùa đã dùng đến gạch ở mười cây tháp Chàm đổ nát tại khu vực
chùa, nên gọi là chùa Thập Tháp.
Chùa Thập Tháp
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 18
1683, nhưng có lẽ đó là năm hoàn tất công cuộc xây cất. Năm 1691, chúa Nguyễn Phúc
Chu ban cho chùa biển ngạch và câu đối.
Kiến trúc chùa Thập Tháp như ngày nay được thấy chứng tỏ công cuộc xây cất quy mô và
lớn lao. Chánh điện là một nhà bình đồ vuông, kiểu ba gian, hai chái giản dị, nhưng cột kèo
vách đố, cánh cửa chấn song đều to mập, dầy dặn; cột thì lớn trên ôm những đòn tay to tròn
bằng những cột nhà dân gian. Những kèo, chính, quyết đều bằng gỗ sao và chạm chữ Phạn.
Hai lớp sân đằng sau có những toà nhà quây bọc thành những ô chữ Khẩu, ghép cả hai lại
thành chữ Nhật. Những toà nhà này đều làm kiểu giản dị nhưng bền chắc.
Sư Nguyên Thiều sau ra Thuận Hoá9
lập chùa Hà Trung thuộc huyện Phú Lộc, rồi lên Xuân
Kinh (Huế), lập chùa Vĩnh Ân (nay là Quốc Ân) và xây tháp Phổ Đồng ở ấp Phước Quả,
quận Hương Thuỷ, gần núi Ngự Bình. Chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng đến thời Tây Sơn
bị tàn phá. Đến thời Minh Mạng chùa được cất dựng lại như ngày nay.
Chùa Quốc Ân làm kiểu chữ Khẩu tương tự như chùa Thập Tháp nhưng chỉ có một lớp sân
sau, nghĩa là ngắn hơn, nhưng chánh điện làm mái trùng thiềm (hai tầng mái) và trong sân
sau xây bể cạn với non bộ lớn. Tháp Phổ Đồng ở sân trước nay không còn dấu tích gì.
Theo sách Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì chúa Nguyễn Phúc Trăn10
có nhờ thiền sư
Nguyên Thiều sang Trung Hoa mời các danh tăng và thỉnh kinh điển, pháp tượng, pháp khí.
Theo Thích Mật Thể trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược thì sau khi ở Trung Hoa về, thiền
sư Nguyên Thiều được chúa Nguyễn Phúc Trăn uỷ cho tổ chức giới đàn lớn tại chùa Thiên
Mụ. Vào những năm chót, thiền sư về trụ trì tại chùa Hà Trung, tọa lạc tại xã Hà Trung,
huyện Phú Lộc, nơi mà khi trở lại sau chuyến sang Trung Hoa, thiền sư đã thỉnh được một
pho tượng lớn bằng đá trắng: Bạch Y Quán Âm, đem về thờ tại đây.
Thạch Liêm thiền sư đã tả cảnh chùa như sau:
‘Đoái nhìn chùa son, điện ngọc, lấp lánh trong bờ biển, rừng tùng.
Nước mây man mác, chập chùng bóng dương, phảng phất chốn Bồng Lai, Lãng Uyển’
Thiền sư có kèm ba bài thơ, mà ở đây chỉ trích có bài thứ nhất như sau:
Lục liễu thuỳ thùy ẩn Phạm cung,
Chung thanh chiêu đệ mãn hà phong.
Trúc ly thảo kính phù lam yểm;
Thạch hác hà lầu đáo ảnh không
Hầu thực hồng ngư suy thủy thượng,
Đề yên thuý điểu lạc hoa trung.
Vương gia từ miếu âm sung xứ;
Hướng hữu linh quang tạ Hải Đông.
Liễu biếc xanh rờn che thiền quán.
Chuông chùa thanh thoát cợt gió hồng .
Rào tre, đường cỏ, tràn hơi núi.
Hang đá, lầu ngọc, lấp lánh soi.
Cá hồng săn mồi, rung rinh nước.
Chim xanh vui hót, lạc vườn hoa.
Đền miếu Hoàng gia, sao u tịch.
Soi bóng linh thiêng tới Biển Đông.
9
Theo sự tích chùa Long Thiền, một tổ đình sơn tại Nam Việt của Yết Ma thiền niệm thì thiền sư Nguyên
Thiều có thừa kế thiền sư Bổn Kiều trụ trì chùa Long Thiền ở Biên Hòa trước khi được triệu về Huế.
10
Theo các bài trên Wilkipedia “Chúa Nguyễn” và “Vua Việt Nam” đọc tháng 2 năm 2013, thì không có
chúa Nguyễn Phúc Trăn mà chỉ có chúa Nguyễn Phúc Thái vào khoảng thời gian này.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 19
Thiền sư Nguyên Thiều được coi là vị tổ đầu tiên truyền phái Lâm Tế ở Đàng Trong.
Những tăng sĩ vừa Hoa vừa Việt cư trú tại chùa Thập Tháp và chùa Quốc Ân được thiền sư
coi như đệ tử gồm có: Minh-Vật Nhất-Tri, Minh-Giác Kỳ-Phương, Minh-Trí-Nguyệt Hạnh,
Minh-Dung Pháp-Thông, Minh-Lương Nguyệt-An, Thành-Đẳng Minh-Yêu, và Thành
Thiên Pháp Thông.
Tháng 12 năm 1988, người ta đã tìm thấy tháp của thiền sư Siêu-Bạch-Nguyên Thiều ở
chùa Kim Cang tỉnh Đồng Nai. Điều này cho thấy là tổ sư Nguyên Thiều có thể là đã viên
tịch ở chùa Kim Cang tỉnh Đồng Nai chứ không phải ở chùa Hà Trung. Ngoài ra bia ‘Sắc
tứ Hà Trung tự Hoán Bích (Nguyên Thiều) thiền sư tháp ký minh’ cho biết là tổ sư Nguyên
Thiều viên tịch vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728) và vị chúa ban bài minh tán
thán công đức tổ sư Nguyên Thiều là chúa Nguyễn Phúc Chú.
Thiền sư Nguyên Thiều bị đẩy ra khỏi chùa Hà Trung vì năm 1692 có người Hoa kiều nổi
loạn ở Bình Thuận rồi năm 1694-1695 có chính biến và nổi loạn do những người mà thiền
sư có liên can. Thiền sư đã rời chùa Hà Trung khoảng năm 1692-1694 vào ẩn tránh ở miền
đất mới tại chùa Kim Cang ở Đồng Nai và hoằng hoá ở vùng này cho tới khi viên tịch.
Năm 1694 có cuộc âm mưu nổi loạn của hai người cháu của chúa Nguyễn Phúc Chu là
chưởng cơ Nguyễn Phước Huệ và chưởng cơ Nguyễn Phước Thông. Bị tố giác, hai người
này và đồng bọn bị chúa giết. Trong khi đó, một Hoa kiều ở phủ Quy Ninh (Quy Nhơn) tên
là Linh ở Quảng Ngãi nổi loạn. Linh xưng là Linh Vương, họp đồ đảng, đúc binh khí, đóng
thuyền, đem quân đánh phá nhiều vùng ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Có thể có sự kết hợp
giữa Linh Vương, Quảng Phú với Nguyễn Phước Thông, Nguyễn Phước Huệ. Phải đến
năm 1695 Chúa Nguyễn mới dẹp xong. Quân chưa đến sơn trại thì Linh vương đã chết.
Quảng Phú trốn vào Phú Yên bị dân bắt đem nộp.
Quảng Phú là Hoa kiều sống ở Quy Nhơn, chắc là đệ tử của tổ sư Nguyễn Thiều, khai sơn
chùa Thập Tháp. Thông và Huệ có lẽ cũng đã quy y thọ giới với tổ sư Nguyên Thiều. Vì
vậy, ngay từ năm 1694, sau khi âm mưu nổi loạn bị đổ bể, tổ sư Nguyên Thiều cùng các đệ
tử trong thiền phái Lâm Tế như Minh Hải-Pháp Bảo bị liên lụy, phải bỏ chùa trốn đi nơi
khác, đổi pháp danh để lánh nạn. Tổ Nguyên Thiều vào Đồng Nai với pháp danh là Siêu
Bạch, lập chùa Kim Cang ở Bình Thảo (Bến Cỏ, Đồng Nai).
Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch năm 1728, thọ 81 tuổi. Đệ tử và đồ chúng lập tháp Hoà
Môn để chôn hài cốt tại xóm Thuận Hoà, làng Dương Xuân Thượng, tỉnh Thừa Thiên.
Chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho thuỵ hiệu là Hạnh Đoan thiền sư và lập bia đá dựng năm
1735 ở chùa Quốc Ân do chúa làm bài minh, ca tụng đạo đức thiền sư như sau:
Ưu ưu bát nhã
Đường đường Phạm thất
Thuỷ nguyệt ưu du
Giới trì chiến lật
Trạm tịch cô kiên
Trác lập khả tất
Quán thân bổn không
Hoằng pháp lợi vật
Dịch:
Trí tuệ tuyệt vời,
Oai nghiêm nhà Phật,
Trăng nước nhàn du,
Giữ giới nghiêm ngặt,
Lặng lẽ, kiên cường,
Cao xa tột cùng,
Biết thân huyễn hoặc,
Truyền đạo hóa đời,
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 20
Biến phú từ vân
Phổ chiếu tuệ nhật
Chiêm chi, chiêm chi
Thái sơn ngật ngật
Mây từ phủ dụ,
Trời tuệ chan hoà,
Nhìn xem, nhìn xem,
Thái Sơn chót vót.
Trước khi viên tịch, thiền sư có để lại câu kệ sau đây:
Tịch tịch kỉnh vô ảnh
Minh minh châu bất dung
Đường đường vật phi vật
Liêu liêu không vật không
Yên lặng, gương chẳng soi hình.
Sáng trong, ngọc không giữ ảnh.
Rành rành, vật không phải vật.
Vắng vẻ, không chẳng phải không
Thiền sư Tử Dung
Thiền sư pháp tự là Minh Hoằng đã khai sơn chùa Ấn Tôn tức là chùa Từ Đàm ngày nay, ở
núi Long Sơn, làng Bình An, huyện Hương Thuỷ. Thiền sư là người Quảng Đông, có lẽ
qua Đại Việt theo lời mời của thiền sư Nguyên Thiều. Chùa Ấn Tôn được ghi là tạo dựng
năm 1703 nhưng có lẽ thiền sư Tử Dung đã đến cư trú ở đây từ trước khi chùa tạo dựng
xong.
Thiền sư thuộc đời thứ 34 dòng Lâm Tế, trong số các đệ tử đắc pháp với sư có thiền sư Liễu
Quán là người được sư yêu mến nhất. Nhưng thiền sư Liễu Quán không thấy trụ trì ở chùa
Ấn Tôn sau khi thiền sư Tử Dung viên tịch mà lại khai sơn một tổ đình khác là chùa Thiền
Tôn. Những người kế tiếp thiền sư Tử Dung ở chùa Ấn Tôn là: Thát Vinh, Sát Ngữ, Đạo
Trung, Thanh Dũng....
Chùa Từ Đàm (trước gọi là chùa Ấn Tôn)
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 21
Thiền sư Từ Lâm11
Thiền sư là tổ khai sơn chùa Từ Lâm là ngôi chùa toạ lạc trên khu đồi xã Dương Xuân
Thượng, huyện Hương Thủy, Thuận Hoá. Có lẽ thiền sư đã sang Đại Việt năm 1697 nghĩa
là hai năm sau giới đàn của thiền sư Thạch Liêm. Thiền sư bấy giờ đã già, làm hoà thượng
đàn đầu cho giới đàn có thiền sư
Liễu Quán đến thọ giới, nên mọi
người đều tôn xưng là Lão hoà
thượng.
Thiền sư viên tịch vào năm nào
không rõ, mộ hiện còn ở chùa Từ
Lâm.
Thiền sư Giác Phong
Thiền sư tới Đại Việt và đã khai
sơn chùa Thiên Thọ tức là chùa
Báo Quốc ở núi Hàm Long (sau
nhà ga Huế hiện nay) năm 1670.
Phía Bắc chùa có giếng xưa sâu 4, 5 thước, đáy giếng có đá như hàm rồng, nước theo kẽ đá
phun ra có vị thanh ngọt nên có câu ngạn ngữ "nước giếng Hàm rồng đã trong lại ngọt".
Hồi đầu khai quốc, nước này được múc để vua dùng nên có tên là giếng Cấm.
Thiền sư Liễu Quán, khi còn là du tăng đã tới chùa Thiên Thọ và thụ giáo với thiền sư Giác
Phong vào những năm 1690-1691.
Thiền sư Pháp Bảo (1670-1746)
Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo là người Phúc Kiến, đã khai sơn chùa Chúc Thánh tại Hội An
(Quảng Nam) và được coi như tổ dòng thiền Lâm-Tế Chúc-Thánh. Tương truyền thiền sư
được thiền sư Nguyên Thiều mời từ Quảng Đông qua Đại Việt thời chúa Nguyễn Phúc
Thái12
(1687-1691). Sau khi tham dự giới đàn tại chùa Thiên Mụ, thiền sư vào Hội An dựng
chùa Chúc Thánh năm 1696.
Thiền sư Pháp Bảo có bài kệ truyền pháp như sau:
11
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, phủ Thừa Thiên thì tương truyền là thiền sư Chính Đản lập ra chùa Từ
Lâm, vậy có lẽ thiền sư Từ Lâm cũng là thiền sư Chính Đản.
12
Một số tài liệu cũ ghi là Nguyễn Phúc Trăn, nhưng các tài liệu mới trên Wilkipedia đọc tháng 2, 2013, ghi
là Nguyền Phúc Thái khẳng định rằng không có chúa Nguyễn Phúc Trăn (‘Chúa Nguyễn’ và ‘Vua Việt
Nam’).
Chùa Báo Quốc – Giếng Hàm Long
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 22
Minh thật pháp toàn chương
Ấn chân như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trường
Đắc chánh luật vi tiên
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung
Dịch:
Thấu đạo rốt ráo,
Tính Phật hiện ra .
Mừng quân vương ngàn tuổi.
Mong đất nước trường tồn.
Cầu đạo, giới luật trước.
Tổ đạo hạnh thông
Bồ đề nở hoa giác,
Phơi phới giữa bầu trời.
Quốc sư Hưng Liên
Quốc sư là người Trung Hoa, pháp danh Quả Hoằng, sang Đại Việt, khoảng đời chúa
Nguyễn Phúc Thái (1687-1691). Có lẽ thiền sư là người đầu tiên đem tông phái Tào Động
vào xứ Đàng Trong.
Sư được chúa Nguyễn Phúc Chu tôn làm quốc sư, trước khi thiền sư Thạch Liêm qua Đại
Việt. Thạch Liêm qua Đại Việt chắc là do sự giới thiệu của sư Hưng Liên với chúa Nguyễn
Phúc Thái và với chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725) vì sư nguyên là đệ tử của Thạch
Liêm.
Quốc sư Hưng Liên là người khai sơn chùa Tam Thai trên Ngũ Hành Sơn, huyện Diên
Phước, tỉnh Quảng Nam.
Thiền sư Pháp Hoá
Thiền sư sinh năm 1670, tục
danh là Lê Diệt, hiệu là Minh
Hải Phật Bảo, người Phúc
Kiến. Có lẽ thiền sư đã sang
Đại Việt hồi mới trên 20 tuổi,
cùng dịp thiền sư Nguyên
Thiều trở lại Đại Việt sau khi
sang Quảng Đông. Thiền sư
khởi dựng chùa Thiên Ấn trên
núi Thiên Ấn ở bên sông Thu
Bồn, Quảng Ngãi năm 1694,
và trụ trì ở đây suốt 60 năm
đến năm 1754 thì viên tịch.
Núi Thiên Ấn là quả núi hình vuông đầu bằng như chiếc ấn, nổi lên ở ngay bên bờ tả ngạn
sông Thu Bồn, phía Bắc tỉnh thành Quảng Ngãi. Chùa Thiên Ấn được chúa Nguyễn Phúc
Chu ban cho biển ngạch ‘Sắc Tứ Thiên Ấn Tự’ vào năm 1716.
Tục truyền rằng khi thiền sư Pháp Hoá khởi công đào giếng trên núi Thiên Ấn, có một vị
tăng trẻ đến xin phát nguyện công đức phụ lực với thiền sư. Sau ba năm, hai người đào
được 55 thước mộc (21m) bề sâu thì gặp một tảng đá lớn chắn ngang. Hai người không nản
Núi Thiên Ấn
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 23
lòng tiếp tục đục đá. Mấy tuần sau, nước từ giữa tảng đá vọt lên. Mọi người đều mừng rỡ
thì ngay sau đó vị tăng trẻ đi đâu mất. Về chuyện này dân chúng Quảng Ngãi truyền tụng
câu ca dao:
Ông thầy đào giếng trên non;
Đến khi có nước không còn tăm hơi.
Chùa Thiên Ấn còn nổi tiếng vì
cái "chuông thần". Chuyện
"chuông thần" xẩy ra năm 1845,
hồi vị tổ thứ 3 của chùa là Bảo
Ấn thiền sư trụ trì. Tục truyền
rằng: một hôm trong giờ thiền
định, thiền sư thấy một vị hộ
pháp tới mách rằng: tại làng Chú
Tượng (xã Đức Thọ, huyện Mộ
Đức, tỉnh Quảng Ngãi) có một
quả chuông lớn nên đến để thỉnh
về chùa. Thiền sư bèn nhờ một
vị tăng tên là Điền Toạ đến Chú
Tượng dò hỏi. Ở đây dân làng
cho biết là họ vừa đúc xong một
đại hồng chung cho chùa làng,
nhưng chuông không kêu nên
ban chức việc định phá ra đúc
lại. Sư Điền Tọa bèn mua lại đem về Thiên Ấn. Lúc sắp làm lễ khai chuông ở chùa Thiên
Ấn, ai cũng nghi ngại rằng chuông không kêu. Duy có thiền sư Bảo Ấn vẫn im lặng chú
nguyện. Chú nguyện xong, sư cầm dùi đánh chuông, thì chuông rất kêu. Chuông đến nay
vẫn được treo ở phía tả chánh điện chùa mới, xây khoảng năm 1959-61 vì chùa cổ bị hủy
hoại năm 1947.
Ông Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) có thơ vịnh núi, vịnh chùa và chuông như sau:
Phong cảnh ta đây thật rất xinh.
Niêm hà có ấn của trời sinh.
Xem kia dấu tích còn vuông vức,
Nhận lại non sông rõ dạng hình.
Cách thức như in đồ cổ tự.
Cỏ cây nào phụ tiếng chuông linh.
Châu sa đổ dưới chân chờ mãi.
Trấn chỉ sau lưng núi Cẩm Thành.
Sau một thời gian hoằng hoá ở chùa Thiên Ấn, thiền sư Pháp Hoá nổi danh, chúa Nguyễn
tôn sùng nên năm 1717, chúa Nguyễn Phúc Chu ban biểu ngạch cho chùa Thiên Ấn ‘Sắc Tứ
Thiên Ấn Tự’.
Thiền sư Minh Hải–Phật Bảo viên tịch ở chùa Thiên Ấn ngày 27 tháng giêng năm Giáp
Tuất (1754), đồ chúng lập tháp thờ trong chùa. Thiền sư có nhiều đệ tử nổi danh kế thế trụ
Chùa Thiên Ấn
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 24
trì ở chùa Thiên Ấn và hoằng hoá ở Phú Yên, ở chùa Non Nước (Quảng Nam) ở Thủ Dầu
Một và Gia Định.
Thiền sư Thạch Liêm
Thiền sư Thạch Liêm, hiệu là Đại Sán Hán Ông, người Giang Tây, Trung Hoa, sinh năm
1633, xuất gia hồi còn niên thiếu, ở chùa Thượng Lam, theo học thiền sư Giác Lãng tới năm
16 tuổi. Sau sư làm giảng sư chùa Trường Thọ ở Quảng Đông do thiền sư Thực Hành trụ
trì. Khi thiền sư này tịch, sư được thừa kế trụ trì ở chùa này. Thạch Liêm học vấn uyên
bác, các môn thiên văn, địa lý, lý số, bút thiếp (viết chữ), thủ công không thứ gì là không
tinh thông, lại sở trường cả thi phú. Với tài hội họa và kiến trúc, thiền sư đã biến chùa
Trường Thọ thành một chốn danh thắng ở miền Quảng Đông.
Thiền sư được chúa Nguyễn Phúc Thái hai lần mời sang Đại Việt nhưng chưa đi được, mãi
đến năm 1694 mới đi theo người của chúa Nguyễn Phúc Chu cử sang đón mời. Độ khoảng
100 người cùng đi với thiền sư mà phân nửa là tăng chúng. Đoàn người đi bằng hai chiếc
thuyền buôn có đem theo nhiều pháp khí, kinh tượng để tổ chức giới đàn. Thuyền tới đảo
Tiêm Bút La (Cù lao Chàm) vào cuối tháng giêng năm Ất Hợi (1695). Chúa Nguyễn Phúc
Chu cho thuyền ra đón rước về để cư trú tại chùa Thiền Lâm, Phú Xuân. Chúa sai 1000 thợ
cất dựng luôn trong ba ngày đêm mười căn phương trượng và lưu xá cho đoàn tăng khách
tạm trú.
Trong thời gian lưu trú tại Đại Việt, thiền sư Thạch Liêm đã thực hiện được việc tổ chức
giới đàn Thiền Lâm rất quan trọng từ mồng một đến ngày 12 tháng tư năm Ất Hợi (1695).
Giới đàn có tới trên 3000 người dự trong số đó có tới 1400 giới tu xuất gia, xa gần vừa tỳ
khưu, vừa sa di, có chúa quốc mẫu, vương huynh, công chúa quyến thuộc trong nội cung
cùng một số các quan chức nhận lễ trao bồ tát giới. Trong giới đàn này, giới điệp cấp phát
cho giới tử đều có đóng kèm ấn của phủ chúa.
Giới đàn này có tầm quan trọng rất lớn vì được tổ chức cho tất cả xứ Đàng Trong. Các tỉnh
đều có giới tử về thọ giới. Thiền sư Liễu Quán cũng đã từ Phú Yên ra để thọ giới sa di ở
giới đàn này. Thiền phái Tào Động trước kia chỉ có ở Quảng Nam thì nay lan ra khắp nơi,
khắp xứ.
Tháng 7 cùng năm ấy, thiền sư Thạch Liêm lại tổ chức một giới đàn khác tại chùa Di Đà ở
Hội An và làm lễ thọ giới cho trên 500 người. Giới đàn ở đây được tổ chức đơn giản hơn
nhưng giới điệp cũng được đóng kèm ấn của chúa. Từ Hội An, thiền sư được chúa Nguyễn
Phúc Chu cho người đón ra ở chùa Thiên Mụ cho đến tháng 6 năm sau mới xuống thuyền
về Quảng Đông. Thiền sư trở lại Đại Việt năm 62 tuổi và mất năm 1704, thọ 71 tuổi.
Trong thời gian lưu trú ở Phú Xuân thiền sư thường được vời vào cung để đàm đạo với chúa
Nguyễn Phúc Chu và lập chùa Khánh Vân ở gần chùa Thiên Mụ, và theo tương truyền còn
lập chùa Thiền Lâm ở xã An Cựu.
Thiền sư Thạch Liêm và thiền sư Nguyên Thiều là hai người có công sức lớn nhất trong số
những thiền sư Trung Hoa đã đem văn hoá Trung Hoa sang truyền bá cho xứ Đàng Trong
nước ta về thời các chúa Nguyễn mở nước.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 25
Hoà thượng Liễu Quán (1667-1742) - Môn phái Liễu Quán
Hoà thượng sinh năm 1667, người làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (sông
Cầu bây giờ). Nhà nghèo, mồ côi mẹ từ năm mới sáu tuổi. Năm 12 tuổi, sư theo cha đến
chùa Hội Tôn, gặp Tế Viên hoà thượng, bèn xin ở lại theo học. Được bẩy năm thì hoà
thượng tịch, sư ra Thuận Hoá tìm học với Giác Phong lão tổ ở chùa Thiên Thọ (sau đổi là
Báo Quốc). Được một năm, đến năm 1691, sư phải về phụng dưỡng cha già, lấy nghề đốn
củi rừng làm kế độ nhật cho hai cha con.
Bốn năm sau, thân phụ từ trần, lo liệu ma chay cho cha xong, năm 1695 sư lại trở ra Thuận
Hoá thọ giới sa di với Thạch Liêm hoà thượng tại chùa Thiền Lâm. Hai năm sau, sư lại thọ
cụ túc giới với Từ Lâm lão hoà thượng. Từ năm Kỷ mão (1699), sư lại lên đường cầu học
tham lễ khắp các chốn tổ đình, trải qua nhiều khó khăn. Năm 1702, sư đến chùa Ấn Tôn ở
Long sơn (Thuận Hoá) gặp được Tử Dung hoà thượng.
Hoà thượng dậy sư tham khảo về công án: ‘Muôn phép về một, một về chỗ nào?’. Sư lui về
Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến năm năm mà chưa phá vỡ được ý nghĩa công án ấy. Một
hôm đọc sách Truyền Đăng Lục đến câu ‘Trỏ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta
không hiểu’ (chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ) thoát nhiên sư ngộ hiểu. Nhưng đến đầu
năm 1708 sư mới trở ra Long Sơn trình bầy công án với Tử Dung hoà thượng, được hoà
thượng rất khen ngợi.
Mùa hè 1712, hai người gặp lại nhau lần thứ ba tại đại lễ Toàn Viện ở Quảng Nam. Thiền
sư bấy giờ có nhiều đạo tràng hành đạo là những chùa Thiền Tông, Viên Thông ở Thuận
Hoá, chùa Hội Tông, Cổ Lâm và Bảo Tịnh ở Phú Yên.
Chùa Thiền Tông (cũng gọi là Thuyền Tông, tên chữ Hán là Thiên Thai Thuyền Tông Tự)
có lẽ được thiền sư Liễu Quán khởi tạo năm 1708 ở chân núi Thiên Thai, ngó xuống nơi gò
bằng phẳng, cảnh trí đẹp đẽ.
Thiền sư ở chùa Thiền Tông
đến năm 1742. Năm năm sau
khi thiền sư viên tịch, chùa
được chúa Nguyễn Phúc
Khoát sắc tứ cho biển ngạch,
và quả chuông lớn của chùa
ngày nay cũng được đúc vào
năm đó.
Chùa Viên Thông được thiền
sư tạo lập ở chân núi Ngự
Bình. Chúa Nguyễn Phúc
Khoát rất kính mến đạo hạnh
của thiền sư nên thường đến
chùa Viên Thông để thăm và hỏi đạo. Vì vậy mà quả núi ở đó được gọi là núi Ngự.
Giới Phật tử bấy giờ cũng rất ngưỡng mộ thiền sư nên trong ba năm từ 1733 đến 1735, thiền
sư Liễu Quán được thỉnh cầu chủ tọa bốn giới đàn lớn tổ chức tại Phú Xuân, có các cao
Chùa Viên Thông
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 26
tăng, tể quan và cư sĩ tới tham dự. Đến năm 1740, thiền sư lại chủ tọa giới đàn Long Hoa
và năm 1742, tuy đã 72 tuổi, thiền sư vẫn làm hoà thượng đàn đầu của giới đàn tổ chức tại
chùa Viên Thông. Có đến gần 4000 người kể cả xuất gia lẫn tại gia thọ giáo với thiền sư.
Mùa thu năm ấy thiền sư an trú tại chùa Viên Thông, sáng ngày 21 tháng 11 âm lịch, thiền
sư cho gọi thị giả đem giấy bút tới để viết bài kệ sau đây:
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông.
Kim triệu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn mang vấn tổ tông?
Dịch:
Hơn bẩy mươi năm giữa cõi trần.
Có không, không có, cũng hòa thông.
Trở lại quê nhà sau nguyện mãn.
Còn có gì đâu hỏi tổ tông?
Viết xong bài kệ, thiền sư ngồi dùng trà. Đại chúng làm lễ. Thầy trò trò truyện hồi lâu, đến
giờ Mùi thiền sư nhắn lại mọi người: ‘Sau khi tôi đi các vị phải nghĩ đến sự vô thường
nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn của tôi’. Nói xong
thiền sư nhắm mắt mà tịch trong thế kiết già.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc dựng tháp, lập bia ở chùa Thiền Tông, núi Thiên Thai và ban
thụy hiệu là ‘Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hoà Thượng’.
Thiền sư Liễu Quán là đời thứ 35 dòng Lâm Tế, kể từ gốc Trung Hoa. Ngày nay, Phật giáo
ở Trung và Nam phần lớn là thuộc dòng Lâm Tế mà thiền sư là người có công hoằng hóa
hơn cả và đã tạo ra một nhánh lớn gọi là môn phái Liễu Quán. Lúc trước Phật giáo Đàng
Trong mang nặng mầu sắc Quảng Đông. Thiền sư đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế thành một
Chùa Thiền Tông
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 27
thiền phái thích hợp với đa số Phật tử Đàng Trong hơn, và đã ảnh hưởng nhiều đến Phật
giáo miền Nam ngày nay.
Chi phái Liễu Quán phát xuất từ một bài kệ truyền phái riêng cho chi phái Thiên Thai thiền
tông tức chi phái thiền Liễu Quán thuộc thiền phái Lâm Tế chính tông. Bài kệ như sau:
Thât tế đại đạo
Tánh hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận
Ðức bổn từ phong
Giới định phúc tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Mật khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn sướng chính tông
Hạnh giải tương ứng
Ðạt ngộ chân không
Dịch:
Đạo lớn thực sự.
Tính như biển trong.
Tâm nguồn chan chứa
Đức như gió từ.
Giới làm phúc tuệ.
Trong ngoài hợp nhất.
Trí tuệ mênh mông.
Yên lặng thành công.
Giữ truyền đạo cả.
Xiển dương chính pháp.
Nết, ý song song.
Chân lý hiểu được
Các thiền sư thuộc chi phái Liễu Quán hoằng hoá ở đô thành Phú Xuân và các tỉnh miền
Trung (từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên đến Khánh Hoà, Bình Thuận).
Trong khi đó, ở vùng đất mới Đồng Nai-Gia Định, thiền phái Lâm Tế do tổ sư Nguyên
Thiều truyền bá được phát triển rộng khắp nơi. Đến cuối đời các chúa Nguyễn, chi phái
Liễu Quán từ miền Trung mới truyền vào vùng Đồng Nai - Gia Định, được gọi là Tế
Thương chánh tông để phân biệt với thiền phái Lâm Tế do sự truyền thừa trực tiếp của tổ
Nguyên Thiều kể trên.
Trung Đình Hòa Thượng
Thời các chúa Nguyễn còn một số cao tăng nữa nhưng nay ít được biết đến, hoặc giả vì các
vị sống ẩn dật quá nên ít người được rõ tung tích như trường hợp của Trung Đình hoà
thượng. Không rõ tên và là người ở đâu? Người ta thấy sư thường trú ngụ trong những
ngôi đình, nên gọi tên như thế. Sư thường đi khất thực, đeo ba cái bị: một cái để nếu ai cho
cá thịt thì cũng bỏ vào đấy, rồi đem cho kẻ ăn xin khác; một cái đựng món ăn chay để sư
dùng; còn một cái lớn thì để lót chỗ ngồi. Ban đêm, sư ngồi trì tụng, ban ngày đi lang
thang, áo quần gần như chẳng có, chỉ đóng một cái khố, thân hình lam lũ, tóc râu bù xù. Trẻ
con trông thấy sợ hãi, vì vậy có thành ngữ ‘ông ba bị chín quai’ để dọa nạt trẻ con thời ấy.
Khi đắc đạo rồi, sư xin lập một hoả đàn ở chùa Thiên Mụ. Thiên hạ được tin kéo đến xem,
xin sư lưu lại cho một chút di thể, thì sư đưa một ngón tay lên. Lửa bốc lên theo gió làm
lệch cái mũ Quan Âm trên đầu do chúa Nguyễn ban cho. Sư lấy tay sửa lại, miệng không
ngừng tụng kinh. Người đến xem đông, giành nhau lấy trầm hương liệng vào hoả đàn. Khi
hoả thiêu xong, người ta nhận thấy còn một ngón tay không cháy. Tăng chúng và Phật tử
bèn lượm tro cốt đem xây tháp thờ ở bên chùa Thiên Mụ. Khi ấy là thời chúa Nguyễn Phúc
Thuần (1765-1777).
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 28
Pháp Vân hoà thượng cảm kích có làm bài thơ:
Kỷ niên y bát ký phong trần,
Đốn ngộ huyền cơ nguyện hoá thân.
Mộng huyễn hình hài tùng liệt diệm,
Sắc không tâm sự phó yên vân.
Thần thê tây độ niên niên tại,
Danh bá thiền môn nhật nhật tân.
Kim cổ nhàn khán đàm tiếu lý,
Bất tri như thử hựu hà phân?
Dịch:
Bấy lâu tu hành nơi cõi thế.
Biết thời cơ đến, phải ra đi.
Thân mộng ảo tan theo lửa dữ.
Chuyện có không trao lại khói mây.
Thân linh diệu nương nhờ đất Phật.
Danh thơm kia lưu dấu cửa thiền
Xưa nay thử gẫm mà xem.
Biết được bao người như thế đó ?
Đại lão thiền sư Tịnh Giác -Thiện Trì (Mộc Y Sơn Ông)
Năm 1702 thời chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1675-1725), ‘Ông Núi (Sơn Ông)’ đến núi
Bà, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định ở hang núi lập hang tĩnh mà tu hành, đặt tên là chùa
Dũng Tuyền. Núi Bà ở trên bờ đầm Thị Nại cách thành Đồ Bàn 30 dặm về phía Đông Bắc.
Tương truyền hàng ngày ông Núi mặc áo vỏ cây vào rừng núi hái củi, bó thành bó lớn vác
xuống núi, đặt ở ngã ba đường. Dân địa phương đem gạo, muối, rau đậu đổi lấy, sư không
bận tâm nhiều ít hơn thiệt. Vùng này có nhiều cọp beo và thú dữ, nhưng chúng trở nên hiền
hoà với ông Núi.
Năm 1733, chúa Nguyễn Phúc Chú (trị vì 1725-1738) nghe danh tiếng tài đức ông Núi, bèn
ban pháp hiệu ông là ‘Tịnh Giác - Thiện Trì đại lão thiền sư’ và ra lệnh cho quan địa
phương (Bình Định) xây dựng lại chùa Dũng Tuyền cao rộng, lớn ra và đổi tên là ‘Linh
Phong thiền tự’.
Năm 1741 chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) triệu Sơn Ông về cung để
tham vấn và học hỏi Phật pháp. Sơn Ông về Phú Xuân một tháng rồi trở lại núi. Chúa ban
cho Sơn Ông chiếc áo cà sa có móc vàng và vòng ngọc.
Vào cuối thời chúa Vũ Vương, quốc phó Trương Phúc Loan lộng quyền, lũng đoạn triều
đình chúa Nguyễn ở Phú Xuân, thì theo truyền thuyết dân gian, Ông Núi bỏ chùa Linh
Phong đi đâu mất tích, đệ tử chùa xây tháp để kỷ niệm. Ông Núi có lẽ đã viên tịch vào năm
1785, thời Tây Sơn (1771-1801).
Ông Núi, tức thiền sư Tịnh Giác-Thiện Trì, có viết Pháp Hoa kinh chú giải 200 quyển và
sáng tác một số văn thơ. Sau đó, người ta có viết sách ‘Ngọc Thanh đồ chương’ gồm 7
chương kể chuyện về Sơn Ông.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 29
4 Hoằng Hoá Của Các Thiền Sư Ở Đồng Nai - Gia Định
4.1 Một số thiền sư được biết
Khi các chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi vào khoảng thế kỷ 17 và 18 thì có một số cao tăng
theo làn sóng di cư vào hoằng hoá vùng đất mới.
Vào đầu thế kỷ 17, người Việt và sau đó có một số người Trung Hoa không thần phục nhà
Thanh bỏ Trung Quốc qua Đàng Trong và Đồng Nai khai phá rừng núi và làm ăn buôn bán
ở Đồng Nai - Gia Định. Trong số di dân Việt, Hoa có một số tăng sĩ đi theo vì lòng từ bi,
muốn gần gũi, an ủi, giúp đỡ tinh thần và lễ nghi tôn giáo cho những người tha hương, lập
nghiệp trên vùng đất xa lạ, quê người. Nay không rõ những tăng sĩ đến đầu tiên mà chỉ biết
sơ qua về hoà thượng Chuyết Công, và một số đệ tử như thiền sư Minh Hành có lẽ đã hoằng
hoá ở vùng Đồng Nai - Gia Định vào năm 1630. Sư Minh Hành ở đó một thời gian rồi năm
1633 ra Đàng Ngoài, và ở đó cho đến khi viên tịch năm 1644. Năm 1679, nhóm dân quân
Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Tổng Binh Trần Thượng Xuyên đến định cư ở Cù Lao
Châu, sau mở rộng thành đại phố Đồng Nai (Cù Lao Phố ngày nay). Nhóm của tổng binh
Dương Ngạn Địch thì đến định cư và mở mang đất Mỹ Tho, trong số này có một số tăng sĩ
Trung Hoa.
Ở Đông Phố (Gia Định) có Đạt Bổn thiền sư từ Quy Nhơn vào lập chùa Thiên Trường năm
1755. Chùa được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban tặng biển ngạch ‘Phổ Quang Thiền Sơn
Tự’. Sau khi Đạt Bổn thiền sư viên tịch thì Quang Triệt thiền sư lên kế vị. Tới năm 1775,
vào lúc thời cuộc rối loạn, có Hoà Nghĩa đạo lý tướng quân suy tôn đông cung Nguyễn
Phúc Duyên lên kế vị chúa Nguyễn để chống lại nhà Tây Sơn, đã cử hành lễ suy tôn tại chùa
này. Vì vậy sau đó chùa được ban sắc tứ đổi tên là ‘Kim Chương Tự’.
Cũng tại Gia Định trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765) một ngôi chùa
khác được thành lập là chùa Tập Phước. Vị khai sơn chùa Tập Phước chưa rõ là ai. Có lẽ
là một vị thiền sư đời thứ 36 dòng Lâm Tế.
Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận thì Trịnh Hoài Đức có làm bài thơ
tặng một thiền sư tên là Viên Quang tại chùa Tập Phước, nhưng theo sách Đại Nam Liệt
Truyện Tiền Biên thì thiền sư Viên Quang thuộc đời thứ 36 dòng Lâm Tế tu tại chùa Giác
Lâm cũng ở Gia Định. Vậy có thể rằng thiền sư Viên Quang đã lập chùa Tập Phước rồi
giao lại cho đệ tử trông nom để về trụ trì tại chùa Giác Lâm.
Cũng có thể là thiền sư Mật Hoằng đã khai sơn chùa Tập Phước và đã mời Viên Quang là
sư huynh đến cùng cư trú. Sau khi Mật Hoằng được triệu về kinh (Phú Xuân) trụ trì chùa
Quốc Ân thì sư Viên Quang cũng rời về trụ trì chùa Giác Lâm. Hai thiền sư này đều là đệ
tử của thiền sư Linh Nhạc thuộc thiền phái Nguyên Thiều, gốc ở tổ đình Thập Tháp.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 30
Một tài liệu13
khác ghi là sư Toàn Tánh-Chánh Đắc (đời thứ 36 Lâm Tế) từ Quảng Nam vào
đã khai sơn chùa dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Ngoài Gia Định, các nơi khác như Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh đến tận Hà Tiên cũng
được các vị thiền sư đến hoằng hoá. Ở Tây Ninh có thiền sư Thiện Hiếu, húy Đạo Trung
(được tôn gọi là Tổ Đỉa) khai sơn chùa Linh Sơn trên núi Bà Đen năm 1763. Sư Đạo Trung
thuộc đời thứ tư của môn phái Liễu Quán, là đệ tử của thiền sư Đại Cơ. Sư Đại Cơ là đệ tử
của Tế Giác và Tế Giác là đệ tử trực tiếp của Liễu Quán. Sư Đạo Trung trụ trì tại chùa Linh
Sơn 30 năm rồi trao sơn môn này cho đệ tử là Tánh Thiện để về khai sơn chùa Long Hưng ở
Thủ Dầu Một năm 1794.
Ở Hà Tiên thì có thiền sư Hoàng Long. Thiền sư người Quy Nhơn, vân du đến Hà Tiên,
thấy núi Bạch Tháp ở phía Bắc đỉnh Vân Sơn, hình thế quanh co, cỏ cây xanh tốt, bèn dừng
chân lại mà hoằng hoá nơi đây. Thiền sư viên tịch năm 1757. Đệ tử làm lễ hoả thiêu và lập
tháp 7 tầng để thờ xá lợi thiền sư.
4.2 Tổ đình Long Thiền và các vị danh tăng
Tổ đình Long Thiền ở Biên Hoà thuộc về tông Lâm Tế, bắt đầu từ tổ đời thứ 31 đạo hiệu là
Mộc Trần Đạo Mân. Tổ biệt tác một bài kệ truyền phái như sau:
Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên,
Minh như hồng nhật lệ trung thiên,
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ,
Chiếu thế chân đăng vạn cổ huyền.
Mỗi đời truyền xuống một chữ. Thí dụ như tổ biệt xuất bài kệ, thuộc đời thứ 31, lấy chữ
đầu là Đạo: Đạo Mân, thì tổ đời thứ 32 lấy chữ đầu là Bổn, thành đạo hiệu Bổn Kiểu.
Năm 1638 đời chúa Nguyễn Phúc Lan (trị vì 1635-1648), thiền sư Bổn Kiểu lên đường từ
miền Trung vào Nam hoằng đạo. Năm 1664, sư khai sơn chùa Long Thiền. Từ đó Phật tử
đến sùng bái, quy nguyên đông đảo; đạo pháp hưng thịnh.
Sau thiền sư trở về nguyên quán, người được giáng trạch kế nghiệp là đại sư Nguyên Thiều
đời thứ 33 dòng Lâm Tế. Đại sư giới hạnh trang nghiêm, danh đức vang lừng, nên được
triều đình ra lệnh thỉnh triệu về kinh (Phú Xuân).
Hai vị đệ tử đức hạnh đầy đủ của thiền sư Nguyên Thiều là Thành Nhạc và Thành Đẳng.
Thành Nhạc kế nghiệp tổ ở Long Thiền tự, còn Thành Đẳng thì khai sơn chùa Đại Giác năm
1665.
Đương thời thiền sư Thành Nhạc trụ trì chùa Long Thiền thì thiền tông phát triển, đạo mạch
hưng long, được các nơi quy ngưỡng. Thiền sư viên tịch năm 1778. Sư Phật Chiếu thừa kế
trụ trì. Cũng trong tông phong vào hàng huynh đệ với sư Phật Chiếu có sư Phật Ý đi hoá
đạo đến khai sơn chùa Từ Ân (ở Chợ Lớn). Hai vị này đứng vào hàng thứ 35 tông Lâm Tế.
13
Wikipedia tiếng Việt – chùa Tập Phước xem tháng 2, 2013
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 31
Sư Phật Chiếu truyền cho sư Tổ Kim kế vị. Đây là đời thứ 36 Lâm Tế. Hoà thượng Tổ
Kim trụ trì chùa Long Thiền đã làm cho đạo mạch mở mang, tông phong cực thịnh, chùa
nghiễm nhiên trở thành tổ đình sơn môn Nam Việt. Ngài chuyên về thiền học, thường nhắc
nhở đại chúng nhớ đến đường sinh tử là hơn, và khuyến khích tăng chúng phải tinh tấn
trong sự tu tập để cầu quả chứng mới khỏi phụ chí hướng của người xuất gia học đạo.
Một ngày nọ, hoà thượng chống gậy băng rừng lên núi Châu Thới (bấy giờ còn hoang vu).
Đến phía lưng núi ngài hướng về chùa Long Thiền, ngồi kiết già, tay bắt ấn tam muội, tham
thiền nhập định mà quy tịch. Phật tử cùng tăng chúng bèn họp nhau lại làm lễ trà tỳ (thiêu
xác) rồi thỉnh tro để vào bình bát, cung nghinh về chùa Long Thiền làm lễ nhập tháp. Tại
chỗ, hoà thượng thị tịch thì xây đá kỷ niệm, mỗi năm tới ngày kỵ, chư tăng chùa Long
Thiền lên núi Châu Thới làm lễ ở chỗ kỷ niệm rồi mới về làm lễ cúng kỵ ở chùa.
Đồng thời với Tổ Kim hoà thượng có vị đại sư huynh đệ cùng thuộc đời thứ 35 là sư Tổ Ấn
tức Mật Hoàng, là người đã trụ trì chùa Đại Giác ở Cù Lao Phố (Biên Hoà).
Người kế vị trụ trì chùa Long Thiền là sư Tiên Đức tự Tịnh Tạng cũng là bực tài danh,
người khắp nơi đến quy học, thực là một thời kỳ cực thịnh của tổ đình Long Thiền. Hoà
thượng Tiên Đức viên tịch năm 1830 ở vào hàng tổ thứ 37 Lâm Tế.
Chùa Long Thiền tới năm 1887 thì truyền đến đại sư Kiểu Oai. Đời hành đạo của đại sư có
nhiều điều huyền diệu làm cho thập phương thiện tín đua nhau đến quy sùng.
Chùa Long Thiền
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 32
1. Đại sư tu hành đặc biệt là không dùng dùng cơm, chỉ ăn rau, đậu, khoai và trái cây.
2. Mỗi ngày thọ trai một bữa vào giữa giờ Ngọ mà vẫn sức lực khỏe khoắn nên được
mệnh danh là thầy Tuyệt Cốc.
3. Đại sư còn có biệt tài trị bệnh: bách bệnh bách trúng, bất kỳ bệnh gì đại sư cũng chữa
khỏi, vì vậy thuở ấy, nhân gian ca tụng ngài là đức Phật sống chùa Long Thiền.
Đến khoảng năm 1917 vào ngày rằm tháng giêng, đại sư nói với làng xóm bổn đạo: ‘Ngày
giờ chầu Phật đã đến’. Khi đó có người tin, người nghi. Gần đến giờ cúng Ngọ, đại sư bảo
lên hương đèn và đánh ba hồi chuông Bát Nhã đặng đại sư đi. Sau ba hồi chuông Bát Nhã,
đại sư ngồi kiết già mà viên tịch.
Đám táng đại sư rất lớn, phải hoãn lại 21 ngày để cho đệ tử bốn phương về thọ phục. Trong
suốt 21 ngày, chùa không ngớt khách, nhất là ngày nhập tháp, lễ cử hành rất trọng thể,
chứng tỏ uy tín của đại sư Kiểu Oai thật là rất lớn. (Theo sự tích chùa Long Thiền, tổ đình
sơn môn Nam Việt của Yết Ma Thiện Niệm).
4.3 Các chùa khác được các thiền sư miền Trung khai sơn
4.3.1 Thời các chúa Nguyễn
Khoảng năm 1692-1695, sau cuộc nổi loạn của nhóm A Ban, tổ sư Nguyên Thiều và một số
đệ tử phải bỏ trốn vào Đồng Nai. Tổ sư lập chùa Kim Cang ở Bình Thảo, thiền sư Thành
Đẳng trụ trì chùa Đại Giác ở Đại Phố, Đồng Nai. Một số thiền sư khác trốn vào rừng núi ở
Quảng Ngãi, Khánh Hoà. Tổ sư Nguyên Thiều và một số đệ tử vào Đồng Nai đã làm cho
Phật giáo phát triển ở miền này và Gia Định, lan rộng đến Mỹ Tho, Định Tường, và Châu
Đốc.
Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765) chính thức xưng vương (Vũ
Vương) đã phát động phong trào di dân từ miền Trung vào Đồng Nai - Gia Định làm tăng
dân số ở đây và do đó Phật giáo ở đây cũng phát triển thêm. Những chùa sau đây được các
sư miền Trung vào khai sơn,
ở Sài Gòn:
 Chùa Từ Ân năm 1744 và chùa Khải Tường ở xã Tân Lộc do Thiền sư Phật Ý Linh
Nhạc.
 Chùa Giác Lâm năm 1744 ở xã Tân Long (gần Chợ Lớn) do Cư sĩ Lý Thoại Long.
 Chùa Thiên Trường ở Cầu Kho năm 1755 do thiền sư Pháp Nhân -Thiên Trường.
 Chùa Kim Chương lập năm 1755 do thiền sư Đạt Bổn từ Qui Nhơn vào.
ở Thủ Đức
 Chùa Phước Tường và Long Nhiễu do Thiền sư Phật Chiếu khai sơn.
 Chùa Hoa Nghiêm do Thiền sư Thiết Thoại khai sơn.
 Chùa Hội Khánh ở Thủ Dầu Một do Thiền sư Đại Ngạn.
Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 33
4.3.2 Thời nhà Nguyễn
ở Đồng Nai-Gia Định
 Chùa Hưng Long năm 1803.
 Chùa Tồn Thanh ở Cần Giuộc năm 1808.
 Chùa Long Hưng (chùa Bà Thao) ở Tân Uyên - Sông Bé.
 Chùa Long Thắng ở Cù Lao Rùa -Biên Hoà.
 Chùa Hội Sơn14
, chùa Phụng Sơn, chùa Cây Mai, chùa Phước Kiến, chùa Trường
Thọ được thành lập ở Gia Định, Chợ Lớn.
14
Chính điện chùa Hội Sơn bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn tháng 7 năm 2012
Chùa Hội Sơn
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III

Contenu connexe

Tendances

LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...PinkHandmade
 
Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...
Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...
Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...nataliej4
 
Chuyen de su lieu hoc
Chuyen de su lieu hocChuyen de su lieu hoc
Chuyen de su lieu hockysucongtrinh
 
Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN
Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN
Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN Bùi Quang Xuân
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam nataliej4
 
Bài giảng phương tiện dạy học
Bài giảng phương tiện dạy họcBài giảng phương tiện dạy học
Bài giảng phương tiện dạy họcnataliej4
 
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAYLuận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Tendances (20)

Luận văn: Quản lý nhà nước về cây xanh đô thị tại TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về cây xanh đô thị tại TPHCM, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về cây xanh đô thị tại TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về cây xanh đô thị tại TPHCM, HOT
 
Luận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đ
Luận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đLuận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đ
Luận văn: Giá trị thẩm mĩ của tranh dân gian làng Trống, HOT, 9đ
 
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
LUẬN VĂN THẠC SĨ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CẤP XÃLUẬN VĂN THẠC SĨ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
LUẬN VĂN THẠC SĨ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
 
Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...
Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...
Tiểu luận kĩ năng tạo lập mối quan hệ trong giao tiếp của sinh viên trường đạ...
 
Chuyen de su lieu hoc
Chuyen de su lieu hocChuyen de su lieu hoc
Chuyen de su lieu hoc
 
Đề tài: Nâng cao chất lượng cán bộ công chức quận Hải An, HAY
Đề tài: Nâng cao chất lượng cán bộ công chức quận Hải An, HAYĐề tài: Nâng cao chất lượng cán bộ công chức quận Hải An, HAY
Đề tài: Nâng cao chất lượng cán bộ công chức quận Hải An, HAY
 
Biên bản họp xét khen thưởng học sinh
Biên bản họp xét khen thưởng học sinhBiên bản họp xét khen thưởng học sinh
Biên bản họp xét khen thưởng học sinh
 
Luận văn: Năng lực lãnh đạo của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
Luận văn: Năng lực lãnh đạo của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh LợiLuận văn: Năng lực lãnh đạo của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
Luận văn: Năng lực lãnh đạo của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
 
Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN
Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN
Chuyên đề 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. TS.CVCC. BÙI QUANG XUÂN
 
Tiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAY
Tiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAYTiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAY
Tiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAY
 
Đề tài: Văn hóa giao tiếp của viên chức tại Văn phòng Hà Nội, HAY
Đề tài: Văn hóa giao tiếp của viên chức tại Văn phòng Hà Nội, HAYĐề tài: Văn hóa giao tiếp của viên chức tại Văn phòng Hà Nội, HAY
Đề tài: Văn hóa giao tiếp của viên chức tại Văn phòng Hà Nội, HAY
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
 
Bài giảng phương tiện dạy học
Bài giảng phương tiện dạy họcBài giảng phương tiện dạy học
Bài giảng phương tiện dạy học
 
Đề tài: Cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai
Đề tài: Cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Ia Grai, tỉnh Gia LaiĐề tài: Cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai
Đề tài: Cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAYLuận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
 
Đề tài: Văn hóa ứng xử của công chức tại UBND Quận Tây Hồ
Đề tài: Văn hóa ứng xử của công chức tại UBND Quận Tây HồĐề tài: Văn hóa ứng xử của công chức tại UBND Quận Tây Hồ
Đề tài: Văn hóa ứng xử của công chức tại UBND Quận Tây Hồ
 
Hành vi lệch chuẩn của vị thành niên tại Trung tâm cai nghiện, 9đ
Hành vi lệch chuẩn của vị thành niên tại Trung tâm cai nghiện, 9đHành vi lệch chuẩn của vị thành niên tại Trung tâm cai nghiện, 9đ
Hành vi lệch chuẩn của vị thành niên tại Trung tâm cai nghiện, 9đ
 
Questions
QuestionsQuestions
Questions
 

Similaire à KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III

LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...KhoTi1
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...
Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...
Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...nataliej4
 
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931Garment Space Blog0
 
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdf
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdfNGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdf
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdfNuioKila
 
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...phamhieu56
 
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Man_Ebook
 

Similaire à KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III (20)

Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAYLuận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
 
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIXLuận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX
 
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình, HAY
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình, HAYLuận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình, HAY
Luận văn: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình, HAY
 
Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Quảng Nam từ TK XX 1930
Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Quảng Nam từ TK XX 1930Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Quảng Nam từ TK XX 1930
Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Quảng Nam từ TK XX 1930
 
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đLuận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
 
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAYĐấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
 
BÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂMBÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂM
 
Một số nhận thức và sáng tác hội họa thể nghiệm về hình tượng đôi guốc mộc vớ...
Một số nhận thức và sáng tác hội họa thể nghiệm về hình tượng đôi guốc mộc vớ...Một số nhận thức và sáng tác hội họa thể nghiệm về hình tượng đôi guốc mộc vớ...
Một số nhận thức và sáng tác hội họa thể nghiệm về hình tượng đôi guốc mộc vớ...
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
 
Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...
Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...
Văn bia và giá trị nghiên cứu qua loại hình bia hậu ( khảo sát trên địa bàn H...
 
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
 
Th s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố
Th s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tốTh s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố
Th s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố
 
Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)
Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)
Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)
 
Đề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOT
Đề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOTĐề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOT
Đề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOT
 
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAYLuận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
 
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdf
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdfNGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdf
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG 6585534.pdf
 
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X...
 
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
 

Plus de nataliej4

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155nataliej4
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...nataliej4
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279nataliej4
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gianataliej4
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngnataliej4
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcnataliej4
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin họcnataliej4
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngnataliej4
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnnataliej4
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877nataliej4
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree towernataliej4
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...nataliej4
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtnataliej4
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864nataliej4
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...nataliej4
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngnataliej4
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhnataliej4
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intronataliej4
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcnataliej4
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)nataliej4
 

Plus de nataliej4 (20)

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốc
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
 

Dernier

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 

Dernier (20)

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 

KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUYỂN III

  • 1.
  • 2. K I Ế N T R Ú C P H Ậ T G I Á O V I Ệ T N A M QUYỂN III Nguyễn Bá Lăng 2015
  • 3. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam Quyển III © Nguyễn Bá Lăng và con cháu Liên lạc: Nguyễn Bá Luyện, nguyenbaluyen@yahoo.com Hình Bìa Chùa Vĩnh Nghiêm, Sàigòn, Việt Nam
  • 4. Lời Tựa Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng bắt đầu viết bộ sách Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam từ năm 1965. Quyển 1 và 2 được xuất bản năm 1971 tại Sài Gòn và 2001 tại Paris. Bản thảo quyển 3 vừa viết xong thì kiến trúc sư ra đi năm 2005. Bộ sách vừa là một biên khảo về kiến trúc vừa là một tạp ghi về văn hóa và lịch sử Việt Nam. Bộ sách trình bầy những khái niệm về nét đặc thù của kiến trúc Phật Giáo Việt Nam và của riêng một số ngôi chùa. Tác giả đưa ra những nhận xét về sự phát triển của kiến trúc Phật Giáo Việt Nam qua từng miền đất nước, và từng giai đoạn lịch sử cho đến khoảng năm 2000. Bộ sách ghi lại những sự kiện, hình ảnh về nhân vật, xã hội, lịch sử và văn hóa liên quan đến các ngôi chùa Việt Nam. Tác giả đã viết bộ sách từ những cuộc khảo sát, bảo tồn cổ tích, xây dựng mà tác giả tham dự, và từ những gì đã nghe, thấy và nghiên cứu. Tác giả viết về sự hủy hoại các di sản mỹ thuật và văn hóa quý báu của tổ tiên do chiến tranh, cuồng sân, đố kị hoặc chủ trương tác hại cố ý của các chế độ cầm quyền. Tập sách biểu lộ hoài bão suốt đời của tác giả - trân trọng gìn giữ các công trình văn hóa của tiền nhân cho các thế hệ sau, và đóng góp vào các công trình mới. Cho đến khi gần ra đi, kiến trúc sư vẫn không ngừng làm việc với bộ sách. Để tiếp tục hoài bão của thân phụ, chúng tôi đã cố gắng hoàn tất bộ sách này. Chúng tôi xin cám ơn tất cả các nhà khảo cứu, học giả, các cơ quan, các vị hảo tâm đã phát hành các sách, tài liệu, và hình ảnh, in hay đăng ở trên mạng internet, về kiến trúc, Phật Giáo và lịch sử Việt Nam mà bộ sách này đã tham khảo hoặc trích dẫn. Với những khám phá và nghiên cứu không ngừng về Phật giáo, lịch sử và văn hóa Việt Nam, bộ sách ắt hẳn còn nhiều sai sót. Chúng tôi xin cám ơn trước cho những chỉ bảo và phê bình để học hỏi và hoàn chỉnh bộ sách này. Chúng tôi cũng xin cám ơn Viện Việt Học tại Westminter, California đã có nhã ý phát hành bộ sách về kiến trúc Phật Giáo Việt Nam này như một đóng góp khiêm nhường của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vào kho kiến thức văn hóa Việt Nam mà Viện Việt Học đang gìn giữ và phát huy. Các con của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng Paris, Sydney, Canberra và Los Angeles Tết Ất Mùi, tháng 2 – 2015
  • 5. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 1 Mục Lục Mục Lục.................................................................................................................................. 1 1 Ðạo Phật Với Đất Cũ Phù Nam, Chiêm Thành................................................................... 3 1.1 Phù Nam ....................................................................................................................... 3 1.2 Miền Trung................................................................................................................... 4 2 Các Chúa Nguyễn Ở Đàng Trong Với Phật Giáo .............................................................. 8 2.1 Nguyễn Hoàng.............................................................................................................. 8 2.2 Các Chúa Nguyễn sau Nguyễn Hoàng ......................................................................... 9 3 Phật Gíao Đàng Trong....................................................................................................... 14 3.1 Nhân duyên phát triển................................................................................................. 14 3.2 Các thiền sư và chùa................................................................................................... 16 4 Hoằng Hoá Của Các Thiền Sư Ở Đồng Nai - Gia Định.................................................... 29 4.1 Một số thiền sư được biết ........................................................................................... 29 4.2 Tổ đình Long Thiền và các vị danh tăng .................................................................... 30 4.3 Các chùa khác được các thiền sư miền Trung khai sơn.............................................. 32 5 Nét Đặc Thù của Kiến Trúc Phật Giáo Đàng Trong......................................................... 34 5.1 Phối trí bình đồ. .......................................................................................................... 34 5.2 Hình khối: Mặt ngoài.................................................................................................. 38 5.3 Các hình thể mái ......................................................................................................... 40 5.4 Sườn nhà bên trong..................................................................................................... 40 6 Nhà Tây Sơn và Phật Giáo................................................................................................ 41 7 Các Vua Nhà Nguyễn Và Phật Giáo ................................................................................. 44 8 Những Danh Tăng và Chùa Thời Nhà Nguyễn................................................................. 48 9 Kiến Trúc Chùa Đàng Trong và Vùng Đất Mới Dưới Triều Nguyễn............................... 55 9.1 Chùa có hai lầu chuông trống. .................................................................................... 55 9.2 Chùa kiểu chữ Tam (三)............................................................................................. 56 10 Những Cảnh Chùa Danh Tiếng ở Miền Nam ................................................................ 57 11 Trùng Tu, Xây Cất ở Thăng Long Dưới Triều Nguyễn................................................. 68 11.1 Thăng Long tang thương......................................................................................... 68 11.2 Xây dựng ở Thăng Long lúc khởi đầu Nhà Nguyễn ............................................... 69 11.3 Từ triều Minh Mạng đến Thành Thái...................................................................... 77 12 Kiểu Cách Đền Chùa ở Thăng Long Qua Những Cuộc Trùng Tu Dưới Triều Nguyễn 91 12.1 Về bình đồ:.............................................................................................................. 91 12.2 Về lập diện............................................................................................................... 91 12.3 Cổ đẳng, cổ diêm..................................................................................................... 92 13 Tôn Giáo, Tín Ngưỡng và Hội Hè Về Cuối Thế Kỷ XIX Sang Nửa Đầu Thế Kỷ XX . 94 13.1 Hội thánh................................................................................................................. 94 13.2 Hội chùa .................................................................................................................. 97 14 Ảnh Hưởng Tây Phương Trong Kiến Trúc Đền Chùa................................................. 101 14.1 Ảnh hưởng lên kiến trúc dân dã ............................................................................ 101 14.2 Ảnh hưởng lên kiến trúc tôn giáo và tín ngưỡng................................................... 101 14.3 Một vài công trình xây cất đặc sắc về thập niên 30 thế kỷ XX............................. 104 14.4 Kiến trúc trang trí .................................................................................................. 107 15 Tình Trạng Đền Chùa ở Hà Nội Hồi Đầu Pháp Thuộc................................................ 109 16 Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam.................................................................................. 112 16.1 Hội Chấn Hưng Phật Giáo Bắc Kỳ ....................................................................... 112 16.2 Hội An Nam Phật học ........................................................................................... 114
  • 6. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 2 17 Từ Thế Chiến Thứ Hai Đến Cuộc Chiến Việt Pháp 1945-1954.................................. 116 17.1 Tại Hà Nội:............................................................................................................ 116 17.2 Tại Bắc Ninh ......................................................................................................... 118 17.3 Tại Tỉnh Hải Dương .............................................................................................. 119 17.4 Tại Hà Đông.......................................................................................................... 120 17.5 Tại Vĩnh Yên......................................................................................................... 120 17.6 Công cuộc trùng tu do sở Quốc Gia Bảo Tồn Cổ Tích ......................................... 121 18 Từ Hiệp Định Genève Đến Năm 1975......................................................................... 125 18.1 Phật Giáo ở miền Nam .......................................................................................... 125 18.2 Phong Trào Tín Ngưỡng Và Xây Cất Tôn Giáo. .................................................. 127 19 Kết................................................................................................................................ 138 Một số Tài Liệu Tham Khảo hay trích dẫn............................................................................ 139
  • 7. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 3 1 Ðạo Phật Với Đất Cũ Phù Nam, Chiêm Thành 1.1 Phù Nam Phù Nam là phiên âm Trung hoa từ danh từ phnom (núi) để chỉ một quốc gia có thủ đô đóng ở trên miền đất cao tại nơi biên giới Miên Việt ngày nay, giữa khoảng Phnom Da và Angkor Borei, do một dòng vua mà vua cuối cùng tên là Rudravarman, mất năm 545. Miền Nam Việt Nam ngày nay là một phần đất của Phù Nam xưa. Di tích lớn nhất tìm thấy ở đây là khu di chỉ Óc Eo ở chân dẫy núi Ba Thê, thuộc tỉnh Long Xuyên. Thời Phù Nam, thế kỷ IV-V, nơi đây là một hải cảng quan trọng, nơi giao thương giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Trong số các cổ vật tìm thấy ở đây có đủ sản phẩm công nghệ, mỹ nghệ của hai xứ này, của bản xứ và có cả huy chương và tiền của La Mã. Trong số những di tích kiến trúc ở đây, người ta tìm ra một cung thờ xây bằng gạch cùng ngói có phủ men, và một số vật liệu trang trí kiến trúc. Những di vật kiến trúc hiếm hoi này cho thấy chúng thuộc văn hoá Ấn Độ. Trong số cổ vật tìm thấy còn có một pho tượng nhỏ đúc bằng kim loại, kiểu thức Bắc Ngụy (Trung Hoa) về khoảng thế kỷ VI, chứng tỏ sự hiện diện của Phật giáo Bắc Tông ở hải cảng này hoặc là đã có qua đây. Nhưng có thể khẳng định là Phật giáo đã từng hiện diện và bắt rễ ở Phù Nam qua các pho tượng Phật tìm thấy ở Bình Hoà, Đồng Tháp và Sơn Thọ. Tượng Bình-Hoà tạc bằng gỗ, cao 1,5 m thuộc nghệ thuật Phù Nam, thế kỷ V, tạc theo thể dáng Phật đứng thuyết giảng tương tự những pho tượng đồng Thích-Ca, kiểu Gupta, nhưng thân người hơi uốn sang bên phải. Tượng Đồng Tháp cũng bằng gỗ, cao tới 2,9m cũng thuộc nghệ thuật Phù Nam về thế kỷ VI-VII. Phật ngồi trên bệ, tay đặt trên đùi, mặt tròn, tóc xoắn ốc, có núm nhô trên đỉnh đầu. Tượng Phật Kiểu Gupta Phù Nam với Angkor Borei và Óc Eo
  • 8. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 4 1.2 Miền Trung Miền Trung từ đèo Ngang vào tới Biên-Hoà là đất cũ của Lâm-Ấp, Hoàn-Vương1 và sau rốt là Chiêm Thành. Những di tích xưa như tượng đá, tháp gạch rải rác từ Bắc xuống Nam của miền Trung chứng tỏ đạo Bà-la-môn từng ngự trị xứ này. Tuy nhiên đạo Phật cũng đã xuất hiện ở đây đồng thời với Bà-la-môn do các tu sĩ Ấn Độ đã từng đi theo các thuyền buôn mà du nhập vào các xứ miền Đông Nam Á và Á Đông khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Chứng tích của những cuộc hoằng hoá này là những pho tượng được tìm thấy ở Pong Tuc (Cam bốt), ở Sungai (Mã Lai), ở Đồng Dương (Quảng Nam), ở Merbok (Mã-Lai), ở sông Kamara (đảo Célèbes). Các pho tượng này đều đúc bằng đồng và kiểu giống nhau, hình dung đức Thích-Ca đứng thuyết pháp, hai tay cũng giơ lên theo thế trấn an. Vai phải và một phần ngực phải để trần, còn bên trái, ống tay áo chẩy dài xuống tới gần chân. Nếp áo gợn đều như nước chảy. Tượng tìm thấy ở đảo Célèbes thuộc đợt trước, theo nghệ thuật Amaravati (Nam Ấn) vào thế kỷ II-III. Những tượng sau thuộc văn hoá Gupta vào thế kỷ IV-V. Các tượng này cao từ 55cm tới 75cm, tượng Đồng Dương lớn nhất cao 108cm. Gupta là thời đại văn hoá rực rỡ nhất của Ấn Độ, đã ảnh hưởng lan rộng ra các nước Á Đông và Đông Nam Á. Sử liệu Trung-Hoa có ghi lại, một số tăng sĩ gốc người Lâm-Ấp và Phù-Nam có sang Trung-Hoa vào thế kỷ V và VI như:  Sanghabala (Tăng-Khải), người Phù-Nam, nổi tiếng vào khoảng năm 495-524 đã được vời sang Trung-Hoa ; ngài đã dịch bộ luận Ahidhamma và bộ luật Vinaya.  Mandala (Hoằng-Nhược), Santibodhi (Hiền Trí), Gunavarman (Công-Đức-Khải) đều là người vùng Nha Trang, Phan-Thiết ngày nay. Các vị này đem một số kinh điển tiếng Pali sang Trung-hoa để dịch ở đây.  Nagasena, người Lâm-Ấp, từng làm tăng thống, đi sứ sang Tàu vào thế kỷ VI.  Chân-Đế không rõ sinh quán ở đâu ; năm 546, bấy giờ đã 48 tuổi, ngài vượt biển từ Phù- Nam đến Kiến Nghiệp (Nam-Kinh), được Lương Vũ Đế vời vào triều dịch kinh. Như thế có nghĩa là khi ở Phù Nam, ngài đã từng hoằng pháp và nổi danh rồi. Năm 556, ngài đến Quảng Châu, được thứ sử Âu-Dương-Nghệ tiếp đãi nồng hậu. Năm 558, Chân-Đế đáp thuyền sang Tích Lan để sưu tầm thêm kinh điển, nhưng dọc đường gặp bão, phải ghé lại Hải Nam. Cho đến năm 560, Chân Đế trở lại Quảng Châu và mất tại đây năm 569, thọ 71 tuổi. Chân-Đế đã dịch phần nhiều về Phương-Đẳng nhưng quan trọng nhất là đã dịch hết bộ luận A-Ty-Hàm, làm nền tảng cho Câu-Xá-Tông tại Trung-Hoa. A-Ty-Hàm là bộ luận căn bản của Nam-tông. Ảnh hưởng bộ luận không những đương thời ở Phù-Nam, 1 Hoàn Vương, vương quốc tại miền Trung Việt Nam, từ năm 757 đến 859 Tây Lịch, kinh thành ở huyện An Phước, Ninh Thuận. Hoàn Vương kế tiếp nước Lâm Ấp (192-757 Tây Lịch)
  • 9. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 5 Chùa Đồng Dương Quảng-Đông, Hải-Nam mà còn cả đối với Phật giáo Việt-Nam, nhất là Phật giáo Nguyên-Thuỷ ngày nay không phải là nhỏ vậy. Ngày nay còn những di vật chứng minh rằng triều Tống (420-479) và triều Lương (502- 507) thời Nam-Bắc Triều của Trung Hoa có liên lạc ngoại giao với Chiêm-Thành và Phù- Nam là những xứ đượm nhiều ảnh hưởng văn hoá Ấn-Độ. Một số quan trọng tranh và tượng Phật của những xứ này theo kiểu thức Gupta, đã được đem đến Nam-Kinh để làm cống phẩm. Nay những tranh, tượng này không còn thấy ở miền Hoa-Trung nữa, nhưng năm 1956, người ta đã tìm ra được cả một kho tàng những tượng Phật, sản phẩm của thế kỷ VI-VII phản ảnh ảnh hưởng Ấn-Độ của Phù-Nam và Chiêm-Thành trong tàn tích của một ngôi chùa ở Thành-Đô, tỉnh Tứ-Xuyên. Do đó, người ta suy ra rằng kiểu thức này đã từ Nam-Kinh ngược dòng sông Dương-Tử lên Thành-Đô rồi lan lên miền Bắc Trung-Hoa để ảnh hưởng đến những tượng Phật của những triều đại Tề và Chu cùng những tranh bích hoạ ở Đôn-Hoàng vào cuối thế kỷ VI. Kiểu thức mới này trông đầy đặn, uyển chuyển hơn kiểu trước. Những tượng kiểu trước trông dẹt và vạch rõ nét, kiểu sau được tạc đắp đầy lên, thân hình bỗng được nhận rõ bằng những nếp y phục bó sát người, bằng những nếp vải và bằng những đồ trang sức. Chiêm-Thành đến thế kỷ IX có vua Indravarman II theo Phật giáo đại-thừa và lập một tu viện lớn ở thủ-đô Indrapura (‘kinh thành của thần Indra’) tức vùng làng Đồng-Dương, Tam- Kỳ, tỉnh Quảng Nam ngày nay. Tu viện xây từ năm 875, gồm có ba lớp khuôn viên, kéo dài 150m từ Tây qua Đông và bề rộng nhất ở hai phần sau là 112m. Ba khuôn viên liên tiếp nhau có tường xây bao quanh và
  • 10. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 6 Tượng Đồng Dương đều có cổng lớn xây trên đường trục tim để thông sang nhau và để dẫn từ ngoài phía Đông đi vào. Trong khuôn viên thứ nhất là khuôn viên dài hơn cả tới trên 70m có dựng một kiến trúc bình đồ chữ nhật kích thước 17m x 40m với 4 hàng cột, để làm chính điện thờ Phật. Giữa khuôn viên thứ nhì cũng là một kiến trúc chữ nhật nhưng nhỏ hơn, dựng trên nền cao, có bậc thang để bước lên ở cả bốn mặt. Căn nhà này được dùng làm nơi hội họp. Khuôn viên thứ ba có bề ngang được chia làm ba ngăn: ngăn giữa 40m x 50m có hai kiến trúc xây trên đường trục tim và nhiều kiến trúc nhỏ xây rải rác xung quanh. Ngoài hai kiến trúc chữ nhật ở khuôn viên trước lợp ngói, các kiến trúc khác có tường và mái đều xây bằng gạch như ở các tháp Chàm khác. Điểm đặc biệt ở tu viện Phật giáo này là những toà cổng chính dẫn vào mỗi khuôn viên. Cổng xây đồ sộ như một ngọn tháp-đền thờ (kalan), nhưng có ba cửa với ba cầu thang dẫn lên, theo nghĩa tam quan như ở kiến trúc Việt-Nam. Trong lòng hai cửa bên có dựng tượng hộ pháp, được tạc với những cử chỉ rất sống động. Tam quan còn được tôn vẻ đồ sộ bằng hai cây trụ lớn xây ở hai bên phía trước. Trụ xây dưới là một đế có nhiều cạnh vuông, được trang trí bằng nhiều nét chạm trổ, điêu khắc. Trên là thân trụ hình ống tròn có chạm gờ chỉ thành nhiều đốt và lên cao thu nhỏ dần trông tương tự hình dáng những cây bảo tháp của Việt-Nam và Trung-Hoa. Dọc theo hai bên tường ở những khuôn viên 1 và 3 cũng được trang trí bằng những cây trụ như vậy nhưng kích thước nhỏ hơn. Ba khuôn viên này nằm trong một khuôn viên lớn: dài 320m, rộng 152m có toà cổng duy nhất với hai cây trụ thường lệ xây trên trục tim hướng Đông. Sau cổng, một bên là hồ nước rộng, một bên là những dẫy nhà xây bằng gạch. Phần còn lại xưa có những kiến trúc bằng vật liệu nhẹ làm rải rác trong những mảnh vườn hoặc cánh rừng nhỏ. Trước cổng khuôn viên này có một con đường dài 763m dẫn thẳng, hướng Đông đến một khuôn viên chữ nhật lớn, bề ngang 300m, bề dọc 240m, trong lòng là một hồ nước rộng. Thời đại Indrapura (thế kỷ IX-X) Chiêm-Thành hùng cường thịnh trị, văn hoá, mỹ thuật biểu lộ nét hùng mạnh, thấy rõ nhất là ở điêu khắc. Những pho tượng đá ở Đồng- Dương, kể cả tượng Phật, thông thường có thân hình vạm vỡ, chắc nịch, nét mặt to, thô đến hoang rợ, môi dầy, miệng rộng, mũi to, dẹt, mắt lồi, mày rậm. Tựu trung, những tượng và điêu khắc của thời đại này có kiểu nét thật đặc biệt.
  • 11. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 7 Lâm Ấp và Chiêm thành từ thế kỷ VI đến thế kỷ IX phát triển rực rỡ, là thời đại hoàng kim của nghệ thuật Chàm với những tác phẩm điêu khắc đá chan hoà vẻ hài hoà duyên dáng như ở Trà Kiệu. Nhưng kể từ sau những cuộc tàn phá của những thái thú người Tầu ở Giao Chỉ, rồi đến vụ vua Lê Đại Hành đem quân sang trừng phạt Lâm Ấp về việc bắt giam sứ thần Đại Việt thì kinh thành Indrapura bị tàn phá năm 982. Người Chàm phải thiên đô, lập kinh đô mới Vijaya (Đồ-Bàn) tại Bình Định ngày nay và từ đó suy dần. Đạo Bà La Môn là quốc giáo, nhưng đạo Phật vẫn tồn tại, nên khi vua Lý Thánh Tôn đem quân đến Vijaya trừng phạt Chiêm-Thành năm 1069, có bắt được một nhà sư là Thảo-Đường đem về tôn làm quốc sư.
  • 12. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 8 2 Các Chúa Nguyễn Ở Đàng Trong Với Phật Giáo 2.1 Nguyễn Hoàng Trong cuộc dấy binh phù Lê diệt Mạc, Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, hai người con của Nguyễn Kim, có nhiều công trạng nên đều được phong quận công. Nhưng binh quyền bấy giờ nằm cả trong tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm ghen tị kiếm chuyện giết đi. Nguyễn Hoàng thấy vậy lo sợ nên cho người đến Cổ Am (tỉnh Hải Dương) hỏi ý kiến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Được cho hay là ‘Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân’, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị là Ngọc Bảo nói với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn nhậm miền đất phía Nam. Được phép, năm 1558, Nguyễn Hoàng bèn đem những người thân thích, họ hàng ở huyện Tống Sơn và quân lính người Thanh (Hóa) Nghệ (An) cùng vợ con đi theo vào đóng ở xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, trấn Thuận Hoá là huyện Đăng Xương, gần tỉnh lỵ Quảng Trị sau này. Sự việc đó đã khơi nguồn cho công cuộc xây dựng nghiệp chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đối với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Nguyễn Hoàng tục danh là chúa Tiên (1558-1613) là người hiền đức, khôn ngoan, thu phục được nhân tâm và biết thu nạp nhân tài nên được nhiều người kính mến và tin theo. Ông tỏ ra là người sùng đạo Phật. Sau khi vào trấn đất Thuận Hoá được ít lâu, ông để ý ngay đến việc xây dựng chùa chiền. Năm 1601, ông tạo lập chùa Thiên Mụ ở xã Hà Khê (nay là xã An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên). Nguyên do là trong một chuyến đi xem phong cảnh đất nước, đến đây, ông thấy một quả đồi nhô ra sông rộng2 và nhìn về phía thượng lưu có những ngọn núi nhấp nhô của dẫy Trường Sơn theo thế hồi long cố tổ, thực rất đáng lưu ý. Ông bèn hỏi cư dân thì đuợc họ trình rằng: "Theo lời truyền của tổ tiên chúng tôi thì từ thời cổ xưa, có một vị nữ thần vẫn thường xuất hiện ở đồi này. Đến thời nhà Đường, có Cao Biền thường đi dò xét những quý địa của nước ta để triệt phá, khi đi đến đây, thấy đất có khí mạch linh thiêng, y cho đào đầm rạch ở phía sau đồi để triệt yểm đi. Từ đó thần biến mất. Cho mãi tới thời gần đây người ta mới lại bỗng nhiên thấy xuất hiện một bà già tóc và lông mày trắng toát nhưng vẻ người thì vẫn trẻ, mặc áo dài đỏ, quần xanh lục, ngồi ờ sườn đồi mà phán rằng: ‘Rồi sẽ có một vị chân chúa đến mở mang triều đại ở phương Nam này và lập chùa ở đây để củng cố long mạch cho quốc thái dân an." Nói xong bà biến mất, mọi người cho rằng bà chính là người nhà trời sai xuống để báo trước điềm lành. Vì vậy đồi này được gọi là đồi Thiên Mụ’. Được nghe trình bầy như vậy, Đoan Quốc công vô cùng mừng rỡ và càng vững tin là mình được mệnh trời, ý Phật để thực hiện việc xây dựng một cơ nghiệp lớn lao. Ông bèn dựng 2 Sông Linh, nay gọi là sông Hương, do hai nguồn nước Kim Trà và Đan Điền chẩy vào, rất sâu và rộng ở chỗ nay gọi là bến Tuần. Còn đồi này, theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, được gọi là núi Nam Sơn, thuộc xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thì nay là đồi Thiên Mụ, xã An Ninh Thượng.
  • 13. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 9 chùa ở trên đồi và đặt tên là Thiên Mụ Tự. Sau này, nhiều người đến làm lễ, cầu khấn, thấy ứng nghiệm nên gọi chùa là Linh Mụ Tự. Đây là công trình đầu tiên về kiến trúc của các chúa Nguyễn tại Huế, tuy nhiên không phải là lần đầu tiên chùa được lập ở đây, vì trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An, là sách ra đời vào năm 1553 đời Mạc Phúc Nguyên, đã có ghi: ‘chùa (Thiên Mỗ) ở phía Nam xã Gian Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông, tưởng như gang tấc bên trời, vượt hẳn ba nghìn thế giới...’ Ở Quảng Nam tại Trà Kiệu3 năm 1607, chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho lập chùa Bảo Châu. Năm 1609, chúa cho lập chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch (tỉnh Quảng Bình). Sau đó Đoan Quốc Công được nhận thêm trấn Quảng Nam. Sau khi hoàn tất dinh trấn ở xã Cần Húc, ông cho dựng chùa Long Hưng ở mé Đông gần đó. Những sự xây cất chùa chiền này chứng tỏ chúa Tiên rất để ý đến đạo Phật. Theo nhận xét của Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận thì: ‘như vậy trong thâm ý của chúa Nguyễn (Hoàng), đạo Phật có thể làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn. Cũng vì vậy cho nên sau này các chúa Nguyễn đều tỏ vẻ sùng thượng đạo Phật và nhân dân Đàng Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung quốc với một tấm lòng chân thật mặn nồng.’ 2.2 Các Chúa Nguyễn sau Nguyễn Hoàng Từ năm 1627 khởi sự cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, đánh nhau bẩy lần, đến năm 1661 mới chấm dứt, nên trải qua đời các chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (trị vì 1613-1635), chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (trị vì 1635-1648), không thấy có ghi công cuộc Phật sự nào vì các chúa bận việc chiến tranh. Đến năm 1662, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (trị vì 1648-1687) dạo thuyền qua sông ở xã Triên Ân, huyện Phú Vang (xã Lai Âm, huyện Từ Vinh) thấy bờ phía Bắc có cây cối xanh rậm, chim chóc bay đậu, chúa lấy làm mến cảnh ấy, bèn đậu thuyền lại thưởng ngoạn. Nhận thấy có nền chùa xưa tại đó, chúa bèn khiến tái lập lại chùa, đặt tên là chùa Sùng Hoá. Sau khi sông Gianh được lấy làm ranh giới phân định Bắc Nam, hoà bình được tái lập, thì đến năm 1665 chùa Thiên Mụ mới được trùng tu theo sắc chỉ của chúa Nghĩa tức Nguyễn Phúc Thái (1687-1691)4 . Chúa là người rất để ý đến đạo Phật, phong thiền sư Hưng Long làm quốc sư và, theo lời đề nghị của Hưng Long quốc sư, đã hai lần cho người sang Quảng Đông mời thiền sư Thạch Liêm. Nhưng đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725), Thạch Liêm mới sang Đại Việt và đã ảnh hưởng nhiều đến vị chúa này. Chúa Nguyễn Phúc Chu tục gọi là chúa Minh hay Quốc chúa, sinh năm 1675, lên ngôi chúa năm 17 tuổi, là người ham học, viết chữ rất tốt, có khiếu về văn chương lẫn võ bị, lại là người rất hâm mộ đạo Phật. Thạch Liêm đặt cho ông pháp danh là Hưng Long khi ông thọ bồ tát giới năm 20 tuổi và sau đó thêm đạo hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân. 3 Trà Kiệu là kinh đô cũ của Chiêm Thành. Tại đây, trường Viễn Đông Bác Cổ đã tìm thấy những tác phẩm điêu khắc đứng vào hàng đầu của mỹ thuật Chàm vào thế kỷ VII. 4 Chúa Nghĩa cho dời phủ từ Kim Long đến Phú Xuân, trồng cây, đắp nền, xây tường, mở lộ, cất dựng cung vàng, gác ngọc, cực kỳ xa hoa (theo Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương, Dư Địa Chí. Cũng theo sách này thì chúa tên là Nguyễn Phúc Thái).
  • 14. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 10 Lên ngôi được một năm, năm 1692 chúa cho sửa chữa chùa Mỹ Am ở núi Mỹ Am (nay là núi Tuý Vân, chùa là Thánh Duyên). Chùa dựng trên sườn núi, nhìn xuống đầm Hà Trung, phá Đá Bạc (cũng có tên là Đầm Thuỷ Tú) và bên kia phá là núi Bạch Mã thuộc dẫy Trường Sơn. Cảnh trí phong quang, non nước mênh mông hùng vĩ. Ở đây cũng bắt đầu vào cửa biển Tư Dung, nơi mà vua Lê Thánh Tôn khi đi đánh Chiêm Thành năm 1471 ghé ngang qua có phán rằng ‘Núi sông này khí thế hùng dũng lắm thay, đời sau chắc có kẻ anh hùng chiếm cứ chỗ này’. Vua bèn làm thơ và ghi chú rằng ‘Các cửa biển duy có cửa biển này, trên núi dưới biển, hình thế hùng vĩ, ba đào hiểm trở, các vị đế vương lịch đại như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành đều có trú ở đây.’ Bài thơ như sau: Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long; Bách nhị sơn hà5 thử yếu xung. Liệt chướng huyền nhai thanh xúc xúc, Kê thiên phách lãng bích trùng trùng. Tiên triều sự nghiệp truyền di tích. Nam quốc dư đồ chí cựu phong. Nạp cấu tàng ô hà hải lượng 6 Cử gian vô xứ bất triều tôn. Dịch như sau: Trống vang thuyền đến Ô Long. Núi sông hiểm yếu tận cùng. Non cao xanh, dáng sườn đồ sộ, Biển chập chùng, sóng vỗ dậy trời. Tiên triều công nghiệp còn đời. Bản đồ Nam quốc vẽ rành đã lâu. Lượng cả bao dung không kể xiết. Như nước chan hòa khắp mọi nơi. Năm 1695, chúa cho người sang Quảng Đông, Trung Hoa mời thiền sư Thạch Liêm sang giảng dậy cho quan dân và cũng để chính chúa thọ giáo nữa. Chúa rất khâm phục đạo đức và kiến thức của thiền sư Thạch Liêm nên đã chịu ảnh hưởng của thiền sư không những về quan niệm tu hành mà còn cả về những biện pháp trị dân theo giáo lý công minh, nhân đạo của nhà Phật nữa. Chúa cũng để ý nâng đỡ những vị cao tăng ở các tỉnh và ban biển ngạch, sắc tứ cùng câu đối cho nhiều chùa. Những biển ngạch này được ký ở lạc khoản là Thiên Túng Đạo Nhân. Năm 1710 chúa cho đúc một quả chuông lớn, nặng tới 3285 cân, để treo ở chùa Thiên Mụ. Thân chuông đứng thẳng theo hình ống được trang trí bằng những tượng hình bát quái, chữ thọ, đường triện, rồng, thuỷ ba, bát bửu, hoả cầu và có khắc trong bốn ô chữ nhật những dòng chữ: ‘Quốc chúa Đại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Động chánh tông đời thứ 30, pháp danh Hưng Long, đúc hồng chung này nặng 3285 cân; để ở Thiên Mụ thiền tự, để vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo, cầu nguyện gió hòa, mưa thuận, quốc thái dân an, chúng sinh trong pháp giới đều vẹn toàn trí tuệ. Năm Vĩnh Thịnh thứ 6, ngày Phật Đản, tháng tư Canh Dần.’ 5 Bách nhị sơn hà: nơi địa thế núi sông nhà Tần rất hiểm yếu, chỉ hai người là đủ đương cự lại với cả trăm người (Từ Nguyên) 6 Nạp tang là chứa đựng; ô cấu là vật nhơ bẩn; ý nói là sông biển có độ lượng rộng rãi, bao nhiêu vật ô uế ở trên cao, núi rừng chẩy về đều dung nạp cả.
  • 15. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 11 Quả đại hồng chung này cao trên 2,5 m, đường kính 1,2 m, đến nay vẫn còn được treo trong một nhà xây ở phía ngoài, bên trái tam quan. Năm 1714, chúa trùng tu và làm cho to rộng chùa Thiên Mụ, uỷ nhiệm cho chưởng cơ Tống Đức Đạt thực hiện đại công tác này. Chùa bấy giờ gồm từ ngoài cửa đi vào, có các điện: Thiên Vương, Ngọc Hoàng, Đại Hùng, Thuyết Pháp Đường, Tàng Kinh Lâu. Ở hai bên có lầu chuông, lầu trống, điện Thập vương, Vân Thuỷ đường, Tứ Vị đường, Thiền đường, điện Đại Bi, điện Dược Sư. Ngoài ra còn có nhiều cơ sở cho các sư có nơi ăn ở và học tập (tăng liêu và thiền xá). Đằng sau trong vườn Tỳ Da lại có vài chục nhà phương trượng. Tất cả đều rực rỡ vàng son. Công việc làm một năm thì xong. Quy mô chùa bấy giờ là đầy đủ nhất. Khi khánh thành công cuộc khuyếch trương chùa, chúa cho mở hội lớn. Chúa ở lại chùa cả tháng ăn chay, phát chẩn tiền gạo cho người nghèo đói. Dự hội có cả phiên vương Chiêm Thành là Kế Bà Tử cùng vương gia và triều thần. Rồi chúa cử một phái đoàn tăng sĩ sang Trung Hoa mua Đại Tạng kinh và luật luận hơn ngàn quyển đem về cất giữ tại nơi tàng kinh lâu của chùa. Bài minh của chúa khắc trên bia như sau: Việt quốc chi nam hề giai thủy, giai sơn, Bảo sát chi tráng hề, nhật chiếu thiền quan, Tánh chi thanh tịnh hề, khê hương sàn sàn. Quốc chi điện an hề, tứ cảnh u nhàn, Vô vi chi hoá hề, Nho Thích đồng ban, Ký tư thắng khai hề, nhân quả hồi hoàn. Kiến tiêu lập đích hề, thành tồn tà nhàn. lược dịch như sau: Phương Nam, nước Việt, đây, non xanh, nước biếc. Chùa Phật tráng lệ, đây, nắng chiếu cửa thiền. Tự tính trong sạch, này, khác chi suối chảy. Nước non an bình, này, bốn cảnh thanh nhàn. Cõi đời hư ảo, này, Khổng, Phật cùng chung. Ghi chép vào đây, này, nhân quả xoay về Lập bia truyền lại, này, thật còn, giả tan Cuối năm 1715, chúa cho tạc 1 tấm bia lớn, bề cao 2,6m, bề rộng 1,2m, dựng trên một con rùa, tạc bằng cẩm thạch. Trên bia có khắc bài văn của chúa ghi công đức chấn hưng đạo Phật và việc trùng tu chùa. Bia này dựng trong nhà bát giác được xây đối diện với nhà chuông ở phía bên hữu tam quan. Chuông chùa Thiên Mụ
  • 16. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 12 Khoảng năm 1738-1744, chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765) tự hiệu là Từ Tế đạo nhân, lại cho trùng tu chùa Thiên Mụ rất tráng lệ và sai người sang Trung Hoa thỉnh Đại Tạng kinh hơn nghìn bộ, về để tại chùa. Các chúa mấy lần cho người đi thỉnh kinh, mặc dầu không đủ ba tạng nhưng cũng bù lại phần nào vào số sách thiếu hụt từ hồi Minh thuộc. Vũ Vương thích kiến trúc. Chúa xây dựng thêm ở Phú Xuân (nay là kinh thành Huế) nhiều đình đài, đặt tên, đề biển, như điện Kim Hoa, điện Quang Hoà, các toà Tựu Lạc, Chính Quan, Trung Hoà, Di Nhiên, cùng đài Sướng Xuân, Kinh Địa các, Triều Dương các, Quang Thiên các, đình Thuỵ Vân, Hiên Đồng Lạc. Tại bờ phía Nam, trên mạn thượng lưu (làng Dương Xuân ngày nay) lập phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ. Những kiến trúc này đều nguy nga, rường mái rực rỡ, có hành lang bao quanh, tường thành vây bọc; cửa ngõ mở thông ra tứ phía, được chạm trổ và trang trí rất công phu. Các toà nhà được lát nền bằng gạch, đá rất bằng phẳng, trên lát ván gỗ kiền kiền, dưới mái nhà có máng hứng nước trên chẩy xuống; có cây cối trồng xen cạnh. Những gốc sung, xoài, cây mít lớn vừa người ôm. Trong vườn sau có hòn non bộ xây với những hòn đá lạ mắt, lại có ao vuông, với những cây cầu vồng và nhà hóng mát (thủy tạ) cất giữa hồ. Những bức tường trong, tường ngoài thẩy thẩy được xây dầy đến vài tấc; lại có những tượng hình rồng, hổ, lân, phụng và hoa cỏ đắp tô bằng mảnh sứ và vôi mầu7 . Đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, chùa Kim Tiên ở ấp Bình An, tương truyền do hoà thượng Bích Phong trùng tu, lại được trùng tu lần nữa năm 1774, sơn thếp xanh vàng rực rỡ. Phía trước dựng lầu vọng tiên, quy mô tráng lệ. Trước chùa có giếng sâu hơn 30 thước (ta) (khoảng 12m), nước rất trong sạch. Tương truyền xưa có tiên nữ ban đêm xuống tắm ở giếng ấy, nên có tên là Giếng Tiên. Chùa Sơn Tùng ở xã Tùng Sơn, huyện Quảng Điền, cảnh trí u tịch. Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu lại năm 1756. Chúa ban cho một tấm biển khắc năm chữ : ‘Sắc Tứ Sơn Tùng tự’ và những câu đối: 1- Thủy tú sơn minh, hải quốc vô song nguyên phước địa, Trùng hưng cổ tự, Nam thiên đệ nhất thị Sơn Tùng Dịch: Sông đẹp, núi xinh, đất nước này, nơi đâu sánh kịp? Chùa xưa sửa lại, Sơn Tùng cảnh đẹp nhất trời Nam. 2- Mai ngọc điện xuân phong, độc ái thanh hương cung Phật tọa. Đào hoa khai lệ nhật, di lai thế sắc ảnh thiền cung. Dịch : Cành mai chào đón gió xuân, hương thanh thoát chỉ riêng cúng Phật Hoa đào mừng báo ngày tươi, ánh hồng chiếu sáng chốn thiền môn. Lê Quý Đôn có kiểm điểm lại những tên của sông, núi ở xứ Thuận Hoá (Quảng Trị - Thừa Thiên ngày nay) ghi trong sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1553 đời 7 Theo Phan Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương, Dư Địa Chí.
  • 17. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 13 Mạc và nhận thấy: ‘Ngày nay vẫn y nguyên như thế ấy. Chỉ có thành hào trạm bến đò, chùa và tháp thì ngày nay (năm 1776 viết trong Phủ Biên Tạp Lục) có phần đổi khác so với buổi trước mà thôi.’ Đại lược về phần chùa, tháp, bấy giờ được ghi như sau: 1. Chùa Hoá Tự Chùa Hóa Tự ở về địa phận xã Khang Lộc, gần xã Hữu Bộ. Ở ngoài ngôi chùa ấy, bốn mặt nhìn ra đều là vũng và đầm nước mênh mông. Ở giữa đầm nước lớn này có một đám đất đột khởi lên cao như một cái nền nhà. 2. Chùa Kính Thiên Chùa Kính Thiên ở về địa phận xã Lệ Thuỷ, gần trạm Bình Giang (thuộc xã Yên Trạch hoặc xã Tam Duyệt). Cảnh thanh u, chùa ở trong núi nhưng là một chùa lớn tại hạt Tân Bình. 3. Chùa Đại Phúc Chùa ở địa phận hai xã Đại Phúc và Tuy Lộc, huyện Lệ Thuỷ. Tại chùa này người ta thường cầu phúc và cầu mưa rất có linh nghiệm. 4. Chùa Sùng Hoá Chùa ở về địa phận xã Lai Ân thuộc huyện Tư Vinh, sông Linh Giang quây bọc phía trước, đầm lớn bọc đằng sau. Cung tiên rực rỡ, tượng Phật tôn nghiêm. 5. Chùa Thiên Mụ Chùa ở giữa núi Sơn Nam, thuộc địa phận xã Hà Khê, huyện Kim Trà (nay là Hương Trà). 6. Đan Tháp Tháp Trung Đan ở về địa phận xã Trung Đan, huyện Võ Xương. Tháp này cao có đến một trăm thước ta (khoảng 40m) (Tháp Chàm này nay đã đổ) 7. Tháp Dương Lệ Tháp ở về địa phận xã Dương Lệ, thuộc huyện Hải Lăng (tháp Chàm này nay cũng đã đổ, chỉ còn lại mấy vật thờ bằng đá và một pho tượng đá được dân chúng địa phương xây một ngôi miếu để bầy thờ). Lê Quý Đôn có ghi riêng về ‘Trấn Thuận Hoá (Phú Xuân) có chùa công Thuận An (ở cửa biển Thuận An), chùa công Kim Luông, chùa công Hà Trung, chùa công Quảng Xuân, chùa công Thiên Mụ đều là những ngôi chùa lớn danh tiếng. Tại những ngôi chùa kể trên đều có đặt chức tăng lục. Các chùa còn lại có ty tăng lục, ty nội pháp lục, ty huyền pháp, ty đạo sĩ lục, ty tứ quý, ty đạo lục, ty lương y và ty trung tượng cơ lương y.’
  • 18. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 14 3 Phật Gíao Đàng Trong 3.1 Nhân duyên phát triển Phật giáo phát triển và hưng thịnh dưới hai triều đại Lý Trần. Khi nhà Minh xâm lăng Đại Việt thì, để đồng hoá, họ đã huỷ diệt văn hoá Đại Việt: thiêu hủy, tịch thu hết kinh sách, đập phá bia ký, chùa miếu. Đến khi Lê Lợi giành được độc lập, lập ra nhà Lê thì nhà Lê sùng thượng Nho học. Đến thời Mạc (1527-1593), Phật giáo được hưng phục ít nhiều, nhưng vì tình trạng nội chiến Nam Bắc triều, nên cũng bị hạn chế. Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1778), Phật giáo mới phát triển trở lại ở cả hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài. Sau khi vào trấn thủ Thuận Hoá (1558) nhất là từ 1600, Nguyễn Hoàng quyết định phát triển xây dựng lãnh thổ Đàng Trong để chống lại họ Trịnh xứ Đàng Ngoài. Các chúa tiếp theo đều sùng mộ đạo Phật, lấy đạo Phật làm điểm tựa chính sách trị dân. Ngoài ra, sau mấy thế kỷ hết đuổi ngoại xâm đến phân chia nội bộ, nội chiến tương tàn rồi phân tranh Trịnh Nguyễn, người dân Việt thấm đau cuộc đời vô thường giả tạo nên muốn tìm nơi nương tựa, an ủi tâm linh ở tôn giáo. Do đó Phật giáo được phục hưng, phát triển ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thiền phái Trúc Lâm bị suy vong từ thời Minh đến nay được phục hưng trở lại ở Đàng Trong với các thiền sư Viên Cảnh-Lục Hồ, Viên Khoan-Đại Thâm và nhất là thiền sư Minh Châu-Hương Hải hoạt động trong khoảng thời gian 1660-1682. Ngoài ra, vào cuối thế kỷ 17, khi nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Hoa, một số quân dân Trung Hoa không phục tòng triều đình mới, bỏ nước ra đi qua xứ Đàng Trong sinh sống. Trong số đó có một số thiền sư thuộc dòng Lâm Tế và một số ít thuộc thiền phái Tào Động đã giúp cho sự phát triển hai thiền phái này ở xứ Đàng Trong và vùng đất mới Đồng Nai-Lục Tỉnh. Nguyên do sự ra đi của nhiều người Trung Hoa bấy giờ là vì Trung Quốc vừa trải qua một cuộc thay đổi triều đại: Nhà Thanh thay thế nhà Minh mà đối với phần đông người Trung Hoa bấy giờ (người Hán) coi Mãn Thanh là ngoại tộc nên không ưa, không hợp tác, thậm chí đến bỏ ra nước ngoài để khỏi làm tôi của tân triều, như trường hợp 3000 quân nhà Minh do các tướng Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình đi 50 chiếc thuyền sang xin làm dân Đại Việt năm 1679, và năm 1680, Mạc Cửu rời Lôi Châu (Quảng Đông) sang mở mang đất Hà Tiên. Về tín ngưỡng, tân triều Mãn Thanh hết sức phục hưng Nho giáo; đối với Phật giáo tuy có ủng hộ nhưng không chu đáo lắm, chưa kể có những vụ như đốt chùa Thiếu Lâm; còn tín đồ Trung Hoa bấy giờ cũng ít để ý đến việc nghiên cứu giáo lý. Đó là những nguyên cớ để những thiền sư thích đi ra các nước lân bang, nhất là sang Đại Việt nơi mà các sư được đón tiếp chân thành, nồng nhiệt ở Đàng Trong cũng như ở Đàng Ngoài. Riêng về thế kỷ XVII đã ghi được sự có mặt ở Đàng Trong của các nhà sư Trung Hoa sau đây:
  • 19. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 15  Thiền sư Minh Hoằng, khai sơn chùa Ấn Tôn (nay là Từ Đàm) ở Thuận Hoá.  Thiền sư Giác Phong, khai sơn chùa Thiên Thọ (nay là Báo Quốc) ở Thuận Hoá.  Thiền sư Từ Lâm, khai sơn chùa Từ Lâm (gần nhà máy nước Huế).  Thiền sư Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh ở Hội An (Quảng Nam).  Quốc sư Hưng Liên, khai sơn chùa Tam Thai trên Ngũ Hành sơn (Quảng Nam) năm 1695.  Thiền sư Pháp Hoa, khai sơn chùa Thiên Ấn năm 1694, ở Quảng Ngãi.  Thiền sư Tế Viên, khai sơn chùa Hội Tông ở Phú Yên.  Thiền sư Nguyên Thiều, khai sơn chùa Thập Tháp Di Đà ở bên góc Đông Bắc thành Đồ Bàn, Bình Định và các chùa Quốc Ân năm 1665 và chùa Hà Trung ở cửa Thuận An, Thuận Hoá. Ngoại trừ hai vị Hưng Liên và Thạch Liêm thuộc thiền phái Tào Động, các vị khác đều thuộc thiền phái Lâm Tế. Hai thiền phái này đã theo nhịp mở mang lãnh thổ mà phát triển rộng rãi ở miền Nam. Dưới thời các chúa Nguyễn (1558-1802) có ba thiền phái hoằng hoá ở Đàng Trong: 1) Phái thiền Trúc Lâm với các thiền sư Viên Cảnh-Đại Thâm, Viên Khoan-Lục Hồ và đặc biệt là tổ sư Minh Châu-Hương Hải. Tổ sư Hương Hải hoằng dương Phật pháp ở Đàng Trong trong khoảng thời gian 1660-1682, nhưng vì chúa Nguyễn nghi ngờ nên bỏ Đàng Trong ra Đàng Ngoài hoằng hoá cho đến ngày viên tịch, năm 1715. Nhờ tổ sư Hương Hải, phái thiền Trúc Lâm phục hưng và phát triển ở Đàng Trong một thời gian và còn Chùa Chúc Thánh
  • 20. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 16 ảnh hưởng tới phái Lâm Tế từ Trung Hoa truyền sang Đàng Trong vào hậu bán thế kỷ XVII. 2) Phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong do tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch và các thiền sư Minh Vật-Nhất Tri, Minh Giác-Kỳ Phương, Minh Hoằng-Tử Dung, Minh Hải-Pháp Bảo phổ truyền nhưng có mang nhiều ảnh hưởng của phái thiền Trúc Lâm. Pháp môn tu hành là Thiền Tông pha Mật Tông chứ không còn thuần tuý là ‘Thiền tham công cán’ của thiền phái Lâm Tế Trung Hoa. Thiền phái này phát triển mạnh ở Đàng Trong và vẫn còn truyền thừa cho đến ngày nay. 3) Phái thiền Tào Động từ Trung Hoa truyền sang Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVII với hoà thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) và thiền sư Hưng Liên- Quả Hoằng chỉ hoạt động thịnh đạt dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sau đó thì tàn lụi. 3.2 Các thiền sư và chùa Thiền sư Minh Châu-Hương Hải (1628-1715) Thiền sư Minh Châu-Hương Hải còn được gọi là Tổ Cầu, tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc, tỉnh Nghệ An. Thiền sư Hương Hải sống ở làng Bình An, huyện Thăng Hoa, tỉnh.Quảng Nam, đậu hương tiến (cử nhân) năm 18 tuổi (1645). Năm 1652 được chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) bổ làm tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị) lúc mới 25 tuổi. Hương Hải bấy giờ đã mến đạo Phật, ông theo cầu Phật pháp với thiền sư Vân Cảnh-Lục Hồ, được ban pháp hiệu là Minh Châu-Hương Hải. Thiền sư cùng một đệ tử đi thuyền ra núi Tiêm Bút La, trên cù lao Đại Lãnh ngoài biển Đông lập am tranh tu hành. Ở đây thiền sư bị ma quỷ thường hiện ra quấy phá, thiền sư cho rằng đất đó là ác địa nên trở về quê trong đất liền tu hành. Nhưng dân ở đảo thiết tha mời thiền sư trở lại nên thiền sư cùng đệ tử lên thuyền trở lại. Thiền sư hoằng hoá ở đó suốt tám năm không gặp trở ngại gì nữa. Đạo hạnh càng ngày càng cao; thêm nghề chữa bệnh giỏi, danh tiếng đồn xa, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cho người ra đảo đón thiền sư về dinh ở Phú Xuân, thăm hỏi và tham vấn Phật pháp rồi lập Thiền Tịnh Viện ở núi Linh Thái tại cửa biển Tư Dung để thiền sư cư trú hoằng hoá. Khoảng năm 1667, Quốc Thái phu nhân và ba công tử, con của chúa Hiền cùng một số quan tướng triều đình chúa Nguyễn đến thọ giới quy y thiền sư có đến 1300 người. Được một thời gian, có người ghen ghét tâu với chúa Hiền, vu oan rằng thiền sư mưu đồ cùng Gia Quận công (làm quan Đàng Ngoài, bị chúa Nguyễn bắt được khi chiếm được bẩy huyện tỉnh Nghệ An, nhưng rồi tha và cho dậy học ở nội cung chúa) trốn ra Đàng Ngoài theo chúa Trịnh. Chúa Hiền cho bắt hai người đem điều tra, nhưng không thấy bằng chứng để kết tội. Tuy nhiên chúa không cho thiền sư ở Thiền Tịnh Viện nữa mà đuổi vào Quảng Nam. Do đó cho đến năm Nhâm Tuất, thiền sư cùng khoảng 50 đệ tử dùng thuyền vượt biển ra Đàng Ngoài. Thuyền ghé vào trấn Nghệ An, ngài vào yết kiến quan trấn thủ. Quan trấn thủ tâu về triều đình. Chúa Trịnh Tạc (1657-1686) sai Đường Quận công đem thuyền ra Nghệ An đón rước thiền sư và các đệ tử vào Đông Đô tạm ngụ tại công quán và sai nội giám điều tra lý lịch. Sau khi điều tra xong, chúa Trịnh Tạc cho mời thiền sư vào triều thăm hỏi và phong chức Vụ Sử, thưởng 300 quan tiền, mỗi năm cấp 24 lâu thóc, 36 quan tiền, 1 tấm vải
  • 21. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 17 trắng. Đệ tử của thiền sư, mỗi người được cấp mỗi năm 12 lâu thóc và 12 quan tiền. Chúa Trịnh còn bảo thiền sư vẽ bản đồ lãnh thổ Đàng Trong. Bản đồ vẽ rất rõ ràng, chúa Trịnh khen ngợi và thưởng cho 2000 quan tiền. Tháng 8 năm ấy, chúa Trịnh đưa thiền sư đến nhà công quán ở trấn Sơn Tây. Được tám tháng chúa Trịnh lại đưa thiền sư về ngụ ở trấn Sơn Nam. Chúa ra lệnh cho trấn thủ Sơn Nam xây cất am và trích ra ba mẫu đất công để thiền sư cư trú và tu hành. Lúc đó thiền sư đã 56 tuổi (1683). Ở đây thiền sư chuyên tâm vào việc dịch kinh ra chữ Nôm được 30 quyển, cho khắc bản in và ấn hành. Năm 1700, thiền sư sang hành đạo ở chùa Nguyệt Đường gần thị trấn Phố Hiến. Lúc đó thiền sư có 70 đệ tử, tất cả đều tinh thông kinh luật. Thiền sư cho trùng tu lại chùa Nguyệt Đường rộng lớn tráng lệ hơn nhiều và thành một trung tâm quan trọng phục hưng lại thiền phái Trúc Lâm cho đến ngày nay. Thiền sư Nguyên Thiều Thiền sư Nguyên Thiều họ Tạ, pháp tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hưng, tỉnh Quảng Đông, xuất gia năm 10 tuổi, thọ giáo hoà thượng Khoáng Viên tại chùa Bảo Tư. Năm 1665, sư theo thuyền buôn sang Đại Việt. Lúc đầu ngài cư trú tại phủ Quy Ninh (tức Bình Định bây giờ), sau lập chùa Thập Tháp Di-Đà8 ở làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn, tại cạnh góc Đông Bắc thành Đồ Bàn. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì chùa này lập năm 8 Theo truyền thuyết thì trong việc xây cất, chùa đã dùng đến gạch ở mười cây tháp Chàm đổ nát tại khu vực chùa, nên gọi là chùa Thập Tháp. Chùa Thập Tháp
  • 22. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 18 1683, nhưng có lẽ đó là năm hoàn tất công cuộc xây cất. Năm 1691, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa biển ngạch và câu đối. Kiến trúc chùa Thập Tháp như ngày nay được thấy chứng tỏ công cuộc xây cất quy mô và lớn lao. Chánh điện là một nhà bình đồ vuông, kiểu ba gian, hai chái giản dị, nhưng cột kèo vách đố, cánh cửa chấn song đều to mập, dầy dặn; cột thì lớn trên ôm những đòn tay to tròn bằng những cột nhà dân gian. Những kèo, chính, quyết đều bằng gỗ sao và chạm chữ Phạn. Hai lớp sân đằng sau có những toà nhà quây bọc thành những ô chữ Khẩu, ghép cả hai lại thành chữ Nhật. Những toà nhà này đều làm kiểu giản dị nhưng bền chắc. Sư Nguyên Thiều sau ra Thuận Hoá9 lập chùa Hà Trung thuộc huyện Phú Lộc, rồi lên Xuân Kinh (Huế), lập chùa Vĩnh Ân (nay là Quốc Ân) và xây tháp Phổ Đồng ở ấp Phước Quả, quận Hương Thuỷ, gần núi Ngự Bình. Chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng đến thời Tây Sơn bị tàn phá. Đến thời Minh Mạng chùa được cất dựng lại như ngày nay. Chùa Quốc Ân làm kiểu chữ Khẩu tương tự như chùa Thập Tháp nhưng chỉ có một lớp sân sau, nghĩa là ngắn hơn, nhưng chánh điện làm mái trùng thiềm (hai tầng mái) và trong sân sau xây bể cạn với non bộ lớn. Tháp Phổ Đồng ở sân trước nay không còn dấu tích gì. Theo sách Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì chúa Nguyễn Phúc Trăn10 có nhờ thiền sư Nguyên Thiều sang Trung Hoa mời các danh tăng và thỉnh kinh điển, pháp tượng, pháp khí. Theo Thích Mật Thể trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược thì sau khi ở Trung Hoa về, thiền sư Nguyên Thiều được chúa Nguyễn Phúc Trăn uỷ cho tổ chức giới đàn lớn tại chùa Thiên Mụ. Vào những năm chót, thiền sư về trụ trì tại chùa Hà Trung, tọa lạc tại xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, nơi mà khi trở lại sau chuyến sang Trung Hoa, thiền sư đã thỉnh được một pho tượng lớn bằng đá trắng: Bạch Y Quán Âm, đem về thờ tại đây. Thạch Liêm thiền sư đã tả cảnh chùa như sau: ‘Đoái nhìn chùa son, điện ngọc, lấp lánh trong bờ biển, rừng tùng. Nước mây man mác, chập chùng bóng dương, phảng phất chốn Bồng Lai, Lãng Uyển’ Thiền sư có kèm ba bài thơ, mà ở đây chỉ trích có bài thứ nhất như sau: Lục liễu thuỳ thùy ẩn Phạm cung, Chung thanh chiêu đệ mãn hà phong. Trúc ly thảo kính phù lam yểm; Thạch hác hà lầu đáo ảnh không Hầu thực hồng ngư suy thủy thượng, Đề yên thuý điểu lạc hoa trung. Vương gia từ miếu âm sung xứ; Hướng hữu linh quang tạ Hải Đông. Liễu biếc xanh rờn che thiền quán. Chuông chùa thanh thoát cợt gió hồng . Rào tre, đường cỏ, tràn hơi núi. Hang đá, lầu ngọc, lấp lánh soi. Cá hồng săn mồi, rung rinh nước. Chim xanh vui hót, lạc vườn hoa. Đền miếu Hoàng gia, sao u tịch. Soi bóng linh thiêng tới Biển Đông. 9 Theo sự tích chùa Long Thiền, một tổ đình sơn tại Nam Việt của Yết Ma thiền niệm thì thiền sư Nguyên Thiều có thừa kế thiền sư Bổn Kiều trụ trì chùa Long Thiền ở Biên Hòa trước khi được triệu về Huế. 10 Theo các bài trên Wilkipedia “Chúa Nguyễn” và “Vua Việt Nam” đọc tháng 2 năm 2013, thì không có chúa Nguyễn Phúc Trăn mà chỉ có chúa Nguyễn Phúc Thái vào khoảng thời gian này.
  • 23. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 19 Thiền sư Nguyên Thiều được coi là vị tổ đầu tiên truyền phái Lâm Tế ở Đàng Trong. Những tăng sĩ vừa Hoa vừa Việt cư trú tại chùa Thập Tháp và chùa Quốc Ân được thiền sư coi như đệ tử gồm có: Minh-Vật Nhất-Tri, Minh-Giác Kỳ-Phương, Minh-Trí-Nguyệt Hạnh, Minh-Dung Pháp-Thông, Minh-Lương Nguyệt-An, Thành-Đẳng Minh-Yêu, và Thành Thiên Pháp Thông. Tháng 12 năm 1988, người ta đã tìm thấy tháp của thiền sư Siêu-Bạch-Nguyên Thiều ở chùa Kim Cang tỉnh Đồng Nai. Điều này cho thấy là tổ sư Nguyên Thiều có thể là đã viên tịch ở chùa Kim Cang tỉnh Đồng Nai chứ không phải ở chùa Hà Trung. Ngoài ra bia ‘Sắc tứ Hà Trung tự Hoán Bích (Nguyên Thiều) thiền sư tháp ký minh’ cho biết là tổ sư Nguyên Thiều viên tịch vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728) và vị chúa ban bài minh tán thán công đức tổ sư Nguyên Thiều là chúa Nguyễn Phúc Chú. Thiền sư Nguyên Thiều bị đẩy ra khỏi chùa Hà Trung vì năm 1692 có người Hoa kiều nổi loạn ở Bình Thuận rồi năm 1694-1695 có chính biến và nổi loạn do những người mà thiền sư có liên can. Thiền sư đã rời chùa Hà Trung khoảng năm 1692-1694 vào ẩn tránh ở miền đất mới tại chùa Kim Cang ở Đồng Nai và hoằng hoá ở vùng này cho tới khi viên tịch. Năm 1694 có cuộc âm mưu nổi loạn của hai người cháu của chúa Nguyễn Phúc Chu là chưởng cơ Nguyễn Phước Huệ và chưởng cơ Nguyễn Phước Thông. Bị tố giác, hai người này và đồng bọn bị chúa giết. Trong khi đó, một Hoa kiều ở phủ Quy Ninh (Quy Nhơn) tên là Linh ở Quảng Ngãi nổi loạn. Linh xưng là Linh Vương, họp đồ đảng, đúc binh khí, đóng thuyền, đem quân đánh phá nhiều vùng ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Có thể có sự kết hợp giữa Linh Vương, Quảng Phú với Nguyễn Phước Thông, Nguyễn Phước Huệ. Phải đến năm 1695 Chúa Nguyễn mới dẹp xong. Quân chưa đến sơn trại thì Linh vương đã chết. Quảng Phú trốn vào Phú Yên bị dân bắt đem nộp. Quảng Phú là Hoa kiều sống ở Quy Nhơn, chắc là đệ tử của tổ sư Nguyễn Thiều, khai sơn chùa Thập Tháp. Thông và Huệ có lẽ cũng đã quy y thọ giới với tổ sư Nguyên Thiều. Vì vậy, ngay từ năm 1694, sau khi âm mưu nổi loạn bị đổ bể, tổ sư Nguyên Thiều cùng các đệ tử trong thiền phái Lâm Tế như Minh Hải-Pháp Bảo bị liên lụy, phải bỏ chùa trốn đi nơi khác, đổi pháp danh để lánh nạn. Tổ Nguyên Thiều vào Đồng Nai với pháp danh là Siêu Bạch, lập chùa Kim Cang ở Bình Thảo (Bến Cỏ, Đồng Nai). Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch năm 1728, thọ 81 tuổi. Đệ tử và đồ chúng lập tháp Hoà Môn để chôn hài cốt tại xóm Thuận Hoà, làng Dương Xuân Thượng, tỉnh Thừa Thiên. Chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho thuỵ hiệu là Hạnh Đoan thiền sư và lập bia đá dựng năm 1735 ở chùa Quốc Ân do chúa làm bài minh, ca tụng đạo đức thiền sư như sau: Ưu ưu bát nhã Đường đường Phạm thất Thuỷ nguyệt ưu du Giới trì chiến lật Trạm tịch cô kiên Trác lập khả tất Quán thân bổn không Hoằng pháp lợi vật Dịch: Trí tuệ tuyệt vời, Oai nghiêm nhà Phật, Trăng nước nhàn du, Giữ giới nghiêm ngặt, Lặng lẽ, kiên cường, Cao xa tột cùng, Biết thân huyễn hoặc, Truyền đạo hóa đời,
  • 24. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 20 Biến phú từ vân Phổ chiếu tuệ nhật Chiêm chi, chiêm chi Thái sơn ngật ngật Mây từ phủ dụ, Trời tuệ chan hoà, Nhìn xem, nhìn xem, Thái Sơn chót vót. Trước khi viên tịch, thiền sư có để lại câu kệ sau đây: Tịch tịch kỉnh vô ảnh Minh minh châu bất dung Đường đường vật phi vật Liêu liêu không vật không Yên lặng, gương chẳng soi hình. Sáng trong, ngọc không giữ ảnh. Rành rành, vật không phải vật. Vắng vẻ, không chẳng phải không Thiền sư Tử Dung Thiền sư pháp tự là Minh Hoằng đã khai sơn chùa Ấn Tôn tức là chùa Từ Đàm ngày nay, ở núi Long Sơn, làng Bình An, huyện Hương Thuỷ. Thiền sư là người Quảng Đông, có lẽ qua Đại Việt theo lời mời của thiền sư Nguyên Thiều. Chùa Ấn Tôn được ghi là tạo dựng năm 1703 nhưng có lẽ thiền sư Tử Dung đã đến cư trú ở đây từ trước khi chùa tạo dựng xong. Thiền sư thuộc đời thứ 34 dòng Lâm Tế, trong số các đệ tử đắc pháp với sư có thiền sư Liễu Quán là người được sư yêu mến nhất. Nhưng thiền sư Liễu Quán không thấy trụ trì ở chùa Ấn Tôn sau khi thiền sư Tử Dung viên tịch mà lại khai sơn một tổ đình khác là chùa Thiền Tôn. Những người kế tiếp thiền sư Tử Dung ở chùa Ấn Tôn là: Thát Vinh, Sát Ngữ, Đạo Trung, Thanh Dũng.... Chùa Từ Đàm (trước gọi là chùa Ấn Tôn)
  • 25. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 21 Thiền sư Từ Lâm11 Thiền sư là tổ khai sơn chùa Từ Lâm là ngôi chùa toạ lạc trên khu đồi xã Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, Thuận Hoá. Có lẽ thiền sư đã sang Đại Việt năm 1697 nghĩa là hai năm sau giới đàn của thiền sư Thạch Liêm. Thiền sư bấy giờ đã già, làm hoà thượng đàn đầu cho giới đàn có thiền sư Liễu Quán đến thọ giới, nên mọi người đều tôn xưng là Lão hoà thượng. Thiền sư viên tịch vào năm nào không rõ, mộ hiện còn ở chùa Từ Lâm. Thiền sư Giác Phong Thiền sư tới Đại Việt và đã khai sơn chùa Thiên Thọ tức là chùa Báo Quốc ở núi Hàm Long (sau nhà ga Huế hiện nay) năm 1670. Phía Bắc chùa có giếng xưa sâu 4, 5 thước, đáy giếng có đá như hàm rồng, nước theo kẽ đá phun ra có vị thanh ngọt nên có câu ngạn ngữ "nước giếng Hàm rồng đã trong lại ngọt". Hồi đầu khai quốc, nước này được múc để vua dùng nên có tên là giếng Cấm. Thiền sư Liễu Quán, khi còn là du tăng đã tới chùa Thiên Thọ và thụ giáo với thiền sư Giác Phong vào những năm 1690-1691. Thiền sư Pháp Bảo (1670-1746) Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo là người Phúc Kiến, đã khai sơn chùa Chúc Thánh tại Hội An (Quảng Nam) và được coi như tổ dòng thiền Lâm-Tế Chúc-Thánh. Tương truyền thiền sư được thiền sư Nguyên Thiều mời từ Quảng Đông qua Đại Việt thời chúa Nguyễn Phúc Thái12 (1687-1691). Sau khi tham dự giới đàn tại chùa Thiên Mụ, thiền sư vào Hội An dựng chùa Chúc Thánh năm 1696. Thiền sư Pháp Bảo có bài kệ truyền pháp như sau: 11 Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, phủ Thừa Thiên thì tương truyền là thiền sư Chính Đản lập ra chùa Từ Lâm, vậy có lẽ thiền sư Từ Lâm cũng là thiền sư Chính Đản. 12 Một số tài liệu cũ ghi là Nguyễn Phúc Trăn, nhưng các tài liệu mới trên Wilkipedia đọc tháng 2, 2013, ghi là Nguyền Phúc Thái khẳng định rằng không có chúa Nguyễn Phúc Trăn (‘Chúa Nguyễn’ và ‘Vua Việt Nam’). Chùa Báo Quốc – Giếng Hàm Long
  • 26. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 22 Minh thật pháp toàn chương Ấn chân như thị đồng Chúc thánh thọ thiên cửu Kỳ quốc tộ địa trường Đắc chánh luật vi tiên Tổ đạo hạnh giải thông Giác hoa bồ đề thọ Sung mãn nhân thiên trung Dịch: Thấu đạo rốt ráo, Tính Phật hiện ra . Mừng quân vương ngàn tuổi. Mong đất nước trường tồn. Cầu đạo, giới luật trước. Tổ đạo hạnh thông Bồ đề nở hoa giác, Phơi phới giữa bầu trời. Quốc sư Hưng Liên Quốc sư là người Trung Hoa, pháp danh Quả Hoằng, sang Đại Việt, khoảng đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691). Có lẽ thiền sư là người đầu tiên đem tông phái Tào Động vào xứ Đàng Trong. Sư được chúa Nguyễn Phúc Chu tôn làm quốc sư, trước khi thiền sư Thạch Liêm qua Đại Việt. Thạch Liêm qua Đại Việt chắc là do sự giới thiệu của sư Hưng Liên với chúa Nguyễn Phúc Thái và với chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725) vì sư nguyên là đệ tử của Thạch Liêm. Quốc sư Hưng Liên là người khai sơn chùa Tam Thai trên Ngũ Hành Sơn, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Thiền sư Pháp Hoá Thiền sư sinh năm 1670, tục danh là Lê Diệt, hiệu là Minh Hải Phật Bảo, người Phúc Kiến. Có lẽ thiền sư đã sang Đại Việt hồi mới trên 20 tuổi, cùng dịp thiền sư Nguyên Thiều trở lại Đại Việt sau khi sang Quảng Đông. Thiền sư khởi dựng chùa Thiên Ấn trên núi Thiên Ấn ở bên sông Thu Bồn, Quảng Ngãi năm 1694, và trụ trì ở đây suốt 60 năm đến năm 1754 thì viên tịch. Núi Thiên Ấn là quả núi hình vuông đầu bằng như chiếc ấn, nổi lên ở ngay bên bờ tả ngạn sông Thu Bồn, phía Bắc tỉnh thành Quảng Ngãi. Chùa Thiên Ấn được chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho biển ngạch ‘Sắc Tứ Thiên Ấn Tự’ vào năm 1716. Tục truyền rằng khi thiền sư Pháp Hoá khởi công đào giếng trên núi Thiên Ấn, có một vị tăng trẻ đến xin phát nguyện công đức phụ lực với thiền sư. Sau ba năm, hai người đào được 55 thước mộc (21m) bề sâu thì gặp một tảng đá lớn chắn ngang. Hai người không nản Núi Thiên Ấn
  • 27. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 23 lòng tiếp tục đục đá. Mấy tuần sau, nước từ giữa tảng đá vọt lên. Mọi người đều mừng rỡ thì ngay sau đó vị tăng trẻ đi đâu mất. Về chuyện này dân chúng Quảng Ngãi truyền tụng câu ca dao: Ông thầy đào giếng trên non; Đến khi có nước không còn tăm hơi. Chùa Thiên Ấn còn nổi tiếng vì cái "chuông thần". Chuyện "chuông thần" xẩy ra năm 1845, hồi vị tổ thứ 3 của chùa là Bảo Ấn thiền sư trụ trì. Tục truyền rằng: một hôm trong giờ thiền định, thiền sư thấy một vị hộ pháp tới mách rằng: tại làng Chú Tượng (xã Đức Thọ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) có một quả chuông lớn nên đến để thỉnh về chùa. Thiền sư bèn nhờ một vị tăng tên là Điền Toạ đến Chú Tượng dò hỏi. Ở đây dân làng cho biết là họ vừa đúc xong một đại hồng chung cho chùa làng, nhưng chuông không kêu nên ban chức việc định phá ra đúc lại. Sư Điền Tọa bèn mua lại đem về Thiên Ấn. Lúc sắp làm lễ khai chuông ở chùa Thiên Ấn, ai cũng nghi ngại rằng chuông không kêu. Duy có thiền sư Bảo Ấn vẫn im lặng chú nguyện. Chú nguyện xong, sư cầm dùi đánh chuông, thì chuông rất kêu. Chuông đến nay vẫn được treo ở phía tả chánh điện chùa mới, xây khoảng năm 1959-61 vì chùa cổ bị hủy hoại năm 1947. Ông Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) có thơ vịnh núi, vịnh chùa và chuông như sau: Phong cảnh ta đây thật rất xinh. Niêm hà có ấn của trời sinh. Xem kia dấu tích còn vuông vức, Nhận lại non sông rõ dạng hình. Cách thức như in đồ cổ tự. Cỏ cây nào phụ tiếng chuông linh. Châu sa đổ dưới chân chờ mãi. Trấn chỉ sau lưng núi Cẩm Thành. Sau một thời gian hoằng hoá ở chùa Thiên Ấn, thiền sư Pháp Hoá nổi danh, chúa Nguyễn tôn sùng nên năm 1717, chúa Nguyễn Phúc Chu ban biểu ngạch cho chùa Thiên Ấn ‘Sắc Tứ Thiên Ấn Tự’. Thiền sư Minh Hải–Phật Bảo viên tịch ở chùa Thiên Ấn ngày 27 tháng giêng năm Giáp Tuất (1754), đồ chúng lập tháp thờ trong chùa. Thiền sư có nhiều đệ tử nổi danh kế thế trụ Chùa Thiên Ấn
  • 28. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 24 trì ở chùa Thiên Ấn và hoằng hoá ở Phú Yên, ở chùa Non Nước (Quảng Nam) ở Thủ Dầu Một và Gia Định. Thiền sư Thạch Liêm Thiền sư Thạch Liêm, hiệu là Đại Sán Hán Ông, người Giang Tây, Trung Hoa, sinh năm 1633, xuất gia hồi còn niên thiếu, ở chùa Thượng Lam, theo học thiền sư Giác Lãng tới năm 16 tuổi. Sau sư làm giảng sư chùa Trường Thọ ở Quảng Đông do thiền sư Thực Hành trụ trì. Khi thiền sư này tịch, sư được thừa kế trụ trì ở chùa này. Thạch Liêm học vấn uyên bác, các môn thiên văn, địa lý, lý số, bút thiếp (viết chữ), thủ công không thứ gì là không tinh thông, lại sở trường cả thi phú. Với tài hội họa và kiến trúc, thiền sư đã biến chùa Trường Thọ thành một chốn danh thắng ở miền Quảng Đông. Thiền sư được chúa Nguyễn Phúc Thái hai lần mời sang Đại Việt nhưng chưa đi được, mãi đến năm 1694 mới đi theo người của chúa Nguyễn Phúc Chu cử sang đón mời. Độ khoảng 100 người cùng đi với thiền sư mà phân nửa là tăng chúng. Đoàn người đi bằng hai chiếc thuyền buôn có đem theo nhiều pháp khí, kinh tượng để tổ chức giới đàn. Thuyền tới đảo Tiêm Bút La (Cù lao Chàm) vào cuối tháng giêng năm Ất Hợi (1695). Chúa Nguyễn Phúc Chu cho thuyền ra đón rước về để cư trú tại chùa Thiền Lâm, Phú Xuân. Chúa sai 1000 thợ cất dựng luôn trong ba ngày đêm mười căn phương trượng và lưu xá cho đoàn tăng khách tạm trú. Trong thời gian lưu trú tại Đại Việt, thiền sư Thạch Liêm đã thực hiện được việc tổ chức giới đàn Thiền Lâm rất quan trọng từ mồng một đến ngày 12 tháng tư năm Ất Hợi (1695). Giới đàn có tới trên 3000 người dự trong số đó có tới 1400 giới tu xuất gia, xa gần vừa tỳ khưu, vừa sa di, có chúa quốc mẫu, vương huynh, công chúa quyến thuộc trong nội cung cùng một số các quan chức nhận lễ trao bồ tát giới. Trong giới đàn này, giới điệp cấp phát cho giới tử đều có đóng kèm ấn của phủ chúa. Giới đàn này có tầm quan trọng rất lớn vì được tổ chức cho tất cả xứ Đàng Trong. Các tỉnh đều có giới tử về thọ giới. Thiền sư Liễu Quán cũng đã từ Phú Yên ra để thọ giới sa di ở giới đàn này. Thiền phái Tào Động trước kia chỉ có ở Quảng Nam thì nay lan ra khắp nơi, khắp xứ. Tháng 7 cùng năm ấy, thiền sư Thạch Liêm lại tổ chức một giới đàn khác tại chùa Di Đà ở Hội An và làm lễ thọ giới cho trên 500 người. Giới đàn ở đây được tổ chức đơn giản hơn nhưng giới điệp cũng được đóng kèm ấn của chúa. Từ Hội An, thiền sư được chúa Nguyễn Phúc Chu cho người đón ra ở chùa Thiên Mụ cho đến tháng 6 năm sau mới xuống thuyền về Quảng Đông. Thiền sư trở lại Đại Việt năm 62 tuổi và mất năm 1704, thọ 71 tuổi. Trong thời gian lưu trú ở Phú Xuân thiền sư thường được vời vào cung để đàm đạo với chúa Nguyễn Phúc Chu và lập chùa Khánh Vân ở gần chùa Thiên Mụ, và theo tương truyền còn lập chùa Thiền Lâm ở xã An Cựu. Thiền sư Thạch Liêm và thiền sư Nguyên Thiều là hai người có công sức lớn nhất trong số những thiền sư Trung Hoa đã đem văn hoá Trung Hoa sang truyền bá cho xứ Đàng Trong nước ta về thời các chúa Nguyễn mở nước.
  • 29. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 25 Hoà thượng Liễu Quán (1667-1742) - Môn phái Liễu Quán Hoà thượng sinh năm 1667, người làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (sông Cầu bây giờ). Nhà nghèo, mồ côi mẹ từ năm mới sáu tuổi. Năm 12 tuổi, sư theo cha đến chùa Hội Tôn, gặp Tế Viên hoà thượng, bèn xin ở lại theo học. Được bẩy năm thì hoà thượng tịch, sư ra Thuận Hoá tìm học với Giác Phong lão tổ ở chùa Thiên Thọ (sau đổi là Báo Quốc). Được một năm, đến năm 1691, sư phải về phụng dưỡng cha già, lấy nghề đốn củi rừng làm kế độ nhật cho hai cha con. Bốn năm sau, thân phụ từ trần, lo liệu ma chay cho cha xong, năm 1695 sư lại trở ra Thuận Hoá thọ giới sa di với Thạch Liêm hoà thượng tại chùa Thiền Lâm. Hai năm sau, sư lại thọ cụ túc giới với Từ Lâm lão hoà thượng. Từ năm Kỷ mão (1699), sư lại lên đường cầu học tham lễ khắp các chốn tổ đình, trải qua nhiều khó khăn. Năm 1702, sư đến chùa Ấn Tôn ở Long sơn (Thuận Hoá) gặp được Tử Dung hoà thượng. Hoà thượng dậy sư tham khảo về công án: ‘Muôn phép về một, một về chỗ nào?’. Sư lui về Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến năm năm mà chưa phá vỡ được ý nghĩa công án ấy. Một hôm đọc sách Truyền Đăng Lục đến câu ‘Trỏ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta không hiểu’ (chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ) thoát nhiên sư ngộ hiểu. Nhưng đến đầu năm 1708 sư mới trở ra Long Sơn trình bầy công án với Tử Dung hoà thượng, được hoà thượng rất khen ngợi. Mùa hè 1712, hai người gặp lại nhau lần thứ ba tại đại lễ Toàn Viện ở Quảng Nam. Thiền sư bấy giờ có nhiều đạo tràng hành đạo là những chùa Thiền Tông, Viên Thông ở Thuận Hoá, chùa Hội Tông, Cổ Lâm và Bảo Tịnh ở Phú Yên. Chùa Thiền Tông (cũng gọi là Thuyền Tông, tên chữ Hán là Thiên Thai Thuyền Tông Tự) có lẽ được thiền sư Liễu Quán khởi tạo năm 1708 ở chân núi Thiên Thai, ngó xuống nơi gò bằng phẳng, cảnh trí đẹp đẽ. Thiền sư ở chùa Thiền Tông đến năm 1742. Năm năm sau khi thiền sư viên tịch, chùa được chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc tứ cho biển ngạch, và quả chuông lớn của chùa ngày nay cũng được đúc vào năm đó. Chùa Viên Thông được thiền sư tạo lập ở chân núi Ngự Bình. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất kính mến đạo hạnh của thiền sư nên thường đến chùa Viên Thông để thăm và hỏi đạo. Vì vậy mà quả núi ở đó được gọi là núi Ngự. Giới Phật tử bấy giờ cũng rất ngưỡng mộ thiền sư nên trong ba năm từ 1733 đến 1735, thiền sư Liễu Quán được thỉnh cầu chủ tọa bốn giới đàn lớn tổ chức tại Phú Xuân, có các cao Chùa Viên Thông
  • 30. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 26 tăng, tể quan và cư sĩ tới tham dự. Đến năm 1740, thiền sư lại chủ tọa giới đàn Long Hoa và năm 1742, tuy đã 72 tuổi, thiền sư vẫn làm hoà thượng đàn đầu của giới đàn tổ chức tại chùa Viên Thông. Có đến gần 4000 người kể cả xuất gia lẫn tại gia thọ giáo với thiền sư. Mùa thu năm ấy thiền sư an trú tại chùa Viên Thông, sáng ngày 21 tháng 11 âm lịch, thiền sư cho gọi thị giả đem giấy bút tới để viết bài kệ sau đây: Thất thập dư niên thế giới trung, Không không sắc sắc diệc dung thông. Kim triệu nguyện mãn hoàn gia lý, Hà tất bôn mang vấn tổ tông? Dịch: Hơn bẩy mươi năm giữa cõi trần. Có không, không có, cũng hòa thông. Trở lại quê nhà sau nguyện mãn. Còn có gì đâu hỏi tổ tông? Viết xong bài kệ, thiền sư ngồi dùng trà. Đại chúng làm lễ. Thầy trò trò truyện hồi lâu, đến giờ Mùi thiền sư nhắn lại mọi người: ‘Sau khi tôi đi các vị phải nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn của tôi’. Nói xong thiền sư nhắm mắt mà tịch trong thế kiết già. Chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc dựng tháp, lập bia ở chùa Thiền Tông, núi Thiên Thai và ban thụy hiệu là ‘Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hoà Thượng’. Thiền sư Liễu Quán là đời thứ 35 dòng Lâm Tế, kể từ gốc Trung Hoa. Ngày nay, Phật giáo ở Trung và Nam phần lớn là thuộc dòng Lâm Tế mà thiền sư là người có công hoằng hóa hơn cả và đã tạo ra một nhánh lớn gọi là môn phái Liễu Quán. Lúc trước Phật giáo Đàng Trong mang nặng mầu sắc Quảng Đông. Thiền sư đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế thành một Chùa Thiền Tông
  • 31. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 27 thiền phái thích hợp với đa số Phật tử Đàng Trong hơn, và đã ảnh hưởng nhiều đến Phật giáo miền Nam ngày nay. Chi phái Liễu Quán phát xuất từ một bài kệ truyền phái riêng cho chi phái Thiên Thai thiền tông tức chi phái thiền Liễu Quán thuộc thiền phái Lâm Tế chính tông. Bài kệ như sau: Thât tế đại đạo Tánh hải thanh trừng Tâm nguyên quảng nhuận Ðức bổn từ phong Giới định phúc tuệ Thể dụng viên thông Vĩnh siêu trí quả Mật khế thành công Truyền trì diệu lý Diễn sướng chính tông Hạnh giải tương ứng Ðạt ngộ chân không Dịch: Đạo lớn thực sự. Tính như biển trong. Tâm nguồn chan chứa Đức như gió từ. Giới làm phúc tuệ. Trong ngoài hợp nhất. Trí tuệ mênh mông. Yên lặng thành công. Giữ truyền đạo cả. Xiển dương chính pháp. Nết, ý song song. Chân lý hiểu được Các thiền sư thuộc chi phái Liễu Quán hoằng hoá ở đô thành Phú Xuân và các tỉnh miền Trung (từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên đến Khánh Hoà, Bình Thuận). Trong khi đó, ở vùng đất mới Đồng Nai-Gia Định, thiền phái Lâm Tế do tổ sư Nguyên Thiều truyền bá được phát triển rộng khắp nơi. Đến cuối đời các chúa Nguyễn, chi phái Liễu Quán từ miền Trung mới truyền vào vùng Đồng Nai - Gia Định, được gọi là Tế Thương chánh tông để phân biệt với thiền phái Lâm Tế do sự truyền thừa trực tiếp của tổ Nguyên Thiều kể trên. Trung Đình Hòa Thượng Thời các chúa Nguyễn còn một số cao tăng nữa nhưng nay ít được biết đến, hoặc giả vì các vị sống ẩn dật quá nên ít người được rõ tung tích như trường hợp của Trung Đình hoà thượng. Không rõ tên và là người ở đâu? Người ta thấy sư thường trú ngụ trong những ngôi đình, nên gọi tên như thế. Sư thường đi khất thực, đeo ba cái bị: một cái để nếu ai cho cá thịt thì cũng bỏ vào đấy, rồi đem cho kẻ ăn xin khác; một cái đựng món ăn chay để sư dùng; còn một cái lớn thì để lót chỗ ngồi. Ban đêm, sư ngồi trì tụng, ban ngày đi lang thang, áo quần gần như chẳng có, chỉ đóng một cái khố, thân hình lam lũ, tóc râu bù xù. Trẻ con trông thấy sợ hãi, vì vậy có thành ngữ ‘ông ba bị chín quai’ để dọa nạt trẻ con thời ấy. Khi đắc đạo rồi, sư xin lập một hoả đàn ở chùa Thiên Mụ. Thiên hạ được tin kéo đến xem, xin sư lưu lại cho một chút di thể, thì sư đưa một ngón tay lên. Lửa bốc lên theo gió làm lệch cái mũ Quan Âm trên đầu do chúa Nguyễn ban cho. Sư lấy tay sửa lại, miệng không ngừng tụng kinh. Người đến xem đông, giành nhau lấy trầm hương liệng vào hoả đàn. Khi hoả thiêu xong, người ta nhận thấy còn một ngón tay không cháy. Tăng chúng và Phật tử bèn lượm tro cốt đem xây tháp thờ ở bên chùa Thiên Mụ. Khi ấy là thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777).
  • 32. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 28 Pháp Vân hoà thượng cảm kích có làm bài thơ: Kỷ niên y bát ký phong trần, Đốn ngộ huyền cơ nguyện hoá thân. Mộng huyễn hình hài tùng liệt diệm, Sắc không tâm sự phó yên vân. Thần thê tây độ niên niên tại, Danh bá thiền môn nhật nhật tân. Kim cổ nhàn khán đàm tiếu lý, Bất tri như thử hựu hà phân? Dịch: Bấy lâu tu hành nơi cõi thế. Biết thời cơ đến, phải ra đi. Thân mộng ảo tan theo lửa dữ. Chuyện có không trao lại khói mây. Thân linh diệu nương nhờ đất Phật. Danh thơm kia lưu dấu cửa thiền Xưa nay thử gẫm mà xem. Biết được bao người như thế đó ? Đại lão thiền sư Tịnh Giác -Thiện Trì (Mộc Y Sơn Ông) Năm 1702 thời chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1675-1725), ‘Ông Núi (Sơn Ông)’ đến núi Bà, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định ở hang núi lập hang tĩnh mà tu hành, đặt tên là chùa Dũng Tuyền. Núi Bà ở trên bờ đầm Thị Nại cách thành Đồ Bàn 30 dặm về phía Đông Bắc. Tương truyền hàng ngày ông Núi mặc áo vỏ cây vào rừng núi hái củi, bó thành bó lớn vác xuống núi, đặt ở ngã ba đường. Dân địa phương đem gạo, muối, rau đậu đổi lấy, sư không bận tâm nhiều ít hơn thiệt. Vùng này có nhiều cọp beo và thú dữ, nhưng chúng trở nên hiền hoà với ông Núi. Năm 1733, chúa Nguyễn Phúc Chú (trị vì 1725-1738) nghe danh tiếng tài đức ông Núi, bèn ban pháp hiệu ông là ‘Tịnh Giác - Thiện Trì đại lão thiền sư’ và ra lệnh cho quan địa phương (Bình Định) xây dựng lại chùa Dũng Tuyền cao rộng, lớn ra và đổi tên là ‘Linh Phong thiền tự’. Năm 1741 chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) triệu Sơn Ông về cung để tham vấn và học hỏi Phật pháp. Sơn Ông về Phú Xuân một tháng rồi trở lại núi. Chúa ban cho Sơn Ông chiếc áo cà sa có móc vàng và vòng ngọc. Vào cuối thời chúa Vũ Vương, quốc phó Trương Phúc Loan lộng quyền, lũng đoạn triều đình chúa Nguyễn ở Phú Xuân, thì theo truyền thuyết dân gian, Ông Núi bỏ chùa Linh Phong đi đâu mất tích, đệ tử chùa xây tháp để kỷ niệm. Ông Núi có lẽ đã viên tịch vào năm 1785, thời Tây Sơn (1771-1801). Ông Núi, tức thiền sư Tịnh Giác-Thiện Trì, có viết Pháp Hoa kinh chú giải 200 quyển và sáng tác một số văn thơ. Sau đó, người ta có viết sách ‘Ngọc Thanh đồ chương’ gồm 7 chương kể chuyện về Sơn Ông.
  • 33. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 29 4 Hoằng Hoá Của Các Thiền Sư Ở Đồng Nai - Gia Định 4.1 Một số thiền sư được biết Khi các chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi vào khoảng thế kỷ 17 và 18 thì có một số cao tăng theo làn sóng di cư vào hoằng hoá vùng đất mới. Vào đầu thế kỷ 17, người Việt và sau đó có một số người Trung Hoa không thần phục nhà Thanh bỏ Trung Quốc qua Đàng Trong và Đồng Nai khai phá rừng núi và làm ăn buôn bán ở Đồng Nai - Gia Định. Trong số di dân Việt, Hoa có một số tăng sĩ đi theo vì lòng từ bi, muốn gần gũi, an ủi, giúp đỡ tinh thần và lễ nghi tôn giáo cho những người tha hương, lập nghiệp trên vùng đất xa lạ, quê người. Nay không rõ những tăng sĩ đến đầu tiên mà chỉ biết sơ qua về hoà thượng Chuyết Công, và một số đệ tử như thiền sư Minh Hành có lẽ đã hoằng hoá ở vùng Đồng Nai - Gia Định vào năm 1630. Sư Minh Hành ở đó một thời gian rồi năm 1633 ra Đàng Ngoài, và ở đó cho đến khi viên tịch năm 1644. Năm 1679, nhóm dân quân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Tổng Binh Trần Thượng Xuyên đến định cư ở Cù Lao Châu, sau mở rộng thành đại phố Đồng Nai (Cù Lao Phố ngày nay). Nhóm của tổng binh Dương Ngạn Địch thì đến định cư và mở mang đất Mỹ Tho, trong số này có một số tăng sĩ Trung Hoa. Ở Đông Phố (Gia Định) có Đạt Bổn thiền sư từ Quy Nhơn vào lập chùa Thiên Trường năm 1755. Chùa được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban tặng biển ngạch ‘Phổ Quang Thiền Sơn Tự’. Sau khi Đạt Bổn thiền sư viên tịch thì Quang Triệt thiền sư lên kế vị. Tới năm 1775, vào lúc thời cuộc rối loạn, có Hoà Nghĩa đạo lý tướng quân suy tôn đông cung Nguyễn Phúc Duyên lên kế vị chúa Nguyễn để chống lại nhà Tây Sơn, đã cử hành lễ suy tôn tại chùa này. Vì vậy sau đó chùa được ban sắc tứ đổi tên là ‘Kim Chương Tự’. Cũng tại Gia Định trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765) một ngôi chùa khác được thành lập là chùa Tập Phước. Vị khai sơn chùa Tập Phước chưa rõ là ai. Có lẽ là một vị thiền sư đời thứ 36 dòng Lâm Tế. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận thì Trịnh Hoài Đức có làm bài thơ tặng một thiền sư tên là Viên Quang tại chùa Tập Phước, nhưng theo sách Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì thiền sư Viên Quang thuộc đời thứ 36 dòng Lâm Tế tu tại chùa Giác Lâm cũng ở Gia Định. Vậy có thể rằng thiền sư Viên Quang đã lập chùa Tập Phước rồi giao lại cho đệ tử trông nom để về trụ trì tại chùa Giác Lâm. Cũng có thể là thiền sư Mật Hoằng đã khai sơn chùa Tập Phước và đã mời Viên Quang là sư huynh đến cùng cư trú. Sau khi Mật Hoằng được triệu về kinh (Phú Xuân) trụ trì chùa Quốc Ân thì sư Viên Quang cũng rời về trụ trì chùa Giác Lâm. Hai thiền sư này đều là đệ tử của thiền sư Linh Nhạc thuộc thiền phái Nguyên Thiều, gốc ở tổ đình Thập Tháp.
  • 34. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 30 Một tài liệu13 khác ghi là sư Toàn Tánh-Chánh Đắc (đời thứ 36 Lâm Tế) từ Quảng Nam vào đã khai sơn chùa dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ngoài Gia Định, các nơi khác như Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh đến tận Hà Tiên cũng được các vị thiền sư đến hoằng hoá. Ở Tây Ninh có thiền sư Thiện Hiếu, húy Đạo Trung (được tôn gọi là Tổ Đỉa) khai sơn chùa Linh Sơn trên núi Bà Đen năm 1763. Sư Đạo Trung thuộc đời thứ tư của môn phái Liễu Quán, là đệ tử của thiền sư Đại Cơ. Sư Đại Cơ là đệ tử của Tế Giác và Tế Giác là đệ tử trực tiếp của Liễu Quán. Sư Đạo Trung trụ trì tại chùa Linh Sơn 30 năm rồi trao sơn môn này cho đệ tử là Tánh Thiện để về khai sơn chùa Long Hưng ở Thủ Dầu Một năm 1794. Ở Hà Tiên thì có thiền sư Hoàng Long. Thiền sư người Quy Nhơn, vân du đến Hà Tiên, thấy núi Bạch Tháp ở phía Bắc đỉnh Vân Sơn, hình thế quanh co, cỏ cây xanh tốt, bèn dừng chân lại mà hoằng hoá nơi đây. Thiền sư viên tịch năm 1757. Đệ tử làm lễ hoả thiêu và lập tháp 7 tầng để thờ xá lợi thiền sư. 4.2 Tổ đình Long Thiền và các vị danh tăng Tổ đình Long Thiền ở Biên Hoà thuộc về tông Lâm Tế, bắt đầu từ tổ đời thứ 31 đạo hiệu là Mộc Trần Đạo Mân. Tổ biệt tác một bài kệ truyền phái như sau: Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên, Minh như hồng nhật lệ trung thiên, Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ, Chiếu thế chân đăng vạn cổ huyền. Mỗi đời truyền xuống một chữ. Thí dụ như tổ biệt xuất bài kệ, thuộc đời thứ 31, lấy chữ đầu là Đạo: Đạo Mân, thì tổ đời thứ 32 lấy chữ đầu là Bổn, thành đạo hiệu Bổn Kiểu. Năm 1638 đời chúa Nguyễn Phúc Lan (trị vì 1635-1648), thiền sư Bổn Kiểu lên đường từ miền Trung vào Nam hoằng đạo. Năm 1664, sư khai sơn chùa Long Thiền. Từ đó Phật tử đến sùng bái, quy nguyên đông đảo; đạo pháp hưng thịnh. Sau thiền sư trở về nguyên quán, người được giáng trạch kế nghiệp là đại sư Nguyên Thiều đời thứ 33 dòng Lâm Tế. Đại sư giới hạnh trang nghiêm, danh đức vang lừng, nên được triều đình ra lệnh thỉnh triệu về kinh (Phú Xuân). Hai vị đệ tử đức hạnh đầy đủ của thiền sư Nguyên Thiều là Thành Nhạc và Thành Đẳng. Thành Nhạc kế nghiệp tổ ở Long Thiền tự, còn Thành Đẳng thì khai sơn chùa Đại Giác năm 1665. Đương thời thiền sư Thành Nhạc trụ trì chùa Long Thiền thì thiền tông phát triển, đạo mạch hưng long, được các nơi quy ngưỡng. Thiền sư viên tịch năm 1778. Sư Phật Chiếu thừa kế trụ trì. Cũng trong tông phong vào hàng huynh đệ với sư Phật Chiếu có sư Phật Ý đi hoá đạo đến khai sơn chùa Từ Ân (ở Chợ Lớn). Hai vị này đứng vào hàng thứ 35 tông Lâm Tế. 13 Wikipedia tiếng Việt – chùa Tập Phước xem tháng 2, 2013
  • 35. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 31 Sư Phật Chiếu truyền cho sư Tổ Kim kế vị. Đây là đời thứ 36 Lâm Tế. Hoà thượng Tổ Kim trụ trì chùa Long Thiền đã làm cho đạo mạch mở mang, tông phong cực thịnh, chùa nghiễm nhiên trở thành tổ đình sơn môn Nam Việt. Ngài chuyên về thiền học, thường nhắc nhở đại chúng nhớ đến đường sinh tử là hơn, và khuyến khích tăng chúng phải tinh tấn trong sự tu tập để cầu quả chứng mới khỏi phụ chí hướng của người xuất gia học đạo. Một ngày nọ, hoà thượng chống gậy băng rừng lên núi Châu Thới (bấy giờ còn hoang vu). Đến phía lưng núi ngài hướng về chùa Long Thiền, ngồi kiết già, tay bắt ấn tam muội, tham thiền nhập định mà quy tịch. Phật tử cùng tăng chúng bèn họp nhau lại làm lễ trà tỳ (thiêu xác) rồi thỉnh tro để vào bình bát, cung nghinh về chùa Long Thiền làm lễ nhập tháp. Tại chỗ, hoà thượng thị tịch thì xây đá kỷ niệm, mỗi năm tới ngày kỵ, chư tăng chùa Long Thiền lên núi Châu Thới làm lễ ở chỗ kỷ niệm rồi mới về làm lễ cúng kỵ ở chùa. Đồng thời với Tổ Kim hoà thượng có vị đại sư huynh đệ cùng thuộc đời thứ 35 là sư Tổ Ấn tức Mật Hoàng, là người đã trụ trì chùa Đại Giác ở Cù Lao Phố (Biên Hoà). Người kế vị trụ trì chùa Long Thiền là sư Tiên Đức tự Tịnh Tạng cũng là bực tài danh, người khắp nơi đến quy học, thực là một thời kỳ cực thịnh của tổ đình Long Thiền. Hoà thượng Tiên Đức viên tịch năm 1830 ở vào hàng tổ thứ 37 Lâm Tế. Chùa Long Thiền tới năm 1887 thì truyền đến đại sư Kiểu Oai. Đời hành đạo của đại sư có nhiều điều huyền diệu làm cho thập phương thiện tín đua nhau đến quy sùng. Chùa Long Thiền
  • 36. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 32 1. Đại sư tu hành đặc biệt là không dùng dùng cơm, chỉ ăn rau, đậu, khoai và trái cây. 2. Mỗi ngày thọ trai một bữa vào giữa giờ Ngọ mà vẫn sức lực khỏe khoắn nên được mệnh danh là thầy Tuyệt Cốc. 3. Đại sư còn có biệt tài trị bệnh: bách bệnh bách trúng, bất kỳ bệnh gì đại sư cũng chữa khỏi, vì vậy thuở ấy, nhân gian ca tụng ngài là đức Phật sống chùa Long Thiền. Đến khoảng năm 1917 vào ngày rằm tháng giêng, đại sư nói với làng xóm bổn đạo: ‘Ngày giờ chầu Phật đã đến’. Khi đó có người tin, người nghi. Gần đến giờ cúng Ngọ, đại sư bảo lên hương đèn và đánh ba hồi chuông Bát Nhã đặng đại sư đi. Sau ba hồi chuông Bát Nhã, đại sư ngồi kiết già mà viên tịch. Đám táng đại sư rất lớn, phải hoãn lại 21 ngày để cho đệ tử bốn phương về thọ phục. Trong suốt 21 ngày, chùa không ngớt khách, nhất là ngày nhập tháp, lễ cử hành rất trọng thể, chứng tỏ uy tín của đại sư Kiểu Oai thật là rất lớn. (Theo sự tích chùa Long Thiền, tổ đình sơn môn Nam Việt của Yết Ma Thiện Niệm). 4.3 Các chùa khác được các thiền sư miền Trung khai sơn 4.3.1 Thời các chúa Nguyễn Khoảng năm 1692-1695, sau cuộc nổi loạn của nhóm A Ban, tổ sư Nguyên Thiều và một số đệ tử phải bỏ trốn vào Đồng Nai. Tổ sư lập chùa Kim Cang ở Bình Thảo, thiền sư Thành Đẳng trụ trì chùa Đại Giác ở Đại Phố, Đồng Nai. Một số thiền sư khác trốn vào rừng núi ở Quảng Ngãi, Khánh Hoà. Tổ sư Nguyên Thiều và một số đệ tử vào Đồng Nai đã làm cho Phật giáo phát triển ở miền này và Gia Định, lan rộng đến Mỹ Tho, Định Tường, và Châu Đốc. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765) chính thức xưng vương (Vũ Vương) đã phát động phong trào di dân từ miền Trung vào Đồng Nai - Gia Định làm tăng dân số ở đây và do đó Phật giáo ở đây cũng phát triển thêm. Những chùa sau đây được các sư miền Trung vào khai sơn, ở Sài Gòn:  Chùa Từ Ân năm 1744 và chùa Khải Tường ở xã Tân Lộc do Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc.  Chùa Giác Lâm năm 1744 ở xã Tân Long (gần Chợ Lớn) do Cư sĩ Lý Thoại Long.  Chùa Thiên Trường ở Cầu Kho năm 1755 do thiền sư Pháp Nhân -Thiên Trường.  Chùa Kim Chương lập năm 1755 do thiền sư Đạt Bổn từ Qui Nhơn vào. ở Thủ Đức  Chùa Phước Tường và Long Nhiễu do Thiền sư Phật Chiếu khai sơn.  Chùa Hoa Nghiêm do Thiền sư Thiết Thoại khai sơn.  Chùa Hội Khánh ở Thủ Dầu Một do Thiền sư Đại Ngạn.
  • 37. Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam – Quyển III 33 4.3.2 Thời nhà Nguyễn ở Đồng Nai-Gia Định  Chùa Hưng Long năm 1803.  Chùa Tồn Thanh ở Cần Giuộc năm 1808.  Chùa Long Hưng (chùa Bà Thao) ở Tân Uyên - Sông Bé.  Chùa Long Thắng ở Cù Lao Rùa -Biên Hoà.  Chùa Hội Sơn14 , chùa Phụng Sơn, chùa Cây Mai, chùa Phước Kiến, chùa Trường Thọ được thành lập ở Gia Định, Chợ Lớn. 14 Chính điện chùa Hội Sơn bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn tháng 7 năm 2012 Chùa Hội Sơn