2. Trên thế giới
Cứ 3 phụ nữ thì ít nhất có
một người đã từng bị
đánh đập, cưỡng ép tình
dục hoặc lạm dụng trong
cuộc đời.
(Heise, L., Ellsberg, M.,
Gottemoeller, M., Các Báo
cáo về Dân số: Chấm dứt Bạo
lực đối với Phụ nữ, Tập 27, Số
4, 1999).
3. (Kết quả điều tra quốc gia trên 4838 phụ nữ về bạo lực gia đình
chống lại phụ nữ năm 2010 tại Việt Nam)
Dạng bạo lực % bị bạo lực trong suốt
cuộc đời
% bị bạo lực trong 12
tháng trước điều tra
Thể chất 32 6
Tình dục 10 4
Tinh thần 54 25
Bị ít nhất 1 trong 3 loại
bạo lực trên
58 27
Kinh tế (với phụ nữ đã kết
hôn)
9
Tại Việt Nam
4. Tại Việt Nam
50% phụ nữ từng bị chồng gây bạo lực chưa từng
nói với ai về việc phải hứng chịu bạo lực.
87% chưa bao giờ nghĩ tới việc trình báo chính
quyền để được trợ giúp một cách chính thức.
(Kết quả điều tra quốc gia trên 4838 phụ nữ về bạo lực gia đình
chống lại phụ nữ năm 2010 tại Việt Nam)
5. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia
đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể
chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong
gia đình.
(Khoản 2 Điều 1, Luật PCBLGĐ, 2007)
6. Bạo lực gia đình
Thể chất Tinh thần Tình dục Kinh tế
7. (a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác
xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
(b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự,
nhân phẩm;
(c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về
tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng,
(d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan
hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con;
giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
(e) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
8. (f ) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
(g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác
cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong
gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
(h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức,
đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu
nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ
thuộc về tài chính;
(i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra
khỏi chỗ ở.
12. Giới tính chỉ sự khác nhau về mặt sinh học giữa nam và
nữ từ khi sinh ra đã có.
Ví dụ: Nữ giới có thể mang thai
Nam giới không thể mang thai
Nữ giới có kinh nguyệt
Nam giới có tinh hoàn
14. Nói đến quan hệ giữa nam và nữ trong xã hội xuất phát
từ những vai trò mà họ nắm giữ. Những vai trò này được
thiết lập về mặt xã hội và không phải do thể chất quyết
định. Chúng có thể thay đổi theo thời gian.
(Theo định nghĩa về “giới” tại Điều 5, Luật Bình đẳng Giới).
Ví dụ:
Nam giới phải mạnh mẽ, quyết đoán, trụ cột về kinh tế
Nữ giới phải dịu dàng, biết hi sinh, biết làm công việc nhà và
chăm sóc chồng con
15. Giới tính Giới
Đặc điểm sinh học khác nhau giữa
nam và nữ (sinh ra đã có).
Cách ứng xử, vai trò, hành vi mà
xã hội mong đợi ở nam và nữ
Bẩm sinh Không tự nhiên sinh ra mà được
hình thành qua quá trình được
dạy và học hỏi
Giống nhau ở khắp nơi trên thế
giới.
Đa dạng, phụ thuộc vào môi
trường văn hoá, xã hội, chính trị
và kinh tế của mỗi cá nhân
Không thay đổi hoặc rất khó thay
đổi
Có thể thay đổi theo thời gian,
thể chế chính trị và xã hội
16. Sự nhầm lẫn giữa giới tính và giới dẫn tới những lầm
tưởng rằng những khác biệt giữa nam và nữ trong xã hội
đều là tự nhiên, không bao giờ có thể thay đổi được, và
chỉ có một cách là chấp nhận.
Sự nhầm lẫn giữa giới tính và giới gây áp lực cho cả phụ
nữ và nam giới, đồng thời cũng hạn chế nhiều cơ hội phát
triển và hưởng thụ của cả hai bên.
Tuy nhiên, trong một xã hội gia trưởng và đề cao vai trò
của nam giới, thì sự nhầm lẫn giữa giới tính và giới tạo ra
nhiều đặc quyền hơn cho nam giới, và làm phụ nữ thiệt
thòi hơn.
17. Nam giới và nữ giới sinh ra đã có những khác biệt về
mặt sinh học, được gọi là những khác biệt trên cơ sở
giới tính.
Nhưng phần lớn những khác biệt giữa nam giới và phụ
nữ lại do xã hội tạo ra và được gọi là những khác biệt
trên cơ sở giới.
Việc hiểu rõ những khác biệt trên cơ sở giới không phải
là bất biến mà có thể thay đổi, do được hình thành từ
quá trình học hỏi trong cuộc sống, trong các mối quan
hệ xã hội… sẽ giúp chúng ta nhận biết, thách thức và
thay đổi những khác biệt đó.
18. Khuôn mẫu giới là mong muốn hay quan điểm về
những tính cách, đặc tính và hoạt động được coi là
“phù hợp” đối với nam và nữ.
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá
thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng
lực của nam hoặc nữ.
(Điều 5, Luật Bình đẳng Giới)
19.
20.
21. Chồng nóng thì vợ bớt lời
Cơm sôi, bớt lửa chả đời nào khê
(Ca dao Việt Nam)
22.
23. 1. Phân công theo ‘thiên chức’ là công bằng và tốt cho
tất cả mọi người
2. Chia đều các công việc cho phụ nữ và nam giới là
bình đẳng
3. Bản tính của phụ nữ là thích hy sinh, họ tự nguyện
làm nhiều việc hơn vì chồng con
4. Phụ nữ không hiểu biết bằng nam giới nên không thể
quyết định những việc quan trọng được
5. Đàn ông làm việc vất vả hơn nên cần nghỉ ngơi nhiều
hơn
6. Phụ nữ và Nam giới đã bình đẳng vì có vai trò trong
làm kinh tế và hoạt động xã hội.
24. Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới bình đẳng
về vị trí và cơ hội làm việc và phát triển. Bình đẳng không
có nghĩa là chỉ đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ mà tập
trung vào cả hai giới.
Phụ nữ và nam giới phải có điều kiện bình đẳng để thực
hiện đầy đủ các quyền con người và phát huy hết tiềm
năng, để tham gia đóng góp vào sự phát triển chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hoá cũng như thụ hưởng các thành
quả.
25. Bình đẳng:
Đối xử như nhau đối với nam và nữ trong luật pháp và chính sách
Tiếp cận như nhau đối với các nguồn lực và dịch vụ, gồm y tế, giáo
dục, vị trí nghề nghiệp
Trong gia đình, trong cộng đồng và trong xã hội
Công bằng:
Là sự phân bố các quyền lợi và nghĩa vụ
giữa nam và nữ dựa trên việc nhận biết
nam và nữ có sự khác biệt về nhu cầu và
quyền lực.
26. Là sự khác biệt đặt ra giữa nam và
nữ có xu hướng gắn những giá trị
và tầm quan trọng cao hơn cho
những tính cách và hoạt động gắn
liền với nam giới, hoặc nữ giới từ
đó tạo ra mối quan hệ quyền lực
bất bình đẳng.
Trong hầu hết các xã hội, giới nữ
đều có ít quyền hành, ít quyền và
đặc quyền hơn giới nam. Không
phải sự khác biệt về thể chất đã
tạo nên tình trạng bất bình đẳng
mà chính là các quy tắc và giá trị
xã hội.
27. Nhạy cảm giới là khả năng phát hiện được/ nhận
diện được sự bất bình đẳng giới nằm sau một
hiện tượng tưởng chừng như ‘bình thường’ nào
đó.
28. Bình đẳng giới có phải
là biến phụ nữ thành
nam giới hay không?
Bình đẳng có phải là
phải làm công việc y
như nhau?
Liệu người phụ nữ có
vui vẻ khi phải
“chuyển giới” để đạt
được bình đẳng?
29. Trên thế giới, phụ nữ:
Làm 70% khối lượng công việc
của thế giới
Kiếm được dưới 30% giá trị thu
nhập của thế giới
70% công việc của phụ nữ
không được trả công
Sở hữu dưới 1% giá trị tài sản
thế giới
Ở Việt Nam, phụ nữ:
Đại diện cho 75% lực lượng lao
động nông nghiệp ở nông thôn
Làm việc 14 giờ mỗi ngày, cả
trong gia đình và ngoài xã hội
Được trả công ít hơn 20-40% so
với nam giới
30. Dù số liệu thống kê có khác nhau nhưng nhiều nghiên
cứu cho thấy phụ nữ là nạn nhân của 95% các vụ BLGĐ.
BLGĐ đối với phụ nữ thường được gọi là “bạo lực trên
cơ sở giới” vì nảy sinh một phần do địa vị giới còn thấp
của phụ nữ trong xã hội.
31. Hậu quả đối với nạn nhân
Hậu quả đối với gia đình
Hậu quả đối với cộng đồng
Hậu quả đối với người gây bạo lực
32. Gắn bó về tình cảm với người gây bạo lực.
Có niềm tin mãnh liệt về sự cần thiết duy trì hôn nhân và gia đình.
Sợ hãi rằng người gây bạo lực sẽ trả thù mình hoặc người thân
của mình.
Sợ bị người khác coi thường.
Bị phụ thuộc về kinh tế vào người gây bạo lực.
Sống ở khu vực tách biệt.
Bị cô lập về mặt xã hội với mọi người.
Gặp những trở ngại về giao tiếp, ngôn ngữ và văn hóa.
Không muốn thủ phạm bị đưa ra khỏi nhà, vào tù hoặc có tiền án.
Không tin rằng công an hoặc hệ thống tư pháp hình sự có thể giúp
chấm dứt bạo lực hoặc bảo vệ họ.
33. Giảm nhẹ hoặc phủ nhận rằng bạo lực đã xảy ra.
Coi bạo lực xảy ra là trách nhiệm của mình.
Sử dụng rượu và ma túy để trốn tránh hoàn cảnh.
Tự vệ.
Tìm kiếm sự giúp đỡ
Vẫn duy trì quan hệ với người gây bạo lực để
tránh bạo lực leo thang.
Châm ngòi bạo lực để tìm cách kiểm soát tình
hình.
34.
35. Trong giai đoạn nào của chu kỳ bạo lực giới thì câu
chuyện bạo lực mới được người ngoài (ví dụ như
gia đình) biết tới?
Làm thế nào để phá vỡ được chu kỳ này?
Cần phá bỏ một trong những mắt xích của chu kỳ
bạo lực để thoát khỏi cảnh bạo lực
Cần liên hệ đến những quan niệm lầm tưởng về
giới: bất bình đẳng giới, định kiến giới
36. 1. Bạo lực gia đình là do đói nghèo hoặc thiếu giáo dục.
2. Bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư của các gia đình.
3. Bạo lực gia đình chỉ là hành vi đẩy, tát hoặc đấm – nó không tạo ra
các tổn thương nghiêm trọng.
4. Người vợ được coi là tài sản của người chồng và người chồng có
quyền “dạy” vợ.
5. Sử dụng rượu và ma tuý là nguyên nhân chính của bạo lực gia đình.
6. Phụ nữ bị bạo lực gia đình là do “lỗi” của họ - nếu họ cư xử tốt hơn
thì bạo lực đã không xảy ra.
7. Bạo lực gia đình đối với người vợ không ảnh hưởng đến con cái.
8. Đàn ông sử dụng bạo lực vì họ không kiểm soát được sự giận dữ và
bực dọc.
9. Sẽ là tốt nhất nếu gia đình được duy trì.
37. Công ước quốc tế mà Việt Nam đã kí cam kết thực
hiện
• Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền của Liên Hợp
Quốc (1948)
• Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (CEDAW-1880)
38. Thúc đẩy bình đẳng giới
Hiến pháp; Luật Bình đẳng Giới; Luật Hôn nhân và Gia đình
Buộc người gây bạo lực
chịu trách nhiệm
Bộ luật Hình sự;
Bộ Luật dân sự
Pháp lệnh về xử phạt vi phạm
hành chính
Nghị định 110/2009 về xử
phạt vi phạm hành chính
trong phòng, chống BLGĐ
Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân
Luật phòng, chống BLGĐ
Quy định pháp luật của Việt Nam
41. Hạn chế đến mức thấp nhất các nguy cơ và tác
động của bạo lực gia đình và đảm bảo an toàn cho
nạn nhân.
Giúp nạn nhân có kiến thức, thông tin, kĩ năng và
hỗ trợ cần thiết để họ tự thoát khỏi tình trạng bạo
lực.
Giúp người gây bạo lực hiểu hành vi của họ là trái
pháp luật, đồng thời giáo dục và răn đe để họ thay
đổi hành vi.
Tạo sự thay đổi về thái độ của xã hội trước vấn đề
bạo lực gia đình.
42. Nạn nhân có thể không trình báo việc bị bạo
lực mà chịu đựng trong im lặng.
Nếu nạn nhân có tìm kiếm sự giúp đỡ của
công an hoặc chính quyền địa phương thì
thông thường việc trình báo của họ cũng
không được xem xét một cách nghiêm túc.
Nếu nạn nhân có tìm kiếm sự giúp đỡ và vụ
việc được điều tra thì người phụ nữ cũng có
thể rút đơn kiện.
43. Can thiệp kịp thời khi phát
hiện được các hành vi bạo
lực, nhằm đảm bảo sự an
toàn cho nạn nhân.
Chăm sóc y tế.
Tư vấn tâm lý, động viên
tinh thần.
44. Cùng người bị bạo hành xây dựng kế
hoạch an toàn trước mắt và lâu dài
Tư vấn về pháp luật và hỗ trợ các thủ
tục giấy tờ pháp luật liên quan tới
bạo hành giới
Giáo dục, răn đe, nâng cao nhận thức
về bạo hành giới và pháp luật liên
quan tới bạo hành giới cho người gây
bạo hành
Xử lí hành chính/hình sự đối với
người gây bạo hành theo pháp luật.
45. Lập mạng lưới các địa chỉ tin cậy ở cộng đồng dành cho
người bị bạo hành tạm lánh
Giới thiệu người bị bạo hành đến các địa chỉ tư vấn và
hỗ trợ phù hợp tại địa phương
Hỗ trợ khác bao gồm các nhu cầu thiết yếu (ăn, mặc, đồ
dùng thiết yếu)
Thông tin đa chiều giữa các cơ quan và các cấp hỗ trợ
nhằm can thiệp hiệu quả nhất
46. Cá nhân: • Kịp thời ngăn chặn hành vi BLGĐ
• Thông báo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi BLGĐ.
Gia đình: • Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp trong gia đình; chăm sóc
nạn nhân
• Phối hợp với cơ quan liên quan
Mặt trật Tổ
quốc:
• Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục
• Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng,
chống BLGĐ
Hội phụ nữ: • Tổ chức các cơ sở tư vấn, cơ sở hỗ trợ nạn nhân
• Tổ chức các hoạt động dạy nghề, tín dụng, tiết kiệm để hỗ
trợ nạn nhân
• Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo vệ và
hỗ trợ nạn nhân
47. Bộ Văn hoá, Thể
thao và Du lịch:
• Đầu mối thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống BLGĐ
• Xây dựng các chương trình, kế hoạch về phòng, chống BLGĐ
• Hướng dẫn thực hiện hoạt động tư vấn về gia đình; việc thành lập cơ sở tư vấn
và cơ sở hỗ trợ nạn nhân
• Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ
• Thực hiện chế độ báo cáo thống kê
Bộ Lao động,
thương và xã hội:
• Chỉ đạo việc lồng ghép nội dung phòng, chống BLGĐ vào các chương trình xoá
đói giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm
• Trợ giúp nạn nhân tại các cơ sở bảo trợ xã hội
Bộ Giáo dục và
Đào tạo:
• Lồng ghép kiến thức phòng, chống BLGĐ vào các chương trình giáo dục, đào tạo
Bộ Thông tin và
Truyền:
• Chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp
thông:luật về phòng, chống BLGĐ
Cảnh sát, Tòa án,
Viện kiểm sát
• Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của nạn nhân
• Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về phòng,
chống BLGĐ
• Cung cấp số liệu thống kê cho cơ quan quản lý nhà nước
48. Phối hợp tuyên truyền phổ biến pháp luật về
phòng chống bạo lực gia đình
Kết nối nguồn lực hỗ trợ nạn nhân
Cung cấp dịch vụ tham vấn (bao gồm lập kế hoạch
an toàn)
Quản lý trường hợp
Vận động chính sách về bình đẳng giới và phòng
chống bạo lực gia đình
49. An toàn là trên hết
Tôn trọng sự lựa chọn của
người bị bạo hành
Bảo mật thông tin
Đặt quyền của người phụ nữ
và bình đẳng giới là định
hướng cho nội dung hỗ trợ
Căn cứ vào các cơ sở pháp lý.
50. Nếu không làm việc theo nguyên tắc có thể làm tăng nguy cơ
cho bản thân và nạn nhân, ví dụ:
Người gây bạo hành tìm đến địa chỉ tin cậy, nơi tạm lánh để
gây nguy hiểm cho người bị bạo hành và những người khác tại
nơi đó
Người bị bạo hành sau khi được hỗ trợ có thể phải chịu đựng
bạo hành ở mức độ nghiêm trọng hơn, khó phát hiện hơn
Tạo thêm sức ép dư luận, gây thêm tổn thương về tinh thần
cho người bị bạo hành
Làm tổn hại đến danh dự, uy tín xã hội của người bị bạo hành,
dẫn đến những khó khăn trong cuộc sống sau này của họ
Làm ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của những người có
liên quan trong gia đình, đặc biệt là con cái của người bị bạo
hành
51. Xin cảm ơn sự chú ý lắng nghe của các đại biểu!
Notes de l'éditeur
Thảo luận nhóm lớn: Nêu những hành vi cụ thể đối với từng hình thức xâm hại
Việt Nam đã kí tham gia Tuyên ngôn về Nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1977, qua đó khẳng định các quyền sau đây của phụ nữ:
Quyền sống, tự do và an toàn cá nhân
Quyền không bị tra tấn hay đối xử một cách tàn bạo, vô nhân đạo, hay hạ thấp nhân phẩm
Quyền không bị xâm phạm tới danh dự và uy tín
Quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong cuộc sống vợ chồng và lúc ly hôn
Quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm
Quyền nghỉ ngơi và giải trí
Quyền học tập
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước CEDAW ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày 27/11/1981
Điều 5:
Các nước tham gia Công ước phải Áp dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm:
a. Sửa đổi khuôn mẫu văn hoá, xã hội về hành vi của nam giới và nữ giới nhằm xoá bỏ các thành kiến, phong tục tập quán và các thói quen khác dựa trên tư tưởng cho giới này là hơn, giới kia là kém, hoặc dựa trên những kiểu mẫu rập khuôn về vai trò của nam giới và phụ nữ;
Nạn nhân có thể không trình báo việc bị bạo lực mà chịu đựng trong im lặng.• Bạo lực xảy ra khi hai người vẫn đang trong quan hệ hôn nhân/tình cảm và nạn nhân có thể không muốntìm kiếm sự giúp đỡ của công an hoặc các cơ quan chức năng khác vì thấy xấu hổ, tủi nhục, vì phụ thuộckinh tế vào người gây bạo lực hoặc sợ bị trả thù.Nếu nạn nhân có tìm kiếm sự giúp đỡ của công an hoặc chính quyền địa phương thì thông thường việc trình báocủa họ cũng không được xem xét một cách nghiêm túc.• Khi đó, công an hoặc chính quyền địa phương đã thể hiện những giá trị truyền thống và họ không muốncan thiệp do những quan điểm truyền thống (phổ biến trên thế giới) rằng BLGĐ là vấn đề nội bộ của giađình.• Thường thì công an không xem xét đầy đủ bản chất và động cơ của BLGĐ.• Từng hành động bạo lực được xem xét một cách đơn lẻ, thay vì được xem xét trong bối cảnh những ápđặt quyền lực và kiểm soát của một quan hệ hôn nhân đầy bạo lực.• Công an và chính quyền địa phương có thể có những quan niệm sai lầm về BLGĐ và điều này ảnh hưởngđến cách công an lấy lời khai, giải quyết vụ việc và trao đổi với nạn nhân.Nếu nạn nhân có tìm kiếm sự giúp đỡ và vụ việc được điều tra thì người phụ nữ cũng có thể rút đơn kiện.• Do bản chất và động cơ của BLGĐ nên nhiều nạn nhân đã rút đơn ngay sau khi gửi đơn. Khi bạo lực xảyra, nạn nhân có thể trình báo để mong bạo lực chấm dứt. Trong giai đoạn ngọt ngào, nạn nhân có thể rútđơn do người gây bạo lực thể hiện sự ăn năn hối hận, do áp lực, lo lắng về tình hình tài chính của mìnhhoặc sức ép của các thành viên trong gia đình.Để xác định và phản ứng thích đáng với các vụ BLGĐ đòi hỏi phải hiểu và xem xét đầy đủ những động lực đặc biệtcủa bạo lực và sự tổn thương đặc biệt của nạn nhân. Khi nạn nhân tìm kiếm sự giúp đỡ, cần có một đáp ứng có hiệu quả từ phía pháp luật trong đó ưu tiên bảo vệ nạn nhân và đảm bảo rằng nạn nhân được đối xử theo cách thức
An toàn tính mạng của người bị bạo hành phải được đặt lên trên hết: trong mọi trường hợp tính mạng của người bị bạo hành và con cái họ luôn là điều quan trọng nhất. Những người trong hệ thống hỗ trợ có thể phải cân nhắc rút lui hoặc tạm thời làm theo yêu cầu của người gây bạo hành nếu thấy tính mạng của đối tượng bị đe dọa.
Tôn trọng sự lựa chọn của người bị bạo hành về phương pháp, cách thức giải quyết tình trạng của bản thân họ: mỗi người đều có quyền tối cao đối với cuộc sống của mình và người bị bạo hành cũng vậy. Hệ thống hỗ trợ cũng như những người khác tại cộng đồng và gia đình cần tôn trọng giải pháp mà người bạo hành chọn. Người hỗ trợ chỉ có thể can thiệp khi thấy quyết định này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng hay cuộc sống của người bị bạo hành và con cái của họ. Nhiệm vụ của hệ thống hỗ trợ là cung cấp đầy đủ thông tin về các giải pháp khác nhau để người bị bạo hành có cơ sở chọn giải pháp phù hợp. Hệ thống hỗ trợ cũng cần đảm bảo việc người bị bạo hành đưa ra quyết định là trên cơ sở tự nguyện chứ không phải bị đe dọa hay áp đặt bởi hệ thống hỗ trợ hay bởi bất cứ người nào khác.
Bảo mật thông tin: Do hoạt động hỗ trợ người bị bạo hành có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống, quyền lợi, sức khỏe và sự an toàn của người bị bạo hành và con cái họ, những người làm công tác hỗ trợ cần đặc biệt coi trọng bảo mật thông tin cá nhân của đối tượng. Các cuộc gặp mặt với người bị bạo hành cần đảm bảo tính bí mật, riêng tư. Các tài liệu liên quan đến gặp gỡ với người bị bạo hành như ghi chép tư vấn, băng ghi âm, băng quay phim cần được giữ ở nơi an toàn chỉ có những người liên quan được tiếp cận. Tên đối tượng cũng như các thông tin cá nhân liên quan như nơi ở phải được mã hóa. Hình ảnh nhận dạng (mặt) phải được che hoặc làm thay đổi. Những người trong hệ thống hỗ trợ không thảo luận các trường hợp bị bạo hành ở những nơi mà thông tin có thể bị những người không tham gia vào hỗ trợ đối tượng nghe được ví dụ như nơi công cộng hay tại gia đình (xem thêm thông tin trong hộp 2).
Đặt quyền của người phụ nữ và bình đẳng giới là định hướng cho nội dung hỗ trợ: việc hỗ trợ phải khẳng định người phụ nữ có quyền không bị bạo hành, lạm dụng tình dục hay đối xử tàn tệ bởi bất cứ ai kể cả chồng, bạn tình và những người khác trong gia đình. Hoạt động hỗ trợ cũng cần theo hướng thúc đẩy bình đẳng giới, giúp người phụ nữ nhận ra sự bất bình đẳng trong mối quan hệ của họ và hỗ trợ họ cải thiện tình trạng bất bình đẳng này. Hoạt động hỗ trợ không được củng cố thêm các định kiến giới vẫn tồn tại ở cộng đồng, ví dụ như đổ lỗi cho người phụ nữ, yêu cầu người phụ nữ phải nhẫn nhịn, chịu đựng, không được nghĩ đến bản thân...Những người trong hệ thống hỗ trợ cần được đào tạo về quyền và bình đẳng giới.
Căn cứ vào quy định pháp luật của Việt Nam: các nội dung hỗ trợ cần tuân thủ pháp luật của Việt Nam. Những người trong hệ thống hỗ trợ cần được đào tạo về các nội dung luật và nghị định có liên quan đến bạo hành giới và bạo hành trong gia đình ví dụ như Luật dân sự, Luật hình sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Nghị định qui định
Khi can thiệp các trường hợp bạo hành giới và/ hoặc hỗ trợ người bị bạo hành, những người trong hệ thống hỗ trợ đang làm việc với sự an toàn, thậm chí tính mạng con người, đặt trong bối cảnh đời sống tình cảm cá nhân - những gì được cho là riêng tư trong gia đình, và các mối quan hệ xã hội phức tạp của con người. Các nguyên tắc can thiệp và hỗ trợ đã trở thành một yêu cầu tối quan trọng, bởi nếu không có các nguyên tắc đạo đức mà chỉ làm việc theo cảm tính, bản thân những người đi hỗ trợ không những không giúp được cho người bị bạo hành mà còn tăng các nguy cơ cho họ.