SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  29
LỜI CẢM ƠN
- -
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các Thầy, Cô giáo ở Trường Trung
cấp Luật Đồng Hới, là những người đã cung cấp cho tôi những kiến thức bổ ích trong
suốt 2 năm qua.
Xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân xã Kỳ Tây đã tiếp nhận và tạo mọi điều
kiện thuận lợi, xin cảm ơn lãnh đạo và các anh chị chuyên viên ở ban Tư pháp xã đã
nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi hoàn thành tốt khoá thực tập.
Đặc biệt, xin cảm ơn cô Nguyễn Thị Phương Thanh, giáo viên hướng dẫn làm đề
tài và đồng chí Đặng Thuyết, trưởng ban Tư pháp xã Kỳ Tây đã tận tâm hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực tập.
Với kiến thức còn nhiều hạn chế và thời gian thực tập không dài, nên bản thân em
trong quá trình thực hiện sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, vì vậy rất mong
sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô, các anh chị và của tất cả các bạn để hoàn thiện
hơn nữa bài báo cáo của mình.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Kỳ Tây, ngày 25 tháng 03 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Lương Tài
1
MỤC LỤC
Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi
thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững.............................................................9
2
LỜI MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn
diện về kinh tế xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền với mục tiêu “Dân giàu nước
mạnh dân chủ công bằng, văn minh”. Công cuộc đổi mới đòi hỏi đồng thời phải thực hiện
nhiều khâu quan trọng, đặc biệt là xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật. Những văn
bản pháp luật mới ra đời với nhiều điểm tích cực đã và đang từng bước hoàn thiện hệ
thống Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Do đó, để pháp luật thực sự đi vào đời
sống xã hội, được người dân biết đến và nghiêm chỉnh thực hiện thì vấn đề giáo dục nhận
thức pháp luật cho người dân là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu của Quốc gia dân tộc
trong thời điểm hiện nay.
Xuất phát từ nhu cầu thục tiễn trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật đã cho
chúng ta thấy để ban hành được một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ là một công
đoạn không hề đơn giản, khó khăn và phức tạp. Nhưng muốn đưa được một hệ thống
pháp luật vào trong cuộc sống xã hội thì sẽ không thể tránh khỏi những khó khăn và
vướng mắc. Để thực hiện được mục tiêu này song song với việc xây dựng và không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, thì một trong những vấn đề quan trọng đó là cần
phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật.
Có thể khẳng định rằng, giáo dục pháp luật có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển chung của xã hội, song trên thực tế, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm
đúng mực. Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tình trạng vi phạm pháp
luật tệ nạn xã hội có xu hướng ngày càng tăng lên, đây là vấn đề bức xúc trong toàn xã
hội đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt của các cấp, nghành từ Trung ương đến địa
phương.
Vì vậy, nhiệm vụ giáo dục, phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) tại địa bàn ở
cơ sở có ý nghĩa rất lớn và thiết thực đối với việc tạo sự chuyển biến cơ bản và phát triển
toàn diện của hệ thống pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống. Điều này đòi
hỏi cần có sự nghiên cứu sâu sắc và toàn diện, nghiêm túc về thực trạng của công tác
PBGDPL ở cấp xã, từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
của công tác này trên thực tế.
3
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong thời gian 3 tháng thực tập nghề nghiệp, bản thân tôi đã nghiên cứu sâu sắc
về những nội dung liên quan đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ở cấp
xã nói chung và tại UBND xã Kỳ Tây huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng. Từ nhận
thức trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở xã Kỳ
Tây. Thực trạng và giải pháp” Với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên
cứu và nâng cao hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật tại địa bàn xã Kỳ Tây nói
riêng và ở các địa phương, xã phường thị trấn trên cả nước nói chung.
III. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN.
Việc nghiên cứu đề tài “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở xã Kỳ Tây.
Thực trạng và giải pháp”, có vai trò quan trọng cả về lý luận cũng như nhu cầu thực
tiễn trong việc giúp cho chúng ta có được cái nhìn đúng đắn về ý nghĩa của hệ thống pháp
luật Việt Nam đối với mỗi người dân, từ đó đưa ra được những biện pháp hữu hiệu nhất
để nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn xã Kỳ Tây nói riêng và cả nước nói chung.
VI. BỐ CỤC ĐỀ TÀI.
Đề tài được bố cục gồm 2 chương, 3 phần. Phần mở đầu nêu lí do và phạm vi của
đề tài. Phần nội dung gồm 02 chương: Chương 01 nêu rõ những vấn đề lý luận liên quan
đến công tác PBGDPL ở địa bàn cấp xã; Chương 02 trình bày thực trạng công tác này ở
UNBD xã Kỳ Tây và những kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại
địa bàn xã; Phần kết luận tổng kết lại nội dung của đề tài và mong muốn của tác giả.
4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN VÀ GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT
I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NÓI CHUNG VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC NÓI RIÊNG
1. Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật:
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép hai từ phổ biến pháp luật và giáo dục
pháp luật.
Phổ biến pháp luật có hai nghĩa:
(i) Nghĩa hẹp: Là giới thiệu tinh thần bản pháp luật cho đối tượng của nó;
(ii) Nghĩa rộng: Là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước.
Trong các văn bản của ta, nghĩa này được sử dụng nhiều hơn nghĩa hẹp.
Giáo dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức
pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (Thuyết phục, nêu gương, ám thị...) hình thành
tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Cả cụm từ phổ biến. giáo dực pháp luật có hai nghĩa:
(i) Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức,
tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
(ii) Nghĩa rộng: Là công tác, lĩnh vực, ngạch (theo nghĩa thông thường mà không
phải nghĩa trong pháp luật về cán bộ công chức) phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm tất
cả các công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật:
• Định hướng công tác phổ biến,giáo dục pháp luật;
• Lập chương trình, kế hoạch phổ biến,giáo dục pháp luật;
• Áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật;
5
• Triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật;
• Kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến giáo dục
pháp luật, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lí luận... về phổ
biến giáo dục pháp luật.
Trong tài liệu này, cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật được dùng cả hai nghĩa:
Trong "Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật" phổ biến, giáo dục pháp luật có
nghĩa hẹp.
Trong "Nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật” phổ biến, giáo dục pháp luật có
nghĩa rộng.
2. Vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong đời sống xã
hội nói chung và trong quản lý nhà nước nói riêng.
PBGDPL là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển
tải pháp luật vào đời sống. Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân của nước ta trong gia đoạn hiện nay thì công tác PBGDPL có vị trí, vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc nâng cao dân trí pháp lý và ý thức chấp hành pháp luật cho mọi
tầng lớp nhân dân, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn an ninh trật tự, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật tác động vào ý thức của đối tượng.
Với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao
nhận thức và tác động trực tiếp đến ý thức của đối tượng. Trước hết, các hoạt động này
tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật. Từ chỗ không để ý đến sự tồn tại của pháp luật, đối
tượng được phổ biến, giáo dục bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật,
đồng thời sự hiểu biết về pháp luật cũng ngày càng được nâng cao. Pháp luật chính là ph-
ương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội và cũng là phương tiện cho mỗi người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giúp
cho đối tượng nhận thức được những giá trị cao đẹp ấy của pháp luật và biết sử dụng
phương tiện hữu hiệu đó trong cuộc sống.
Một vai trò hết sức quan trọng của phổ biến, giáo dục pháp luật là tạo được niềm
tin vào pháp luật. Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của mình
6
theo đúng các quy định của pháp luật. Không những thế, họ còn có ý thức phê phán, lên
án những hành vi vi phạm, đi ngược lại với các quy định của pháp luật.
2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận quan trọng trong giáo dục chính
trị tưởng.
Bản chất của hoạt động xây dựng pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương
của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân vì vậy thực hiện pháp luật là thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Phổ biến, giáo dục pháp luật tạo ra khả
năng cho việc giáo dục chính trị, hình thành ở người dân những hiểu biết nhất định về
chính trị đồng thời trong quá trình giáo dục chính trị, tư tưởng có sự đan xen những nội
dung, quan điểm pháp lý nhất định.
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, nhân dân đã xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CHUNG ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT.
1. Mục đích của việc phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.1 Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật
cho đối tượng.
Thông qua phổ biến, giáo dục pháp luật, người phổ biến, giáo dục được trang bị
những tri thức cơ bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp
luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.
Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp luật.
Trên cơ sở kiến thức pháp luật được trang bị đã hình thành mở rộng và làm sâu sắc tri
thức pháp luật, giúp người học am hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá một cách
đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng tin đúng
đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở hình thành hành vi hợp pháp ở mỗi cá nhân.
Tri thức pháp luật giúp con người điều khiển, kiềm chế hành vi của mình trên cơ
sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được.
7
Các hành vi phù hợp với pháp luật chỉ được hình thành trên cơ sở nhận thức đúng,
có niềm tin và có tình cảm đúng đắn đối với pháp luật.
1.2 Hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho đối tượng.
Niềm tin vào pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi.
Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ của hành vi hợp pháp.
Trong cuộc sống, có nhiều trường hợp những người có kiến thức pháp luật nhưng không
có lòng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên pháp luật, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để
trục lợi. Khi con người tin vào tính công bằng của những đòi hỏi của quy phạm pháp luật
thì không cần một sự tác động bổ sung nào của Nhà nước để thực hiện những đòi hỏi đó.
Có lòng tin vào tính công bằng của pháp luật, con người sẽ có hành vi phù hợp với các
đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện.
Niềm tin pháp luật được xây dụng trên cơ sở:
+ Giáo dục tình cảm công bằng. Nói đến pháp luật là nói đến sự công bằng. Giáo
dục tình cảm công bằng là giáo dục cho con người biết cách đánh giá các quy phạm pháp
luật, biết cách xác định, đánh giá các tiêu chuẩn về tính công bằng của pháp luật để tự
đánh giá hành vi của mình, biết quan hệ với người khác và với chính mình bằng các quy
phạm pháp luật.
+ Giáo dục tình cảm trách nhiệm là giáo dục ý thức về nghĩa vụ pháp lý. Giáo dục
tình cảm trách nhiệm nhằm hình thành ý thức tuân thủ pháp luật – một nguyên tắc xử sự
của công dân trong mối quan hệ với nhau và với các cơ quan Nhà nước. Giáo dục tình
cảm trách nhiệm làm cho người được giáo dục nhận thức được rằng mọi việc làm, mọi
hành vi của mình phải dựa trên cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
+ Giáo dục ý thức đấu tranh không khoan nhượng đối với những biểu hiện vi
phạm pháp luật, chống đối pháp luật, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và
tội phạm.
1.3. Giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật
cho đối tượng.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức pháp luật trong mỗi công
dân. Kết quả cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật phải được thể hiện ở hành vi xử
sự phù hợp pháp luật của các công dân. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng niềm tin
8
pháp luật là tiền đề để giáo dục ý thức nhân cách rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ
pháp luật hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật. Những hành vi hợp pháp của
mỗi người thường biểu hiện qua các việc làm như :
+ Tuân thủ các quy phạm pháp luật. Kiềm chế không thực hiện các điều pháp luật
cấm.
+ Thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân.
+ Biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; biết vận dụng pháp luật để
bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm.
Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi
thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững.
2. Nguyên tắc phổ biến giáo dục pháp luật(PBGDPL)
Nguyên tắc PBGDPL là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi thực hiện công
tác PBGDPL phải tuân thủ một cách đầy đủ, nghiêm túc. Luật PBGDPL đã quy định 5
nguyên tắc (tại Điều 5) đó là:
- Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực;
- Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm;
- Đa dạng các hình thức PBGDPL, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối
tượng được PBGDPL và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc;
- Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hằng ngày của
người dân;
- Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội.
3. Yêu cầu đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật.
3.1. Yêu cầu chung đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật.
3.1.1. Đề cao tính Đảng trong PBGDPL.
Pháp luật và đường lối, chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng. Do đó, công tác PBGDPL
bao giờ cũng phải đề cao tính Đảng.
9
Muốn đề cao tính Đảng trong công tác PBGDPL thì phải hiểu biết, quán triệt đầy
đủ đường lối, chính sách của Đảng đối với từng thời kỳ, từng vấn đề. Đường lối, chính
sách của Đảng cũng như pháp luật là những hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng xã
hội, phản ánh cơ sở kinh tế, do đó cũng thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và có quá
trình vận động như các hiện tượng khác. Chính vì thế, PBGDPL và tuyên truyền đường
lối, chính sách của Đảng phải luôn bắt nhịp được với những thay đổi trong đời sống
chính trị - pháp luật của đất nước.
3.1.2. Bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản.
PBGDPL khác với các loại hình PBGDPL ở chỗ nội dung được phổ biến, giáo dục
là pháp luật, là những quy tắc xử sự được Nhà nước ban hành, có cấu trúc chặt chẽ từ câu
chữ tới nội dung và yêu cầu của các quy định đó. Do đó, PBGDPL phải tuân thủ các
nguyên tắc nhất định, bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn
bản.
3.1.3. Bảo đảm tính đại chúng: phù hợp với đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp
dụng.
PBGDPL không những phải xuất phát từ nhu cầu của đối tượng được phổ biến (họ
đang thiếu và cần cái gì) mà còn phải phù hợp với trình độ văn hoá, nghề nghiệp, giới
tính, lứa tuổi, dân tộc... của đối tượng được phổ biến; đồng thời khi thực hiện PBGDPL
cần sử dụng ngôn ngữ đại chúng, hành văn (hoặc truyền đạt) giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu.
3.1.4. Chọn được hình thức phù hợp.
Có nhiều hình thức PBGDPL khác nhau, mỗi hình thức có sự phù hợp với một
hoặc một số đối tượng nhất định. Do đó, khi PBGDPL phải xuất phát từ đối tượng được
PBGDPL để chọn hình thức tối ưu. Ngoài ra, hình thức PBGDPL còn phải phù hợp với
địa bàn, điều kiện kinh tế xã hội, trình độ dân trí ở nơi tiến hành PBGDPL.
Nhìn chung, khi PBGDPL cần chọn một hình thức phù hợp cho đối tượng được
phổ biến hoặc kết hợp đan xen giữa hình thức này với hình thức khác để đạt hiệu quả tốt
nhất.
3.2. Yêu cầu đối với người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
3.2.1 Có kiến thức pháp lý nhất định.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, người cán bộ cần phải:
10
- Có kiến thức hiểu biết pháp luật nói chung, kiến thức xã hội rộng; hiểu biết về
đối tượng tuyên truyền ; khi tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần dự kiến trước được các
tình huống, các câu hỏi người nghe đưa ra để chuẩn bị phương án trả lời thích hợp giúp
cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt được hiệu quả, chất lượng tốt, đáp ứng
được nhu cầu của người được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Nắm vững những vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà các văn bản pháp luật điều
chỉnh;
- Hiểu được ý nghĩa, bản chất pháp lý của vấn đề mà các văn bản điều chỉnh, sự
cần thiết phải ban hành văn bản;
- Hiểu rõ đối tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh của văn bản;
- Hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm, các
chế tài…
3.2.2. Có nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động mang tính chất xã hội, đối tượng
phục vụ của phổ biến, giáo dục pháp luật là quảng đại quần chúng nhân dân, do đó một
trong các yêu cầu đầu tiên và hết sức quan trọng của người làm công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật là có tinh thần nhiệt tình, tận tụy với công tác.
Tinh thần nhiệt tình trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thể hiện là
không quản ngại khó khăn, gian khổ, luôn phấn khởi, hăng say trong công tác, lấy công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật làm niềm vui, là niềm say mê; nó không đơn thuần là
trách nhiệm được giao phó mà việc phổ biến, giáo dục pháp luật được cho nhiều người,
nhiều đối tượng với chất lượng và hiệu quả là niềm vui của người làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật.
Người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn cần phải tận tụy với công
việc, luôn phấn khởi phục vụ cho mọi đối tượng, không quản ngại đối với những vấn đề
mới, văn bản pháp luật mới; bản thân luôn phải cố gắng học tập, phấn đấu vươn lên; tích
luỹ kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kiến thức chuyên ngành, tài liệu, số liệu, dẫn
chứng minh họa để hoàn thành công việc được giao.
3.2.3. Có khả năng nói và viết.
11
Phổ biến, giáo dục pháp luật là truyền đạt thông tin pháp luật và giải thích pháp
luật cho người khác, chính vì thế ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết đóng vai trò rất quan
trọng cho sự thành công của người làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
Sự kết hợp giữa khả năng nói và viết trong người làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác.
3.2.4. Có khả năng hòa đồng và giao tiếp.
Làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là làm công tác vận động quần chúng,
nó không thuần tuý là đi thông tin và giải thích pháp luật cho các đối tượng được tuyên
truyền.
Trước khi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, người làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cần phải biết đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật là ai,
họ cần gì, công việc của họ ra sao, họ đang cần lĩnh vực pháp luật nào và mình phải quan
hệ công tác với họ như thế nào?
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động mang tính chất hai chiều, không
đơn thuần là sự truyền đạt thông tin và giải thích pháp luật của người làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật có mà sự phản hồi của đối tượng được tuyên truyền.
Họ có lắng nghe thông tin về pháp luật không? Đồng thời, họ có thể đặt câu hỏi
hay thể hiện chính kiến về việc giải thích pháp luật đúng hay không đúng của người đi
giải thích không? Sự cọ sát hai chiều về cùng vấn đề được trao đổi sẽ làm cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đạt chất lượng và hiệu qua cao .
Chính các yếu tố được nêu và phân tích trên đòi hỏi người làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật phải có khả năng hoà đồng và giao tiếp.
3.2.5. Biết tích luỹ tư liệu, kiến thức.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật vừa mang tính thời sự vừa mang tính lâu
dài. Chỉ có thể tham gia vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật khi có đủ kiến thức,
trình độ, kinh nghiệm về công tác pháp luật. Để đạt được các điều kiện đó thì người làm
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải tích luỹ tư liệu, kiến thức; bao gồm kiến
thức pháp lý, pháp luật hiện hành, đường lối chính sách của Đảng, kiến thức chuyên
ngành, kiến thức xã hội, kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam và nước ngoài.
3.2.6. Có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền.
12
Hiểu được tâm lý học tuyên truyền chính là hiểu được các quy luật tâm lý phát
sinh, vận động trong quá trình tiếp nhận thông tin pháp luật của các loại đối tượng được
thể hiện trong tất cả các giai đoạn tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các đối
tượng. Trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật còn phải nắm bắt sự phản ứng, sự
tiếp nhận của họ như thế nào về nội dung được tuyên truyền.
Sau khi tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho một loại đối tượng, chủ thể
tuyên truyền còn phải biết nghe dư luận xã hội và sự phản ứng tích cực, tiêu cực của các
đối tượng được tuyên truyền về nội dung được phổ biến.
Tất cả những động thái như vậy, người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
đều cần phải nắm bắt để dự liệu, để chuẩn bị hành trang cho mình. Sự chuẩn bị về kiến
thức cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cần thiết, đồng thời người làm công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật còn phải hiểu biết trạng thái tâm lý khác nhau của các đối
tượng được tuyên truyền, đó chính là tâm lý học tuyên truyền mà người làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cần phải có.
3.2.7. Tuỳ từng vị trí công tác, địa bàn hoạt động, cần phải có những hiểu biết
về xã hội, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền nhất định.
Pháp luật luôn gắn với đời sống xã hội, nó quan hệ mật thiết tới các hiện tượng
khác của xã hội như đạo đức, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền.
Pháp luật thực chất là các quy tắc xử sự trong các quan hệ xã hội được Nhà nước
thừa nhận, do đó nó có mối liên hệ với các phong tục, tập quán khác. Chính vì thế khi
làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở từng vùng miền, ở mỗi dân tộc của đất nước,
người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng cần phải biết được phong tục tập
quán của dân tộc đó và miền vùng đó, để so sánh, để giải thích, để phân biệt.
Những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng sẽ được Nhà
nước thể chế hoá thành pháp luật để mọi người tôn trọng thực hiện, mặt khác nhiều quy
định của luật pháp khi ban hành đã bao hàm những phong tục, tập quán tốt đẹp.
Ngược lại, những phong tục, tập quán còn lạc hậu, bảo thủ thì khi tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật cũng cần phải lưu ý kết hợp giải thích có ngọn ngành cho
nhân dân để họ vừa tôn trọng pháp luật, vừa hiểu biết thêm về mối quan hệ giữa pháp luật
và phong tục, tập quán, từ đó hạn chế, bài trừ, xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu.
13
4. Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật và tiêu chí lựa chọn hình thức
phổ biến, giáo dục pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay thông dụng nhất 10 hình thức. Mỗi
hình thức có đặc trưng riêng của mình. Các hình thức cụ thể đó là:
4.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp (Tuyên truyền miệng về pháp luật).
Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền mà báo cáo viên,
tuyên truyền viên trực tiếp phổ biến đến người nghe về lĩnh vực, văn bản, quy định pháp
luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành
động theo các chuẩn mực pháp luật.
Tuyên truyền miệng pháp luật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức
tuyên truyền khác; lồng ghép với các hình thức tuyên truyền khác và là một bộ phận quan
trọng trong tổng thể các hình thức tuyên truyền pháp luật.
Đặc trưng chính là dùng lời lẽ trực tiếp truyền đạt nội dung pháp luật cho người
nghe.
4.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật trên các loại hình báo chí và qua mạng lưới
truyền thanh cơ sở.
So với hình thức PBGDPL qua báo chí, hình thức PBGDPL qua mạng lưới truyền
thanh cơ sở có đối tượng và phạm vi tác động hẹp hơn, được xác định cụ thể trong phạm
vi một xã, phường, thị trấn hay một tổ dân phố, một thôn.
Đặc trưng chính là sử dụng báo nói, báo viết, báo hình để truyền bá nội dung cần
phổ biến.
4.3 Biên soạn và phát hành các loại tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tài liệu phổ biến pháp luật đóng vai trò quan trọng trong hoạt động PBGDPL. Tài
liệu phổ biến pháp luật vừa là cẩm nang, vừa là phương tiện, công cụ hoạt động của
những người làm công tác PBGDPL, là cầu nối đưa pháp luật đến với người dân.
Tài liệu phổ biến pháp luật gồm nhiều loại:
- Đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật;
- Sách pháp luật gồm: sách nghiên cứu, bình luận, hướng dẫn, giải thích pháp luật;
sách giáo khoa, sách tham khảo; sách pháp luật phổ thông (sách pháp luật bỏ túi, sách hỏi
14
đáp pháp luật, sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật); sách hệ thống hoá văn bản quy phạm
pháp luật...;
- Tờ gấp về pháp luật;
- Bản tin pháp luật;
- Pa nô, áp phích tuyên truyền pháp luật;
- Băng tiếng, băng hình tuyên truyền pháp luật;
- Tài liệu pháp luật khác.
Trong phạm vi hoạt động PBGDPL ở cấp xã, phần này chỉ đề cập đến kỹ năng
biên soạn Đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật và tài liệu hỏi đáp pháp luật (không
phải là sách in).
Đặc trưng chính là dùng các ấn phẩm để truyền bá nội dung cần phổ biến.
4.4 Giáo dục pháp luật trong nhà trường.
Giáo dục pháp luật là sự tác động có định hướng có tổ chức nhằm hình thành tri
thức, tình cảm và hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, làm cho công dân tự giác
tuân thủ, thi hành pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của công dân.
Đó là một trong các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thông
qua việc dạy và học pháp luật trong các nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục
là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần hình thành và bồi dưỡng ý
thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nguồn
nhân lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng chính là truyền đạt nội dung pháp luật thông qua các phương pháp sư
phạm.
4.5. Tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật.
Thi tìm hiểu pháp luật là một trong các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, là cầu nối chuyển tải những nội dung pháp luật vào cuộc sống, là hình thức
sinh hoạt văn hoá pháp lý có sức hấp dẫn và hiệu quả. Đây là một trong những hình thức
phổ biến, giáo dục pháp luật hấp dẫn, có hiệu quả cao và được sử dụng nhiều. Những nội
dung pháp luật được chuyển tải đến các đối tượng thông qua cuộc thi một cách đơn giản,
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ hơn, sinh động hơn, tránh được sự cứng nhắc, khô cứng. Bên
15
cạnh đó, kiến thức pháp luật, kỹ năng tuyên truyền pháp luật của người tổ chức cũng
được trau dồi, gọt dũa.
Kết quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hình thức thi tìm
hiểu pháp luật tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật của người dự thi, qua đó là nơi giao
lưu, học hỏi kinh nghiệm, kiến thức pháp luật và kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật
của cả người tổ chức cuộc thi và người theo dõi, tìm hiểu cuộc thi.
Đặc trưng chính là vận động khuyến khích đối tượng tìm hiểu pháp luật thông qua
thi thố tài năng.
4.6. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt của các câu lạc bộ pháp
luật.
Câu lạc bộ pháp luật là tổ chức được thành lập và hoạt động trên tinh thần tự
nguyện tham gia của những người có nhu cầu tìm hiểu pháp luật, nhiệt tình tuyên truyền,
PBGDPL. Thông qua các hoạt động sinh hoạt của Câu lạc bộ nhằm góp phần nâng cao
hiểu biết pháp luật, gây dựng lòng tin đối với pháp luật, nâng cao ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật của các hội
viên cũng như của nhân dân tại địa bàn.
Câu lạc bộ pháp luật được xác định là một hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp
luật có hiệu quả, phù hợp với mọi đối tượng và địa bàn dân cư khác nhau. Thực tiễn
những năm qua cho thấy, mặc dù số lượng Câu lạc bộ pháp luật được thành lập chưa
nhiều, nhưng tác dụng, hiệu quả, sức lan toả tích cực của mô hình này là không nhỏ trong
đời sống của cộng đồng dân cư. Điều này được khẳng định trước hết vì Câu lạc bộ là nơi
quy tụ, tập hợp đông đảo thành viên tham gia nhằm giao lưu, học hỏi, tạo một diễn đàn,
sân chơi bổ ích và lành mạnh để cùng trao đổi, nắm bắt kiến thức pháp luật và vận dụng
pháp luật.
Thông qua hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và kịp thời. Từ đó, giúp hội
viên và nhân dân trên địa bàn nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và tự giác
chấp hành pháp luật, đưa pháp luật dần trở thành thói quen trong ứng xử hàng ngày của
nhân dân. Câu lạc bộ còn tạo điều kiện để mỗi hội viên trở thành một tuyên truyền viên
pháp luật tích cực vận động người thân trong gia đình, địa bàn mình cư trú chấp hành
pháp luật.
16
Đặc trưng chính là: Đối tượng của phổ biến giáo dục pháp luật đồng thời cũng
chính là chủ thể của phổ biến giáo dục pháp luật, ở đó mỗi thành viên phát huy tính nhận
thức tích cực của mình trao đổi, tranh luận... để mở rộng kiến thức pháp luật của mình.
Ví dụ: tham gia Câu lạc bộ “tiền hôn nhân” là thanh niên chưa lập gia đình. Vì
vậy, việc giới thiệu Luật Hôn nhân và gia đình; Pháp lệnh Dân số; Luật Thanh niên... là
rất cần thiết, phù hợp và có hiệu quả. Trái lại, với đối tượng này mà chúng ta đưa nội
dung Luật Hàng không dân dụng sẽ không có hiệu quả.
4.7. Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật.
Tủ sách pháp luật là công cụ hữu hiệu để đưa pháp luật vào hoạt động của cơ quan
nhà nước nói chung, đặc biệt là quá trình điều hành của bộ máy chính quyền cơ sở, và
vào đời sống của các cộng đồng dân cư, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thông qua việc tìm hiểu,
nghiên cứu, đọc các sách, tài liệu pháp luật của tủ sách, người đọc tập hợp nghiên cứu,
tìm hiểu và vận dụng các quy định của pháp luật vào thực tế một cách đầy đủ, có hệ
thống, chính xác và thống nhất.
Tuy nhiên, việc tìm hiểu pháp luật qua khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật cũng
có những hạn chế nhất định, chịu sự tác động của nhiều yếu tố về cơ chế quản lý, thái độ
phục vụ, sự đầu tư nâng cao hiệu quả khai thác tủ sách pháp luật, mức độ đáp ứng yêu
cầu của đối tượng…
Đặc trưng chính là trực tiếp cung cấp tài liệu, thông tin pháp luật cho đối tượng.
4.8. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật và trợ
giúp pháp lý.
Tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật,
cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm giúp công dân, tổ chức trong nước và nước ngoài thực
hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Thông qua tư vấn pháp luật, luật sư góp
phần tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật nhằm nâng cao văn hoá pháp lý cho
công dân trong cộng đồng xã hội. Hoạt động tư vấn pháp luật là cầu nối quan trọng giữa
người xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, thực thi pháp luật và những người là đối
tượng của việc áp dụng pháp luật.
17
Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà
nước cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với
các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa) nhằm bảo đảm cho mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội.
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp
lý sẽ giúp các đối tượng nắm bắt được các thông tin pháp lý, hiểu được quyền và nghĩa
vụ của mình trong các quan hệ pháp luật, hướng dẫn phương pháp xử sự các hoàn cảnh
cụ thể phù hợp với pháp luật và tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, hướng dẫn
công dân, tổ chức tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật.
Đặc trưng chính là thông qua việc cung cấp dịch vụ pháp lý, giải đáp pháp luật,
hướng dẫn thân chủ ứng xử đúng pháp luật để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của thân chủ mà nâng cao hiểu biết pháp luật cho họ.
4.9. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở là việc các tổ
viên hoà giải bằng hoạt động hoà giải của mình cung cấp các kiến thức pháp luật, bồi
dưỡng tình cảm pháp luật cho các bên tranh chấp và những người khác trong cộng đồng
dân cư nhằm mục đích hình thành ở họ sự hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật
và thói quen hành động theo pháp luật.
Để phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải có hiệu quả, đòi hỏi
phải có phương pháp thực hiện hợp lý và có những giải pháp phù hợp, kịp thời để việc
hoà giải đạt được mục đích đồng thời qua việc hoà giải, các bên hiểu được quyền, nghĩa
vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Đặc trưng chính là thông qua việc giới thiệu văn bản phân tích, hướng dẫn để các
bên tranh chấp hiểu văn bản, tự đối chiếu với hành vi của mình và hành vi của phía bên
kia để thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên, giúp các bên nhận thức pháp luật sâu sắc
hơn.
4.10. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các loại hình văn hoá, văn nghệ đặc
biệt là các loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống.
18
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các loại hình văn hoá, văn nghệ là đưa tinh
thần một quy phạm pháp luật, một văn bản pháp luật vào đời sống xã hội bằng “ngôn
ngữ” của một loại hình văn hoá, văn nghệ nào đó như kịch, lễ hội, áp phích….
Đối với hoạt động này, đòi hỏi một số kỹ năng bảo đảm cho việc phổ biến, giáo
dục pháp lụât có hiệu quả như biết thâm nhập vào đời sống xã hội, nắm được tình hình
thực hiện pháp luật trong cuộc sống, phát hiện được vai trò định hướng phát triển xã hội
của pháp luật, những tính chất ưu việt của pháp luật xã hội chủ nghĩa, chuyển được tư
duy pháp luật thành tư duy nghệ thuật…
Đặc trưng chính là khai thác nghệ thuật biểu đạt của một loại hình văn hoá, văn
nghệ để đưa pháp luật tới nhân dân.
* Trên đây là 10 hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
dân, những hình thức này đã và đang được áp dụng rộng khắp và có hiệu quả ngày càng
cao trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật trong đông đảo người
dân.
19
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Ở XÃ KỲ TÂY, HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH. MỘT SỐ GIẢI PHÁP.
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
(PBGDPL), TẠI XÃ KỲ TÂY.
1. Thực trạng tình hình nhận thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân
dân ở xã Kỳ Tây hiện nay.
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, bộ máy quản lý hành chính Nhà nước đã bộc lộ
nhều nhược điểm, cơ cấu và tổ chức bộ máy Nhà nước chưa xác định đúng và còn phân
biệt rõ sự lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý Nhà nước, chưa có sự phân công
rành mạch giữa ba quyền năng đó là: Quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp còn trùng
lặp, chồng chéo, việc phân công phối hợp và thống nhất thiếu chặt chẽ. Hệ thống tổ chức
đối với cán bộ công chức và pháp luật hành chính còn phản ánh một nền kinh tế mang
nặng tính tự cung, tự cấp với cơ chế tập trung bao cấp mang nặng tính dân chủ hình thức
nên dẫn đến việc thiếu sự tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tình hình trên có rất nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là phải kể đến tính đặc
thù tại địa bàn xã Kỳ Tây là xã miền núi 135 địa hình phức tạp, dân cư phân bố rải rác
không tập trung, nên đầu mối giao thông đi lại phức tạp gặp không ít khó khăn. Suy cho
cùng thì đây là một yếu tố khách quan, tính đặc thù thứ hai có thể kể đến đó là bên cạnh
pháp luật Nhà nước thì ở nơi đây người dân đađang tồn tại một số phong tục, tục lệ còn
lạc hậu.
Tình hình vi phạp pháp luật do không được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật nên không nhận thức được pháp luật của người dân nơi đây.
Thực tiễn và lý luận công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong
những năm qua cho thấy Đảng và chính quyền địa phương đã triến khai cụ thể những văn
bản của Trung ương về công tác này ở địa phương và đã quan tâm ban hành nhiều văn
bản, quyết sách về phát triễn kinh tế xã hội ở xã Kỳ Tây ( trong đó có việc tuyên truyền,
giáo dục pháp luật để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật trong cán bộ công chức và
nhân dân trên địa bàn xã Kỳ Tây nói riêng và tren địa bàn huyện Kỳ Anh nói chung ).
Nhưng tình hình nhận thức pháp luật của người dân nơi đây còn hạn chế dẫn đến việc
vi phạm pháp luật như luật giao thông đường bộ, tội phạm như trộm cắp… là vấn đề đang
20
được quan tâm trong tình trạng hiện nay, các tệ nạn xã hội như tảo hôn, mê tín dị đoan,
cờ bạc, chặt phá rừng bừa bãi khai thác đất đai còn chưa hợp lý… và các vi phạm pháp
luật khác vẫn còn tồn tại.
Tóm lại, có thể khái quát thực trạng vi phạm pháp luật do không được phổ biến,
giáo dục pháp luật trong thời gian qua là: tình hình vi phạm pháp luật ở xã Kỳ Tây phổ
biến và ngày càng diễn biến phúc tạp, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có được triễn
khai nhưng chưa đồng bộ và đều khắp, nội dung hình thức pháp luật, phổ biến pháp luật
còn nghèo nàn, thiếu tính hệ thống , chưa phù hợp đối với người dân nơi đây.
2. Kết quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) tại xã Kỳ
Tây.
Có thể khẳng định rằng việc người dân tham gia tích cực và hoạt động quản lý xã
hội bằng pháp luật là cơ sở quan trọng để xây dựng một xã hội dân chủ công bằng và văn
minh. Để làm được điều đó đòi hỏi người dân phải có trình độ và hiểu biết pháp luật.
Vì thế Công tác phổ biến giáo dục pháp luật góp phần quan trọng trong việc thúc
đẩy những quan niệm của tính tích cực, bảo đảm hành trang kiến thức pháp lý cho mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội, là điều kiện cơ bản để hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân.
Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa bàn xã Kỳ
Tây đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
Năm 2011: Ban Tư pháp xã Kỳ Tây đã tham mưu xây dựng được kế hoạch phổ
biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), đồng thời phối hợp với các ban nghành đoàn thể tổ
chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) trên địa
bàn xã.
Vì vậy trong năm 2011 đã đạt được : 15 buổi nói chuyện về pháp luật cho toàn thể
cán bộ, Đảng viên và toàn thể nhân dân trong toàn xã với số lượng người nghe là 2545
người nghe.
Chủ yếu phổ biến các luật như: Luật an toàn giao thông đường bộ; Luật đất đai;
Luật bảo vệ và phát triễn rừng; Luật hôn nhân và gia đình; Luật cư trú; Luật phòng chống
tham nhũng;
21
Các nghị định như: Nghị định só 105/ND-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực Đất đai; Nghị định số 99/ND-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản;
Các pháp lệnh như: Pháp lệnh về trật tự an toàn xã hội.
Đặc biệt luôn chú trọng vào việc tuyên truyền Luật bầu cử. Thường xuyên phối
kết hợp với ban văn hóa xã tuyên truyền qua phát thanh của xã hàng ngày, hàng tuần về
những thông tư, nghị định, quy định của xã và của cấp trên cho nhân dân kịp thời. Thời
lượng phát sóng tối thiểu một làn từ 15 đến 30 phút.
Cùng với nhiệm vụ trên công tác xây dựng và quản lý khai thác tủ sách pháp luật
cũng được quan tâm đúng mức số đầu sách đến cuối năm 2011 là 190 cuốn (chưa kể đến
tủ sách pháp luật ở bưu điện văn hóa xã) nhìn chung đã khai thác tốt và có hiệu quả.
Năm 2012: Đã đạt được 18 buổi tuyên truyền PBGDPL cho toàn thể cán bộ, nhân
dân trên địa bàn với số lượng người nghe là 2675 người nghe.
Chủ yếu phổ biến các Luật như: Luật hôn nhân và gia đình; Luật an toàn giao
thông đường bộ; Luật phòng chống tham nhũng; Luật đất đai; Luật bảo vệ và phát triễn
rừng; Luật cư trú; … Và một số văn bản Quy phạm khác.
Năm 2013: đã đạt được 23 buổi tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật với số
lượng người nghe lên tới 2800 người nghe. In được 1764 cuốn tài liệu trực tiếp phát đến
từng hộ gia đình trên địa bàn xã( tài liệu về luật sửa đổi Hiến Pháp 1992).
Đặc biệt là tổ chứ tập huấn cho toàn thể cán bộ, công chức trên địa bàn xã về kỹ
năng soạn thảo văn bản.
Tổ chức tập huấn và phổ biến cho các tổ viên tổ hòa giải về luật hòa giải ở cơ sở.
Phổ biến, chủ yếu các luật như: Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2013; Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật bảo vệ môi trường; Luật cán bộ công chức; Luật
bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội; Luật đất đai…;…
3. Ưu điểm
Qua quá trình thực tập và tìm hiểu trên thực tế, hiện nay công tác PBGDPL tại
UBND xã Kỳ Tây, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã có nhiều chuyển biến tích cực và thu
được nhiều kết quả đáng kể, từng bước đáp ứng được yêu cầu của việc tăng cường quản
22
lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ và
nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tại địa phương.
Hiện nay, công tác PBGDPL tại địa bàn xã đã có rất nhiều sáng kiến mới; hình
thức, nội dung tuyên truyền ngày một phong phú và đa dạng như qua đài truyền thanh,
chương trình truyền hình của UBND xã Kỳ Tây, qua các bài báo cáo phát thanh vào buổi
sáng …. Nhờ vậy, pháp luật và tinh thần của pháp luật đang từng bước đi sâu vào nhận
thức, hành động và mọi mặt trong đời sống của người dân.
Xác định vai trò và tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp pháp luật
(PBGDPL) tại địa bàn xã Kỳ Tây trong thời gian qua, các cấp lãnh đạo luôn quan tâm
chú trọng công tác này, vì vậy đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, tăng cường phối
hợp, cụ thể: Trên cơ sở kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật chung, hàng năm Ban Tư
pháp xã đã phối hợp với Phòng Tư pháp huyện tổ chức thực hiện nhiều hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật trên toàn xã. Tổ chức tập huấn cho cán bộ những kiến thức về
pháp luật. Tổ chức các cuộc họp người dân trên địa bàn xã. Xây dựng và tổ chức khảo sát
lấy ý kiến của cán bộ, giáo viên(dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật), học sinh, sinh
viên nhằm đánh giá thực trạng cũng như nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các đối tượng
trên để xây dựng kế hoạch, tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp, thiết thực.
Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu là tập huấn, tuyên truyền miệng, biên
soạn cấp phát tài liệu, tổ chức các cuộc thi, hoạt động ngoại khóa, lồng ghép với cuộc
họp, phối hợp với các nghành có liên quan, phát huy hiệu quả khai thác tủ sách pháp luật.
Điều này được thể hiện qua cuộc sống và sinh hoạt của người dân trên địa bàn xã, vi
phạm luật giao thông, tệ nạn ma túy ngày càng giảm, an ninh trật tự được giữ vững, thanh
niên thực hiện nghĩa vụ quân sự hằng năm đạt tỷ lệ 100% .
Công tác phổ biến giáo dục pháp luật tại xã Kỳ Tây trong những năm qua không
chỉ ngày càng được quan tâm đúng mức mà hiệu quả của công tác này mang lại đã và
đang có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong người dân,
góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn trật tự, an ninh chính trị và an toàn xã hội. Sự phối
hợp giữa các ban, nghành đang thực sự có hiệu quả và mang lại nhiều kinh nghiệm trong
công tác PBGDPL; hiệu quả của công tác này đối với người dân đặc biệt là công tác đưa
pháp luật vào cuộc sống ở vùng dân tộc miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo chủ
trương, phương hướng của Ủy ban nhân dân xã đề ra ngày càng được nâng cao.
23
4. Một số hạn chế còn tồn tại:
Có thể khẳng định rằng, giữa công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) với
việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở xã Kỳ Tây có mối quan hệ mật
thiết, không tách rời với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, tại đây, công tác phổ biến giáo dục
pháp luật (PBGDPL) vẫn chưa ngang tầm với việc quản lý xã hội bằng pháp luật, chưa
được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ và rộng khắp, còn thiếu cơ chế, kế hoạch
phối hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành để huy động sức mạnh tổng hợp của các hệ
thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội đối với công tác này.
Mặt khác, đội ngũ báo cáo viên pháp luật và lực lượng tuyên truyền viên pháp luật
hầu hết là kiêm nhiệm nên đôi nơi, đôi lúc việc nghiên cứu, biên soạn tài liệu tuyên
truyên cũng như việc tham gia các buổi, các đợt triễn khai công tác Phổ biến giáo dục
pháp luật (PBGDPL) xuống cơ sở còn hạn chế, thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song công tác Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL)
tại địa bàn xã Kỳ Tây trong nhiều năm qua vẫn còn một số hạn chế cụ thể sau:
Trên thực tế cấp ủy Đảng và các đơn vị chưa quan tâm đúng mực, chưa quán triệt
các văn bản Luật mới ban hành cho cán bộ, Đảng viên của cơ quan, tổ chức đơn vị mình.
Lãnh đạo cơ quan, ban ngành đoàn thể chưa vận động và tạo điều kiện hết cho cán
bộ công nhân viên chức tham gia học tập qua các cuộc triển khai hội nghị phổ biến giáo
dục pháp luật (PBGDPL) do địa phương tổ chức .
Tại địa phương không tạo điều kiện nguồn kinh phí để trang trải cho boạt động
phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL)còn chưa cao, chưa có kế hoạch tổ chức tập huấn
cho lực lượng tuyên truyền viên pháp luật và hòa giải viên ở cơ sở.
Các ngành, ở địa phương chưa thực sự phối hợp chặt trong công tác phổ biến giáo
dục pháp luật (PBGDPL) coi đây là một nhiệm vụ độc lập của ngành tư pháp.
Các thành viên của hội đồng phối hợp công tác PBGDPL chưa có kế hoạch giám
sát việc thực hiện công tác này theo quy chế của hội đồng phối hợp đề ra.
Tủ sách pháp luật đã được xây dựng nhưng hiệu quả khai thác và sử dụng còn
thấp, số lượng tham gia mượn đọc, nghiên cứu sách báo pháp luật còn quá ít.
Công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật mặc dù được quan tâm tiến hành
nhưng vẫn chưa đúng thực sự trọng điểm, việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền ở các
24
cấp, các ngành nhiều lúc còn mang tính hình thức, nặng nề về phong trào chưa đi vào
thực chất, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và tiến độ nhất là ở cơ sở, dẫn đến
đạt hiệu quả chưa cao. Hình thức triễn khai còn nghèo nàn chủ yếu là tuyên truyền
miệng.
Ở đơn vị, địa phương còn thụ động, trông chờ, ỷ lại vào hướng dẫn của cấp trên,
vào nghành Tư pháp, chưa làm tốt vai trò tham mưu đề xuất với cấp ủy Đảng, chính
quyền cùng cấp và lãnh đạo của cơ quan để chỉ đạo và tổ chức triễn khai công tác tuyên
truyền.
Việc cấp kinh phí cho công tác tuyên truyền vẫn chưa được quan tâm đúng mức,
dẫn đến việc mở các hội nghị tuyên truyền đều phải xin kinh phí bổ sung, bị động trong
việc triển khai.
Đội ngũ cán bộ chuyên trách, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hòa giải
viên,tuy đã được cũng cố kiện toàn đông đảo về số lượng nhưng chưa tương xứng với
nhu cấu thực tiễn đặt ra. Đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở chưa đồng đều, một số còn hạn chế
về trình độ.
Bên cạnh đó nhận thức của đối tượng được tuyên truyền còn nhiều hạn chế, vì tại
địa bàn nơi đây là xã miền núi, khó khăn nên địa hính phân bố dân cư còn lẻ tẻ không tập
trung không đồng đều và phức tạp với lại trình độ nhận thức của người dân còn thấp vì
thế việc truyện đạt, phổ biến đi lại cho việc tuyên truyền còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế
việc đưa lại hiệu qua cho việc tuyên truyền phổ biến đạt hiệu quả chưa cao.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT( PBGDPL)
Để thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), kịp thời giải
quyết các yêu cầu cấp bách đang đặt ra đối với công tác này tại địa bàn xã Kỳ Tây trước
sự chuyển biến phức tạp về ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của
cán bộ, nhân dân trong xã, để góp phần giữ gìn ổn định chính trị an toàn xã hội ở địa
phương, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau với mong muốn góp phần nâng
cao hơn nữa vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), cụ thể như
sau:
25
1.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương trước yêu cầu của
công cuộc đẩy mạnh “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không thể coi là nhiệm
vụ trọng tâm trước mắt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, liên tục. Đây là nhiệm
vụ của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị, tất cả các cán bộ, người đứng đầu cơ quan,
đơn vị phải nêu cao trách nhiệm, quan tâm lảnh đạo chủ động làm tốt công tác này trong
thời gian tới. Đây là yếu tố cần thiết, vì pháp luật thể chế đường lối của Đảng, là phương
tiện quản lý Nhà nước bằng pháp luật trong toàn xã hội nói chung và đối với các xã,
phường thị trấn nói riêng.
- Xác định đối tượng cần phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Lựa chọn nội, hình thức biện pháp.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phổ biến, giáo dục pháp luật với thực hiện pháp luật.
- Xây dựng cũng cố lực lượng làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Xây dựng kế hoạch phổ biến, kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoạch, phối hợp
thực hiện kế hoạch.
2. Cần kiện toàn hơn nữa tổ chức hoạt động, nâng cao năng lực hoạt động của cơ
quan Tư pháp ở địa bàn. UBND chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên bằng chương trình kế
hoạch, chỉ thị hằng năm, đột xuất trọng điểm theo yêu cầu nhiệm vụ cụ thể.
3. Cần lưu ý cũng cố, kiện toàn và thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngủ cán bộ. Vừa chỉ đạo vừa trực tiếp thực hiện công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ở cấp mình phụ trách. Quan tâm xây dựng lực lượng
báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và công tác viên tham gia phổ biến, giáo dục
pháp luật ở cơ sở.
4. Hằng năm ban Tư pháp xã phải thường xuyên lựa chọn nội dung và hình thức
phổ biến cho phù hợp với nhu cầu của người dân trên địa bàn xã Kỳ Tây nói riêng. Lồng
ghép có hiệu quả việc phổ biến, giáo dục pháp luật với việc thực hiện các chương trình
phát triễn kinh tế - xã hội, với các phong trào thi đua, các cuộc tuyên truyền vận động
chấp hành pháp luật theo chủ đề.
5. Hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ.
26
6. Tăng cường với đài phát thanh, truyền hình báo chí. Thường xuyên xây dựng
các chuyên đề, chuyên mục về tìm hiểu pháp luật, hỏi đáp pháp luật, tạp san chuyên
nghành trong phổ biến, giáo dục pháp luật.
7. Hoàn thiện hơn nữa Tủ sách pháp luật ở xã, phường thị trấn. thường xuyên nâng
cao đầu sách với nội dung cập nhật và phù hợp với tình hình cụ thể của từng đơn vị, từng
địa phương. Đảm bảo cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả.
8. Cần đầu tư biên soạn phát hành tài liệu pháp luật, tập huấn phổ biến trực tiếp
các nội dung theo chuyên đề.
9. Cần phối hợp với trường học trên địa bàn, nhất là đối tượng học sinh để đưa
chương trình pháp luật vào giảng dạy ở nhà trường, hoặc cụ thể trong các buổi ngoại
khóa, giao lưu văn hóa biểu diễn văn nghệ.
27
C. KẾT LUẬN
Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao trình độ hiểu
biết pháp luật cho cán bộ và nhân dân là nhiệm vụ rất khó khăn. Đặc biệt, việc PBGDPL
cho cán bộ, nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới lại càng
khó khăn hơn, đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền vừa phải nhiệt tình, tận tụy với
công việc, vừa phải luôn sáng tạo, đổi mới phương pháp và cách thức tuyên truyền phù
hợp để pháp luật thực sự đi vào thực tế cuộc sống của người dân trên địa bàn.
Một lần nữa có thể khẳng định rằng, công việc phổ biến, giáo dục pháp luật không
chỉ là trách nhiệm của cơ quan Tư pháp nói chung hay sở, ban, nghành Tư pháp nói riêng
mà còn là trách nhiệm của mọi người dân để nhằm nâng cao hơn nữa trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật. Nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, xây dựng xã hội sống
và làm theo Hiến pháp và pháp luật đó là mục tiêu không chỉ của riêng Đảng, Nhà nước
và của các cấp chính quyền mà còn là nguyện vọng chính đáng và là trách nhiệm, nghĩa
vụ của mọi người dân trong xã hội, vì mục đích xây dựng một xã hội trật tự, an toàn và
thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Ba tháng thực tập là khoảng thời gian không dài đối với một đời người nhưng với
bản thân tôi, trong khoảng thời gian 3 tháng thực tập tại UBND xã Kỳ Tây vừa qua, tôi
đã học được rất nhiều điều bổ ích, hiểu rõ hơn về cơ cấu tổ chức bộ máy của một cơ quan
nhà nước, hiểu rõ về quy chế làm việc, về mối quan hệ giữa UBND xã Kỳ Tây với các cơ
quan nhà nước khác, nắm rõ được công việc cụ thể mà một công chức phải làm; Quan
trọng hơn nữa là tôi đã vận dụng được kiến thức đã học ở trường vào trong công việc
thực tế, điều này sẽ giúp tôi rất nhiều trong tương lai khi trở thành một cán bộ nhà nước.
Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế, quỹ thời gian đi thực tập thực tế không dài
nên bản thân tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn để nhận thức và bài tiểu luận của
tôi được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện.
Nguyễn Lương Tài
28
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012;
2. Nghị định số 28/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật phổ biến, giáo dục pháp luật;
3. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 29 tháng 12 năm 2003 của ban bí thư về tăng cường
sự lảnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân;
4. Nghị quyết 61/2007/NQ-CP Về việc tuyên truyền thực hiện chỉ thị số32 CT/TW
ngày 29 tháng 12 năm 2003 của ban bí thư. Về tăng cường sự lảnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân;
5. Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2010 về việc xây dựng,
quản lý, khai thác, tủ sách pháp luật;
6. Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14 tháng 5 năm 2010.
Hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật../.
29

Contenu connexe

Tendances

Dao duc luat su.doc
Dao duc luat su.docDao duc luat su.doc
Dao duc luat su.docPhan Be
 
Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngBáo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Tendances (20)

Dao duc luat su.doc
Dao duc luat su.docDao duc luat su.doc
Dao duc luat su.doc
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thị
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thịLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thị
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thị
 
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOTLuận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
 
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOTĐề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
 
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt NamLuận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
 
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt NamLuận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
 
Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận án: Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer, HAY
Luận án: Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer, HAYLuận án: Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer, HAY
Luận án: Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, HOT
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, HOTLuận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, HOT
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao độngLuận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
 
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt NamLuận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
 
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyềnMối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngBáo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến phápĐề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
 

En vedette

Tai+lieu+hien+phap
Tai+lieu+hien+phapTai+lieu+hien+phap
Tai+lieu+hien+phapCuong Le
 
Báo Cáo Thực Tập Tốt Nghiệp
Báo Cáo Thực Tập Tốt NghiệpBáo Cáo Thực Tập Tốt Nghiệp
Báo Cáo Thực Tập Tốt Nghiệpnguyeminh thai
 
Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...
Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...
Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...akirahitachi
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Restaurant & Cafe Marketing plan
 Restaurant & Cafe Marketing plan Restaurant & Cafe Marketing plan
Restaurant & Cafe Marketing planThe Webguy
 
A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...
A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...
A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...SlideShare
 

En vedette (8)

Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú ThọBáo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
 
Giao duc phap luat
Giao duc phap luatGiao duc phap luat
Giao duc phap luat
 
Tai+lieu+hien+phap
Tai+lieu+hien+phapTai+lieu+hien+phap
Tai+lieu+hien+phap
 
Báo Cáo Thực Tập Tốt Nghiệp
Báo Cáo Thực Tập Tốt NghiệpBáo Cáo Thực Tập Tốt Nghiệp
Báo Cáo Thực Tập Tốt Nghiệp
 
Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...
Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...
Bài thuyết trình powerpoint hòa giải trong tố tụng dân sự - Hiệu ứn...
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Restaurant & Cafe Marketing plan
 Restaurant & Cafe Marketing plan Restaurant & Cafe Marketing plan
Restaurant & Cafe Marketing plan
 
A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...
A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...
A Guide to SlideShare Analytics - Excerpts from Hubspot's Step by Step Guide ...
 

Similaire à phổ biến giáo dục pháp luật

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Báo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ
Báo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân HồBáo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ
Báo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân HồDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similaire à phổ biến giáo dục pháp luật (20)

Cơ sở lý luận của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.docx
Cơ sở lý luận của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.docxCơ sở lý luận của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.docx
Cơ sở lý luận của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.docx
 
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luậtTiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
 
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên ở quận Phú Nhuận
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên ở quận Phú NhuậnĐề tài: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên ở quận Phú Nhuận
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên ở quận Phú Nhuận
 
Luận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên
Luận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viênLuận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên
Luận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên
 
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bà...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
Đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinh
Đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinhĐề tài: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinh
Đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinh
 
Truyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành ...
Truyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành ...Truyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành ...
Truyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành ...
 
Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.docx
Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.docxCơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.docx
Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.docx
 
Báo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ
Báo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân HồBáo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ
Báo cáo thực tập tại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ
 
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhĐề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng ...
Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng ...Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng ...
Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng ...
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.doc
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.docPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.doc
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.doc
 
Cơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật.docx
Cơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật.docxCơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật.docx
Cơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật.docx
 
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk LắkĐề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOTLuận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Học Viên Khoa Học Xã Hội.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Học Viên Khoa Học Xã Hội.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Học Viên Khoa Học Xã Hội.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Học Viên Khoa Học Xã Hội.
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
 

phổ biến giáo dục pháp luật

  • 1. LỜI CẢM ƠN - - Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các Thầy, Cô giáo ở Trường Trung cấp Luật Đồng Hới, là những người đã cung cấp cho tôi những kiến thức bổ ích trong suốt 2 năm qua. Xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân xã Kỳ Tây đã tiếp nhận và tạo mọi điều kiện thuận lợi, xin cảm ơn lãnh đạo và các anh chị chuyên viên ở ban Tư pháp xã đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi hoàn thành tốt khoá thực tập. Đặc biệt, xin cảm ơn cô Nguyễn Thị Phương Thanh, giáo viên hướng dẫn làm đề tài và đồng chí Đặng Thuyết, trưởng ban Tư pháp xã Kỳ Tây đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực tập. Với kiến thức còn nhiều hạn chế và thời gian thực tập không dài, nên bản thân em trong quá trình thực hiện sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, vì vậy rất mong sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô, các anh chị và của tất cả các bạn để hoàn thiện hơn nữa bài báo cáo của mình. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Kỳ Tây, ngày 25 tháng 03 năm 2014 Sinh viên thực hiện Nguyễn Lương Tài 1
  • 2. MỤC LỤC Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững.............................................................9 2
  • 3. LỜI MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện về kinh tế xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh dân chủ công bằng, văn minh”. Công cuộc đổi mới đòi hỏi đồng thời phải thực hiện nhiều khâu quan trọng, đặc biệt là xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật. Những văn bản pháp luật mới ra đời với nhiều điểm tích cực đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Do đó, để pháp luật thực sự đi vào đời sống xã hội, được người dân biết đến và nghiêm chỉnh thực hiện thì vấn đề giáo dục nhận thức pháp luật cho người dân là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu của Quốc gia dân tộc trong thời điểm hiện nay. Xuất phát từ nhu cầu thục tiễn trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật đã cho chúng ta thấy để ban hành được một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ là một công đoạn không hề đơn giản, khó khăn và phức tạp. Nhưng muốn đưa được một hệ thống pháp luật vào trong cuộc sống xã hội thì sẽ không thể tránh khỏi những khó khăn và vướng mắc. Để thực hiện được mục tiêu này song song với việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, thì một trong những vấn đề quan trọng đó là cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Có thể khẳng định rằng, giáo dục pháp luật có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển chung của xã hội, song trên thực tế, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mực. Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tình trạng vi phạm pháp luật tệ nạn xã hội có xu hướng ngày càng tăng lên, đây là vấn đề bức xúc trong toàn xã hội đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt của các cấp, nghành từ Trung ương đến địa phương. Vì vậy, nhiệm vụ giáo dục, phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) tại địa bàn ở cơ sở có ý nghĩa rất lớn và thiết thực đối với việc tạo sự chuyển biến cơ bản và phát triển toàn diện của hệ thống pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống. Điều này đòi hỏi cần có sự nghiên cứu sâu sắc và toàn diện, nghiêm túc về thực trạng của công tác PBGDPL ở cấp xã, từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của công tác này trên thực tế. 3
  • 4. II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Trong thời gian 3 tháng thực tập nghề nghiệp, bản thân tôi đã nghiên cứu sâu sắc về những nội dung liên quan đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ở cấp xã nói chung và tại UBND xã Kỳ Tây huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng. Từ nhận thức trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở xã Kỳ Tây. Thực trạng và giải pháp” Với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu và nâng cao hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật tại địa bàn xã Kỳ Tây nói riêng và ở các địa phương, xã phường thị trấn trên cả nước nói chung. III. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN. Việc nghiên cứu đề tài “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở xã Kỳ Tây. Thực trạng và giải pháp”, có vai trò quan trọng cả về lý luận cũng như nhu cầu thực tiễn trong việc giúp cho chúng ta có được cái nhìn đúng đắn về ý nghĩa của hệ thống pháp luật Việt Nam đối với mỗi người dân, từ đó đưa ra được những biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn xã Kỳ Tây nói riêng và cả nước nói chung. VI. BỐ CỤC ĐỀ TÀI. Đề tài được bố cục gồm 2 chương, 3 phần. Phần mở đầu nêu lí do và phạm vi của đề tài. Phần nội dung gồm 02 chương: Chương 01 nêu rõ những vấn đề lý luận liên quan đến công tác PBGDPL ở địa bàn cấp xã; Chương 02 trình bày thực trạng công tác này ở UNBD xã Kỳ Tây và những kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại địa bàn xã; Phần kết luận tổng kết lại nội dung của đề tài và mong muốn của tác giả. 4
  • 5. B. NỘI DUNG CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NÓI CHUNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NÓI RIÊNG 1. Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật: Phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép hai từ phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật. Phổ biến pháp luật có hai nghĩa: (i) Nghĩa hẹp: Là giới thiệu tinh thần bản pháp luật cho đối tượng của nó; (ii) Nghĩa rộng: Là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước. Trong các văn bản của ta, nghĩa này được sử dụng nhiều hơn nghĩa hẹp. Giáo dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (Thuyết phục, nêu gương, ám thị...) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. Cả cụm từ phổ biến. giáo dực pháp luật có hai nghĩa: (i) Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. (ii) Nghĩa rộng: Là công tác, lĩnh vực, ngạch (theo nghĩa thông thường mà không phải nghĩa trong pháp luật về cán bộ công chức) phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật: • Định hướng công tác phổ biến,giáo dục pháp luật; • Lập chương trình, kế hoạch phổ biến,giáo dục pháp luật; • Áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; 5
  • 6. • Triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; • Kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến giáo dục pháp luật, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lí luận... về phổ biến giáo dục pháp luật. Trong tài liệu này, cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật được dùng cả hai nghĩa: Trong "Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật" phổ biến, giáo dục pháp luật có nghĩa hẹp. Trong "Nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật” phổ biến, giáo dục pháp luật có nghĩa rộng. 2. Vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội nói chung và trong quản lý nhà nước nói riêng. PBGDPL là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào đời sống. Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của nước ta trong gia đoạn hiện nay thì công tác PBGDPL có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao dân trí pháp lý và ý thức chấp hành pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn an ninh trật tự, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật tác động vào ý thức của đối tượng. Với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức và tác động trực tiếp đến ý thức của đối tượng. Trước hết, các hoạt động này tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật. Từ chỗ không để ý đến sự tồn tại của pháp luật, đối tượng được phổ biến, giáo dục bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật, đồng thời sự hiểu biết về pháp luật cũng ngày càng được nâng cao. Pháp luật chính là ph- ương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội và cũng là phương tiện cho mỗi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giúp cho đối tượng nhận thức được những giá trị cao đẹp ấy của pháp luật và biết sử dụng phương tiện hữu hiệu đó trong cuộc sống. Một vai trò hết sức quan trọng của phổ biến, giáo dục pháp luật là tạo được niềm tin vào pháp luật. Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của mình 6
  • 7. theo đúng các quy định của pháp luật. Không những thế, họ còn có ý thức phê phán, lên án những hành vi vi phạm, đi ngược lại với các quy định của pháp luật. 2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận quan trọng trong giáo dục chính trị tưởng. Bản chất của hoạt động xây dựng pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân vì vậy thực hiện pháp luật là thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Phổ biến, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị, hình thành ở người dân những hiểu biết nhất định về chính trị đồng thời trong quá trình giáo dục chính trị, tư tưởng có sự đan xen những nội dung, quan điểm pháp lý nhất định. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CHUNG ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT. 1. Mục đích của việc phổ biến, giáo dục pháp luật. 1.1 Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho đối tượng. Thông qua phổ biến, giáo dục pháp luật, người phổ biến, giáo dục được trang bị những tri thức cơ bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống. Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp luật. Trên cơ sở kiến thức pháp luật được trang bị đã hình thành mở rộng và làm sâu sắc tri thức pháp luật, giúp người học am hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá một cách đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng tin đúng đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở hình thành hành vi hợp pháp ở mỗi cá nhân. Tri thức pháp luật giúp con người điều khiển, kiềm chế hành vi của mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được. 7
  • 8. Các hành vi phù hợp với pháp luật chỉ được hình thành trên cơ sở nhận thức đúng, có niềm tin và có tình cảm đúng đắn đối với pháp luật. 1.2 Hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho đối tượng. Niềm tin vào pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi. Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ của hành vi hợp pháp. Trong cuộc sống, có nhiều trường hợp những người có kiến thức pháp luật nhưng không có lòng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên pháp luật, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi. Khi con người tin vào tính công bằng của những đòi hỏi của quy phạm pháp luật thì không cần một sự tác động bổ sung nào của Nhà nước để thực hiện những đòi hỏi đó. Có lòng tin vào tính công bằng của pháp luật, con người sẽ có hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện. Niềm tin pháp luật được xây dụng trên cơ sở: + Giáo dục tình cảm công bằng. Nói đến pháp luật là nói đến sự công bằng. Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho con người biết cách đánh giá các quy phạm pháp luật, biết cách xác định, đánh giá các tiêu chuẩn về tính công bằng của pháp luật để tự đánh giá hành vi của mình, biết quan hệ với người khác và với chính mình bằng các quy phạm pháp luật. + Giáo dục tình cảm trách nhiệm là giáo dục ý thức về nghĩa vụ pháp lý. Giáo dục tình cảm trách nhiệm nhằm hình thành ý thức tuân thủ pháp luật – một nguyên tắc xử sự của công dân trong mối quan hệ với nhau và với các cơ quan Nhà nước. Giáo dục tình cảm trách nhiệm làm cho người được giáo dục nhận thức được rằng mọi việc làm, mọi hành vi của mình phải dựa trên cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật cho phép. + Giáo dục ý thức đấu tranh không khoan nhượng đối với những biểu hiện vi phạm pháp luật, chống đối pháp luật, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. 1.3. Giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật cho đối tượng. Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức pháp luật trong mỗi công dân. Kết quả cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật phải được thể hiện ở hành vi xử sự phù hợp pháp luật của các công dân. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng niềm tin 8
  • 9. pháp luật là tiền đề để giáo dục ý thức nhân cách rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật. Những hành vi hợp pháp của mỗi người thường biểu hiện qua các việc làm như : + Tuân thủ các quy phạm pháp luật. Kiềm chế không thực hiện các điều pháp luật cấm. + Thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân. + Biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; biết vận dụng pháp luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm. Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững. 2. Nguyên tắc phổ biến giáo dục pháp luật(PBGDPL) Nguyên tắc PBGDPL là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi thực hiện công tác PBGDPL phải tuân thủ một cách đầy đủ, nghiêm túc. Luật PBGDPL đã quy định 5 nguyên tắc (tại Điều 5) đó là: - Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực; - Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm; - Đa dạng các hình thức PBGDPL, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được PBGDPL và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; - Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hằng ngày của người dân; - Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội. 3. Yêu cầu đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật. 3.1. Yêu cầu chung đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật. 3.1.1. Đề cao tính Đảng trong PBGDPL. Pháp luật và đường lối, chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng. Do đó, công tác PBGDPL bao giờ cũng phải đề cao tính Đảng. 9
  • 10. Muốn đề cao tính Đảng trong công tác PBGDPL thì phải hiểu biết, quán triệt đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng đối với từng thời kỳ, từng vấn đề. Đường lối, chính sách của Đảng cũng như pháp luật là những hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, phản ánh cơ sở kinh tế, do đó cũng thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và có quá trình vận động như các hiện tượng khác. Chính vì thế, PBGDPL và tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng phải luôn bắt nhịp được với những thay đổi trong đời sống chính trị - pháp luật của đất nước. 3.1.2. Bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản. PBGDPL khác với các loại hình PBGDPL ở chỗ nội dung được phổ biến, giáo dục là pháp luật, là những quy tắc xử sự được Nhà nước ban hành, có cấu trúc chặt chẽ từ câu chữ tới nội dung và yêu cầu của các quy định đó. Do đó, PBGDPL phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định, bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản. 3.1.3. Bảo đảm tính đại chúng: phù hợp với đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng. PBGDPL không những phải xuất phát từ nhu cầu của đối tượng được phổ biến (họ đang thiếu và cần cái gì) mà còn phải phù hợp với trình độ văn hoá, nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, dân tộc... của đối tượng được phổ biến; đồng thời khi thực hiện PBGDPL cần sử dụng ngôn ngữ đại chúng, hành văn (hoặc truyền đạt) giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu. 3.1.4. Chọn được hình thức phù hợp. Có nhiều hình thức PBGDPL khác nhau, mỗi hình thức có sự phù hợp với một hoặc một số đối tượng nhất định. Do đó, khi PBGDPL phải xuất phát từ đối tượng được PBGDPL để chọn hình thức tối ưu. Ngoài ra, hình thức PBGDPL còn phải phù hợp với địa bàn, điều kiện kinh tế xã hội, trình độ dân trí ở nơi tiến hành PBGDPL. Nhìn chung, khi PBGDPL cần chọn một hình thức phù hợp cho đối tượng được phổ biến hoặc kết hợp đan xen giữa hình thức này với hình thức khác để đạt hiệu quả tốt nhất. 3.2. Yêu cầu đối với người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. 3.2.1 Có kiến thức pháp lý nhất định. Để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, người cán bộ cần phải: 10
  • 11. - Có kiến thức hiểu biết pháp luật nói chung, kiến thức xã hội rộng; hiểu biết về đối tượng tuyên truyền ; khi tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần dự kiến trước được các tình huống, các câu hỏi người nghe đưa ra để chuẩn bị phương án trả lời thích hợp giúp cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt được hiệu quả, chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của người được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; - Nắm vững những vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà các văn bản pháp luật điều chỉnh; - Hiểu được ý nghĩa, bản chất pháp lý của vấn đề mà các văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản; - Hiểu rõ đối tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh của văn bản; - Hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm, các chế tài… 3.2.2. Có nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động mang tính chất xã hội, đối tượng phục vụ của phổ biến, giáo dục pháp luật là quảng đại quần chúng nhân dân, do đó một trong các yêu cầu đầu tiên và hết sức quan trọng của người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là có tinh thần nhiệt tình, tận tụy với công tác. Tinh thần nhiệt tình trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thể hiện là không quản ngại khó khăn, gian khổ, luôn phấn khởi, hăng say trong công tác, lấy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật làm niềm vui, là niềm say mê; nó không đơn thuần là trách nhiệm được giao phó mà việc phổ biến, giáo dục pháp luật được cho nhiều người, nhiều đối tượng với chất lượng và hiệu quả là niềm vui của người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn cần phải tận tụy với công việc, luôn phấn khởi phục vụ cho mọi đối tượng, không quản ngại đối với những vấn đề mới, văn bản pháp luật mới; bản thân luôn phải cố gắng học tập, phấn đấu vươn lên; tích luỹ kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kiến thức chuyên ngành, tài liệu, số liệu, dẫn chứng minh họa để hoàn thành công việc được giao. 3.2.3. Có khả năng nói và viết. 11
  • 12. Phổ biến, giáo dục pháp luật là truyền đạt thông tin pháp luật và giải thích pháp luật cho người khác, chính vì thế ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành công của người làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Sự kết hợp giữa khả năng nói và viết trong người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác. 3.2.4. Có khả năng hòa đồng và giao tiếp. Làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là làm công tác vận động quần chúng, nó không thuần tuý là đi thông tin và giải thích pháp luật cho các đối tượng được tuyên truyền. Trước khi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải biết đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật là ai, họ cần gì, công việc của họ ra sao, họ đang cần lĩnh vực pháp luật nào và mình phải quan hệ công tác với họ như thế nào? Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động mang tính chất hai chiều, không đơn thuần là sự truyền đạt thông tin và giải thích pháp luật của người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có mà sự phản hồi của đối tượng được tuyên truyền. Họ có lắng nghe thông tin về pháp luật không? Đồng thời, họ có thể đặt câu hỏi hay thể hiện chính kiến về việc giải thích pháp luật đúng hay không đúng của người đi giải thích không? Sự cọ sát hai chiều về cùng vấn đề được trao đổi sẽ làm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt chất lượng và hiệu qua cao . Chính các yếu tố được nêu và phân tích trên đòi hỏi người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải có khả năng hoà đồng và giao tiếp. 3.2.5. Biết tích luỹ tư liệu, kiến thức. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật vừa mang tính thời sự vừa mang tính lâu dài. Chỉ có thể tham gia vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật khi có đủ kiến thức, trình độ, kinh nghiệm về công tác pháp luật. Để đạt được các điều kiện đó thì người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải tích luỹ tư liệu, kiến thức; bao gồm kiến thức pháp lý, pháp luật hiện hành, đường lối chính sách của Đảng, kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội, kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam và nước ngoài. 3.2.6. Có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền. 12
  • 13. Hiểu được tâm lý học tuyên truyền chính là hiểu được các quy luật tâm lý phát sinh, vận động trong quá trình tiếp nhận thông tin pháp luật của các loại đối tượng được thể hiện trong tất cả các giai đoạn tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các đối tượng. Trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật còn phải nắm bắt sự phản ứng, sự tiếp nhận của họ như thế nào về nội dung được tuyên truyền. Sau khi tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho một loại đối tượng, chủ thể tuyên truyền còn phải biết nghe dư luận xã hội và sự phản ứng tích cực, tiêu cực của các đối tượng được tuyên truyền về nội dung được phổ biến. Tất cả những động thái như vậy, người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đều cần phải nắm bắt để dự liệu, để chuẩn bị hành trang cho mình. Sự chuẩn bị về kiến thức cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cần thiết, đồng thời người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn phải hiểu biết trạng thái tâm lý khác nhau của các đối tượng được tuyên truyền, đó chính là tâm lý học tuyên truyền mà người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải có. 3.2.7. Tuỳ từng vị trí công tác, địa bàn hoạt động, cần phải có những hiểu biết về xã hội, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền nhất định. Pháp luật luôn gắn với đời sống xã hội, nó quan hệ mật thiết tới các hiện tượng khác của xã hội như đạo đức, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Pháp luật thực chất là các quy tắc xử sự trong các quan hệ xã hội được Nhà nước thừa nhận, do đó nó có mối liên hệ với các phong tục, tập quán khác. Chính vì thế khi làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở từng vùng miền, ở mỗi dân tộc của đất nước, người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng cần phải biết được phong tục tập quán của dân tộc đó và miền vùng đó, để so sánh, để giải thích, để phân biệt. Những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật để mọi người tôn trọng thực hiện, mặt khác nhiều quy định của luật pháp khi ban hành đã bao hàm những phong tục, tập quán tốt đẹp. Ngược lại, những phong tục, tập quán còn lạc hậu, bảo thủ thì khi tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng cần phải lưu ý kết hợp giải thích có ngọn ngành cho nhân dân để họ vừa tôn trọng pháp luật, vừa hiểu biết thêm về mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục, tập quán, từ đó hạn chế, bài trừ, xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu. 13
  • 14. 4. Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật và tiêu chí lựa chọn hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay thông dụng nhất 10 hình thức. Mỗi hình thức có đặc trưng riêng của mình. Các hình thức cụ thể đó là: 4.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp (Tuyên truyền miệng về pháp luật). Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền mà báo cáo viên, tuyên truyền viên trực tiếp phổ biến đến người nghe về lĩnh vực, văn bản, quy định pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật. Tuyên truyền miệng pháp luật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức tuyên truyền khác; lồng ghép với các hình thức tuyên truyền khác và là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các hình thức tuyên truyền pháp luật. Đặc trưng chính là dùng lời lẽ trực tiếp truyền đạt nội dung pháp luật cho người nghe. 4.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật trên các loại hình báo chí và qua mạng lưới truyền thanh cơ sở. So với hình thức PBGDPL qua báo chí, hình thức PBGDPL qua mạng lưới truyền thanh cơ sở có đối tượng và phạm vi tác động hẹp hơn, được xác định cụ thể trong phạm vi một xã, phường, thị trấn hay một tổ dân phố, một thôn. Đặc trưng chính là sử dụng báo nói, báo viết, báo hình để truyền bá nội dung cần phổ biến. 4.3 Biên soạn và phát hành các loại tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật. Tài liệu phổ biến pháp luật đóng vai trò quan trọng trong hoạt động PBGDPL. Tài liệu phổ biến pháp luật vừa là cẩm nang, vừa là phương tiện, công cụ hoạt động của những người làm công tác PBGDPL, là cầu nối đưa pháp luật đến với người dân. Tài liệu phổ biến pháp luật gồm nhiều loại: - Đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật; - Sách pháp luật gồm: sách nghiên cứu, bình luận, hướng dẫn, giải thích pháp luật; sách giáo khoa, sách tham khảo; sách pháp luật phổ thông (sách pháp luật bỏ túi, sách hỏi 14
  • 15. đáp pháp luật, sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật); sách hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật...; - Tờ gấp về pháp luật; - Bản tin pháp luật; - Pa nô, áp phích tuyên truyền pháp luật; - Băng tiếng, băng hình tuyên truyền pháp luật; - Tài liệu pháp luật khác. Trong phạm vi hoạt động PBGDPL ở cấp xã, phần này chỉ đề cập đến kỹ năng biên soạn Đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật và tài liệu hỏi đáp pháp luật (không phải là sách in). Đặc trưng chính là dùng các ấn phẩm để truyền bá nội dung cần phổ biến. 4.4 Giáo dục pháp luật trong nhà trường. Giáo dục pháp luật là sự tác động có định hướng có tổ chức nhằm hình thành tri thức, tình cảm và hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ, thi hành pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của công dân. Đó là một trong các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thông qua việc dạy và học pháp luật trong các nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần hình thành và bồi dưỡng ý thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng chính là truyền đạt nội dung pháp luật thông qua các phương pháp sư phạm. 4.5. Tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật. Thi tìm hiểu pháp luật là một trong các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, là cầu nối chuyển tải những nội dung pháp luật vào cuộc sống, là hình thức sinh hoạt văn hoá pháp lý có sức hấp dẫn và hiệu quả. Đây là một trong những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hấp dẫn, có hiệu quả cao và được sử dụng nhiều. Những nội dung pháp luật được chuyển tải đến các đối tượng thông qua cuộc thi một cách đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ hơn, sinh động hơn, tránh được sự cứng nhắc, khô cứng. Bên 15
  • 16. cạnh đó, kiến thức pháp luật, kỹ năng tuyên truyền pháp luật của người tổ chức cũng được trau dồi, gọt dũa. Kết quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hình thức thi tìm hiểu pháp luật tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật của người dự thi, qua đó là nơi giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, kiến thức pháp luật và kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật của cả người tổ chức cuộc thi và người theo dõi, tìm hiểu cuộc thi. Đặc trưng chính là vận động khuyến khích đối tượng tìm hiểu pháp luật thông qua thi thố tài năng. 4.6. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt của các câu lạc bộ pháp luật. Câu lạc bộ pháp luật là tổ chức được thành lập và hoạt động trên tinh thần tự nguyện tham gia của những người có nhu cầu tìm hiểu pháp luật, nhiệt tình tuyên truyền, PBGDPL. Thông qua các hoạt động sinh hoạt của Câu lạc bộ nhằm góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, gây dựng lòng tin đối với pháp luật, nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật của các hội viên cũng như của nhân dân tại địa bàn. Câu lạc bộ pháp luật được xác định là một hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật có hiệu quả, phù hợp với mọi đối tượng và địa bàn dân cư khác nhau. Thực tiễn những năm qua cho thấy, mặc dù số lượng Câu lạc bộ pháp luật được thành lập chưa nhiều, nhưng tác dụng, hiệu quả, sức lan toả tích cực của mô hình này là không nhỏ trong đời sống của cộng đồng dân cư. Điều này được khẳng định trước hết vì Câu lạc bộ là nơi quy tụ, tập hợp đông đảo thành viên tham gia nhằm giao lưu, học hỏi, tạo một diễn đàn, sân chơi bổ ích và lành mạnh để cùng trao đổi, nắm bắt kiến thức pháp luật và vận dụng pháp luật. Thông qua hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và kịp thời. Từ đó, giúp hội viên và nhân dân trên địa bàn nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và tự giác chấp hành pháp luật, đưa pháp luật dần trở thành thói quen trong ứng xử hàng ngày của nhân dân. Câu lạc bộ còn tạo điều kiện để mỗi hội viên trở thành một tuyên truyền viên pháp luật tích cực vận động người thân trong gia đình, địa bàn mình cư trú chấp hành pháp luật. 16
  • 17. Đặc trưng chính là: Đối tượng của phổ biến giáo dục pháp luật đồng thời cũng chính là chủ thể của phổ biến giáo dục pháp luật, ở đó mỗi thành viên phát huy tính nhận thức tích cực của mình trao đổi, tranh luận... để mở rộng kiến thức pháp luật của mình. Ví dụ: tham gia Câu lạc bộ “tiền hôn nhân” là thanh niên chưa lập gia đình. Vì vậy, việc giới thiệu Luật Hôn nhân và gia đình; Pháp lệnh Dân số; Luật Thanh niên... là rất cần thiết, phù hợp và có hiệu quả. Trái lại, với đối tượng này mà chúng ta đưa nội dung Luật Hàng không dân dụng sẽ không có hiệu quả. 4.7. Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật. Tủ sách pháp luật là công cụ hữu hiệu để đưa pháp luật vào hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung, đặc biệt là quá trình điều hành của bộ máy chính quyền cơ sở, và vào đời sống của các cộng đồng dân cư, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu, đọc các sách, tài liệu pháp luật của tủ sách, người đọc tập hợp nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng các quy định của pháp luật vào thực tế một cách đầy đủ, có hệ thống, chính xác và thống nhất. Tuy nhiên, việc tìm hiểu pháp luật qua khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật cũng có những hạn chế nhất định, chịu sự tác động của nhiều yếu tố về cơ chế quản lý, thái độ phục vụ, sự đầu tư nâng cao hiệu quả khai thác tủ sách pháp luật, mức độ đáp ứng yêu cầu của đối tượng… Đặc trưng chính là trực tiếp cung cấp tài liệu, thông tin pháp luật cho đối tượng. 4.8. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý. Tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm giúp công dân, tổ chức trong nước và nước ngoài thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Thông qua tư vấn pháp luật, luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật nhằm nâng cao văn hoá pháp lý cho công dân trong cộng đồng xã hội. Hoạt động tư vấn pháp luật là cầu nối quan trọng giữa người xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, thực thi pháp luật và những người là đối tượng của việc áp dụng pháp luật. 17
  • 18. Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa) nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý sẽ giúp các đối tượng nắm bắt được các thông tin pháp lý, hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật, hướng dẫn phương pháp xử sự các hoàn cảnh cụ thể phù hợp với pháp luật và tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, hướng dẫn công dân, tổ chức tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đặc trưng chính là thông qua việc cung cấp dịch vụ pháp lý, giải đáp pháp luật, hướng dẫn thân chủ ứng xử đúng pháp luật để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ mà nâng cao hiểu biết pháp luật cho họ. 4.9. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở là việc các tổ viên hoà giải bằng hoạt động hoà giải của mình cung cấp các kiến thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm pháp luật cho các bên tranh chấp và những người khác trong cộng đồng dân cư nhằm mục đích hình thành ở họ sự hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật và thói quen hành động theo pháp luật. Để phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải có hiệu quả, đòi hỏi phải có phương pháp thực hiện hợp lý và có những giải pháp phù hợp, kịp thời để việc hoà giải đạt được mục đích đồng thời qua việc hoà giải, các bên hiểu được quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Đặc trưng chính là thông qua việc giới thiệu văn bản phân tích, hướng dẫn để các bên tranh chấp hiểu văn bản, tự đối chiếu với hành vi của mình và hành vi của phía bên kia để thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên, giúp các bên nhận thức pháp luật sâu sắc hơn. 4.10. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các loại hình văn hoá, văn nghệ đặc biệt là các loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống. 18
  • 19. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các loại hình văn hoá, văn nghệ là đưa tinh thần một quy phạm pháp luật, một văn bản pháp luật vào đời sống xã hội bằng “ngôn ngữ” của một loại hình văn hoá, văn nghệ nào đó như kịch, lễ hội, áp phích…. Đối với hoạt động này, đòi hỏi một số kỹ năng bảo đảm cho việc phổ biến, giáo dục pháp lụât có hiệu quả như biết thâm nhập vào đời sống xã hội, nắm được tình hình thực hiện pháp luật trong cuộc sống, phát hiện được vai trò định hướng phát triển xã hội của pháp luật, những tính chất ưu việt của pháp luật xã hội chủ nghĩa, chuyển được tư duy pháp luật thành tư duy nghệ thuật… Đặc trưng chính là khai thác nghệ thuật biểu đạt của một loại hình văn hoá, văn nghệ để đưa pháp luật tới nhân dân. * Trên đây là 10 hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân, những hình thức này đã và đang được áp dụng rộng khắp và có hiệu quả ngày càng cao trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật trong đông đảo người dân. 19
  • 20. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở XÃ KỲ TÂY, HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH. MỘT SỐ GIẢI PHÁP. I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT (PBGDPL), TẠI XÃ KỲ TÂY. 1. Thực trạng tình hình nhận thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân ở xã Kỳ Tây hiện nay. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, bộ máy quản lý hành chính Nhà nước đã bộc lộ nhều nhược điểm, cơ cấu và tổ chức bộ máy Nhà nước chưa xác định đúng và còn phân biệt rõ sự lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý Nhà nước, chưa có sự phân công rành mạch giữa ba quyền năng đó là: Quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp còn trùng lặp, chồng chéo, việc phân công phối hợp và thống nhất thiếu chặt chẽ. Hệ thống tổ chức đối với cán bộ công chức và pháp luật hành chính còn phản ánh một nền kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp với cơ chế tập trung bao cấp mang nặng tính dân chủ hình thức nên dẫn đến việc thiếu sự tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tình hình trên có rất nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là phải kể đến tính đặc thù tại địa bàn xã Kỳ Tây là xã miền núi 135 địa hình phức tạp, dân cư phân bố rải rác không tập trung, nên đầu mối giao thông đi lại phức tạp gặp không ít khó khăn. Suy cho cùng thì đây là một yếu tố khách quan, tính đặc thù thứ hai có thể kể đến đó là bên cạnh pháp luật Nhà nước thì ở nơi đây người dân đađang tồn tại một số phong tục, tục lệ còn lạc hậu. Tình hình vi phạp pháp luật do không được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nên không nhận thức được pháp luật của người dân nơi đây. Thực tiễn và lý luận công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong những năm qua cho thấy Đảng và chính quyền địa phương đã triến khai cụ thể những văn bản của Trung ương về công tác này ở địa phương và đã quan tâm ban hành nhiều văn bản, quyết sách về phát triễn kinh tế xã hội ở xã Kỳ Tây ( trong đó có việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật trong cán bộ công chức và nhân dân trên địa bàn xã Kỳ Tây nói riêng và tren địa bàn huyện Kỳ Anh nói chung ). Nhưng tình hình nhận thức pháp luật của người dân nơi đây còn hạn chế dẫn đến việc vi phạm pháp luật như luật giao thông đường bộ, tội phạm như trộm cắp… là vấn đề đang 20
  • 21. được quan tâm trong tình trạng hiện nay, các tệ nạn xã hội như tảo hôn, mê tín dị đoan, cờ bạc, chặt phá rừng bừa bãi khai thác đất đai còn chưa hợp lý… và các vi phạm pháp luật khác vẫn còn tồn tại. Tóm lại, có thể khái quát thực trạng vi phạm pháp luật do không được phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian qua là: tình hình vi phạm pháp luật ở xã Kỳ Tây phổ biến và ngày càng diễn biến phúc tạp, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có được triễn khai nhưng chưa đồng bộ và đều khắp, nội dung hình thức pháp luật, phổ biến pháp luật còn nghèo nàn, thiếu tính hệ thống , chưa phù hợp đối với người dân nơi đây. 2. Kết quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) tại xã Kỳ Tây. Có thể khẳng định rằng việc người dân tham gia tích cực và hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật là cơ sở quan trọng để xây dựng một xã hội dân chủ công bằng và văn minh. Để làm được điều đó đòi hỏi người dân phải có trình độ và hiểu biết pháp luật. Vì thế Công tác phổ biến giáo dục pháp luật góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy những quan niệm của tính tích cực, bảo đảm hành trang kiến thức pháp lý cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, là điều kiện cơ bản để hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa bàn xã Kỳ Tây đã đạt được những kết quả cụ thể như sau: Năm 2011: Ban Tư pháp xã Kỳ Tây đã tham mưu xây dựng được kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), đồng thời phối hợp với các ban nghành đoàn thể tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) trên địa bàn xã. Vì vậy trong năm 2011 đã đạt được : 15 buổi nói chuyện về pháp luật cho toàn thể cán bộ, Đảng viên và toàn thể nhân dân trong toàn xã với số lượng người nghe là 2545 người nghe. Chủ yếu phổ biến các luật như: Luật an toàn giao thông đường bộ; Luật đất đai; Luật bảo vệ và phát triễn rừng; Luật hôn nhân và gia đình; Luật cư trú; Luật phòng chống tham nhũng; 21
  • 22. Các nghị định như: Nghị định só 105/ND-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Đất đai; Nghị định số 99/ND-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Các pháp lệnh như: Pháp lệnh về trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt luôn chú trọng vào việc tuyên truyền Luật bầu cử. Thường xuyên phối kết hợp với ban văn hóa xã tuyên truyền qua phát thanh của xã hàng ngày, hàng tuần về những thông tư, nghị định, quy định của xã và của cấp trên cho nhân dân kịp thời. Thời lượng phát sóng tối thiểu một làn từ 15 đến 30 phút. Cùng với nhiệm vụ trên công tác xây dựng và quản lý khai thác tủ sách pháp luật cũng được quan tâm đúng mức số đầu sách đến cuối năm 2011 là 190 cuốn (chưa kể đến tủ sách pháp luật ở bưu điện văn hóa xã) nhìn chung đã khai thác tốt và có hiệu quả. Năm 2012: Đã đạt được 18 buổi tuyên truyền PBGDPL cho toàn thể cán bộ, nhân dân trên địa bàn với số lượng người nghe là 2675 người nghe. Chủ yếu phổ biến các Luật như: Luật hôn nhân và gia đình; Luật an toàn giao thông đường bộ; Luật phòng chống tham nhũng; Luật đất đai; Luật bảo vệ và phát triễn rừng; Luật cư trú; … Và một số văn bản Quy phạm khác. Năm 2013: đã đạt được 23 buổi tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật với số lượng người nghe lên tới 2800 người nghe. In được 1764 cuốn tài liệu trực tiếp phát đến từng hộ gia đình trên địa bàn xã( tài liệu về luật sửa đổi Hiến Pháp 1992). Đặc biệt là tổ chứ tập huấn cho toàn thể cán bộ, công chức trên địa bàn xã về kỹ năng soạn thảo văn bản. Tổ chức tập huấn và phổ biến cho các tổ viên tổ hòa giải về luật hòa giải ở cơ sở. Phổ biến, chủ yếu các luật như: Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2013; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật bảo vệ môi trường; Luật cán bộ công chức; Luật bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội; Luật đất đai…;… 3. Ưu điểm Qua quá trình thực tập và tìm hiểu trên thực tế, hiện nay công tác PBGDPL tại UBND xã Kỳ Tây, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã có nhiều chuyển biến tích cực và thu được nhiều kết quả đáng kể, từng bước đáp ứng được yêu cầu của việc tăng cường quản 22
  • 23. lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tại địa phương. Hiện nay, công tác PBGDPL tại địa bàn xã đã có rất nhiều sáng kiến mới; hình thức, nội dung tuyên truyền ngày một phong phú và đa dạng như qua đài truyền thanh, chương trình truyền hình của UBND xã Kỳ Tây, qua các bài báo cáo phát thanh vào buổi sáng …. Nhờ vậy, pháp luật và tinh thần của pháp luật đang từng bước đi sâu vào nhận thức, hành động và mọi mặt trong đời sống của người dân. Xác định vai trò và tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp pháp luật (PBGDPL) tại địa bàn xã Kỳ Tây trong thời gian qua, các cấp lãnh đạo luôn quan tâm chú trọng công tác này, vì vậy đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, tăng cường phối hợp, cụ thể: Trên cơ sở kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật chung, hàng năm Ban Tư pháp xã đã phối hợp với Phòng Tư pháp huyện tổ chức thực hiện nhiều hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên toàn xã. Tổ chức tập huấn cho cán bộ những kiến thức về pháp luật. Tổ chức các cuộc họp người dân trên địa bàn xã. Xây dựng và tổ chức khảo sát lấy ý kiến của cán bộ, giáo viên(dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật), học sinh, sinh viên nhằm đánh giá thực trạng cũng như nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các đối tượng trên để xây dựng kế hoạch, tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp, thiết thực. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu là tập huấn, tuyên truyền miệng, biên soạn cấp phát tài liệu, tổ chức các cuộc thi, hoạt động ngoại khóa, lồng ghép với cuộc họp, phối hợp với các nghành có liên quan, phát huy hiệu quả khai thác tủ sách pháp luật. Điều này được thể hiện qua cuộc sống và sinh hoạt của người dân trên địa bàn xã, vi phạm luật giao thông, tệ nạn ma túy ngày càng giảm, an ninh trật tự được giữ vững, thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự hằng năm đạt tỷ lệ 100% . Công tác phổ biến giáo dục pháp luật tại xã Kỳ Tây trong những năm qua không chỉ ngày càng được quan tâm đúng mức mà hiệu quả của công tác này mang lại đã và đang có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong người dân, góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn trật tự, an ninh chính trị và an toàn xã hội. Sự phối hợp giữa các ban, nghành đang thực sự có hiệu quả và mang lại nhiều kinh nghiệm trong công tác PBGDPL; hiệu quả của công tác này đối với người dân đặc biệt là công tác đưa pháp luật vào cuộc sống ở vùng dân tộc miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo chủ trương, phương hướng của Ủy ban nhân dân xã đề ra ngày càng được nâng cao. 23
  • 24. 4. Một số hạn chế còn tồn tại: Có thể khẳng định rằng, giữa công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở xã Kỳ Tây có mối quan hệ mật thiết, không tách rời với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, tại đây, công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) vẫn chưa ngang tầm với việc quản lý xã hội bằng pháp luật, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ và rộng khắp, còn thiếu cơ chế, kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành để huy động sức mạnh tổng hợp của các hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội đối với công tác này. Mặt khác, đội ngũ báo cáo viên pháp luật và lực lượng tuyên truyền viên pháp luật hầu hết là kiêm nhiệm nên đôi nơi, đôi lúc việc nghiên cứu, biên soạn tài liệu tuyên truyên cũng như việc tham gia các buổi, các đợt triễn khai công tác Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) xuống cơ sở còn hạn chế, thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả chưa cao. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song công tác Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) tại địa bàn xã Kỳ Tây trong nhiều năm qua vẫn còn một số hạn chế cụ thể sau: Trên thực tế cấp ủy Đảng và các đơn vị chưa quan tâm đúng mực, chưa quán triệt các văn bản Luật mới ban hành cho cán bộ, Đảng viên của cơ quan, tổ chức đơn vị mình. Lãnh đạo cơ quan, ban ngành đoàn thể chưa vận động và tạo điều kiện hết cho cán bộ công nhân viên chức tham gia học tập qua các cuộc triển khai hội nghị phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) do địa phương tổ chức . Tại địa phương không tạo điều kiện nguồn kinh phí để trang trải cho boạt động phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL)còn chưa cao, chưa có kế hoạch tổ chức tập huấn cho lực lượng tuyên truyền viên pháp luật và hòa giải viên ở cơ sở. Các ngành, ở địa phương chưa thực sự phối hợp chặt trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) coi đây là một nhiệm vụ độc lập của ngành tư pháp. Các thành viên của hội đồng phối hợp công tác PBGDPL chưa có kế hoạch giám sát việc thực hiện công tác này theo quy chế của hội đồng phối hợp đề ra. Tủ sách pháp luật đã được xây dựng nhưng hiệu quả khai thác và sử dụng còn thấp, số lượng tham gia mượn đọc, nghiên cứu sách báo pháp luật còn quá ít. Công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật mặc dù được quan tâm tiến hành nhưng vẫn chưa đúng thực sự trọng điểm, việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền ở các 24
  • 25. cấp, các ngành nhiều lúc còn mang tính hình thức, nặng nề về phong trào chưa đi vào thực chất, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và tiến độ nhất là ở cơ sở, dẫn đến đạt hiệu quả chưa cao. Hình thức triễn khai còn nghèo nàn chủ yếu là tuyên truyền miệng. Ở đơn vị, địa phương còn thụ động, trông chờ, ỷ lại vào hướng dẫn của cấp trên, vào nghành Tư pháp, chưa làm tốt vai trò tham mưu đề xuất với cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp và lãnh đạo của cơ quan để chỉ đạo và tổ chức triễn khai công tác tuyên truyền. Việc cấp kinh phí cho công tác tuyên truyền vẫn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến việc mở các hội nghị tuyên truyền đều phải xin kinh phí bổ sung, bị động trong việc triển khai. Đội ngũ cán bộ chuyên trách, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hòa giải viên,tuy đã được cũng cố kiện toàn đông đảo về số lượng nhưng chưa tương xứng với nhu cấu thực tiễn đặt ra. Đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở chưa đồng đều, một số còn hạn chế về trình độ. Bên cạnh đó nhận thức của đối tượng được tuyên truyền còn nhiều hạn chế, vì tại địa bàn nơi đây là xã miền núi, khó khăn nên địa hính phân bố dân cư còn lẻ tẻ không tập trung không đồng đều và phức tạp với lại trình độ nhận thức của người dân còn thấp vì thế việc truyện đạt, phổ biến đi lại cho việc tuyên truyền còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế việc đưa lại hiệu qua cho việc tuyên truyền phổ biến đạt hiệu quả chưa cao. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT( PBGDPL) Để thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), kịp thời giải quyết các yêu cầu cấp bách đang đặt ra đối với công tác này tại địa bàn xã Kỳ Tây trước sự chuyển biến phức tạp về ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân trong xã, để góp phần giữ gìn ổn định chính trị an toàn xã hội ở địa phương, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau với mong muốn góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), cụ thể như sau: 25
  • 26. 1.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương trước yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không thể coi là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, liên tục. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị, tất cả các cán bộ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nêu cao trách nhiệm, quan tâm lảnh đạo chủ động làm tốt công tác này trong thời gian tới. Đây là yếu tố cần thiết, vì pháp luật thể chế đường lối của Đảng, là phương tiện quản lý Nhà nước bằng pháp luật trong toàn xã hội nói chung và đối với các xã, phường thị trấn nói riêng. - Xác định đối tượng cần phổ biến, giáo dục pháp luật. - Lựa chọn nội, hình thức biện pháp. - Kết hợp chặt chẽ giữa phổ biến, giáo dục pháp luật với thực hiện pháp luật. - Xây dựng cũng cố lực lượng làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. - Xây dựng kế hoạch phổ biến, kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoạch, phối hợp thực hiện kế hoạch. 2. Cần kiện toàn hơn nữa tổ chức hoạt động, nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan Tư pháp ở địa bàn. UBND chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên bằng chương trình kế hoạch, chỉ thị hằng năm, đột xuất trọng điểm theo yêu cầu nhiệm vụ cụ thể. 3. Cần lưu ý cũng cố, kiện toàn và thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngủ cán bộ. Vừa chỉ đạo vừa trực tiếp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ở cấp mình phụ trách. Quan tâm xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và công tác viên tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở. 4. Hằng năm ban Tư pháp xã phải thường xuyên lựa chọn nội dung và hình thức phổ biến cho phù hợp với nhu cầu của người dân trên địa bàn xã Kỳ Tây nói riêng. Lồng ghép có hiệu quả việc phổ biến, giáo dục pháp luật với việc thực hiện các chương trình phát triễn kinh tế - xã hội, với các phong trào thi đua, các cuộc tuyên truyền vận động chấp hành pháp luật theo chủ đề. 5. Hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ. 26
  • 27. 6. Tăng cường với đài phát thanh, truyền hình báo chí. Thường xuyên xây dựng các chuyên đề, chuyên mục về tìm hiểu pháp luật, hỏi đáp pháp luật, tạp san chuyên nghành trong phổ biến, giáo dục pháp luật. 7. Hoàn thiện hơn nữa Tủ sách pháp luật ở xã, phường thị trấn. thường xuyên nâng cao đầu sách với nội dung cập nhật và phù hợp với tình hình cụ thể của từng đơn vị, từng địa phương. Đảm bảo cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả. 8. Cần đầu tư biên soạn phát hành tài liệu pháp luật, tập huấn phổ biến trực tiếp các nội dung theo chuyên đề. 9. Cần phối hợp với trường học trên địa bàn, nhất là đối tượng học sinh để đưa chương trình pháp luật vào giảng dạy ở nhà trường, hoặc cụ thể trong các buổi ngoại khóa, giao lưu văn hóa biểu diễn văn nghệ. 27
  • 28. C. KẾT LUẬN Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cho cán bộ và nhân dân là nhiệm vụ rất khó khăn. Đặc biệt, việc PBGDPL cho cán bộ, nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới lại càng khó khăn hơn, đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền vừa phải nhiệt tình, tận tụy với công việc, vừa phải luôn sáng tạo, đổi mới phương pháp và cách thức tuyên truyền phù hợp để pháp luật thực sự đi vào thực tế cuộc sống của người dân trên địa bàn. Một lần nữa có thể khẳng định rằng, công việc phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là trách nhiệm của cơ quan Tư pháp nói chung hay sở, ban, nghành Tư pháp nói riêng mà còn là trách nhiệm của mọi người dân để nhằm nâng cao hơn nữa trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, xây dựng xã hội sống và làm theo Hiến pháp và pháp luật đó là mục tiêu không chỉ của riêng Đảng, Nhà nước và của các cấp chính quyền mà còn là nguyện vọng chính đáng và là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người dân trong xã hội, vì mục đích xây dựng một xã hội trật tự, an toàn và thực sự là của dân, do dân và vì dân. Ba tháng thực tập là khoảng thời gian không dài đối với một đời người nhưng với bản thân tôi, trong khoảng thời gian 3 tháng thực tập tại UBND xã Kỳ Tây vừa qua, tôi đã học được rất nhiều điều bổ ích, hiểu rõ hơn về cơ cấu tổ chức bộ máy của một cơ quan nhà nước, hiểu rõ về quy chế làm việc, về mối quan hệ giữa UBND xã Kỳ Tây với các cơ quan nhà nước khác, nắm rõ được công việc cụ thể mà một công chức phải làm; Quan trọng hơn nữa là tôi đã vận dụng được kiến thức đã học ở trường vào trong công việc thực tế, điều này sẽ giúp tôi rất nhiều trong tương lai khi trở thành một cán bộ nhà nước. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế, quỹ thời gian đi thực tập thực tế không dài nên bản thân tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn để nhận thức và bài tiểu luận của tôi được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên thực hiện. Nguyễn Lương Tài 28
  • 29. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012; 2. Nghị định số 28/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; 3. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 29 tháng 12 năm 2003 của ban bí thư về tăng cường sự lảnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; 4. Nghị quyết 61/2007/NQ-CP Về việc tuyên truyền thực hiện chỉ thị số32 CT/TW ngày 29 tháng 12 năm 2003 của ban bí thư. Về tăng cường sự lảnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; 5. Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2010 về việc xây dựng, quản lý, khai thác, tủ sách pháp luật; 6. Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14 tháng 5 năm 2010. Hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật../. 29