Phẫu thuật chỉnh hàm là những phẫu thuật can thiệp vào cấu trúc xương mặt nhằm phục hồi lại cấu trúc giải phẫu bình thường, những mối tương quan về chức năng trên những bệnh nhân có bất thường về xương răng hàm mặt.
1. PHẪU THUẬT CHỈNH HÀM
PHẦN I: PHẪU THUẬT CẮT XƢƠNG
HÀM TRÊN THEO KIỂU LEFORT I
Phẫu thuật chỉnh hàm là những phẫu thuật can thiệp vào cấu trúc
xương mặt nhằm phục hồi lại cấu trúc giải phẫu bình thường,
những mối tương quan về chức năng trên những bệnh nhân có
bất thường về xương răng hàm mặt. Những cấu trúc xương mặt
có thể đặt lại vị trí khác làm thay đổi hình dạng khuôn mặt thông
qua những đường cắt xương. Tất cả những biến dạng hàm mặt
đều có thể điều chỉnh được thông qua ba phẫu thuật cắt xương
cơ bản đã được bàn luận đầy đủ trên y văn. Phẫu thuật cắt xương
hàm trên theo đường Lefort I, phẫu thuật cắt chẻ dọc cành đứng
xương hàm dưới (BSSO) và cắt trượt xương cằm. Phẫu thuật
viên nào nắm vững được ba kỹ thuật cắt xương cơ bản này có
thể giải quyết được hầu hết các trường hợp lâm sàng phức tạp.
Đường cắt xương Lefort I giúp phẫu thuật viên chỉnh hình tầng
mặt giữa trong khi đường cắt BSSO và cắt trượt xương cằm giúp
chỉnh hình tầng mặt dưới. Obwegeser, phẫu thuật viên người
Đức, là người đầu tiên thực hiện và phát triển ba đường cắt
xương cơ bản này, sau đó có nhiều cải tiến của các phẫu thuật
viên khác. Trong bài này chúng tôi mô tả chi tiết ba kỹ thuật cơ
bản này dựa trên những nghiên cứu lâm sàng hiệu quả của nhiều
tác giả khác.
Tầng mặt giữa
Có rất nhiều đường cắt xương để chỉnh sửa biến dạng tầng mặt
giữa, mỗi phương pháp được áp dụng cho từng trường hợp biến
dạng cụ thể. Đường cắt xương hàm trên LeFort được sử dụng
2. ngày nay xuất phát từ ba đường gãy xương khối mặt cơ bản
được mô tả bởi tác giả Renne LeFort vào năm 1901. Tuy nhiên,
trong đường cắt xương LeFort thì mảnh chân bướm vẫn còn
nguyên không bị gãy giống như mô tả đường gãy xương của
LeFort. Do đó, nên dùng thuật ngữ: cắt xương theo kiểu
Lefort có vẻ thích hợp hơn. Đường cắt xương theo kiểu Lefort
III, tách rời toàn bộ khối sọ mặt, có thể làm thay đổi vị trí và thể
tích hốc mắt, độ nhô xương gò má, vị trí gốc mũi, góc mũi-trán,
chiều dài mũi và vị trí xương hàm trên. Đường cắt xương theo
kiểu Lefort II cho phép phẫu thuật viên thay đổi độ nhô của khối
mũi-hàm trên mà không làm thay đổi thể tích hốc mắt và độ nhô
của xương gò má. Trong khi đường cắt xương theo kiểu Lefort I
sẽ làm thay đổi vị trí môi trên, đầu mũi, nền mũi, và góc tạo bởi
tiểu trụ và môi mà không làm ảnh hưởng đến vùng gò má-ổ mắt.
Đường cắt xương theo kiểu Lefort I chuẩn thường được biến đổi
thích hợp theo từng trường hợp lâm sàng cụ thể. Chẳng hạn như
đường cắt bao gồm cả thân xương gò má trong trường hợp
xương hàm trên bị thiểu sản ở phía dưới và xương gò má bị lép
nhưng không cần thay đổi hốc mắt. Đường cắt xương Lefort II
và Lefort III thường áp dụng trong các trường hợp bị các hội
chứng dị dạng sọ mặt. Đường cắt xương Lefort I chuẩn và các
biến đổi thường được chỉ định trong các trường hợp biến dạng
tầng mặt giữa, là công cụ rất hữu ích trong điều trị các trường
hợp hô móm, các dị tật bẩm sinh, rối loạn phát triển xương hàm
cũng như các di chứng chấn thương.
Biến dạng xương hàm trên có thể xảy ra ở tất cả các mặt phẳng
và thường xảy ra cùng lúc ơ nhiều mặt phẳng. Ngay cả khi kèm
theo những biến dạng xương hàm dưới thì phẫu thuật cắt xương
theo đường cắt Lefort I kết hợp với những đường cắt xương hàm
dưới cũng mang lại được kết quả lâu dài về thẩm mỹ và chức
3. năng. Với kỷ thuật tương đối đơn giản, đường cắt xương Lefort I
được áp dụng rất phổ biến và trở thành đường cắt xương hàm
trên cơ bản trong điều trị những biến dạng theo chiều trước sau,
chiều đứng, chiều ngang và cả những biến dạng xoay. Với
đường cắt xương Lefort I xương hàm trên có thể được cắt
nguyên khối, thay đổi vị trí theo nhiều hướng nhất định, khi cần
có thể thêm những đường cắt xương khác chia xương hàm trên
thành nhiều mảnh và di chuyển từng miếng theo cả ba chiều
không gian, thường áp dụng cho những trường hợp phức tạp
hơn.
Điều quan trọng nhất khi thực hiện đường cắt xương là phải hiểu
được hệ thống cung cấp máu cho xương hàm trên. Động mạch
chính cung cấp máu cho xương hàm trên từ bốn nguồn chính:
1. Nhánh khẩu cái xuống của động mạch hàm
2. Nhánh khẩu cái lên của động mạch mặt
3. Nhánh trước của động mạch hầu lên xuất phát từ động mạch
cảnh ngoài
4. Nhánh xương ổ của động mạch hàm
Trong trường hợp cắt rời di động hoàn toàn xương hàm trên,
nhánh động mạch khẩu cái xuống thường bị đứt, do đó phần
xương hàm trên di động này được cung cấp máu từ các nguồn
còn lại, chủ yếu là động mạch khẩu cái lên và các bó mạch hầu.
4. Hình 1.1: Hệ thống cung cấp máu cho xƣơng hàm trên
Trình tự phẫu thuật
Trình tự và phương thức phẫu thuật phụ thuộc vào kế hoạch
trước phẫu thuật và kết quả phẫu thuật mẫu hàm. Trong trường
hợp phẫu thuật một hàm máng nhai cuối cùng hướng dẫn khớp
cắn của hàm được di chuyển tương quan với hàm còn lại. Trong
trường hợp phẫu thuật hai hàm, sử dụng máng trung gian hướng
dẫn một hàm tương quan với hàm còn lại. Thông thường xương
hàm trên được phẫu thuật trước, tuy nhiên, trình tự này có thể
thay đổi cùng với sự thay đổi máng trung gian tương ứng trong
lúc phẫu thuật mẫu hàm. Hàm phẫu thuật sau sẽ được đặt đúng
vị trí nhờ máng hướng dẫn sau cùng. Một khi xương hàm trên và
xương hàm dưới vào đúng tương quan vị trí cuối cùng. Đánh giá
lại vị trí cằm và phẫu thuật tạo hình cằm nếu cần thiết.
Khi bắt đầu phẫu thuật, phẫu thuật viên thường bắt đầu cắt
xương hàm dưới trước, tiếp theo cắt xương hàm trên theo đường
Lefort I, đặt đúng vị trí, cố định xương hàm trên, sau đó tiến
hành tách hai bản xương hàm dưới theo kỷ thuật BSSO. Lý do
thực hiện theo trình tự này là có thể mở rộng miệng bệnh nhân,
5. nhìn thấy rõ được phẫu trường khi thực hiện cắt xương hàm
dưới, và có thể tránh nguy cơ làm thay đổi vị trí xương hàm trên
đã được cố định bằng hệ thống nẹp vít trước đó. Quá trình tách
bản xương hàm dưới không cần phải mở miệng quá rộng do đó
không ảnh hưởng lên vị trí mới của xương hàm trên. Việc bộc lộ
lại phẫu trường sẽ làm kéo dài thêm thời gian phẫu thuật, do đó
nhiều phẫu thuật viên tiến hành cố định xong xương hàm trên
mới bắt đầu cắt xương hàm dưới.
Phƣơng thức phẫu thuật
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản qua đường mũi, hạ huyếp
áp chỉ huy, ống nội khí quản được cố định vào vách ngăn sụn
mũi trước và da đầu với chỉ silk 0 ô. Sử dụng gối gạc lót trên da
đầu và điều chỉnh ống mũi tránh làm chấn thương cánh mũi.
Hình 1.2 Lefort I: A- Đặt ống nội khí quản mũi. B,C- chích
thuốc co mạch, D- Đánh dấu vị trí góc mắt trong
6. Bảo vệ mắt bằng chỉ khâu silk 6.0
Hút sạch vùng hầu họng và đặt bấc họng
Đặt các móc phẫu thuật lên cung môi để cố định hàm trong lúc
phẫu thuật.
Kiểm tra máng hướng dẫn phẫu thuật trước phẫu thuật xem có
chính xác chưa.
Đánh dấu 2 điểm tại vị trí góc mắt trong bằng xanh methylene,
đo khoảng cách chiều cao từ góc trong mắt đến vị trí cung răng
hàm trên giữa răng cửa bên và răng nanh ở cả hai bên. Khoảng
cách này sẽ xác định vị trí xương hàm trên theo chiều đứng.
Sử dụng bàn chải đánh răng làm sạch miệng với dung dịch
betadine hoặc chlohexidine 0,12%.
Gây tê tại chỗ với lidocain 1% có epinephrine 1/100 000. Đối
với xương hàm trên nhắc bấc mũi gây co mạch.
Phẫu thuật cắt xƣơng hàm trên Lefort I
Sử dụng đường rạch ngách lợi cách niêm mạc nướu dính 58mm, kéo dài từ răng 15 đến răng 25.
7. Hình 1.3: Đƣờng rạch phẫu thuật cắt Lefort I
Hình 1.4: A- Bóc tách dƣới màng xƣơng, B- Bộc lộ thần kinh
dƣới ổ mắt, C- ranh giới vùng xƣơng cần bộc lộ, D- Bộc lộ
vùng chân bƣớm- khẩu cái
8. Hình 1.5 Lefort I: A, B- Bộc lộ hố lê, C- Bộc lộ thành ngoài
hốc mũi bên dƣới xƣơng xoăn mũi và sàn mũi đến vị trí ranh
giới khẩu cái cứng-khẩu cái mềm, D- Bộc lộ và tách rời gai
mũi trƣớc khỏi vách ngăn
Hình 1.6 Lefort I: A- Vẽ đƣờng cắt xƣơng, B- Đƣờng cắt
xƣơng hàm trên Lefort I chuẩn, C- Đƣờng cắt xƣơng Lefort
9. I cải tiến bao gồm nhiều phần xƣơng hàm trên, D- Xƣơng gò
má
Hình 1.7 Lefort I: A- Đƣờng cắt Lefort I kinh điển, BĐƣờng cắt Lefort I cải tiến
10. Hình 1.8 Lefort I: Liên quan giữa sự di chuyển xƣơng hàm
trên và góc mũi-môi. A, B- Trƣợt xƣơng hàm trên ra trƣớc
sẽ làm tù góc mũi-môi. C,D- Giảm chiều cao XHT làm cho
góc mũi-môi nhọn hơn. E, F- Tách rời gai mũi trƣớc ra khỏi
XHT ít làm thay đổi góc mũi-môi
11. Hình 1.9 Lefort I: A- Tách rời vách ngăn khỏi xƣơng lá mía
từ vị trí gai mũi trƣớc đến gai mũi sau. C,D- Tách rời mảnh
chân bƣớm ra khỏi xƣơng hàm trên-khẩu cái
12. Hình 1.10: Sử dụng cƣa lƣợc cắt thành ngoài mũi và thành
trƣớc xoang hàm, xuyên qua xoang hàm và phía trên
chân răng
13. Hình 1.11: A,B- Cắt thành bên sau xoang hàm. C,D- Chỉ
dùng lực tay để bẻ xƣơng hàm trên xuống dƣới. Nếu không
bẻ đƣợc coi lại các đƣờng cắt xƣơng chƣa đủ, thƣờng là
thành sau xoang hàm và thành ngoài hốc mũi. Nên tránh sử
dụng kiềm Rowe bẻ xƣơng hàm trên để tránh nguy cơ gãy
xƣơng không mong muốn
Hình 1.12: A- sử dụng cây bóc tách bờ hàm dƣới để di động
xƣơng hàm trên. B,C- Không sử dụng kiềm Rowe để bẻ
XHT mà chỉ để di động XHT, sử dụng giới hạn vì lực đòn
bẩy có thể làm rách bó mạch khẩu cái
14. Hình 1.13: XHT phải đƣợc di động một cách dễ dàng mà
không chịu lực căng mô mềm
15. Hình 1.14: A- Cố định máng hƣớng dẫn vào cung môi hàm
trên, B- Cố định liên hàm bằng thun
Hình 1.15: Xác định chiều cao xƣơng hàm trên bằng cách đo
từ góc mắt trong, khi đó lồi cầu ở vị trí tƣơng quan tâm. ATăng chiều đứng xƣơng hàm trên, B- Giảm chiều đứng
xƣơng hàm trên
16. Hình 1.16: A,B- Loại bỏ xƣơng chọn lọc bằng kiềm Kerrison
tạo khóa gài xƣơng trong trƣờng hợp làm ngắn. B,C- Ghép
xƣơng trong trƣờng hợp kéo dài
17. Hình 1.17. Cố định xƣơng bằng hệ thống nẹp vít khi lồi cầu
ở vị trí tƣơng quan tâm
Hình 1.18: A- Tháo cố định liên hàm, kiểm tra vận động
xƣơng hàm dƣới có vào trực tiếp máng hƣớng dẫn ở tƣơng
quan tâm không, B- Nếu lồi cầu không ở vị trí tƣơng quan
tâm trong lúc cố định xƣơng, thì sẽ gây ra tình trạng cắn hở
sau đó. Cần phải tháo nẹp ra và cố định lại
18. Bóc tách dưới màng xương theo hướng lên trên bộc lộ thành
trước xoang hàm, xác định lỗ dưới ổ mắt (bó mạch thần kinh
dưới ổ mắt), bộc lộ trụ gò má-hàm trên, thân xương gò má và
một phần cung tiếp. Phải bộc lộ phẫu trường đủ để cố định nẹp
sau này. Bóc tách phần bám phía trước của cơ cắn vào xương gò
má bằng dao điện hoặc hoặc cây bóc tách khuyết hình V(dùng
để bóc tách bờ trước cành đứng). Tiếp tục bóc tách về phía sau
đến vùng chân bướm khẩu cái, dùng bấc kích thước 1x3inch có
tẩm thuốc co mạch nhét vào vùng này sẽ có tác dụng bóc tách
rất dễ dàng. Đến vị trí này hướng cây bóc tách sẽ thay đổi đột
ngột vào phía trong và vùng ranh giới chân bướm-khẩu cái dễ
dàng được cảm nhận dưới cây bóc tách. Cẩn thận không được
làm rách màng xương ở vùng này vì có thể làm thoát vị khối mỡ
má làm hẹp phẫu trường gây khó khăn cho phẫu thuật viên.
Bóc tách vào phía trong bộc lộ trụ mũi-hàm trên, hố lê và gai
mũi trước. Rút bấc nhét vào hốc mũi trước đó. Mặc dù có thể
bóc tách nhanh ở vùng này, tuy nhiên cần phải cẩn thận khi tách
niêm mạc nền mũi tại vị trí hố lê. Phần xương hố lê mỏng trong
khi góc bóc tách thì nhọn nên có thể làm rách niêm mạc mũi.
Bóc tách vào trong hốc mũi bộc lộ sàn mũi, thành ngoài mũi bên
dưới xương xoăn mũi dưới, bóc tách vào phía trong bộc lộ vách
ngăn và xương lá mía. Tiếp tục bóc tách ra phía sau đến ranh
giới khẩu cái cứng-mềm. Toàn bộ mô mềm phải được nâng lên
hoàn toàn, có thể kiểm tra bằng cách đặt một ngón tay vào trong
miệng tại vị trí ranh giới khẩu cái cứng-mềm để cảm nhận cây
bóc tách.
Sau khi hoàn thành việc bóc tách bộc lộ xương, thiết kế đường
cắt xương tránh chân răng và bó mạch thần kinh dưới ổ mắt.
Đường cắt xương nên cách chóp răng 5mm. Có một số cải tiến
so với đường cắt xương Lefort chuẩn, và được áp dụng trên từng
19. bệnh nhân cụ thể. Thường thì trong lúc này cần đánh giá lại mức
độ biến dạng tầng mặt giữa để thiết kế đường cắt xương thích
hợp. Hơn nữa cũng cần đánh giá sự thay đổi góc mũi môi, vì góc
này phụ thuộc vào vị trí gai mũi trước. Làm ngắn xương hàm
trên thì góc mũi môi sẽ nhọn hơn, ngược lại trượt xương hàm
trên ra trước sẽ làm cho góc này tù hơn. Do đó tùy thuộc vào
mong muốn góc mũi-môi như thế nào sau phẫu thuật để thiết kế
đường cắt xương có bao gồm gai mũi trước hay không.
Có nhiều cách thực hiện đường cắt xương. Chúng tôi thường
thực hiện theo cách sau. Đầu tiên sử dụng cây đục vách ngăn
theo hướng ra sau xuống dưới để tách rời vách ngăn và xương lá
mía ra khỏi mào xương hàm trên. Đặt ngón tay trong miệng tại
vị trí ranh giới khẩu cái cứng-mềm để chắc chắn là đã tách rời
toàn bộ qua gai mũi sau. Chúng tôi thích tách rời vách ngăn mũi
trước vì sẽ thuận lợi trong việc đặt lưỡi cưa lược về phía sau tối
đa đồng thời đẩy ống nội khí quản sang bên đối diện. Kỷ thuật
này chắc chắn sẽ cắt được hoàn toàn thành ngoài hốc mũi.
Dùng cưa lược để hoàn tất đường cắt ngang xương hàm trên, bắt
đầu từ thành ngoài hốc mũi, thành trước xoang hàm, thành bên
sau xoang hàm. Điều quan trọng cần chú ý là, do độ sâu của
thành ngoài hốc mũi nên có thể không nhìn thấy được lưỡi cưa
khi cắt ở vị trí sau nhất của thành bên, đồng nghĩa với việc phần
sau nhất thành ngoài hốc mũi không được cắt hoàn toàn (chiều
dài thành ngoài hốc mũi 50mm, trong khi đó lưỡi cưa lược dài
25mm). Khi tiến hành cắt thành ngoài hốc mũi theo hướng từ
sau ra trước, hướng của tay khoang nên nghiên về phía trong để
thấy được đường cắt khi đi qua thành trước xoang hàm. Sau đó
để lưỡi cưa vuông góc thành trước xoang và cắt theo hướng từ
trong ra ngoài. Cần kiểm soát tốt tay khoan vì khi cắt xong trụ
trong, mũi khoan sẽ cắt rất nhanh do thành trước xoang hàm rất
20. mỏng. Nếu cần có thể thay đổi hướng cắt xương từ ngoài vào
trong để hoàn tất đường cắt này.
Tiếp theo dùng đục xương cong để tách rời mảnh chân bướm ra
khỏi lồi củ xương hàm trên. Hướng của đục xương song song
với mặt phẳng nhai và nằm bên dưới đường cắt xương để tránh
làm tổn thương động mạch hàm. Đặt một ngón tay phía sau lồi
củ để cảm nhận quá trình tách này một cách dễ dàng.
Khi tất cả các đường cắt xương đã hoàn tất, bắt đầu bẻ xương
hàm trên xuống dưới. Thường sử dụng lực ngón tay cái đặt tại vị
trí hố lê để thực hiện bẻ xương hàm trên xuống dưới. Nếu kháng
lực mạnh không thể bẻ gãy bằng lực ngón tay thì cần phải xem
lại những đường cắt xương bằng cưa lược hoặc đục xương mảnh
chứ không được sử dụng kiềm Rowe ngay. Sử dụng lực mạnh để
bẻ gãy xương hàm trên có thể gây ra những đường gãy xương
không mong muốn. Thường những vị trí cắt xương chưa đủ là
thành ngoài hốc mũi và vùng bướm khẩu. Khi xương hàm trên
di động xuống dưới, phần niêm mạc nền mũi sẽ được bóc tách
và nâng hết lên trên. Động mạch khẩu cái xuống thường bị cắt
ngang, cần phải xem xét cầm máu bằng dao điện nếu có chảy
máu.
Khi đã hoàn tất giai đoạn bẻ xuống dưới, di động xương hàm
trên sang hai bên và ra trước bằng cây bóc tách bờ dưới đặt vào
lồi củ xương hàm trên. Đầu cong của cây bóc tách này rất lý
tưởng khi bám dính vào lồi củ xương hàm trên và cho phép quan
sát tốt sự di động của xương hàm trên. Lúc này có thể quan sát
được phần mô mềm còn bám vào phía sau lồi củ, có thể bóc tách
phần mô mềm này bằng cây bóc tách màng xương. Hơn nữa, sử
dụng cây bóc tách cong nhiều (60 độ hoặc 90 độ) móc vào ranh
giới khẩu cái cứng-mềm để di động xương hàm trên ở vị trí
21. trung tâm. Sau khi xương hàm trên được tách rời hoàn toàn và di
động, lúc này mới sử dụng kiềm Rowe di động xương hàm trên
nhiều hơn nữa để làm dãn mô mềm. Cần phải di động xương
hàm trên hoàn toàn và đặt vào vị trí cuối cùng hoàn toàn thụ
động với cặp kiềm Rowe.
Tiếp theo có thể cắt xương thành nhiều mảnh, đường cắt xương
giữa hai chân răng được thực hiện dưới đường hầm nướu răng.
Đầu tiên có thể sử dụng mũi khoan đường kính 1,2mm để cắt,
tiếp theo sử dụng cưa lược nhỏ để cắt, và cuối cùng sử dụng đục
xương nhỏ để hoàn tất đường cắt xương giữa 2 chân răng. Đối
với đường cắt xương khẩu cái có thể sử dụng cưa lược cắt từ sau
ra trước. Sau đó nối đường cắt khẩu cái và đường cắt xương
giữa 2 chân răng ngang qua nền mũi bằng mũi khoan nhỏ hoặc
bằng lưỡi cưa. Trong lúc thực hiện đường cắt xương giữa hai
chân răng, đặt ngón tay lên bề mặt niêm mạc khẩu cái để giảm
thiểu nguy cơ làm thủng niêm mạc.
Nếu có sự hiện diện răng khôn ngầm hàm trên, có thể nhổ bỏ
qua đường nền xoang hàm.
Đặt máng hướng dẫn vào cung răng hàm trên, cố định máng
bằng chỉ thép 30, sau đó cố định liên hàm bằng thun chỉnh nha.
Phức hợp cố định liên hàm trên dưới mới này có thể xoay với
cung quay của nó và lồi cầu nằm ở vị trí tương quan tâm. Xương
hàm trên được đặt đúng vào vị trí đã phân tích trên phim và mẫu
hàm phẫu thuật. Vị trí này được kiểm tra lại một lần nữa bằng
cách đo lại khoảng cách từ điểm tham chiếu ở góc mặt trong.
Loại bỏ những phần xương cản trở xương hàm trên vào vị trí
đúng. Quá trình loại bỏ xương này nên làm một cách cẩn thận và
chọn lọc bằng kiềm gặm xương hoặc kiềm Kerrison để tạo sự
22. tiếp xúc xương tối đa và vững ổn. Tiếp theo, cần quan tâm đến
vách ngăn mũi, loại bỏ phần xương dọc theo xương lá mía, cắt
sụn vách ngăn mũi để phòng ngừa phình vách ngăn. Xương
xoăn mũi dưới cũng có thể cản trở xương hàm trên, trong trường
hợp này có thể giảm kích thước xương xoăn bằng đường rạch
qua niêm mạc mũi. Cũng có thể bộc lộ kẹp, cắt xương xoăn mũi
dưới và cầm máu bằng đường trong miệng. Khâu niêm mạc mũi
bằng chỉ tự tiêu.
Sau khi đặt đúng xương hàm trên vào vị trí mong muốn, cố định
bằng hệ thống nẹp vít tại trụ mũi và trụ hàm-gò má. Tháo cố
định liên hàm và kiểm tra lại khớp cắn, xương hàm dưới đóng
hàm một cách thụ động trực tiếp vào máng hướng dẫn mà không
làm thay đổi vị trí. Nếu nghi ngờ lồi cầu không nằm đúng ở vị trí
tương quan tâm, cần phải thực hiện cố định lại xương hàm trên.
Trong trường hợp kéo dài xương hàm trên nhiều xuống dưới,
chúng tôi thường ghép xương mào chậu ở vị trí các trụ xương.
Sau khi cố định xương hàm trên vào vị trí đúng, cần phải đánh
giá lại gai mũi trước, hố lê trong mối tương quan với góc mũimôi, độ rộng cánh mũi sau khi di chuyển xương hàm trên. Có
thể điều chỉnh gai mũi trước, trong trường hợp làm ngắn xương
hàm trên, có thể làm sâu hố lê nếu cần thiết. Vách ngăn nên
đuợc cố định ở vị trí đường giữa vào gai mũi trước bằng chỉ
không tiêu, nếu cần thiết có thể sử dụng mũi khâu kéo để kiểm
soát chiều rộng cánh mũi. Khi khâu đóng niêm mạc, có thể sử
dụng kỷ thuật tạo hình V-Y để kéo dài và điều chỉnh lại hình
dạng môi trên.
Thạc sĩ. Bác sĩ: Nguyễn Văn Tuấn
23. Khoa phẫu thuật hàm mặt BV RHM TW TP Hồ Chí Minh
Thẩm mỹ Lotus.