1. LỜI GIỚI THIỆU
Nguyễn Hải Hà , thường gọi Hải Hà , sinh ra từ Văn Quán Quê cha , lớn lên ở Liễn Sơn - Quê mẹ , trưởng thành và định cư tại
xã Vân Trục - một miền quê nghèo của Lập Thạch , Vĩnh Phúc.
Tuổi thơ của Hải Hà gắn liền với những đồi cọ . Những cây
cọ khẳng khiu, dãi dầu mưa nắng:
“…Con về tìm lại ngày xưa,
Nghiêng đồi cọ đứng, nắng mưa dãi dầu…”
(Tình quê)
Và người mẹ già yếu , lưng còng , nhưng rất đỗi thương con :
“…Bện quang dây , chợ đời bươn trải,
Lưng mẹ còng , xiêu vẹo nắng mưa…”
(Không thể nào quên)
Trên ba mươi năm công tác, kể từ năm 1964:
“…Khi cây phượng ở góc trường thắp lửa
Cũng là khi tụi lớp mười mỗi đứa một nơi ,
Đứa lên miền ngược, đứa miền xuôi ,
Thẳng hướng mặt trời , tôi ra biển…”
(Về miền hoa lửa)
Hải Hà đi liền một mạch , qua nhiều công việc, không dừng nghỉ:
“…Từng đi muôn ngả lúc còn xanh,
Nay lá vàng con tìm đường về cội…”
(Đường về)
Ở môi trường công tác nào , Hải Hà cũng sống hết mình với
công việc, với mọi người và làm thơ đều đặn.
Là người lính biển “Ăn song , ngủ khơi”- ( Nhắn biển), lăn
qua “Đạn xới, bom xiên” - (Thăm bạn) , và:
“…Một thời trước bảng đen cong
Tay cầm viên phấn viết dòng trắng tinh…”
(Một thời)
Thơ Hải Hà đằm thắm tình yêu quê hương, dạt dào tình đồng
đội. Những bài thơ: “Thăm Núi Sáng”, “Nước mát, dòng thơm hồ
1
2. Vân Trục”, “Giếng làng”, “Chùa Kim Tôn”, “Vân Trục vào thu”,
“Thanh long đỏ”…là những viện dẫn cho những điều đang nói ở
trên.
Tập hợp một số bài thơ mình tâm đắc, Hải Hà mạnh dạn trình
quý bạn đọc tập thơ đầu tay: “Đường về”, xin quý bạn đọc mở lòng
đón nhận .
Khi đến với vùng vàng đen- Đông bắc Tổ quốc:
“Ta đứng canh trời với pháo yêu,
Ngụy trang xanh vẫy nắng lam chiều.
Lò sâu mìn nổ khoan lòng đất,
Than chảy ào ào như thác reo…”
(Canh trời)
Khi về quê ngoại , về với thời ấu thơ nghèo khó , mà lạc quan
yêu đời:
“…Con về sống với…bây giờ,
Với mênh mông nhớ tuổi thơ…ngọt ngào…”
(Tình quê)
Về với mảnh đất lam lũ , ở đó tác giả đã lớn lên , trưởng thành
và ra đi, tình người , tình yêu quê hương xứ sở dâng đầy cảm xúc:
“Mênh mang , sóng nhú,dạ xôn xao,
Núi đứng , hồ nghiêng lúng liếng chào…”
(Nước mát, dòng thơm hồ VânTrục)
“…Chớm Hạ, tơ trời tím tím phơi
Quyên ca, nắng ửng, khúc giao mời…”
(Chớm Hạ)
‘
“ … Bức họa đồng quê ai chấm phá,
Lòng say - Nốt nhạc vút lên cao…”
(Vân Trục vào thu)
Có thể nói rằng:”Đường về”là những dòng nhật ký bằng thơ,
những dòng thơ trữ tình và đa dạng về thể loại.
Khi nói về nghề nghiệp , về đạo nghĩa , tác giả dùng thể thơ
đường luật thất ngôn bát cú:
“…Nương cha dìu dắt con đường tiến,
2
3. Cậy mẹ chắt chiu giọt sữa đời
Qúy nghiệp trồng người ngời giáo án,
Yêu nghề luyện chữ , thắm chồi tươi…”
(Mừng đón 70 xuân)
và tình đồng nghiệp:
“…Khi còn đứng lớp, bao trò quý,
Nay nghỉ, làm thơ lắm khách tầm…”
(Mừng thọ)
với Chùa Hương cổ tích:
“Lúc trẻ phiêu du mọi nẻo dường,
Nay già mới vãng cảnh Chùa Hương,
…Cáp treo lơ lửng trời non nước
Phút chốc rằng đây bậc đế vương…”
(Vãng cảnh Chùa Hương)
Về nỗi nhớ biển , không dữ dội , ồn ào mà âm thầm , sâu lắng
, tác giả sử dụng thể thơ tứ tuyệt:
“Xa rồi biển thắm của anh ơi,
Đã bấy nhiêu năm vẫn nhớ người,
Tĩnh lặng miền quê sương khói tỏa,
Mơ về biển cả dạ khôn nguôi…”
(Nhớ)
Còn khi đứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ , nơi địa đầu Tổ
quốc Hà Giang , tác giả sử dụng thể thơ tự do : nhả câu , ngắt chữ
linh hoạt , tự nhiên như chính cảnh vật thiên nhiên vậy:
“…Đá đứng, đá ngồi “cổng trời” Quản Bạ
Đá công kênh Lũng Cú “ đụng trời”,
Lộng ánh cờ ,
Rười rượi niềm tin”
(Đong đầy nỗi nhớ)
Cũng với cách nhả câu , ngắt chữ như trên , để nói lên chân lý
cuộc sống , cuộc đời con người chân chính tác giả dùng hình tượng
cây phi lao trước biển :Phi lao / vút trời cao /Rì rào ca hát. / Những
đêm sao bát ngát /lặng gió im trời /Phi lao đứng đó/ tỏa hương đời đi
3
4. xa./ Khi biển nổi phong ba/ Khi gió gào,bão dập / Phi lao gồng mình
/ Đứng ra ngăn cơn thịnh / Phi lao- Phi lao / Rắn chắc- thanh
tao/Dẻo mềm / Vút trời cao / Phi lao / Xanh êm .
Khi diễn tả tâm trạng của người bố, ở cái tuổi gần “Tứ thập”
mới sinh con đầu lòng, bố muốn làm thơ để tặng con và cũng để tặng
chính mình, nhưng làm sao được thơ “giữa mịt mùng Biển Đông”,
tác giả dùng thơ ngũ ngôn:
“…Từ lúc chưa sinh con
Nỗi khát dâng trong lòng
Nay con vừa tròn tuổi
Thơ bố chưa làm xong…”
(Gởi con gái vần thơ)
Những bài thơ, viết bằng thể thơ lục bát trong “Đường về”
không nhiều, chỉ có: “Chợ quê”, “Tình quê”, “Nhắn biển”, “Hoa
hồng”, Trùng phùng”, nhưng cũng đạt được những thành công nhất
định. Để diễn tả cái nỗi “dùng dằng”, tính đa chiều trong tình cảm
liền anh liền chị trong mùa lễ hội vùng Kinh Bắc , tác giả dùng thể
thơ lục bát - tiếng hát dân ca đầm ấm của mọi miền quê :
“Lao xao sóng vỗ thuyền rồng ,
Quai thao, khăn xếp nức lòng hội chơi ,
Một miền QUAN HỌ “…Người ơi…”,
BẮC NINH “…Người ở…”,…Mây trôi…”,“…Đừng về…”.
(Quan họ Bắc Ninh)
(Bài đạt giải trong cuộc thi thơ: “Đề thơ cho tranh khắc đá”
do Câu lạc bộ thơ Việt Nam tổ chức - 2010).
“ĐƯỜNG VỀ”- Một tâm hồn thơ, một trái tim yêu thương
luôn đồng hành cùng với đôi chân dẻo dai của tác giả trên cung
đường ấy. Xin mở lòng ra trên từng trang viết , trình với bạn đọc xa
gần, mong được bạn đọc đón nhận với tấm lòng độ lượng !
NGƯỜI BIÊN SOẠN
4
5. Tự cảm
Ra đi muôn ngả lúc còn xanh
Lá vàng thu, con tìm Đường về cội ...
Dù chỉ là chiếc lá nhỏ thôi,
Xin dành dụm để nuôi chồi xanh mới
5
6. Phi lao
Vút trời cao
Rì rào ca hát
Những đêm sao bát ngát
Lặng gió im trời
Phi lao đứng đó
khi thỡ thầm, ngõn nga
Khi biển nổi phong ba
Khi gió gào, bão dập
Phi lao gồng mình
Bẻ gẫy cơn cường nộ.
Phi lao, phi lao
Rắn chắc , thanh tao
Dẻo mềm
Vút trời cao
Phi lao
Xanh ờm …
6
7. Ra đi muôn ngả lúc còn xanh
Lá vàng thu con tìm đường về cội,
Ơi Sáng Sơn, Chùa Mụ, Hình Nhân
Điểm tựa đời con mãi tới vô cùng.
Đây Phao Tràng, Tiên Định, Song Vân
Mé Phóc Đồng Khuân, duối vàng Cầu Khẩy
Cây trám khòng, hốc sáo chênh vênh
Nâng bước chân con lên thác xuống ghềnh.
Nằm Trường Sơn Đông, nhớ về Đồng Sớm
Tháng ba đất rang, nước tràn tháng bảy
Ăn rau Xắng Lào, nhớ rau lang Đồng Ngọc
Bưng bát canh chua nhớ dọc Dốc Dồn.
Ngủ Trường Sơn Tây, nhớ về Đồng Sọm
Quang dây nhựa vàng, mẹ bện đêm đêm
Quang đi chợ Trò, quang ra chợ Chục
Ăn hạt gắm chồn nhớ bát ngô bung.
Hỡi vầng mây ấm bên núi Thắm
Sinh ra từ đâu, nay cũng về nguồn?
Xin cùng ta về Miền Đá Dựng
Gửi tuổi thơ này mãi tới mênh mông.
7
8. Quê hương 2009
Trời Xuân
Nắng sớm làm duyên với gió đồng,
Long lanh ngọn cỏ ngắm hừng đông.
Đào phai nụ tím sương còn ngậm,
Liễu thắm cành xanh vạn ánh hồng.
Cần mẫn bầy ong tìm mật ngọt,
Hăng say đàn bướm lượm hương nồng.
Làng quê khói bếp giăng giăng lụa,
Ấm áp trời xuân má ửng hồng.
8
9. Thăng Long
Định đô triều Lý, dỏng rồng bay,
Kết tụ nghìn năm, vẫn thế bay
Hà Nội bao phen, dày khói lửa,
Thủ đô văn hiến, mãi rồng bay.
9
11. * Hồ Vân Trục
Ước
Nào đã quên đâu tuổi chín mười,
Ơi Người, nay đã Bảy mươi trôi.
Ước gì lùi được vài năm nhỉ,
Vá lại trên đường … những chỗ vơi.
11
12. Một thoáng sông Cầu
Thấp thoáng quai thao, hộ yếm đào,
Dùng dằng khăn xếp, lựa lời trao.
Trầu têm cánh phượng, môi ai thắm,
Mắt sắc dao cau, lúng liếng chào.
“Bèo dạt…”, Sông Cầu lòng ngóng đợi,
“Mây trôi…” Kinh Bắc dạ xôn xao.
“Người ơi…”, “Đến hẹn…” mùa sau hội,
12
13. “Cởi yếm…”, “Qua cầu…” – Gió vớt sao…?
Tiễn Đông
Năm cùng tháng tận, rét tan nhanh,
Đào, quất nụ thơm tắm nắng lành.
Chầm chậm mây trôi lời giã bạn,
Xuân về… nhu nhú những chồi xanh.
13
14. Thanh Long ruột đỏ
và mùa Xuân
(Mừng dự án trồng Thanh Long ruột đỏ được triển khai tại xã
Vân Trục)
Thanh Long ruột đỏ đón xuân sang,
Cảnh vật đổi thay thật ngỡ ngàng.
Mới đấy, vườn vẫn vườn… trống trải,
14
15. Mà nay, cột gióng cột… vươn hàng.
Mồ hôi thấm ướt nghiêng nghiêng dáng,
Nước xối, sương đầm xéo xéo ngang.
Vất vả hôm nay, mai quả ngọt,
Chung tay, nhúm lửa ấm thôn trang.
Thánh địa Mỹ Sơn có tháp Chàm
Rạng danh đất Quảng sáng trời Nam
Vô Nam, ra Bắc xin hãy nhớ
Dừng ngắm tranh Tiên giữa núi ngàn
15
16. Chớm Hạ
Chớm Hạ tơ trời tím tím phơi,
Quyên ca, nắng ửng, khúc giao mời.
Thinh không gió lặng, vuông trời mở,
Tịnh xuống mây im, ngọt giọng hời.
Nhạn vút lên cao, nghiêng cánh lượn,
16
18. Nước mát xuôi bờ nơi bãi thấp,
Dòng thơm ngược máng chốn đồng cao.
Quanh năm tích thuỷ thơm dòng sữa,
Suốt tháng khơi thanh vị ngọt ngào.
Gió sớm đồng làng chao sóng lúa,
Hừng Đông én liệng vút trời cao.
Quê hương 8/2010
Vân Trục vào Thu
(Mời hoạ vần)
Trời chiều, nắng nhạt, lá lao xao,
Vân Trục vào thu, gió dạt dào.
18
19. Núi thẳm soi mình - đời náo nức,
Hồ xanh in bóng - dạ xôn xao.
Đàn cũ mỏi cánh tìm về tổ,
Thảm lúa mênh mông, sóng vẫn trào.
Bức hoạ đồng quê ai chấm phá?
Lòng say , nốt nhạc vút lên cao.
Vân Trục
8/2010
Khúc dạo vần
(Hoạ thơ Minh Chín)
Có thể tơ duyên hợp lục trần *
Lênh đênh sóng dập giữa đời xuân.
Trời cao có thấu - thân côi cút !
Đất rộng nào hay - phận tảo tần !
19
20. Thổn thức đêm thanh, lần gối bạn,
Bồn chồn ngày vắng, trở giường thân.
Bâng khuâng mượn tứ lưu hồn bút,
Sở ước tình thơ chớ lạc vần.
* - Trần (dt): Phong trần, bụi
- Trần (Đạo phật): Là do các vi bụi (bụi nhỏ bé) chứa
nhóm cấu thành. Trong con người có 6 trần ( Lục trần):
Săc, Thinh, Hương, Xúc, pháp, Vi trần.
Thăm bạn
Tôi vào thăm hỏi bệnh nhân già,
ở viện Quân Y một linh ba (103).
Mấy chục năm, cùng nhau đánh giặc,
Cũng vài lần sốt sẩy qua loa.
20
21. Mưa chan, nắng quái, rốn dai sức,
Đạn xới, bom xiên, chẳng sầy da.
Tuổi cao sức yếu sinh bệnh hiểm,
Kịp thời chạy chữa sẽ vượt qua?
Vân Trục
8/2010
Nguyên tiêu nhớ Bác
21
22. “Nhất mộc kỳ thiên” trực vọng vân,
Nguyên tiêu nhớ Bác , ngóng thơ thần.
Ngàn năm vẫn tết , ngàn năm ngóng,
Ngóng bóng Già Thu - Đấng vĩ nhân.
Tiễn sầu đông
22
23. Lất phất mưa non, hạt trắng phau,
Êm êm ngọn cỏ, sáng ngàn lau.
Hải đường chúm chím, chờ ai đón,
Mận tím lim dim, tiễn khách sầu.
Cánh én nghiêng nghiêng, chào tạm biệt,
Dò ong khạng nạng phấn vàng au.
Dòng đời hối hả - Đông còn ngậm
Đã giục xuân tươi đượm sắc màu.
Quê hương, tháng 12 năm
2010
23
24. Trước thềm xuân
Chiếc lá sau cùng - Mận tím rơi,
Thanh Long ngọn mập, ngó ngang trời.
Đêm dài tiễn bạn - Canh Dần hỡi,
Thêm một mùa xuân sắp tới nơi.
Quê hương, tháng
12 năm 2010
Gởi con gái vần thơ
(Tặng con gái đầu lòng)
24
25. Từ lúc chưa sinh con
Nỗi khát dâng trong lòng
Nay con vừa tròn tuổi
Thơ bố chưa làm xong,
Trên con đường huyền thoại
Mịt mùng giữa biển Đông
Theo con tàu “ bão tố”
Bố viết dòng mênh mông …
Giấy là chân trời hồng
Mực – bao la chát mặn
Gởi con gái vần thơ
Trong những ngày khói trận…
Mong sao con mau lớn
Luyện “Chân cứng đá mềm”
Thênh thang con đường tiến
Sẽ gặp nhiều cơ duyên…
Vùng biển Cô Tô
Ngày
22/7/1973
25
26. Nhớ về em trai
(Liệt sĩ Nguyễn Xuân Nội)
Mùa mưa lại đến Nội ơi!
Lại xanh đồng lúa, lại tươi sắn đồi
Lại lòng thương nhớ bồi hồi
Ơi Em – xa biệt đã mười năm đau
Ngày nào rau cháo nuôi nhau
Lận rừng bới củ mòn đầu ngón tay
Măng tre giữa bụi gai dày
Rỏch quần, xước thịt … bị đầy, bị vơi
Nhà nghèo thương mẹ lần hồi
Mười ba tuổi, biết làm người chăm lo
Kiếm dây quang, hái trầu hò …
Thương em, thương lắm, bao giờ cho nguôi
Mùa mưa năm ấy Nội ơi…!
Thẳng hướng mặt trời – Anh tới tiền phương
Miền Tây – cũng thể chiến trường,
Bom mìn Em phá, thông đường...Em ơi !
Quê
mưa 1974
26
hương,
mùa
27. Tình quê
(Kính tặng quê ngoại: Liễn Sơn – Hoa Sơn)
Con về tìm lại ngày xưa,
Nghiêng nghiờng cọ đứng, nắng mưa dãi dầu
Phiêu du lắm nỗi nông sâu
Tảo tần đất mẹ bắc cầu con qua.
Lúa mầm thơm dẻo mạch nha
Quên sao nón lá, bánh đa, khẹo nhồi…
Phố Cọ xưa – ở đâu rồi?
“Khó khăn khắc phục”- đầy vơi nỗi niềm.
Ngắm trăng lại nhớ sỏng đèn ,
Đừng quên rơm mỏng làm nên bếp hồng.
Chạch Chấu yêu bát tương om ,
Cua đồng nhớ quả dọc thơm Dốc Chùa .
27
28. Có còn mỏng mảnh khói đưa ?
Bếp gas, nồi điện, ứ thừa rạ rơm .
Còn đâu … thôi thúc đầu thôn ,
Tích chèo Tấm Cám hút hồn em tôi ,
Có còn chợ Cọ bên đồi ?
Chênh chao nhớ chốn mẹ ngồi chợ trưa...
Con về quờ với bây giờ
Với mênh mông, nhớ tuổi thơ ngọt ngào.
Tưng bừng gác tía, lầu cao,
Đồng vàng dậy sóng dạt dào tình quê
Quê ngoại cuối năm 2011
28
29. Đong đầy nỗi nhớ
Trước mặt, sau lưng,
Ngả, nghiêng toàn đá
“Đá đứng, đá ngồi” “cổng Trời” Quản Bạ
Đá công kênh, Lũng Cú “Đụng trời”
Lộng ánh cờ
Rười rượi niềm tin .
“Đất không ba bước bằng
Trời không ba ngày nắng”
Đá lõm mình giữ đất
Cho ngô xanh ngút ngàn
Điệu khèn vang Động ẫn
Câu sli lượn Núi Đôi
“…gũ Bồng Đào” thơm sữa
Mã Pí lèng chơi vơi.
29
30. “Thấy nhau trong tầm mắt
Gặp nhau mất nửa ngày”
Lơ mơ dòng Nho Quế
Ấm chợ tình Khau Vai.
Tôi đi trong mênh mông
“Công viên địa chất toàn cầu” *
Chìm vào miền huyền thoại
Cao nguyên đá Đồng Văn
Tình sâu… Thắng Cố mình
Nghĩa dày Mèn Mén đây
Thung Mê mận chín mời,
Rượu cần vít mềm môi …
Đong đầy bao nỗi nhớ
Kiêu hãnh và tự hào,
Hà Giang,
Hà Giang ơi !
*Rừng đá lớn nhất Việt Nam gồm các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng
Văn, Mèo Vạc rộng2350 km được UNESCO công nhận là Công viên địa chất toàn
cầu-Cao nguyên đá Đông Văn ngày 3/10/201
30
31. .
Bâng khuâng
(Thực tập lâm học năm thứ 2)
Năm ấy…
Giữa bao la biển thắm
Anh viết bài thơ xuân
Đời âm vang tiếng sóng.
Trưa nay…
Giữa rừng xanh mênh mông
Anh viết bài thơ xuân
Lắng nghe rừng trăn trở.
ở đâu …
Đảo vàng, san hô đỏ
Trong mặn mòi bão gió
Vẫn ngời ngời sắc tươi.
ở đâu …
Con Dang chiều bỡ ngỡ,
Đứng đợi bạn đường khơi,
Dù bạc đầu- vẫn nhớ.
31
32. ở đâu …
Đá trồng và núi dựng
Mưa xiên và nắng quái
Vẫn một lòng thuỷ chung
ở đâu và đâu nữa…
Trưa nay…
Thoáng đấy mà đã mấy chục năm
ơi cây Hà Nu già
Mưa tuôn và thác đổ
Hương nồng cứ lan xa...
Rừng Đồng Bống- Quảng Ninh đầu năm 1976
32
33. Xa rồi - Biển thắm của anh
Bấy nhiêu năm vẫn quấn quanh lòng người.
Cũng vì ăn sóng, ngủ khơi
Bao la chát mặn, đời đời nhớ nhau.
33
34. Dốc đứng, chân dồn, núi Sáng đây,
Lau ngàn, đá dựng, ấm miền Tây.
Thiên thời lập Chợ* vi vu gió
Địa lợi giao Điền* lấp loá mây,
“Hổ Xám*” rừng sâu quân giặc sợ,
Nhân hoà áo vải tướng nhà thầy.
Ra về thấm đẫm trời non nước
Chẳng nhấp mà sao cứ ngất ngây./.
* - Chợ lộ thiên (chợ trời)
- Ruộng cấy trăm bó mạ (bách bung)
- Đề Thám
34
35. Quan họ Bắc Ninh
Lao xao sóng vỗ thuyền rồng
Quai thao, khăn xếp, nức lòng hội chơi
Một miền Quan Họ “…người ơi…”
Bắc Ninh “người ở….”,”mây trôi…”,” đừng về…”
35
36. Chùa Kim Tôn*
Hồ nghiêng, nắng ấm đón xuân sang,
Mặt nước huyền loang óng áng vàng.
Thiền Viện Trúc Lâm ngời Tuệ Đức ,
Chùa Kim Tịnh – Độ tiếng chuông vang.
* Chùa Kim Tôn: Đã có cách đây gần 700 trăm năm.
Nằm ở phía đầu núi Hình Nhân, chân núi Sáng, giáp danh
hai hồ: Hồ Bò Lạc, xã Đồng Quế, hồ Vân Trục, xã Vân Trục,
huyện Lập Thạch, Tỉnh Vĩnh Phúc.
Hiện chùa đang được Nhà nước tôn tạo.
36
37. Chào Thăng Long
Năm nay Đại lễ rợp cờ bay
Kỷ niệm nghìn năm khắp đó đây.
Nhớ thủa tiền nhân khai móng cũ
Yêu ngày hậu duệ dựng thành nay.
Khoanh sơn, đắp luỹ, xâm lăng-diệt
Giữ hải, dựng nhà, độc lập - xây
Một dải giang sơn không để mất
Muôn năm Hà Nội thẩy vui vầy.
37
38. Vẫn ngóng thơ Người
Tết đến, xuân nay rực nắng vàng,
Tưng bừng náo nức khắp thôn trang.
Mừng Xuân - Mừng Đảng lòng hoan hỷ,
Vẫn ngóng thơ Người lúc tết sang.
38
39. Thời tiết
Trời cao lồng lộng lắm trăng sao
Phút chốc mây đen nổi mưa rào
Dồn dập từng cơn như trút nước,
è ựng bỗng tạnh lại đầy sao
Cuối xuõn sút lạnh, sương cũn đọng
Chớm Hạ vừa oi cú ý chào.
Vần vũ thiờn nhiờn cơn ấm lạnh
39
40. Chăn ga, gối đệm gác lên cao.
Vân
4/2010
Chợ quê
Xôn xao một góc trời quê
Thoả thuê
Mua bán
Mời về chợ ta
40
Trục
41. Vân Trục 8/2010
Một thời… ăn sóng ngủ khơi
Bao la chát mặn đầy vơi nỗi niềm.
Nhớ về một thuở sinh viên
Mới hay nguồn cội nổi chìm là đây
Tơ dai bởi lá dâu dày
Tằm ngoan tím ruột đợi ngày ra nong.
Một thời…trước bảng đen cong
Tay cầm viên phấn viết dòng trắng tinh
Thế mà gần hết đời mình
Vẫn không trả được ân tình bao la…
Nợ mười… cố trả dăm ba…
Nợ mẹ lam lũ, nợ cha dáng gầy,
Nợ làng muối mặn gừng cay
41
42. Nợ em vốc nước, ấm tay uống nhờ.
Một thời lắm dại… nhiều khờ
Cho nên nhung nhớ chuyện xưa…chúng mình
Bây giờ trời đất thanh bình
Trước gương, tóc đó rập rỡnh trắng mây.
(Hoạ thơ : Vũ Duy Phương)
Cùng chung một dải trăng quê
Quá tròn sang khuyết nay về chân non.
Tính ra thấp thập đã tròn,
So đo cho kỹ còn non vài nồi.
Trên bảo…dưới gật…đúng thôi
42
43. Nào ai có tỵ, ai cười, cũng vâng
Xin đừng hái quả nửa chừng
Để giữ trọn nghĩa trùng phùng bên nhau.
(Tặng TT)
Nồng nàn hương sắc dâng người
Trinh nguyên gai nhọn giữ đời trắng trong
Mưa chan, nắng quái, bão dông
43
44. Cũn đây ai , hỡi đoá Hồng thanh tao.
Lúc trẻ phiêu du mọi nẻo đường,
Nay già mới vãng cảnh chùa Hương.
Xôn xao Bến Đục thông thênh gió,
“Thấp thoáng rừng mơ” lãng đãng sương.
44
45. Suối Yến mơn man, lời hẹn ước,
Đền Trình bịn rịn nỗi yêu thương
Cáp treo lơ lửng trời non nước,
Phút chốc rằng đây bậc đế vương.
(Mừng Đại thọ Giáo sư – Anh hùng lao động Vũ
Khiêu )
(Hoạ bài: Anh hùng và nghệ sĩ của Tạ Minh Tâm)
Cận kề trăm tuổi vẫn anh minh
Làm đẹp cho đời, bút pháp tinh.
Qúy nghiệp văn chương, ngời cốt cách
Yêu nghề, luyện chữ, rạng tâm linh.
Bác Hồ dạy: Quý dân – Giàu đức
“Cụ Ké” răn: Thương nước – Vượng tình.
45
46. Còn đất, còn trời, còn thế thái
Còn đem Hiếu , Nghĩa phụng dân sinh./.
Xuân Nhâm Thìn 2012
(Mừng Đại thọ Giáo sư – Anh hùng lao động – Nghệ sĩ Vũ Khiêu)
(Hoạ bài: Đảng mến dân yêu của Nguyễn Huy Đài)
(Hoạ I(*) – (Khoán thủ):
Chúc
Thọ
Anh
Hùng
Nghệ
Sỹ
Vũ
Khiêu
Ngót Trăm năm, đượm sắc già,
Nhiều Tác phẩm, xứng Hoàng hoa.
Minh Bản sắc, người dân Việt,
Sáng Văn phong, bậc triết gia.
Thuật Chúc văn, giành tuyệt phẩm,
Thơ Dụng tứ, nức lời ca.
Sư Tuổi hạc, linh giai điệu,
Lửa Con tim, ấm vĩnh hoà./.
46
47. Xuân Nhâm Thìn 2012
* Hoạ I: Khoán thủ – Thất ngôn bát cú
Hoạ II: Lục ngôn bát cú
Hoạ III: Ngũ ngôn bát cú
Hoạ IV, V, VI, VII… khoán thủ, tứ tuyệt
(Mừng Đại thọ Giáo sư – Anh hùng lao động – Nghệ sĩ Vũ Khiêu)
(Hoạ bài: Đảng mến dân yêu của Nguyễn Huy Đài)
Hoạ II: - Lục ngôn bát cú:
Ngót
Nhiều
Minh
Sáng
Thuật
Thơ
Sư
Trăm năm, đượm sắc già,
Tác phẩm, xứng Hoàng hoa.
Bản sắc, người dân Việt,
Văn phong, bậc triết gia.
Chúc văn, giành tuyệt phẩm,
Dụng tứ, nức lời ca.
Tuổi hạc, linh giai điệu,
47
48. Lửa
Con tim, ấm vĩnh hoà./.
Xuân Nhâm Thìn 2002
(Mừng Đại thọ Giáo sư – Anh hùng lao động – Nghệ sĩ Vũ Khiêu)
(Hoạ bài: Đảng mến dân yêu của Nguyễn Huy Đài)
Hoạ III: - Ngũ ngôn bát cú
Trăm năm, đượm sắc già,
Tác
phẩm, xứng Hoàng hoa.
Bản sắc, người dân Việt,
48
49. Văn
Chúc
Dụng
Tuổi
Con
phong, bậc triết gia.
văn, giành tuyệt phẩm,
tứ, nức lời ca.
hạc, linh giai điệu,
tim, ấm vĩnh hoà./.
Xuân Nhâm Thìn 2012
(Mừng Đại thọ Giáo sư – Anh hùng lao động – Nghệ sĩ
Vũ Khiêu)
(Hoạ bài: Đảng mến dân yêu của Nguyễn Huy Đài)
Hoạ IV: - Khoán thủ, Tứ tuyệt:
Chúc
Thọ
Vũ
Khiêu
Ngót trăm năm, đượm sắc già
Nhiều tác phẩm, xứng Hoàng hoa.
Sư tuổi hạc, linh giai điệu,
Lửa con tim, ấm vĩnh hoà
49
50. Xuân Nhâm Thìn 2012
(Mừng Đại thọ Giáo sư – Anh hùng lao động – Nghệ sĩ Vũ Khiêu)
(Hoạ bài: Đảng mến dân yêu của Nguyễn Huy Đài)
Hoạ V: - Khoán thủ, Tứ tuyệt:
50
51. Anh Minh bản sắc, người dân Việt
Hùng Sáng văn phong, bậc triết gia.
Vũ
Sư tuổi hạc, linh giai điệu,
Khiêu Lửa con tim, ấm vĩnh hoà
Xuân Nhâm Thìn 2012
(Mừng Đại thọ Giáo sư – Anh hùng lao động – Nghệ sĩ Vũ Khiêu)
(Hoạ bài: Đảng mến dân yêu của Nguyễn Huy Đài)
Hoạ VI: - Khoán thủ, Tứ tuyệt:
51
53. Hồ Vân Trục 2010
Nắng hạn lâu ngày, ruộng nẻ khô,
Mong mưa mỏi mắt, đất cằn trơ.
Thài lài ngơ ngác thân teo tóp,
Cỏ lác liêu xiêu lá vật vờ.
Sáng sáng chuồn bay trong nắng gắt,
Đêm đêm Cóc gọi giữa trăng mờ.
53
54. Thế rồi một sớm ao chan chứa,
Mưa trút giăng giăng loá mặt hồ.
Giếng nươc gương soi ở giữa đồng,
Từng đôi trai gái vẫn hằng mong.
Khuya về lúng liếng trăng ngần trắng,
Sớm đến long lanh má ửng hồng.
Sưởi ấm tình làng lưu dạ sắt,
Giữ êm nghĩa nước tạc lòng son.
54
55. Bao nhiêu cực nhọc tiêu tan hết,
Ngấm cả vào gương ấm mát lòng.
Xa rồi biển thắm của anh ơi,
Đã bấy nhiêu năm vẫn nhớ người.
Tĩnh lặng miền quê sương khói toả,
Mơ về biển cả dạ khôn nguôi.
55
56. Bài họa:
Phố phường Hà Nội rợp cờ bay,
Đại lễ nghìn năm ở tại đây.
Đình Bảng, Tràng An nơi đất cũ,
Thăng Long Đại Việt phát từ nay.
Vẹn toàn lãnh thổ Trần-Lê-Nguyễn,
Kiến dựng giang sơn Nam-Bắc-Tây.
Gấm vóc trời Nam đâu dễ mất,
56
57. Đảng-dân một dạ ắt vui vầy.
Thác đổ, vai oằn, nặng gió sương,
Cành quai, rễ lộ, đá khiêm nhường.
Chìm trong bọt trắng cho chồi biếc,
Đắm dưới sương trong để sức trường.
Nghĩa mẹ tầng tầng thơm lá ngọc,
Công cha lớp lớp ngát cành hương.
Chon von tạo thế cây dâng thác,
Dựng đá chênh vênh dáng quật cường.
57
58. (Kính nhớ hương hồn mẹ)
Xuân đến rồi
Con lại dọn dẹp khu đồi cũ
Vẫn rì rầm dưới chân đồi suối chảy
Vẫn thơm thoảng hương rừng
Dây Nhựa Vàng vấn vít
Dạo ấy khi trở lại chiến khu
Bố chọn đây làm nơi đất ở
Bện quang dây, chợ đời bươn trải
Lưng mẹ còng, xiêu vẹo nắng mưa …
Kiếm dây quang, hái lá trầu hò
Sớm trên Núi Sáng, quá trưa Dốc Dồn
Quanh năm, tay mẹ vẹt mòn
Khoai sắn, nách bị để con nên người
58
59. Dẻo chân con - dặm đường đời
Giật mình tóc lẫn mây trời mới hay…
Vân vi mượn nén nhang gầy
Thảo thơm ngày giỗ … hương bay nhạt nhoà./.
24 tháng Giêng – ngày giỗ mẹ
Cuộc sống nơi này thật xốn xao
Mặt hàng đủ thứ, rất dồi dào
Người mua sớm tối tưng bừng quá,
Kẻ bán đêm ngày nhộn nhịp sao .
Nhớ thủa khoai băm… lầm lũi kiếm,
Bây giờ gạo dẻo… thiết tha chào .
Đương đà vươn tới nền công nghiệp
Nhịp sống đua nhau tới đỉnh cao
59
60. Chợ thị trấn – cuối năm 2008
Nhớ cha ông
“Nhất mộc kỳ thiên”, thế đất rồng
Trầu thơm dâng mẹ đất Thăng Long
Chiến công lừng lẫy bao thời đại
Ngàn năm văn hiến nhớ cha ông
60
61. Thanh Long đỏ
hồ Vân Trục
(Mừng dự án trồng Thanh Long ruột đỏ được triển khai tại xã
Vân Trục)
Sắc nhọn, sùi gai, trải gió sương,
Khuynh tay, nhúm lửa, sống khiêm nhường,
Mưa tuôn xối xả, hoa càng trắng.
Nắng dãi chang chang, quả vẫn hường.
Chẳng sợ cằn khô, nơi đất bãi.
Không lo sỏi đá, chốn đồi nương.
61
62. Thanh Long ruột đỏ, hồ Vân Trục,
Xóa đói quê tôi, thắp sáng đường…
Song Vân 2010
(Nhà giáo Đỗ Ngọc Kỳ, cùng Hội Thơ Đường)
Nhâm Thìn chúc bác bảy lăm xuân
Cả Hội hân hoan gấp bội phần.
Bạn hữu lâu ngày mong gặp lại
Anh em năm tháng, đã được gần.
Khi còn đứng lớp bao trò quý
Nay nghỉ, làm thơ lắm khách tầm.
Lục bát, Đường thi vui xướng họa
62
63. Hẹn cùng gặp bác bách niên xuân./.
Sáng mùng 4 tết Nhâm Thìn
Quý tỵ tết này tuổi bảy mươi,
Lòng ta náo nức đón xuân tươi
Nương cha dìu dắt, con đường tiến,
Cậy mẹ chắt chiu, giọt sữa đời.
Quý nghiệp Trồng người, ngời giáo án
Yêu nghề Luyện chữ, thắm trồi tươi.
Về hưu sống khỏe tu Tâm, Đức,
Để những xuân sau đậm tiếng cười.
63
64. Vân Trục, năm 2012
(Họa bài: Tấm gương của Quang Triệu)
Cả nước thương yêu bác sĩ Trâm,
Hiến dâng đất nước trọn đời xuân.
Lên đường, mộng thắm thời son trẻ
Gửi lại tình thâm, chốn thảo dân.
Dũng cảm tiêu trừ quân nội biến
Ngoan cường quyết thắng bọn lai xâm
Tiếng thơm để lại cùng trời đất
Gương sáng lưu truyền mãi với dân.
64
65. Vân Trục, năm 2012
(Họa bài: Chị tôi của Văn Thiết)
Làng Đồi dạo ấy, dỏng tiêu điều
Ngõ hẹp, đường trơn, vách nứa xiêu.
Thiếu đói triền miên, không chỉ bữa,
Hanh heo đằng đẵng, kể đâu chiều.
Đảng gieo ánh sáng, Tam Nông* quý,
Dân đón nhiệt thành, Tứ Vị* yêu.
Xây mới nông thôn - tiêu chí đẹp,
Làng Đồi đã hội đủ - Hồng tiêu…
65
66. (*)
- Tam Nông: Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn
- Tứ vị: Liên kết 4 nhà: Nhà nước, Nhà nông, Nhà sản xuất, Nhà
kỹ thuật.
Vân Trục, năm 2012
(Khoán thủ, biến tấu)
Nữ
Anh
Hùng
Liệt
Sỹ
Đặng
Thuỳ
Trâm
nhi đánh giặc, tiếng lừng vang,
vũ trời cho giọng hót vàng
tráng trời Nam – ngăn Mỹ tới
oanh đất Việt – cút đừng sang.
nương, trọng nghĩa quyết tâm đánh
phúc cho đời được mãi khang
mị, nết na – quân Nguỵ hoảng,
anh, lược trúc - địch nhào thang.
66
67. “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”
Thơ Hồ Chủ tịch
Tôi chưa được cùng anh ra ngoài biển trắng,
Căng ngực trần đón gió đại dương.
Tôi chưa được cùng anh gối đầu trăm ngọn sóng
Nghe mênh mông sức dậy mỗi dặm đường
Đâu Hoàng Sa – Bạch Long Vĩ – Long Châu
Nghe nói bào ngư cũng xanh màu biển thắm.
Đõu Cô Tô, đâu Hũn Mỏt Tuần Châu
Hồng tươi san hô, rực rỡ nắng chiều .
Có phải
Biển rất hiền lúc ấy trời trong veo,
Nổi dông tố khi trời nhiều mây trục
Anh hiểu biển như nhà nông hiểu đất
Biển – Tổ quốc mình từ thủa khai tên.
67
68. Không chiến hào trên mặt biển xanh êm
Chiến sỹ ngắm trời cao diệt địch,
Biển thổn thức mỗi khi tàu xuất kích
Cho sóng dồn tàu vút như tên .
Không nhành cây che mắt giặc xông lên
Chiến sỹ vụt nhoà cùng sóng biếc
Trời hiệp lực nổi cơm sấm sét
Biển yêu thương đem khói dựng ngang trời.
Xong trận rồi biển dào dạt làm nôi ,
Giấc ngủ đến bắt đầu sau trận đánh .
Trời rất xanh thắp đầy sao lấp lánh
Ngọn sóng nào se sẽ hát à ơi …
Hè năm 1972
68
69. Ta đứng canh trời với pháo yêu
Nguỵ trang xanh vẫy nắng làm chiều.
Lò sâu mìn nổ khoan lòng đất.
Than chảy ào ào như thác reo.
Cửa Ông - 1968
69
70. (Vào nghề dạy học)
Khi cây phượng ở góc trời thắp lửa …
Tụi lớp mười chúng tôi mỗi đứa một nơi
Đứa lên miền ngược, đứa miền xuôi,
Thẳng hướng mặt trời - Tôi ra biển
Tiếng súng quân thù đè lên mơ ước
Tổ quốc gọi rồi Tháng tám sáu tư(1964)
Ai biết giữa muôn trùng sóng biếc
Hứng chịu phong ba giữ lửa cho đời
Thế đấy – mười lăm năm rồi
Học trường qua, chiến trường qua.
Chỉ cây phượng vẫn góc trời thắp lửa
70
71. Trầm lặng – với tấm bằng thẫm đỏ…
Tôi lên đường …
Tiếp lửa những ước mơ .
Vĩnh Phú – 1979
Tôi viết đôi dòng chưa phải thơ
Đường thi mới dạo lắm u ơ.
Giơ tay với thử, trắc bằng đợi
Dạo gót ngó xem, niêm luật chờ.
Cũng bởi trời xui nên hỏm hố ,
Cho dù đất khiến chẳng làm ngơ.
Say sưa lượm lặt từng câu chữ ,
Để đón nàng thơ , đẹp ý mơ.
71
72. Năm 2010
Mục lục
STT
1.
Lời giới thiệu
2. Tự cảm
3.
4.
5.
6
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
Tên bài
Phi lao
Đường về
Trời xuân
Thăng long
Xuân đến làng Hồ
Ước
Một thoáng sông Cầu
Tiễn đông
Thanh Long đỏ và mùa xuân
Tháp Chàm
Chớm hạ
Nước mát, dòng thơm hồ Vân Trục
Vân Trục vào thu
Khúc dạo vần
Thăm bạn
Nguyên tiêu nhớ Bác
Tiễn sầu đông
Trước thềm xuân
Gửi con gái vần thơ
Nhớ về đứa em trai
72
Trang
1
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
73. 23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47
48
49
50.
51.
52.
53.
54.
55.
Lời quê
Đong đầy nỗi nhớ
Bâng khuâng
Nhắn biển
Thăm Núi Sáng
Quan họ Bắc Ninh
Chùa Kim Tôn
Chào Thăng Long
Vẫn ngóng thơ Người
Thời tiết
Chợ quê
Một thời
Trùng phùng
Hoa hồng
Vãng cảnh Chùa Hương
Theo gương Bác Hồ
Lửa con tim ấm vĩnh hòa
Lửa con tim ấm vĩnh hòa
Lửa con tim ấm vĩnh hòa
Lửa con tim ấm vĩnh hòa
Lửa con tim ấm vĩnh hòa
Lửa con tim ấm vĩnh hòa
Câu
Mưa đêm
Giếng làng
Nhớ
Đảng dân một lòng
Thế cây đời người
Không thể nào quên
Cuộc sống sôi động
Nhớ cha ông
Thanh long đỏ hồ Vân Trục
Mừng thọ
73
26
28
30
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
74. 56.
57.
58.
59.
60.
61.
62.
63.
Mừng đón bảy mươi xuân
Hương sáng
Làng Đồi đổi mới
Để phúc cho đời
Gửi biển
Canh trời
Về miền hoa lửa
Học làm thơ Đường
Nguyễn Hải Hà
74
62
63
64
65
66
68
69
70