SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  95
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thúy Hằng
TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM
CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thúy Hằng
TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM
CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH CÔNG TÍN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng Sau đại học, quý thầy cô giảng viên khoa Ngữ Văn
đã tận tình giảng dạy, và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi được học tập, nghiên cứu
và hoàn thành khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Huỳnh Công Tín đã dành nhiều thời
gian hướng dẫn, động viên và khuyến khích tôi vượt qua những khó khăn trong quá
trình làm luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc
nhất cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012
Tác giả
Trần Thị Thúy Hằng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch .................................32
Bảng 2.2. Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước....33
Bảng 2.3. Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật,
hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ: ...............................................34
Bảng 2.4. Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam.............................................38
Bảng 2.5. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer..........................................................41
Bảng 2.6. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán ..............................................................43
Bảng 2.7. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp.............................................................45
Bảng 2.8. Quán ngữ ...............................................................................................47
Bảng 2.9. Lớp từ có nguồn gốc từ Trung Bộ.........................................................50
Bảng 2.10. Lớp từ biến nghĩa...................................................................................55
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO VIỆC NGHIÊN CỨU .7
1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ........................................................7
1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học .................................................................7
1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học ..............................7
1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ.........................................................8
1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ ...............................................................................10
1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc ..............................................................15
1.2.1. Tiểu sử .....................................................................................................15
1.2.2. Các sáng tác chính ...................................................................................17
1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc ..............................................18
1.2.4. Nét đặc sắc về nghệ thuật ........................................................................22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .........................................................................................24
Chương 2. KHẢO SÁT CÁC LỚP TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC
PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC......................................................................25
2.1. Cơ sở phân chia .............................................................................................25
2.2. Các lớp từ cụ thể.............................................................................................25
2.2.1. Lớp từ ngữ Nam Bộ chính gốc ................................................................25
2.2.2. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ...........44
2.2.3. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân............................46
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .........................................................................................51
Chương 3 : ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC TRONG
MỐI TƯƠNG QUAN VỚI NGÔN NGỮ CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC ...........53
3.1. So với tác giả trước Bình Nguyên Lộc...........................................................53
3.2. So với tác giả cùng thời với Bình Nguyên Lộc..............................................63
3.3. Nhận định chung về đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc....................79
3.3.1. Ngôn ngữ kể chuyện mang màu sắc địa phương Nam Bộ sinh động, giàu
âm thanh, hình ảnh.............................................................................................80
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật đa dạng về tính cách, đậm phong cách Nam Bộ......82
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .........................................................................................85
KẾT LUẬN..............................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................87
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu tiếng Việt, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở mặt thống nhất của
ngôn ngữ, mà cần thấy được tính đa dạng của nó. Một trong những biểu hiện rõ rệt
nhất của nó là màu sắc địa phương vùng, miền.
Ý thức được vấn đề lí luận này, thời gian gần đây, các nhà Việt ngữ học đã
chú ý nhiều tới bình diện khác biệt địa phương này của tiếng Việt.
Trong các công trình mang tính lí luận chung về phương ngữ, các nhà nghiên
cứu thường quan tâm nhiều đến vấn đề phân chia tiếng Việt thành những vùng
phương ngữ là: có 3 phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ), 4
phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ), hay 5
phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ,
Nam Bộ). Điều này phụ thuộc vào việc xem xét sự khác biệt từ một bình diện hay
nhiều bình diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách diễn đạt…) của các
phương ngữ.
Ở nội bộ từng phương ngữ, lại có những công trình đi sâu tìm hiểu, khai thác
những vấn đề của phương ngữ ấy trên các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp… dựa
vào những thực tiễn khảo sát từ người địa phương hoặc thông qua việc khảo sát các
sáng tác của những nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu có tên tuổi nhất định trong
dòng văn học sử của địa phương ấy.
Nói riêng về phương ngữ Nam Bộ, số lượng công trình nghiên cứu phương
ngữ này trong những năm gần đây ngày một dày thêm. Lí do là nếu xem xét vấn đề
phương ngữ trong sự đối lập với ngôn ngữ chuẩn toàn dân, thì bản thân phương
ngữ Nam Bộ có những giá trị rất đặc thù giúp làm sáng tỏ vấn đề này, hơn là những
vùng phương ngữ khác như Bắc Bộ hay Trung Bộ. Trong chừng mực nào đó,
phương ngữ Nam Bộ có tính hệ thống “theo kiểu” Nam Bộ khá rõ ở các bình diện:
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, làm rõ sự đối lập toàn dân/ địa phương hơn các phương
ngữ khác.
2
Mặt khác, nếu hiểu là nguồn “sinh lực” bổ sung những yếu tố địa phương làm
phong phú thêm cho tiếng Việt chuẩn toàn dân, thì tiếng địa phương Nam Bộ cũng
đáp ứng tốt yêu cầu này. Bởi vì đây là tiếng nói của một bộ phận người Việt tham
gia vào quá trình lịch sử Nam tiến, tiếp nối và phát huy mạnh mẽ tiếng Việt trên
vùng đất mới - vốn được nhìn nhận là vùng kinh tế năng động và là một trong
những vùng trọng điểm của cả nước. Điều này (nhất là từ sau 1975 trở lại đây) đã
đóng một vai trò không thể phủ nhận trong đời sống ngôn ngữ cũng như đời sống
văn hóa- xã hội…không chỉ nội tại trong vùng Nam Bộ, mà còn được nhìn nhận
như những giá trị chung của tiếng Việt toàn dân.
Hơn nữa, trên 300 năm phát triển, từ tiếng nói người bình dân, phương Nam
đã định hình nên một phong cách ngôn ngữ gọt giũa qua những sáng tác văn
chương, những công trình khoa học có giá trị, với những tên tuổi lớn đã được khẳng
định, như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh,
Phi Vân, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… và được tiếp nối bởi
những tác giả đương thời như: Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư…
Vì vậy, việc nghiên cứu tập trung vào địa hạt này cũng nhằm giúp làm sáng tỏ
những đóng góp và hạn chế của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình lịch sử tiếng
Việt và trong quá trình thống nhất trong sự đa dạng hiện nay của tiếng Việt.
Nghiên cứu phương ngữ Nam Bộ không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc về
phương ngữ này mà còn giúp giải quyết nhiều vấn đề trong việc tiếp nhận những
sáng tác văn chương, xác định đúng đắn vai trò của phương ngữ trong tiến trình
tiếng Việt toàn dân và những vấn đề xã hội của phương ngữ trong phạm vi nhà
trường và trên sách báo cũng như trong thực tiễn đời sống giao tiếp của người Việt.
Xuất phát từ những lý do trên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, với
đề tài “ Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi sẽ đi
sâu vào bình diện từ vựng của phương ngữ Nam Bộ trên tư liệu ngôn từ của một tác
giả là Bình Nguyên Lộc, qua những sáng tác văn chương để tìm hiểu sự đóng góp
về ngôn ngữ, đồng thời để tìm ra những đặc sắc trong cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ
của ông, trong sự so sánh với một số nhà văn trước và cùng thời với ông.
3
2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Như vừa trình bày ở trên, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là phương
ngữ Nam Bộ và giới hạn phạm vi nghiên cứu trong luận văn này chỉ dừng lại ở địa
hạt từ ngữ Nam Bộ và trên những sáng tác của Bình Nguyên Lộc, với mục đích
nghiên cứu là qua cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của Bình Nguyên
Lộc, nêu bật được vai trò của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và
hành chức của tiếng Việt; đồng thời, thấy được sự đóng góp ngôn từ của ông so với
những người đi trước và cùng thời với ông.
Công việc so sánh đối chiếu với các tác giả trước hoặc cùng thời với ông,
chúng tôi sẽ chủ yếu là tiếp thu kết quả nghiên cứu của những công trình khảo sát
phương ngữ của các tác giả đi trước, với mục đích là thông qua những sự so sánh,
đối chiếu đó, chúng tôi làm sáng tỏ những đóng góp riêng của Bình Nguyên Lộc và
thấy được sự phát triển phương ngữ Nam Bộ đã để lại những dấu ấn nhất định trong
dòng văn học viết của riêng Nam Bộ và của Việt Nam nói chung.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát toàn bộ tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi sẽ có được số
lượng từ ngữ đủ để làm cơ sở cho những nhận định, đánh giá. Thế nhưng, để đưa ra
được những gì thuộc về ý kiếng riêng của mình, chúng tôi phải dựa trên các phương
pháp, thủ pháp thống kê, phân loại những kết quả đạt được trong khảo sát. Đồng
thời so sánh, đối chiếu với những kết quả khảo sát khác, có thể là của các tác giả
khác, để thấy được một mặt, tiến trình từ ngữ địa phương Nam Bộ tham gia vào
hoạt động sáng tác văn chương để lại được ý nghĩa tích cực và cả những mặt hạn
chế của nó ra sao; mặt khác, thấy được sự đóng góp của tác giả so với lớp nhà văn
đi trước và cùng thời với ông, từ đó có được những đánh giá xác đáng về vị trí, vai
trò, đóng góp của Bình Nguyễn Lộc trong dòng văn chương Nam Bộ nói riêng và
trong văn chương của cả nước nói chung.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như đã đề cập ở trên, vấn đề về phương ngữ Nam Bộ đã và đang được khá
nhiều nhà phương ngữ học quan tâm. Có thể kể đến các công trình sau: “Từ điển
4
phương ngữ Nam Bộ” của tập thể tác giả do Nguyễn Văn Ái chủ biên (1994),
“Những từ ngữ gốc Khơme trong phương ngôn Nam Bộ” của Thái Văn Chải (1986),
“Hai vấn đề âm vị học trong phương ngữ Nam Bộ” của Cao Xuân Hạo (1998), “Sự
tiếp xúc giữa các phương ngữ ở thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Thị Ngọc Lang
(1986), “Phương ngữ Nam Bộ” của Trần Thị Ngọc Lang (1995), “Tiếng địa
phương” của Bình Nguyên Lộc và Nguiễn Ngu Í (1958), “Về một hiện tượng láy
trong phương ngữ miền Nam” của Trịnh Sâm (1986), “Tự vị tiếng Việt miền Nam”
của Vương Hồng Sển (1993), “Sơ lược hệ thống ngữ âm phương ngữ Sài Gòn” của
Huỳnh Công Tín (2007),... Công trình của Vương Hồng Sển (1993) và của Nguyễn
Văn Ái chủ biên (1994) đã tập hợp được số lượng tương đối đầy đủ lớp từ vựng của
phương ngữ Nam Bộ. Gần đây, công trình “Từ điển Từ ngữ Nam Bộ”, in lần 1
NXB. KHXH (2007), lần 2 (bổ sung) NXB. CTQG (2009) của Huỳnh Công Tín đã
tập hợp được một lượng từ ngữ hết sức phong phú. Đồng thời, tác giả nêu được
những dẫn liệu trích từ nhiều nguồn sáng tác của các nhà văn Nam Bộ khiến chúng
ta có được hình dung nhất định về vốn từ của phương ngữ Nam Bộ cả xưa và nay.
Bài của Cao Xuân Hạo tuy chưa đề cập hết những đặc điểm ngữ âm của phương
ngữ Nam Bộ, nhưng tác giả cũng đã trình bày khái quát hai trong số những đặc
điểm lớn thuộc vấn đề ngữ âm của phương ngữ Nam bộ: phụ âm cuối và các
nguyên âm đôi. Công trình của Trần Thị Ngọc Lang đã nêu ra được sự khác biệt
trong các kiểu cấu tạo giữa hai phương ngữ và xác định được đặc điểm riêng của
phương ngữ Nam Bộ trong một số nhóm từ cụ thể như từ xưng hô, tính từ chỉ mức
độ, từ láy, từ hư... Luận án tiến sĩ “Đặc điểm ngữ âm của tiếng Sài Gòn so với
phương ngữ Hà Nội và các phương ngữ khác ở Việt Nam” của Huỳnh Công Tín
(1999) cung cấp cho ta một bức tranh khá rõ về những biểu hiện ngữ âm được ghi
nhận từ tiếng Sài Gòn và những tương đồng, khác biệt có liên quan tới đặc điểm
ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ với các phương ngữ khác trong tiếng Việt.
Gần đây có nhiều luận văn thạc sĩ chú ý đi sâu vào nghiên cứu những đặc
trưng của phương ngữ Nam Bộ trên cơ sở khảo sát các tác phẩm văn học dân gian
và của các nhà văn cụ thể, như các công trình nghiên cứu sau: “Văn phong Nam Bộ
5
qua tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Biểu Chánh” của Đinh Thị Thanh Thủy,
2005; “Màu sắc Nam Bộ trong truyện kí Sơn Nam” của Nguyễn Nghiêm Phương,
2009; “Phương ngữ Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư” của Nguyễn
Bình Khang, 2009; “ Phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian” của Đỗ Thị
Kiều Oanh, 2012,…
Riêng về việc nghiên cứu các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, đã có các công
trình sau: “ Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc” của Nguyễn Lương
Hải Khôi, 2004; “Văn hóa và con người Nam Bộ trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc”
của Nguyễn Văn Đông, 2005; “Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc” của
Dương Thị Thanh, 2011. Các công trình nghiên cứu trên tuy có đề cập đến cách sử
dụng từ ngữ của Bình Nguyên Lộc nhưng chỉ với tư cách như một minh chứng để
làm rõ phong cách truyện ngắn của ông, chứ không đi sâu nghiên cứu như một
chuyên đề riêng biệt về từ ngữ địa phương Nam Bộ trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc .
Điểm qua tình hình nghiên cứu, với luận văn “Từ ngữ địa phương trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi hy vọng có thể đóng góp thêm, dù nhỏ bé,
trong việc khảo sát các tác phẩm của một nhà văn Nam Bộ cụ thể có quá trình sinh
trưởng và sáng tác ở miền Đông Nam Bộ là Bình Nguyên Lộc, để từ đó nêu bật
được vai trò góp phần của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và hành
chức của tiếng Việt; cũng như là làm rõ thêm sự đóng góp của ông so với những
người đi trước và cùng thời với ông (như mục đích nghiên cứu mà chúng tôi đã nêu
ở trên).
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận.
1. Phần mở đầu gồm có các tiểu mục như: lí do chọn đề tài, phạm vi, đối
tượng và mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu vấn đề
và cấu trúc luận án.
2. Phần nội dung gồm ba chương: chương một trình bày những vấn đề chung
làm cơ sở cho việc nghiên cứu; chương hai tiến hành khảo sát, phân loại, thống kê,
6
so sánh, đối chiếu các kết quả nghiên cứu để rút ra những miêu tả, nhận định cần
thiết; chương ba nhận xét, đánh giá đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc trong
sự đối chiếu với các tác giả khác.
3. Phần kết luận
7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO
VIỆC NGHIÊN CỨU
1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ
1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học
1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học
A. Phương ngữ
Có nhiều định nghĩa về phương ngữ.
Nhóm tác giả Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn
quan niệm: “ Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và
ngữ âm riêng biệt được sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp hơn là ngôn
ngữ; là hệ thống kí hiệu và quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ thống khác
được coi là ngôn ngữ ( cho toàn dân tộc ), các phương ngữ ( có người gọi là tiếng
địa phương, phương ngôn ) khác nhau trước hết ở cách phát âm, sau đó là vốn từ
vựng”[ 46; 223].
Hoàng Thị Châu định nghĩa ngắn gọn hơn: “ Phương ngữ là một thuật ngữ
ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể
với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ
khác”.[5; 29]
B. Từ ngữ địa phương
Theo Nguyễn Thiện Giáp:“ Từ ngữ địa phương là những từ ngữ được dùng
hạn chế ở một hoặc một vài địa phương. Nói chung, từ ngữ địa phương là bộ phận
từ vựng của ngôn ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc chứ không
phải từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi được sử dụng vào sách báo nghệ thuật, các
từ ngữ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa
phương, đặc điểm của nhân vật”.[13; 466]
Từ ngữ địa phương có thể bao gồm những từ ngữ biểu thị những sự vật, hiện
tượng, những hoạt động, cách sống đặc biệt chỉ có ở địa phương nào đó chứ không
phổ biến với toàn dân, do đó không có từ song song trong ngôn ngữ văn học toàn dân.
8
Ví dụ:
Các từ: sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, chao,…là những từ chỉ có ở miền
Nam Việt Nam.
Những từ về ngữ âm giống với các từ tương ứng trong ngôn ngữ văn học toàn
dân, nhưng ý nghĩa thì khác như: nón có nghĩa là cái mũ, chén có nghĩa là cái bát,
dù có nghĩa là cái ô,…
Những từ có sự đối lập về ngữ âm ( hoàn toàn hoặc bộ phận) với từ ngữ tương
ứng trong ngôn ngữ toàn dân như: mô, rào, chộ, ngái,…ở Trung Bộ ( tương ứng với
các từ đâu, sông, thấy, xa,… trong ngôn ngữ toàn dân)
Các từ con gấy, nác, cáo, mự, tru, chúc mào,…ở Nghệ Tĩnh ( tương ứng với
các từ con gái, nước, gạo, mợ, trâu, chào mào,… trong ngôn ngữ toàn dân)
Giữa từ ngữ toàn dân và từ ngữ địa phương có quan hệ qua lại lẫn nhau. Ranh
giới giữa hai lớp từ này sinh động, thay đổi phụ thuộc vào vấn đề sử dụng chúng.
Từ ngữ địa phương là nguồn bổ sung cho ngôn ngữ văn học ngày càng giàu có,
phong phú. Như trên đã nói, từ vựng địa phương chủ yếu là từ vựng khẩu ngữ. Khi
sử dụng từ địa phương vào sách báo nghệ thuật, cần phải hết sức thận trọng và có
mức độ. Nghĩa là chỉ nên sử dụng những từ ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng nào đó
lúc đầu chỉ được biết trong một khu vực, sau đó được phổ biến rộng rãi, có tính chất
toàn dân và những từ ngữ địa phương có sắc thái biểu cảm cao so với các từ đồng
nghĩa tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân. Nếu người viết làm được điều này, từ
ngữ địa phương sẽ phát huy hết tác dụng của chúng trong việc tham gia vào sáng tác
văn chương hay sách báo nghệ thuật.
1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ
Phân vùng phương ngữ là vấn đề phức tạp. Ở bình diện ngữ âm, cho đến nay
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc phân vùng phương ngữ, nhưng chủ yếu các
tác giả phân chia tiếng Việt ra thành ba, bốn hoặc năm vùng phương ngữ.
- Quan niệm chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ: Có nhiều tác giả
chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ, trong đó tiêu biểu là Hoàng Thị Châu.
Tác giả này cho rằng tiếng Việt có ba phương ngữ gồm: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ
9
và Thanh Hóa ), phương ngữ Trung ( từ Nghệ An đến Đà Nẳng), phương ngữ Nam
( từ Đà Nẵng trở vào )[5;89]
- Quan niệm chia phương tiếng Việt thành bốn vùng phương ngữ: Có các
tác giả sau:
+ Nguyễn Kim Thản chia tiếng Việt thành: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ và một
phần Thanh Hóa), phương ngữ Trung Bắc ( phía Nam Thanh Hóa đến Bình Trị
Thiên ), phương ngữ Trung Nam ( từ Quảng Nam đến Phú Khánh), phương ngữ
Nam ( từ Thuận Hải trở vào )[5;89]
+ Huỳnh Công Tín: phương ngữ Bắc Bộ ( các tỉnh Bắc Bộ và Thanh Hóa),
Phương ngữ Bắc Trung Bộ ( các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên – Huế), phương
ngữ Nam Trung Bộ ( các tỉnh từ Đà Nẳng đến Bình Thuận), phương ngữ Nam Bộ (
gồm ba khu vực là miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ)[44;42]
- Quan niệm chia tiếng Việt thành năm vùng phương ngữ: Đây là quan
niệm của Nguyễn Bạt Tụy (1961). Theo ông, tiếng Việt có thể chia thành: phương
ngữ miền Bắc ( Bắc Bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung Trên (từ Nghệ An đến
Quảng Trị), phương ngữ Trung Giữa (từ Thừa Thiên đến Quảng Ngãi), phương ngữ
Trung Dưới (từ Bình Định đến Bình Tuy) và phương ngữ miền Nam (từ Bình Tuy
trở vào)[5;89]
Xét trên bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, các tác giả cũng chia tiếng Việt ra làm
ba vùng phương ngữ trùng với sự phân chia theo tiêu chí ngữ âm như ở trên chúng
tôi đã trình bày. Chỉ có sự khác nhau về vị trí của các phương ngữ Thanh Hóa mà
thôi. Có tác giả đưa tiếng Thanh Hóa vào nhóm phương ngữ Bắc Bộ (Nguyễn Bạt
Tụy, 1950), nhưng lại có tác giả ghép nó vào nhóm phương ngữ miền Trung (Hoàng
Thị Châu, 1963; Vương Hữu Lễ, 1974)[5;89]
Tác giả Huỳnh Công Tín thì chia tiếng Việt thành hai phương ngữ: Bắc Bộ và
Nam Bộ. Theo tác giả nguyên nhân của tình hình này là “ vốn từ vựng của phương
ngữ Trung Bộ, ngoài một lượng từ riêng ít ỏi, lớp từ vựng còn lại, hoặc là giống với
lớp từ vựng của phương ngữ Bắc Bộ hoặc Nam Bộ” [44; 43]
10
Chúng tôi thống nhất với cách phân chia tiếng Việt thành 4 vùng phương ngữ
của Huỳnh Công Tín. Theo đó, vùng phương ngữ Nam Bộ được xác định bao gồm
ba khu vực: miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ, tính từ Bình Phước, Tây
Ninh đến Mũi Cà Mau.
1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ
1.1.2.1. Sự hình thành vùng đất và con người Nam Bộ
Vùng Nam Bộ chia thành ba khu vực: Đông Nam Bộ, Sài Gòn (nay được gọi
là thành phố Hồ Chí Minh ) và Tây Nam Bộ. Có thể khái quát một số nét về sự hình
thành các khu vực này như sau:
a. Miền Đông Nam Bộ bao gồm năm tỉnh: Bình Phước, Tây Ninh, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. So với các vùng còn lại của Nam Bộ thì
đây là vùng đất được khai khẩn trước tiên trong quá trình di dân lập ấp của những
lưu dân Bắc Trung Bộ. Đông Nam Bộ có vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển kinh
tế - xã hội, cụ thể là kinh tế công nghiệp và du lịch, mà tiêu biểu là khu vực Biên
Hòa – Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Vì thế, vùng Đông Nam Bộ là một địa bàn
thu hút mạnh lực lượng lao động, sau thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thành phần
dân cư của vùng này cũng có tính chất đa dạng, đến từ nhiều vùng miền khác nhau
của đất nước.
b. Sài Gòn là trung tâm chính trị, kinh tế, trung tâm giao dịch quốc tế và du
lịch lớn của cả nước. Nó nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đông Nam Á, được ví
như Hòn ngọc viễn đông của vùng. Mặt khác, Sài Gòn là một thành phố lớn, nên sự
giao tiếp của người Việt từ các miền của cả nước diễn ra thường xuyên và liên tục.
Do đó, tính chất phương ngữ Nam Bộ ở Sài Gòn có thể bị biến đổi, bị pha trộn,
không còn giữ những đặc trưng “ban đầu” của một số vùng, một số tỉnh ở Nam Bộ.
c. Tây Nam Bộ ( Đồng bằng sông Cửu Long ) là một vùng đất rộng lớn và phì
nhiêu của miền đồng bằng Nam Bộ, bao gồm mười ba tỉnh, thành: Cần Thơ, Long
An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên
Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. So với các miền trong cả nước, có
11
thể nói, đây là vùng đất mới nhưng nhiều hứa hẹn của lưu dân Việt vùng Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ thế kỷ XVII.
Môi trường mới đã tạo nên một hoàn cảnh mới, từ đó cũng hình thành ở lớp cư
dân người Việt này một tính cách mới, một tư duy khác. Song song đó, những đặc
trưng văn hóa mới cũng được hình thành cùng với những đặc điểm ngôn ngữ mới.
1.1.2.2. Sự hình thành phương ngữ Nam Bộ
Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người dân Nam Bộ. Phương ngữ Nam
Bộ được hiểu là những biến thể địa lý của ngôn ngữ toàn dân.
Có nhiều nguyên nhân hình thành một phương ngữ: điều kiện địa lý, điều kiện
xã hội và điều kiện kinh tế - chính trị,…Những điều kiện này sẽ dần dần dẫn đến sự
khác biệt về cách phát âm, từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp và phong cách diễn đạt
giữa các vùng. Sự khác biệt đó ngày càng lớn và phương ngữ ra đời. Phương ngữ
Nam Bộ cũng được hình thành trên cơ sở ấy.
Sự ngăn cách về địa lý núi, đồi ở một đất nước có chiều dài tương đối lớn như
nước ta đã một thời làm cho sự giao lưu, tiếp xúc của người dân giữa các vùng bị
hạn chế. Tiếng Việt toàn dân bị cô lập giao tiếp trong các vùng, miền nhỏ và đó là
điều kiện khiến tiếng Việt thống nhất phát triển theo những khuynh hướng khác
nhau.
Lịch sử phát triển của vùng đất phương Nam của Tổ quốc cũng đi liền với lịch
sử của nhiều cuộc chiến tranh chia cắt có tính chất dai dẳng, quyết liệt, mà chính
những cuộc chiến tranh này chia cắt hẳn sự tiếp xúc giữa các vùng, miền. Cuộc
chiến tranh giữa hai họ Trịnh – Nguyễn, Đàng Ngoài – Đàng Trong, kéo dài trong
suốt hơn hai thế kỷ chia cắt, chiến tranh, kể từ khi Nguyễn Hoàn được lệnh vào
Nam, mùa đông năm 1558, đến ngày Nguyễn Ánh lấy lại Phú Xuân, thống nhất đất
nước 1802. Rồi những năm tháng trị vì ngắn ngủi của các vua nhà Nguyễn chưa
thống nhất xã hội được thì đất nước lại bị họa ngoại xâm. Thực dân Pháp lại chia
đất nước ta thành ba miền để trị: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Ba miền với những
thể chế hành chính và những luật lệ khác nhau đã góp phần tô đậm thêm cho những
sự chia cắt. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1954, đất
12
nước lại bị chia hai, và chúng ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ cho đến ngày thống nhất đất nước 30.4.1975.
Như vậy, sự phân chia lãnh thổ chính trị - hành chính do lịch sử để lại là nhân
tố chính hình thành nên phương ngữ Nam Bộ. Bên cạnh đó, sự chia cắt tự nhiên về
mặt địa lý, dẫn đến tâm lý vốn có ở những người Việt trước đây như ngại đi lại và
giao tiếp, cũng là nguyên nhân đưa đến sự hình thành phương ngữ Nam Bộ.
1.1.2.3. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ
A. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ âm
- Phương ngữ Nam Bộ có 5 thanh điệu, trong đó hai thanh điệu hỏi và ngã
không được phân biệt rạch ròi
- Khác với phương ngữ Bắc, các cặp phụ âm /r – d /, / s – x /,/ ch- tr/ được
phân biệt tương đối rõ. Tuy nhiên, sự phân biệt này không đồng đều giữa các vùng
ở Nam Bộ. Một số nơi do có sự tiếp xúc với tiếng Hoa (Long An, Kiên Giang, Cà
Mau, Tiền Giang, Bạc Liêu ) phụ âm quặc lưỡi /r/ biến thành phụ âm /g/ hoặc /j/,
/s/ thành /x/, /tr/ thành /ch/. Không có các phụ âm /v/, /gi/,/tr/ mà thay vào đó là các
âm tắc /d/, /ch/
- Người Nam Bộ không có thói quen phát âm đệm nên có hiện tượng rơi rụng
âm đệm trong phát âm ( duyên phát âm thành diêng, luyện phát âm thành liệng )
- Xuất hiện âm /w/ (âm môi, mạc, hữu thanh) từ sự hòa nhập âm đệm vào các
âm đầu /k/, /ng/, /h/ thể hiện trong các trường hợp như: qua – wa, ngoại- wại, hoãn-
wãng,..
- Số lượng các vần ít hơn phương ngữ Bắc do sự đồng nhất của các vần: ên-
ênh, ết- ếch, iết- iếc, im- iêm, in- inh, ip- iêp, it- ich, iu- iêu, oc- ôc, om- ôm-ơm,
ong-ông, op-ôp-ơp, ưn- ưng, ươi –ưi, ước- ướt, ưu- ươu-u, ứt-ức,…
- Bảo lưu nhiều hình thức ngữ âm đặc thù, thường là hình thức ngữ âm cổ như:
binh (bênh), kiểng (cảnh), nhứt (nhất), dòm (nhòm), thúi (thối), thơ ( thư), trợt
(trượt), hun (hôn), hường (hồng),…
B. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện từ vựng- ngữ nghĩa
13
Xét vốn từ vựng Nam Bộ, chúng ta thấy có một số khác biệt so với tiếng Việt
toàn dân. TS. Huỳnh Công Tín đã nêu một số điểm cơ bản về từ vựng – ngữ nghĩa
của phương ngữ Nam Bộ như sau:
- Phương ngữ Nam Bộ còn giữ lại một lớp từ cổ của tiếng Việt mà phương
ngữ Bắc Bộ, tiếng Việt chuẩn không còn sử dụng. Đó là có thể do lớp cư dân tổ phụ
phần lớn là dân vùng Bắc Trung Bộ. Hiện nay, những cứ liệu ngữ học cho thấy, còn
khá nhiều yếu tố tương tự giữa hai vùng này, chẳng hạn: mầng (mừng), ngộ (dễ
nhìn), coi (xem), cậy (nhờ), méc (mách), hun (hôn), thơ (thư), nhơn (nhân),…
- Phương ngữ Nam Bộ gắn liền với đặc trưng văn hóa nơi đây. Đó là sự phong
phú đến mức cực đại về từ ngữ chỉ địa hình, cây cối, sông nước của miền như:
sông, rạch, xẻo, kinh, mương, rãnh, láng, lung, đầm, ao, bàu, đìa; tràm, đước, bần,
mù u, trâm bầu, bình bát, điên điển; ghe, ghe chài, ghe bầu, ghe ngo, xuồng ba lá,
tam bản, võ lãi, trẹt, xà lan, tác rán, về tên gọi các loại sản vật, trái cây như: cá
bông, cá chẻm, cá chốt, cá kèo, cá he, cá linh, cá ngác, le le, chằng nghịch, thằng
chài; bồn bồn, chôm chôm, điên điển, sầu riêng, thốt nốt,…các từ ngữ gắn với hoạt
động sinh hoạt đời sống như: Tết mùng năm tháng năm, Tết mụ, Tục thờ cúng cá
voi, đám nói, đám tôi tôi,…các ngành nghề truyền thống như: ăn ong, bắt cá đồng,
khai thác lông chim, trồng hoa kiểng, làm mắm, làm nước mắm; các lễ hội của
vùng như: Cúng biển, Cúng Thần Nông, Cúng Thành hoàng bốn cảnh, Vía Bà,
Nghinh Ông, Đua ghe ngo; các từ ngữ gắn với sinh hoạt nghệ thuật như: cải
lương, ca ra bộ, đờn ca tài tử, vọng cổ, dù kê,…
- Người dân vùng đồng bằng sử dụng một số từ ngữ vay mượn từ các dân tộc
sống chung như Khmer, Hoa: cà rá, cà ràng, cà ròn, xà rong, thốt nốt, len trâu, bò
hóc, đi ênh,…; chế, hia, tía, số dách, xập xám, bạc xỉu, miệt, mai, báo,.. trong quá
trình giao tiếp. Bên cạnh đó, tiếng Việt của người Việt, người Nam Bộ có quá trình
tiếp xúc khá lâu dài với tiếng Pháp. Bởi đó, có sự tiếp nhận, vay mượn lẫn nhau. Để
diễn đạt những thực tại mới, người Nam Bộ tiếp nhận, vay mượn một số yếu tố của
tiếng Pháp, tiếng nước ngoài. Cách vay mượn của người Nam Bộ vừa giống, vừa
khác với cách vay mượn của người Bắc Bộ.
14
- Có một số từ vựng Nam Bộ có hiện tượng biến âm so với lớp từ vựng chung.
Sự biến âm này có thể do khuynh hướng phát âm đơn giản hóa của người Nam Bộ
như: hảo hớn, minh mông, phui pha, nươm nướp, cháng váng, lè lẹt,…; hoặc do
khuynh hướng kiêng kị như: huê (hoa), luông (lông), mệnh (mạng), kiểng (cảnh),
hường (hồng), huỳnh (hoàng), phước (phúc), quới (quý), … Trong phương ngữ Nam
Bộ, hiện tượng biến âm còn diễn ra hàng loạt từ, chẳng hạn: chư bư, chư bứ, chừ
bư, chừ bự, chứ bứ,…; tèo, tẻo, téo,…; rỉnh, rểnh, rảng,…; cà cựng, cà cửng; cà
khía, cà khìa, cà khịa,…’ chằm bằm, chằm quằm, chằm vằm,…
- Lớp từ vựng của phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng diễn đạt nhiều khía
cạnh, nhiều thực tại trong một hiện tượng từ ngữ khác với khuynh hướng từ vựng
toàn dân có riêng từ để diễn đạt từng khía cạnh, thực tại riêng ấy. Nói cách khác, từ
trong ngôn ngữ toàn dân có khuynh hướng chi tiết hóa, cụ thể hóa thực tại; từ trong
phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng khái quát hóa, trừu tượng hóa thực tại.
C. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ pháp
Trên bình diện ngữ pháp, không có những khác biệt lớn giữa các ngôn ngữ.
Nhưng trong cách nói của người Nam Bộ có một số hiện tượng đáng lưu ý:
- Đặc điểm thứ nhất là cách xưng gọi. Trong gia đình, ngoài xã hội, người
Nam Bộ có thói quen dùng thứ kết hợp với tên để xưng gọi ví dụ: Ba Dương, Năm
Hà, Tám Nghệ, Tư Hoạch, …; từ xưng gọi họ hàng như: cậu, mợ, dì cô, thím,
chú,…được dùng trong gia đình và cả trong làng xóm. Cách xưng gọi giữa những
người trong gia đình có tính tới quan hệ thứ bậc, nhưng có chừng mực và không
nặng nghi thức. Với người lớn, cao nhất chỉ gọi ông, không phân biệt cụ, cố, kỵ,…;
với người có thứ bậc lớn như: cha, mẹ, cô, chú, bác,…lớp con cháu có thể dùng thứ
để xưng gọi; với lớp con cháu, dù lớn tuổi, có địa vị, chức tước, vẫn được bậc cha,
mẹ, ông, bà gọi con hoặc thằng (nam), con (nữ) như ngày nào còn nhỏ, không có
cách xưng gọi trân trọng như anh, chị như ở gia đình miền Bắc.
- Phương ngữ Nam Bộ có sự thay thế và lược bỏ đại từ ấy trong tiếng Việt. Ấy
là một đại từ đi liền sau danh từ để biểu thị một không gian, thời gian, sự vật hoặc
con người khiếm diện khi hội thoại diễn ra (bên ấy, hôm ấy,..). Khi xuất hiện trên
các văn bản viết, đại từ ấy thường viết là ấy hoặc í. Nhưng trong thực tế hội thoại,
15
tất cả các phương ngữ Bắc, Trung, Nam đều lược hóa đại từ này thành âm tiết í,
phát âm không có trọng âm (hôm í, bên í). Trong phương ngữ Nam Bộ, ấy càng bị
nhược hóa mạnh hơn, hòa nhập vào danh từ đứng trước dưới dạng : thanh điệu hỏi
(bển, đẳng, trỏng, ngoải,..). Bằng cách đó, phương ngữ Nam Bộ đã hình thành một
nhóm đại từ có ý nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi.Trong một số trường hợp, nhược
hóa ấy thành thanh hỏi cho từ đi trước nó: bên ấy – bển, bà ấy – bả, trong ấy –
trỏng, trên ấy – trển,…
- Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: Bên cạnh các phó từ chỉ mức độ
dùng chung với phương ngữ Bắc Bộ như: thật, rất, lắm, quá,..phương ngữ Nam Bộ
còn sử dụng các từ chỉ mức độ: lận, hà, thiệt, hung, dữ, dữ lắm,.. và các phó từ chỉ
mức độ đi kèm với các tính từ: dở ẹt, tối hù, cụt ngủn, ốm nhom, mập ù,…
- Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: hả, hén, hèn chi, hông, chèng ơi, dữ ác
hông, trời ơi là trời,..
- Sử dụng các quán ngữ đặc thù: Bên cạnh các quán ngữ chung với phương
ngữ Bắc, phương ngữ Nam còn hình thành các quán ngữ đặc thù của Nam Bộ: quá
cỡ thợ mộc, quá xá quà xa, mút chỉ cà tha, mút mùa Lệ Thủy, tan nát đời cô Lựu, xí
lắt léo, trần ai khoai củ, cà kê dê ngỗng, tàn canh giá lạnh,…
- Nói lái là hiện tượng phổ biến, quen thuộc trong diễn đạt, nhận thức của
người Nam Bộ. Hiện tượng này tạo sự liên tưởng thú vị, hài hước, thể hiện lối lạc
quan yêu đời theo cách của người Nam Bộ. Tuy nhiên, nói lái có thể tạo tiếng cười
thiếu nghiêm túc. Chẳng hạn nói ít li cứ nghĩ ai đó uống rượu ít, không được nhiều;
nhưng nghĩa lái thì khác hoàn toàn: y lít là tửu lượng vô song, không có đối thủ; nói
lì một lam hiểu bắn một loạt đạn lại được hiểu làm một ly; nói lộng kiếng trang
trọng nhưng được hiểu là liệng cống; nem Bá Lộc cứ nghĩ là tên cửa hiệu bán nem
nhưng hóa ra là nem bọc lá, nghĩa là nem không chất lượng,…
1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc
1.2.1. Tiểu sử
Bình Nguyên Lộc (1914 – 1987 ) là nhà văn lớn Nam Bộ giai đoạn 1945 -
1975, tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 tại làng Tân Uyên,
16
tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương. Bình Nguyên Lộc xuất thân trong một gia đình trung lưu
có mười đời sống tại làng Tân Uyên. Cha ông là ông Tô Phương Sâm (1878 – 1971)
làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (1876 – 1972). Ngoài bút danh Bình
Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh khác như : Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn
Dzật Huân, Diên Quỳnh,..
Thuở nhỏ, ông học chữ Hán với thầy đồ ở làng và học tiểu học Pháp - Việt ở
quê. Năm 1928, ông xuống Sài Gòn học trung học tại trường Pétrus Ký ( nay là
trường Lê Hồng Phong ). Ông đậu tú tài phần thứ nhất niên khóa 1933-1934 nhằm
lúc kinh tế khủng hoảng nên không tiếp tục học được nữa.
Năm 1934 về quê lập gia đình với cô Dương Thị Thiệt (1916-1988), rồi làm
công chức kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1936 ông đổi
về Sài Gòn làm nhân viên kế toán ở Tổng Nha Ngân khố Sài Gòn. Thời gian này
ông bắt đầu tham gia hoạt động văn nghệ tại đây. Truyện ngắn đầu tay có tên là Phù
sa đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (1913-1989).
Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin nghỉ dài hạn không
lương và từ đó về sau không trở lại với nghề công chức nữa. Năm 1945, ông tản cư
về quê, nhưng cuối năm 1946 ông hồi cư trở lại quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một.
Trong thời gian này, Bình Nguyên Lộc có tham gia công tác kháng chiến tại miền
Đông Nam Bộ và là thành viên Hội Văn hóa cứu quốc Biên Hòa. Nhưng trong giai
đoạn này ( những năm 1944 – 1947 ), do bệnh cũ tái phát gây khủng hoảng tinh
thần nên Bình Nguyên Lộc không viết tác phẩm nào. Năm 1950, ông viết cuốn Nhốt
gió và xuất bản cùng năm.
Năm 1952, Bình Nguyên Lộc làm thư ký tòa soạn cho vài tờ báo xuất bản tại
Sài Gòn. Năm 1953, ông chủ trương tờ báo Vui sống, tuần báo văn nghệ có khuynh
hướng y học với mong muốn áp dụng kiến thức y học phổ thông vào đời sống thực
tế.
Năn 1956, ông cùng các văn hữu cho ra đời tờ Bến Nghé, tuần báo có tinh
thần văn nghệ lành mạnh mang màu màu sắc địa phương với mục đích làm sống
17
dậy sinh khí của vùng đất Gia Định xưa. Ngoài ra, ông còn cùng các đồng nghiệp
thành lập Nhà xuất bản Bến Nghé, chuyên xuất bản các tác phẩm văn chương mang
hương vị Đồng Nai, Bến Nghé.
Năm 1957, 1958 ông cộng tác với các tạp chí Bách khoa, Văn hóa ngày nay
(của Nhất Linh). Năm 1959, ông làm chủ nhiệm tuần báo Vui sống. Trong thời gian
này, ông đoạt giải nhất văn chương toàn quốc 1959 – 1960 thể loại tiểu thuyết với
cuốn Đò dọc. Năm 1960 – 1963, ông phụ trách trang văn nghệ của báo Tiếng
chuông, năm 1964 – 1965 làm chủ biên nhật báo Tin sớm.Từ năm 1965 – 1975, ông
chuyên viết truyện dài kỳ cho các nhật báo. Giai đoạn 1970 – 1975, ông làm hội
viên Hội đồng văn hóa giáo dục Việt Nam.
Sau 1975, ông ngưng cầm bút vì bệnh nặng. Từ năm 1975 – 1985 ông không
tham gia các hoạt động xã hội và văn nghệ với lý do bị bệnh kiệt sức và huyết áp
cao. Sau khi sang Mỹ định cư từ tháng 10.1985, bệnh đỡ nhiều, ông bắt đầu viết
lách trở lại và đăng báo nhiều bài thuộc các thể loại truyện ngắn, hồi ký, tiểu
thuyết,…Một số tiểu thuyết của ông đang được viết và đăng báo dở dang thì ông
qua đời. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Cordova, Sacramento, California,
vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi. Ông được an táng ngày 14 tháng 3 năm 1987 tại
nghĩa trang Sunset Lawn.
1.2.2. Các sáng tác chính
Bình Nguyên Lộc là nhà văn lớn của Việt Nam, ông thuộc vào ba nhà văn đã
sáng tác nhiều nhất trong cả nước. Trong khoảng 50 năm sáng tác, Bình Nguyên
Lộc viết trên nhiều lĩnh vực như dân tộc học, cổ sử học, ngôn ngữ học, văn
chương,…Riêng về văn chương, ông viết nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu
thuyết, thơ,..
Cổ văn: Bình Nguyên Lộc chú giải các tác phẩm văn chương cổ điển Việt
Nam bao gồm Văn tế chiêu hồn (Nguyễn Du), Tiếc thay duyên Tấn phận Tần
(Nguyễn Du), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận).
Các công trình này lần lượt được công bố trên các tạp chí Văn học ở Sài Gòn.
18
Dân tộc học: Nổi bật là tác phẩm Nguồn sống Mã Lai của dân tộc Việt Nam
(1971). Đây là một công trình khá dài trong sự nghiệp nghiên cứu của ông. Tác
phẩm cũng gây nên một dư luận đáng chú ý đối với các nhà Việt Nam học.
Ngôn ngữ học: Tiêu biểu là tác phẩm Lột trần Việt ngữ (1972), là một cái
nhìn mới về ngữ nghĩa tiếng Việt. Bình Nguyên Lộc đứng trên quan điểm dân tộc
học để tìm hiểu nguồn gốc và nguyên nhân của tiếng Việt từ thời cổ đến thời hiện
đại.
Văn chương: Đây là phần đồ sộ nhất trong hành trình sáng tác của Bình
Nguyên Lộc. Ông từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên như Thơ Ba Mén, Việt
sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca dao,…
Tiểu thuyết: Ông có 53 tiểu thuyết (gồm cả xuất bản và chưa xuất bản). Một
số tác phẩm nổi tiếng: Đò dọc, Tỳ vết tâm linh, Khi Từ Thức về trần, Xô ngã bức
tường rêu,…
Truyện ngắn: Ông có khoảng 1000 truyện ngắn. Tuy nhiên chỉ có một số nhỏ
được xuất bản, số còn lại chưa xuất bản và bị thất lạc. Tác phẩm đầu tay tựa đề
Hương gió Đồng Nai viết trong gần mười năm (1935 – 1942) nhưng bản thảo bị thất
lạc trong lúc tản cư, khi Pháp trở lại chiếm Tân Uyên cuối 1945. Dấu vết Hương gió
Đồng Nai chỉ còn lại một truyện ngắn và một tùy bút (đăng báo khoảng 1943).
Nhưng sau đó cũng bị thất lạc. Tập truyện thứ nhì là tác phẩm Phù sa và nó cũng có
cùng số phận với Hương gió Đồng Nai, nhưng may mắn hơn là đoạn mở đầu của nó
đã được đăng trên báo Thanh niên 1943, với tên Di dân lập ấp. Về sau, ông viết lại
được khoảng 1/6 tác phẩm này và cho in trên tuần báo Nhân loại.
Các tập truyện nổi tiếng đã xuất bản như: Nhốt gió (1950), Tân liêu trai
(1959), Ký thác (1960), Tâm trạng hồng (1963), Mưa thu nhớ tằm (Phù sa, 1965),
Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Thầm lặng
(1967), Nụ cười nước mắt học trò (1967), Cuốn rún chưa lìa (1969),…
1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc
Tình yêu quê hương đất nước là một tình cảm mà bất cứ một người Việt Nam
chân chính nào cũng có trong trái tim mình, trong đó phải kể đến đầu tiên là giới
19
văn nghệ sĩ Việt Nam. Nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ có cách thể hiện tình cảm ấy
theo cách riêng. Trong khoảng thời gian từ 1965 -1975, khu vực Nam Bộ bị xáo
động dữ dội do giặc Mỹ xâm lược. Các cuộc càn quét của Mỹ đã làm biết bao số
phận phải điêu đứng. Nhiều nhà văn đã cầm bút phản ánh thực tại xã hội với niềm
căm phẫn tột độ. Tuy nhiên, yêu nước trong giai đoạn này không đơn thuần là cầm
bút chiến đấu. Những trang văn của Bình Nguyên Lộc không sục sôi niềm căm
phẫn nhưng người đọc vẫn thấy một thời máu lửa của dân tộc trong suốt hai mươi
năm chống Mỹ và cảm nhận được một trái tim luôn luôn hướng về đất nước, đau
nỗi đau của dân tộc nơi tác giả Bình Nguyên Lộc.
Đọc tác phẩm của ông, chúng ta thấy lòng yêu nước biểu hiện trên hai phương
diện: tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ và lòng yêu thương
người dân ở Nam Bộ, đặc biệt là những số phận nghèo khó
1.2.3.1. Tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ
Sống gắn bó với miền Nam và là người trong hàng ngũ kháng chiến cũ ở lại
miền Nam sau 1954, quê hương Đồng Nai - Bến Nghé luôn là nỗi day dứt thường
trực trong tâm thức Bình Nguyên Lộc. Đó cũng là lý do vì sao tập truyện ngắn - tùy
bút đầu tay của ông có tên là “Hương gió Đồng Nai”. Tập truyện là tình cảm mà
ông dành cho mảnh đất Đồng Nai thân yêu.
Việc thường chọn vùng đất Đồng Nai, Bến Nghé hay Gia Định xưa làm bối
cảnh trong sáng tác cho thấy sự gắn bó trước hết của nhà văn với đất và con người
quê hương. Đề tài về thổ ngơi, cuộc sống, mùi vị, nếp sinh hoạt của người dân vùng
đồng bằng sông Đồng Nai, sông Cửu Long...luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ
vơi cạn, chắp cánh cho những trang viết thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, tạo
nên đặc trưng trong phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Trong mối liên hệ
ràng buộc giữa con người với tự nhiên, tình yêu đất là thứ tình cảm thiêng liêng và
sâu nặng hơn cả (Rừng mắm - tập Ký thác; Thèm mùi đất, Phân nửa con người,
Bám níu - tập Cuống rún chưa lìa; Đất không chết - tập Nhốt gió). Tình cảm ấy
được nhà văn biểu hiện một cách đa dạng, phong phú, nhiều sắc thái, có lúc như
một ám ảnh, thậm chí trở thành nỗi u uất, khủng hoảng trong tâm hồn, tình cảm con
20
người khi xa cách (Căn bệnh bí mật của nàng, Con Tám Cù Lần, Chiêu hồn nước,
Chiếc khăn kỉ niệm, Về làng cũ, Hương hành kho- tập Cuống rún chưa lìa)
Truyện ngắn “Rừng mắm” kể lại câu chuyện về một gia đình nông dân miền
Nam nghèo đi khai hoang ở dải đất tận cùng của đất nước: U Minh – Cà Mau.
Chính tình yêu đất, yêu người đã giúp họ bám trụ và vượt qua vô vàn cực khổ, thiếu
thốn, hi sinh của thế hệ tiên phong đi mở đất. Giống như cuộc đời những cây mắm
mọc trên đất bùn. Đời mắm ngã rạp đến đời tràm nối ngôi. Cứ thế, đất bùn kia có
lúc sẽ thuần. Và, đến đời con cháu thì những xoài, mít, dừa, cau sẽ mọc lên. Như
vậy, “Đời mắm tuy vô ích nhưng không uổng” [38; 660]. Rõ ràng đây là một lối
sống, quan niệm sống nặng tình nghĩa với cộng đồng, đậm đà tính nhân văn, có cội
nguồn từ truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc ta.
Tình yêu đất, yêu quê hương xứ sở của người Việt còn được Bình Nguyên Lộc
biểu hiện cụ thể bằng cảm giác “thèm mùi đất” thật xúc động qua truyện ngắn “
Thèm mùi đất”. Ở truyện này, ông giáo Quyền còn kể lại chuyện bà vợ quê Bến Tre
theo ông về Sài Gòn, suốt ngày chỉ ngồi bó gối mà buồn. Bà chỉ vui vẻ trở lại như
hồi vợ chồng mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi đâu nữa khi không
biết nhờ đâu gợi ý bà mua chậu về, cho đất vào để trồng đủ các loại rau. Thậm chí,
chiều lòng bà, ông còn lùi nhà ra ngoại ô xa để có nhiều đất cho bà trồng cây lớn, có
cả “hai cây dừa mà bà nhà tôi nhứt quyết phải trồng, vì quê bà ấy là xứ dừa, trồng
dừa cho đỡ thèm hình bóng cây dừa” [ 38; 982]. Hình ảnh ngọn lửa trong “Lửa tết”
gợi cho Minh và má vợ nhớ đến biết bao mùi vị quê hương và tình cảm gia đình. Ở
Sài Gòn, nhà cửa chật hẹp, ghiền khói ghiền lửa, nấu than cũng tạm an ủi phần nào.
Không như thành phố chỉ có mùi nước hoa và mùi ống cống, mùi vị thôn quê không
sao kể hết: “Mùi đất xông lên, sau đám mưa đầu mùa nè, mùi bông bưởi, bông sao
nè, mùi củi cây rù rì nè, mùi lúa chín nè, mùi rơm khô nè, mùi phân chuồng nè, mùi
rau, đậu tươi nè” [38; 967-968] – má vợ Minh lần lượt kể trong nỗi nhớ nhà đến tận
cùng. Lên thành phố làm đứa ở, hình ảnh những con ốc gạo bán đầy vỉa hè gợi cho
bé Tám nỗi nhớ làng quê da diết, nhớ mùa nước nổi, nhớ ngọn lửa rơm ngoài đồng
mùa gió bấc, nhớ cây bần dựa rạch, nhớ đom đóm chớp tắt đậu nghẹt cành cây,
21
khiến bé phải xin thôi việc (Con Tám Cù Lần). Căn bệnh bí mật của nàng kể về một
phụ nữ Việt Nam lấy chồng Pháp rồi mắc bệnh tâm thần. Trong một lần cùng chồng
rảo bước trên vỉa hè, sự xuất hiện thình lình của một lão Tây già từng sống ở Việt
Nam suốt ba mươi năm đã giúp bà khám phá ra sự thật ẩn ức lâu nay của mình,
chính là nỗi sầu xứ. Được chồng đưa đi chơi, tận mắt trông thấy cái ao rau muống,
những rau ngò, rau om, rau răm hiếm hoi trên đất Pháp, nước mắt bà chảy ròng ròng
vì “cái mùi Việt Nam của nó “ngàn năm chưa dễ đã ai quên” [38; 918].
Tất cả những tác phẩm ấy chính là niềm thương nỗi nhớ, là tình yêu, sự gắn bó
sâu nặng đối với vùng đất đã sinh ra và nuôi lớn tác giả nói riêng và đối với quê
hương Việt Nam nói chung.
1.2.3.2. Lòng yêu thương đối với những người dân nghèo
Là nhà văn giàu lòng thương cảm trước số phận những con người bé nhỏ,
hình tượng nhân vật thường gặp trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc là phụ nữ và
trẻ em với những mảnh đời và những nỗi đau khổ khác nhau, bất kể họ sống ở nông
thôn hay thành thị. Đó là các nhân vật như con Nhộng mù loà (Má ơi, má!), cô Dừa
đáng thương ( Cây đào lộn hột), người đàn bà mất cha, chồng và đứa con thân yêu
(Người chuột cống), con bé ăn xin (Nuôi ghẻ), bệnh nhân tâm thần Bùi Thị Phượng
(Xác không chôn), cô Chi và mẹ (Lá rụng về…ngọn)… Hầu hết nhân vật phụ nữ
trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc đều là những người có phẩm chất tốt đẹp. Bé
Nhộng mù loà, hiếu thảo, làm nghề hái cau nuôi người mẹ bại xụi nằm một chỗ đã
ba năm. Nhưng rồi cái nghề nguy hiểm ấy đã cướp đi sinh mạng của cô bé thật đáng
thương do rơi từ trên cao xuống (Má ơi, má!). Nỗi đau không khóc được của người
đàn bà (Người chuột cống) mất một lúc cả chồng và con trai làm nghề bắt cá ở
đường cống thành phố làm xúc động người đọc, bởi “đã hết nước mắt khi năm xưa
bà khóc ông cha cũng chết vì nghiệp ấy” [ 37; 161]. Xác không chôn là câu chuyện
về một người phụ nữ tên Bùi Thị Phượng vì đau khổ mà hóa điên, khi chồng nàng
ngoại tình bỏ nhà ra đi với nhân tình. Qua thời gian điều trị, chị khỏi bệnh. Nhiều
lần bệnh viện gửi thư bảo đảm đến chồng chị, vẫn không thấy hồi âm. Vào phút
chót, khi kiểm lại của cải, Viện Bác Ái chỉ nhận nuôi nổi ba mươi miệng ăn không
nơi dung thân. Trong số chín người Viện trả lại bệnh viện, có Phượng. Hy vọng
22
cuối cùng cũng tiêu tan, chị “không còn thiết đến sự sống và những cơn đau đớn
nữa!” [37; 575]. Trên đường về, chị đã lao mình vào một chiếc xe du lịch. May
mắn, xe hãm kịp và chị chỉ té gãy chân . Nhưng sự tồn tại của chị cũng chỉ còn là
một cái xác không chôn mà thôi.
1.2.4. Nét đặc sắc về nghệ thuật
Thành công trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc không
chỉ thể hiện ở tính chân thật của đề tài, các chi tiết, sự việc, cốt truyện được miêu tả,
ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, mà còn ở lời văn súc tích, bối cảnh lịch sử – xã hội,
khung cảnh thiên nhiên Nam Bộ hay quê hương được ông làm nền cho câu chuyện.
Trong truyện Ba con cáo, nhà văn có những đoạn văn miêu tả cảnh trời mưa ở mảnh
đất phía Nam Tổ Quốc thật ấn tượng: “Trời cứ mưa, mưa như cầm chỉnh mà đổ,
mưa như một oanh tạc cơ định về căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót lại trên
tàu, mưa cho ráo hết nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa đêm chưa
phỉ lại mưa ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấy tủy khô” [38;
678]. Truyện ngắn “Rung cây dừa” viết về một Lỗ Bình Sơn tân thời, một thầy
giáo, vì sự phản bội của một người đàn bà đã rời bỏ mảnh đất con người trốn ra một
hòn đảo trong quần đảo Củ Tron. Nhưng rồi “tiếng vang của loài người, của xã hội
văn minh lại kêu réo như tiếng còi tàu thỉnh du. Còi tàu vẳng đưa lên hình bóng
nước non xa lạ, còn tiếng con người lại nghê nga chơn trời cũ, bóng bạn xưa,
không thúc dục như còi tàu, nhưng lại thỏ thẻ, nỉ non, dai dẳng như lời mời nhẫn
nại của một người nhiều hảo ý và thiết tha đón khách” [38; 779]. Những câu văn
đầy xúc cảm và giàu chất thơ như thế rất nhiều trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc.
Khác với các tác giả sinh ra ở miền Bắc, nhưng toàn bộ hành trang cuộc đời và
văn nghiệp đều gắn liền với phương Nam như Lê Văn Trương, Nguyễn Hiến Lê,
nhưng đồng thời cũng khác với các nhà văn sinh ra ở Nam Bộ nhưng hoàn toàn viết
theo lối Bắc như Đông Hồ và cũng không giữ nguyên đậm đặc chất liệu Nam Bộ
như Hồ Biểu Chánh, văn chương Bình Nguyên Lộc thể hiện sự giao lưu văn hoá,
đứng ở miền giao thoa văn hoá Bắc - Nam từ trong tâm thức, cách nhìn và nhất là
giọng điệu văn chương.
Việc sử dụng từ địa phương trong sáng tác cho thấy Bình Nguyên Lộc am hiểu
lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân Nam Bộ. Đọc tác phẩm của ông, người
23
đọc như được sống trong không gian Nam Bộ với những cảnh vật, con người sinh
hoạt thật gần gũi, thân quen. Chính vì thế, tác phẩm của ông dễ dàng tìm được sự
đồng cảm, đồng điệu từ độc giả nơi đây. Khi sử dụng một từ ngữ có tính chất đặc
thù của phương ngữ miền Nam, ông thường tìm cách giải thích, truy nguyên nguồn
gốc của nó ở ngoài Bắc thế nào, có khi còn phê bình là nơi nào dùng chính xác, hợp
lý hơn, không chỉ trong văn phong khoa học, trong giọng điệu trần thuật hay miêu
tả, mà còn thông qua ngôn ngữ nhân vật: "Con chàng hiu má à! Người Bắc thì kêu
nó là con chẫu chuộc nghe ít ghê hơn tên của ta. Tiếng chàng hiu gợi hình dáng
một con người mà là người ma, ghê quá." [39; 56].
Bình Nguyên Lộc được ca ngợi là nhà ảo thuật về ngôn từ, khi ông luôn có lối
so sánh với những hình dung từ chính xác, đắc địa, hiện đại và tài hoa: "Là con trai
tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió to" [38;
705]; hoặc "Vịnh Thái Lan, phần thuộc hải phận Việt Nam, chi chít những đảo là
đảo, như có đứa trẻ tinh nghịch nào hốt đá cuội mà vứt rải trên một cái ao con"
[38; 770]. Sức nặng trang văn của ông không chỉ ở vốn tri thức về văn hóa, mà còn
ở sự kết hợp hài hoà giữa giọng kể và giọng tả, vừa thể hiện sự bộc trực của miệt
quê nơi ông sáng tác, vừa phóng túng, mượt mà của một ngôn ngữ chuẩn mực phổ
thông.
Trong hàng ngũ những nhà văn cách mạng từng sống và viết trong vùng đô thị
miền Nam trước 1975, Bình Nguyên Lộc có một sức viết và một phong cách viết
nổi bật. Văn xuôi của ông nói chung, truyện ngắn nói riêng, đã làm say mê nhiều
thế hệ độc giả miền Nam vì hiện thực bình dị, đời thường, vì tình cảm yêu quê
hương đất nước, con người thấm đẫm trong từng trang viết, vì sự hấp dẫn ở nghệ
thuật viết truyện. Có thể Bình Nguyên Lộc không có tác phẩm bất hủ để đời hay bao
quát một phạm vi hiện thực xã hội rộng lớn, nhưng với những gì nhà văn đã cống
hiến, nhất là ở thể loại truyện ngắn, văn học sử nước nhà đã ghi nhận xứng đáng
công lao của ông. Ông xứng đáng là cây bút văn xuôi yêu nước nổi tiếng vùng đô
thị miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
24
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Trên đây là những cơ sở cho việc nghiên cứu từ ngữ địa phương trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc.
Nam Bộ là một vùng đất mới, được hình thành trong quá trình nam tiến của
những lưu dân từ Bắc và Trung Bộ, Việt Nam. Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh
hoạt mới đòi hỏi con người phải có cách định danh sự vật hiện tượng trong cuộc
sống hằng ngày bằng những từ ngữ mới, đó là phương ngữ Nam Bộ. Vì thế, có thể
nói chính vùng đất mới đã tạo ra phương ngữ Nam Bộ và đến lượt mình, phương
ngữ Nam Bộ đã khẳng định sự tồn tại rất riêng của vùng đất này và nét đẹp rất
duyên trong cách nói năng của con người nơi đây. Cũng chính phương ngữ Nam Bộ
đã làm phong phú cho vốn ngôn ngữ toàn dân, đặc biệt nó mang đến một màu sắc
mới cho kho tàng văn học của nước nhà.
Văn chương Nam Bộ là một bộ phận của văn học Việt Nam nhưng nó mang
những đặc điểm khác biệt nhất định do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử đặc
thù. Sự khác biệt rõ nhất là việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác. Có thể nói, Bình
Nguyên Lộc là một đại biểu xuất sắc của văn chương Nam Bộ đầu thế kỷ XX. Các
sáng tác của ông là một minh chứng giúp ta hiểu rõ về phương ngữ Nam Bộ và tiến
trình mà phương ngữ Nam Bộ tham gia vào tác phẩm văn chương.
25
Chương 2. KHẢO SÁT CÁC LỚP TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG TÁC PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC
2.1. Cơ sở phân chia
Trong luận này, chúng tôi đã khảo sát trên 104 truyện ngắn và 5 tiểu thuyết,
thu được 445 từ ngữ. Tập hợp những từ ngữ địa phương trong tác phẩm Bình
Nguyên Lộc, chúng tôi chia chúng thành ba lớp từ lớn: lớp từ Nam Bộ chính gốc,
lớp từ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ và lớp từ ngữ Nam Bộ
có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân. Trong các lớp từ lớn này, chúng tôi tiếp tục chia
chúng thành những lớp từ nhỏ hơn. Cụ thể có các lớp từ sau:
2.2. Các lớp từ cụ thể
2.2.1. Lớp từ ngữ Nam Bộ chính gốc
2.2.1.1. Lớp từ ngữ riêng của Nam Bộ không thấy xuất hiện ở các phương ngữ
khác
Có thể nói, đây là lớp từ được Bình Nguyên Lộc sử dụng nhiều nhất trong tác
phẩm, gồm 314 từ ( chiếm 70,6 %). Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì tác phẩm của ông
phản ánh cuộc sống của người dân Nam Bộ; lấy Nam Bộ làm không gian nghệ thuật
cho hầu hết các tác phẩm, cho nên những từ ngữ Nam Bộ sẽ phản ánh rõ nét đời
sống, tập quán sinh hoạt và tính cách rất riêng của người dân Nam Bộ. Chính lối
diễn đạt riêng đó của người Nam Bộ đã làm phong phú thêm ngôn ngữ của dân tộc.
Bởi nó đã minh họa một cách sắc nét những điều kiện địa lý tự nhiên, những quan
hệ kinh tế - xã hội đã tạo nên ngôn ngôn ngữ ấy, thể hiện bản chất và tính cách con
người, phù hợp với môi trường của những cộng đồng dân cư sinh sống. Chúng tôi
đã phân loại chúng ra thành nhiều lớp từ nhỏ như sau:
- Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch
Nam Bộ là vùng đất có hệ thống sông ngòi chằng chịt, nên các phương tiện đi
lại trên sông, rạch cũng vì thế mà trở nên phong phú, đa dạng, và chúng trở thành
những phương tiện đặc trưng của vùng sông nước Nam Bộ. Trong tác phẩm của
26
Bình Nguyên Lộc, chúng tôi thấy xuất hiện 5 từ chỉ phương tiện ( chiếm 1.9%)
như: Xuồng, xuồng ba lá, xuồng cui, ghe, bè
Bảng 2.1. Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch
STT Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
3
4
5
Xuồng
Xuồng ba lá
Xuồng cui
Ghe
Bè
Thuyền nhỏ, phương tiện
vận chuyển nhỏ được dùng
đi lại trên sông, rạch
Xuồng được đóng bằng ba
tấm ván ghép lại, một
miếng ván đáy, hai miếng
ván be
Xuồng đóng từ năm hoặc
bảy tấm ván, có khả năng
chở được nhiều
Thuyền, phương tiện di
chuyển trên sông nước, lớn
hơn xuồng
Phương tiện được kết bằng
tre, nứa hay gỗ dùng để vận
chuyển trên sông
“Bây giờ, xuồng rẽ vào một
con rạch con và đi thêm cỡ
chừng tàn điếu thuốc thì đậu
lại” [37;323]
“Những chiếc xuồng ba lá
tiến mau như ghe chạy buồm
và không mấy chốc, họ đã tới
nơi”[37;112]
“Nhưng không hiểu sao một
hôm, tía má nó bán chiếc chòi
lá, rồi ông nội nó, tía nó, má
nó và nó, một đứa bé mười
tuổi, kéo nhau xuống một chiếc
xuồng cui,…” [38; 644]
“– Mình cứ muốn đầy ghe
trong một con nước sao
được!” [37;110]
“ Đó là những cây be chở từ
rừng về Sài Gòn, bằng đường
thủy, dưới những chiếc bè tre”
[37;107]
Nếu đem so với các tác phẩm của Sơn Nam thì số lượng các từ ngữ chỉ
phương tiện di chuyển trên sông nước trong tác phẩm Sơn Nam có phần đa dạng
hơn. Bên cạnh ghe, xuồng, xuồng ba lá, tác phẩm của ông còn những từ ngữ chỉ
phương tiện khác như: tàu, tàu lặn, đò, thuyền, ghe bầu, ghe ngo,…
27
- Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước
Nếu như trong tác phẩm của Sơn Nam có 12 đơn vị gọi tên các vùng có liên
quan đến nước : sông, rạch, kinh, mương, đìa, lung, bàu, đầm, hồ, láng, doi, gành
thì trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm được 6 đơn vị ( chiếm
1.9%) như: bưng, kinh, mương, rạch, lung, lạch
Bảng 2.2. Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
3
4
5
Bưng
Kinh
Mương
Rạch
Lung
Vùng đất trong đồng sâu
ngập nước, có nhiều cây
hoang dại chưa được khai
khẩn
Đường nước nhân tạo, có thể
thông hoặc không thông
sang rạch hoặc tận biển.
Đường nước nhân tạo, nhỏ,
ngắn, cùng.
Đường nước thiên nhiên,
hẹp hơn sông, chảy trực tiếp
từ nơi phát nguyên ra sông,
biển hoặc dẫn nước từ sông
này qua sông khác.
Đường nước thiên nhiên trên
đồng, trong rừng thông hoặc
không thông sang nơi khác,
có thể lưu thông từng đoạn
ngắn
“- Đâu có. Xứ chị hổng có
rừng.Chỉ có bưng thôi”[38;
929]
“Ai đã từng ăn món xu xoa
đường mật hạ trên kinh Tàu
Hủ vào mùa nực chưa?”
[38;824]
“ Ông đã ướt như chuột té
mương và bắt đầu lập cập dưới
gió từng cơn thổi đến” [39; 87]
“ - Đi vòng thì mấy tháng nữa
mới qua tới bên kia rạch được.
Rạch này nó sâu như vầy tới
tận trên nguồn” [37; 370]
“ – Uống nước đọng trên lung
trên rừng chớ nước gì”.[38;
652]
28
6 Lạch Dòng nước chảy tự nhiên, có
thể nhỏ hoặc lớn
Bấy giờ xuồng rẽ vào một con
lạch con, và đi thêm cỡ chừng
tàn điếu thuốc thì đậu lại [ 37;
323]
- Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật,
hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ:
Khảo sát tác phẩm Bình Nguyên Lộc, chúng tôi nhận thấy, đây là lớp từ mà
tác giả sử dụng với số lượng nhiều nhất trong nhóm từ ngữ riêng của Nam Bộ, gồm
170 từ ( chiếm 54,1%). Dưới đây là những trường hợp tiêu biểu:
Bảng 2.3. Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự
vật, hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ:
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
3
4
5
Bá vơ
Bài hải
Bén ngót
Chài bài
Chành bành
Không rõ căn cứ, nguồn
gốc
Lắm mồm, nhiều lời, to
tiếng luôn với người khác
Rất sắc
Bừa bãi, tung tóe, không
thứ tự, gọn gàng
Mở rộng ra, banh rộng ra
“Rồi đợi mình mãi không
được nó rơi vào bất kì thằng
bá vơ nào” [40;1072]
“Chơn ông chạy, miệng ông
la bài hải” [37; 268]
“Con dao giống hệt cái mác
mà nhỏ và rất ngắn lưỡi trông
chừng bén ngót như lưỡi đoản
kiếm” [37; 584]
“Nàng vừa nói vừa chỉ năm
ghim bạc mà Gô đã vứt chài
bài dưới gạch” [37; 535]
“Con bé chành bành cái
miệng ra cười rồi lắc đầu”
[37; 547]
29
6
7
8
9
10
11
12
13
Chào rào
Chèm bẹp
Chèo queo
Chôm bôm
Chộn rộn
Chồm hổm
Chồng ngồng
Chù vù
Rộn ràng, có cái vui rộn
lên do tác động của nhiều
âm thanh đến cùng một lúc
Ngồi trong tư thế chân và
mông sát nền
Đơn độc, không có ai bên
cạnh
Bù xù, không gọn.
Làm bận bịu, vướng víu,
gây trở ngại cho ai đó
Ngồi xổm, trên hai chân co
gấp lại, mông không chạm
đất
Cao lớn, có vóc dáng
người lớn
Xưng tấy, phù to
“Nơi buồng trong, nghe chào
rào, chộn rộn, nghe lụi đụi dữ
lắm, rồi có tiếng cười, lại có
tiếng khóc, cười và khóc đều
do con gái cả” [39; 7]
“Anh ngồi chèm bẹp dưới đất,
bên cạnh có cô con gái bà cả
Hiệp, thỉnh thoảng liếc sang
người nằm, ngập ngừng rồi
lại thôi” [37; 376]
“Hắn nằm chèo queo bên
trong chiếc mui lật ngửa, nệm
xe rơi xuống đùi hắn” [39; 89]
“Trời ơi, đầu cổ mình chôm
bôm như một con mẹ điên, áo
quần nhàu nát hết!” [40; 1169]
“Nơi buồng trong, nghe chào
rào, chộn rộn, nghe lụi đụi dữ
lắm, rồi có tiếng cười, lại có
tiếng khóc, cười và khóc đều
do con gái cả” [39; 7]
“Đợi lâu quá mỏi chân, chàng
ngồi chồm hổm xuống và nhìn
lại đứa núp phía trong” [37;
315]
“Chồng ngồng cái đầu mà
sao như con nít é!” [39; 9]
- “Ý ẹ, như vậy nếu cái mũi
30
14
15
16
17
18
19
Dáo dác
Dư dả
Đầy nhóc
Đỏ choét
Đỏ rần
Hẹp té
Nháo nhác, hổn loạn lên
với đầy vẻ sợ hãi, hốt hoảng
Thừa, phần không cần
thiết
Đầy vun, đầy tràn
Đỏ chói, đỏ đến mức nhìn
khó chịu cho mắt
Đỏ đều khắp mọi bộ phận
Rất hẹp, hẹp đến mức khó
thực hiện vụ việc
em hơi lớn hơn tí, thì anh sẽ
vẽ cho nó chù vù ra à?” [ 39;
155]
“Lần này ông Nam Thành
giựt nảy mình, dáo dác nghe
ngóng, rồi tần ngần rất lâu
ông nói” [39; 40]
“Nhưng ông nói thấp đèn
sáng quá sợ người ta để ý ngỡ
gia đình giàu có dư dả lắm,
rồi trộm cướp nó mò tới” [39;
35]
“Ngày mai lại, bà tư về với
hai chai nước sơn khê đầy
nhóc vi trùng mà bà tin chắc
rằng rất thần hiệu để tiêu trừ
bá bệnh” [37; 539]
“Móng tay của chị đỏ choét
và nhọn hoắt, nước da mặt
của chị bị phấn ăn, chỗ thì
mét chằng, chỗ thì thâm đen
sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm
như mắt cô đào hát bội” [38;
681]
“Những lúc không uống, như
giờ này, mặt ông Hương giáo
Hà cũng đỏ rần” [37; 263]
“Khi họ lên tới lầu, bà ấy đẩy
cửa một căn buồng hẹp té thì
31
20
22
23
24
Lu bù
Lụi đụi
Lùn xủn
Mét chằn
Nhiều vô kể, có một số
lượng quá lớn so với mức
bình thường
Bị vướng bận vào một
công việc nào đó
Lùn chủn, thấp chủn
Mét xanh như con bà chằn,
tái xanh vì bệnh
Hà ngạc nhiên hết sức…” [38;
942]
“- Gì chứ chè thì sẽ có lu bù”
[38; 660]
“Một tuần lễ nay, chàng lụi
đụi mãi với một truyện ngắn
mà không viết xong” [37; 310]
“Nhà lại ở ngoài bìa hằng
trăm nhà lá lúp súp, lụp sụp
khác, cái nào cũng lùn xủn
như đám dân bị bố ngồi bên
đường” [37; 280]
“Móng tay của chị đỏ choét
và nhọn hoắt, nước da mặt
của chị bị phấn ăn, chỗ thì
mét chằn, chỗ thì thâm đen sì,
mắt chị mệt đừ và sâu hóm
như mắt cô đào hát bội” [38;
681]
Nhìn vào các từ được liệt kê bên trên, chúng ta thấy một điều thú vị là trong
tác phẩm, Bình Nguyên Lộc rất hay dùng những từ song tiết, đặc biệt là những từ
láy. Ngoài những từ trong bảng thống kê, tác phẩm của ông còn rất nhiều từ láy
như: lụp sụp, nhơn nhớt, rờn rợn, trống lổng, trống trơn, dơ dáy, lem luốc, ngỏn
ngoẻn, lởn vởn, lia lịa, ngoe nguẩy, lành lạnh, ươn ướt, chần chừ, hề hấn, lót tót,
xiên xẹo, lổn rổn, trễ tràng, lằm rằm,…Có lẽ bởi tính biểu cảm cao mà những từ
ngữ này mang lại, nên tác giả thường sử dụng chúng để tạo ra hiệu quả trong lời
giới thiệu về nhân vật, hoặc trong việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Điều này
32
cũng xuất phát từ tính cách của người Nam Bộ. Người Nam Bộ vốn bộc trực, ngay
thẳng, nói điều gì thì phải nói cho hết ý, hết mức, hết cỡ. Họ không thích diễn đạt
theo kiểu trung tính, ôn hòa, nhàn nhạt. Những từ ngữ này đã có sự ảnh hưởng,
thâm nhập vào vốn từ ngữ toàn dân, góp phần làm phong phú cho lớp từ ngữ toàn
dân.Với các từ ngữ này, Bình Nguyên Lộc đã thể hiện khả năng diễn đạt hết sức
tinh tế của mình.
- Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam
Bảng 2.4. Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
3
4
5
Ãnh ương
Ba khía
Bã trầu
Bình bát
Bòng bong
Ễnh ương, loài ếch nhái, có
da màu nâu, nhớt, miệng bé,
bụng to, tiếng kêu ồn.
Một loại còng có hai càng to
màu đỏ, sống ở vùng nước
mặn, được người dân ngâm
trong nước muối để làm
thức ăn như một loại mắm
Loại cá nhỏ ở ruộng,
mương, nơi có rong rêu, có
màu nâu sẫm như màu bã
trầu, hình dáng như cá lia
thia
Cây mọc hoang ở bờ ao,
kênh, rạch…có trái giống
quả mãng cầu ta.
Loại dây hoang, mọc thành
“Cô Hồng lấy hai tiếng kêu
của lũ ãnh ương ra mà làm lời
để hát theo điệu Hòn vọng
phu” [ 39; 85]
“Nó chỉ biết họ ra biển để bắt
cua và ba khía, một năm mấy
kỳ” [38; 645]
“Nơi đó tha hồ cho thủy thảo,
cho bèo mọc, cho cá bã trầu
sanh sản” [37; 279]
“Nó đánh bạo chen qua những
cây bình bát, cây rán mọc xen
với tràm, để đi tới đích" [ 38;
647]
“Sau đó, rừng tràm dày mịt,
33
6
7
8
9
10
11
Bồn bồn
Cá lóc
Choại
Cò ma
Cò quắm
Cóc kèn
bụi, lá có lông mịn, hoa
xanh tím, trổ thành chùm
Một loại cây thân cỏ, dẹp,
phần lá non được dùng làm
dưa chua ăn kèm
Cá quả, cá có thân tròn, có
vảy lớn và dày, phía lưng
màu đen hoặc màu phèn,
bụng màu ngà, đầu và mõm
tròn, phóng giỏi và lóc đi
trên cạn rất nhanh.
Loại cây dây leo dùng làm
dây buộc rất chắc, đọt non
có thể luộc ăn được
Loại cò có bộ lông màu đen
mốc
Loại cò có mỏ dài và hơi
quặm
Loại dây leo mọc phổ biến ở
chằng chịt những dây bòng
bong, dây choại bò từ thân cây
này sang thân cây khác” [38;
647]
“ - Nhổ bồn bồn ở dưới ấy,
nhưng lên đây cho khô ráo để
ăn cơm trưa é mà!” [38; 651]
“Nhưng cá nhiều quá, những
con cá lóc to bằng bắp chuối
cứ lội đụng chơn họ hoài” [37;
157]
“Sau đó, rừng tràm dày mịt,
chằng chịt những dây bòng
bong, dây choại bò từ thân cây
này sang thân cây khác” [38;
647]
“Đủ thứ là cò: cò ma, cò lông
bông, cò quắm, cò hương thân
mật nhìn bốn người gặt lúa
nhà” [ 38; 654]
“Đủ thứ là cò: cò ma, cò lông
bông, cò quắm, cò hương thân
mật nhìn bốn người gặt lúa
nhà” [38; 654]
“Những nơi ánh nắng lọt vào
34
12
13
14
Dừa nước
Ốc gạo
Ô rô
bờ kinh, sông, rạch vùng
đồng bằng, lá có nhiều
nhánh, hoa trắng, trái dẹp
Loại cây có những tàu lá,
cao, to, mọc thành cụm, ở
hai bên bờ sông, rạch vùng
đồng bằng Sông Cửu Long
Loại gốc nhìn bề ngoài hơi
giống ốc đắng, nhưng lớn
hơn, vỏ có màu sáng hơn
Loại cây mọc hoang thành
từng đám, chung với cây
mái giầm, thường mọc phía
trên bờ kinh, rạch, thân đỏ
sẫm, lá xanh tạo thành nhiều
góc nhọn
được thì hai bên bờ, ô rô và
cóc kèn mọc đầy” [38; 657]
“Hết dừa nước, rồi đến dừa
nước, dừa mọc lên đều đều
như ai cặm nó ở đó để làm
hàng rào” [37; 322]
“- Dạ, cháu nhớ ốc gạo” [38;
924]
“Những nơi ánh nắng lọt vào
được thì hai bên bờ, ô rô và
cóc kèn mọc đầy” [38; 657]
Nhóm từ chỉ các loài động, thực vật xuất hiện trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc rất phong phú, gồm 94 từ, (chiếm 29.9%). Trong đó, những từ ngữ chỉ
các loài động thực vật có đời sống gắn với sông nước, đầm lầy chiếm đa số. Một
mặt nó cho thấy sự trù phú của vùng đất Nam Bộ, mặt khác, trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc, nó gợi lên quang cảnh thiên nhiên của vùng đồng bằng Nam Bộ,
nơi những con người Nam Bộ sinh sống và làm việc.
Bên cạnh những từ ngữ chỉ thực vật ở Nam Bộ, thường thấy xuất hiện trong
tác phẩm của Sơn Nam, chúng ta thấy xuất hiện những cây dầu, cây sao, cây cao su,
cây xanh, cỏ bù xít,…mang nét đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ. Chính những từ
ngữ này, khi xuất hiện trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc, người đọc sẽ nhận ra
35
khung cảnh thiên nhiên ở một vùng quê miền Đông của Nam Bộ, nơi chôn nhau, cắt
rốn, nơi gắn bó yêu thương của chính tác giả.
2.2.1.2. Lớp từ vay mượn của nước ngoài theo cách riêng của người Nam Bộ
Cũng như một số quốc gia, Việt Nam là một trong những quốc gia trở thành
nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa. Sự tiếp xúc này đã để lại dấu vết trong vốn từ
vựng của ngôn ngữ Việt. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng về văn hóa này lại không giống
nhau ở các vùng phương ngữ khác nhau trong tiếng Việt. Hoàng Thị Châu trong
giáo trình “Phương ngữ học tiếng Việt” đã đưa ra nhận định: “ Trong ba phương
ngữ chính, phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ Hán Việt hay từ gốc Hán hơn cả (…).
Trong phương ngữ Nam có nhiều từ địa phương mới vay mượn của tiếng Khmer”
[5 ;108-109]. Như vậy, phân biệt sự khác nhau này cũng là cách tiếp cận về màu sắc
địa phương.
Trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm thấy có 27 từ ngữ (
chiếm 6.1%) được vay mượn từ các tiếng Khmer, Hán, Pháp.
A. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer
Bảng 2.5. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
Cà nhắc
Cà rá
Luôn đi bước thấp, bước cao
Nhẫn đeo ở các ngón tay
“Long cà nhắc lôi từ nhà ra
sân chiếc ghế bố dài kiểu tàu
thủy, rồi mở ra để nằm mà
ngắm đầu hôm” [39; 146]
“Qườn mặc pi gia ma màu
vải ú màu xanh lá cây, đầu
chải brilliantine Chợ Lớn
sực nức mùi chanh, cổ đeo
dây chuyền vàng khè, tay
nặng trịu nào là lắc vàng, cà
rá vàng và đồng hồ cũng
36
3
4
5
6
7
Cà ràng
Cà ròn
Cà rỡn
Ên
Nóp
Bếp lò bằng đất nung, dạng
dài, có phần phụ để đặt củi
hoặc cào than ra
Một loại bao đệm đan bằng
cọng bàng, có kích cỡ lớn hơn
túi đệm
Đùa giỡn, có những lời nói
đùa, pha trò vui vẻ
Một mình, không có ai khác
phụ, tham dự
Bao đệm được đan bằng cọng
bàng, có kích cỡ vừa với khổ
người dùng thay cho chiếu và
màn
bằng vàng” [39; 66]
“Nồi gạo vo rồi, được chị
Nhánh bắc lên chiếc cà ràng
mà bây giờ lửa đã cháy hỏa
hào hỏa đế rồi” [37; 106]
“Nàng vừa cúi xuống định
kéo hai cái cà ròn no nóc
quà nhà quê thì Hảo cản”
[39; 269]
“- Chớ nãy giờ con ngỡ
ba,má nói cà rỡn hay sao?
Sách có chữ : Tọa thực sơn
băng..” [39; 24]
“Ngày bốn bận đi về, còn
chúa nhựt thì thầy dạo phố
có mình ên” [38; 579]
“Đêm khuya nhờ nóp che
thân cho đỡ bị muỗi đốt và
gió cắt da” [38; 656]
Là một tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Khmer đã
sinh sống lâu đời ở Đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer có tiếng nói và chữ
viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các
sóc, ấp,…Và chính trong đời sống cộng cư ấy, sự ảnh hưởng qua lại giữa tiếng
Khmer và tiếng Việt diễn ra như một qui luật tất yếu của ngôn ngữ. Sự ảnh hưởng
của tiếng Khmer trong tiếng Việt được diễn ra theo nhiều cách: giữ nguyên gốc
hoặc được Việt hóa theo phiên âm riêng của người Việt. Trong khảo sát này,
37
chúng ta thấy số lượng từ ngữ vay mượn từ tiếng Khmer không nhiều nhưng chúng
được lặp lại nhiều lần trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Điều này chứng
tỏ, khi đi vào tiếng Việt lâu dần, tiếng Khmer được người Việt xem chúng như là
lớp từ riêng của Nam Bộ và được sử dụng phổ biến trong người Việt ở Nam Bộ.
Bởi vì, mặc dù chúng có nguồn gốc từ Khmer, nhưng được dùng quá lâu đời nên đã
hoàn toàn Việt hóa, chúng ta không hề nghĩ đến những từ ngữ ấy có nguồn gốc từ
đâu.
Mặt khác, qua ngôn ngữ, cụ thể là qua ngôn ngữ trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc, chúng ta có thể nhận thấy sự giao lưu văn hóa, ngôn ngữ diễn ra một
cách tự nhiên giữa hai dân tộc sống gần nhau.
B. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán
Bảng 2.6. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
3
4
Á khẩu
Cắc chú
Lộ
Ngộ
Ở tình trạng bệnh làm ảnh
hưởng tới dây thần kinh
miệng nên không thể phát
ngôn, nói chuyện bình
thường
Tiếng gọi người Hoa kiều,
cách gọi có vẻ không được
trân trọng
Đường, phố, đường lớn xe có
thể chạy được
Tôi, tao, từ chỉ ngôi thứ nhất
số ít, phát âm theo cách phátt
“ Nhưng nó vẫn á khẩu và bí
đái suốt hai hôm”[37; 82]
“- Bác ráng chờ, người chết
là dân Việt Nam, mướn người
Tàu, họ khóc tiếng cắc chú,
nghe sao được” [37; 192]
“- Đi chợ ngoài đường lộ,
chứ có phải đi chợ Bưng
đâu?” [ 38; 930]
“Ngộ chạy không được mà
ngộ tức lắm” [38; 798]
38
5
6
7
8
Nhựt trình
Qua
Số dách
Tía
âm của người Hoa nói chung
Báo ra hằng ngày
Từ người lớn dùng để tự
xưng một cách thân mật với
người nhỏ, hoặc cách tự xưng
có đôi chút khách quan
nhưng thân tình
Hạng nhất, không còn gì hơn
Cha, cách xưng gọi của người
đàn ông có con, trong mối
quan hệ cha – con
“Chị ta đọc nhựt trình vanh
vách và chị ta có lần khinh
anh làm nghề đi xin” [37;
335]
“- Thằng Mùi thì qua cho
một loi là nhào hớt” [38; 647]
“Cá sát thịt rất ngon, nấu
cháo ăn thì số dách” [37;
107]
“- Tía nó sao câm cái miệng,
không bắt vậy?” [38; 655]
Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là nơi chịu ảnh hưởng ngôn ngữ của người
Hoa nhiều hơn hết so với Trung Bộ và Nam Bộ. Tuy nhiên, trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm được số lượng từ có vay mượn từ tiếng Hán, dù
không nhiều. So với những từ ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam, chúng tôi nhận
thấy một điều: Những từ xưng gọi trong tác phẩm Sơn Nam thường là những từ vay
mượn từ tiếng Hán như: tía, hia, chế,…còn trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc,
chúng tôi chỉ phát hiện được một trường hợp là tía. Nhưng từ này cũng chỉ diễn ra
khi nhân vật là những người sinh sống ở cùng nông thôn mà thôi, còn nhân vật ở
thành thị thì xưng và gọi là ba.
C. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp
39
Trong gần 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, người dân Nam Bộ đã sử dụng
tiếng Pháp theo cách riêng của mình, đó là nói theo phiên âm tiếng Việt và viết
bằng cách phân tiết các từ vay mượn ấy. Chính vì thế mà trong phương ngữ Nam
Bộ có nhiều từ ngữ được vay mượn theo cách này. Nhưng sự vay mượn của người
miền Nam và người miền Bắc không giống nhau. Sau đây là một vài trường hợp
được lặp lại với tần số cao trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc:
40
Bảng 2.7. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
3
4
5
Bê tông
Đèn măng
sông
Le
Mô đen
Rua
Hỗn hợp xi măng, sắt đá,
cát,..
Đèn đốt bằng dầu có bơm
hơi, ánh sáng phát ra từ
chụp mang sông rất sáng
thường dùng trong những
đêm đám tiệc.
Làm đỏm, làm đẹp, làm
theo một cách phô trương
hình thức bên ngoài, không
được tự nhiên
Hiện đại, hợp thời trang
Bắt tay để tỏ tình thân ái khi
mới gặp hoặc khi chia tay
“Nhà bếp được phá nóc, làm
trần bằng bê tông, trần này là
nền của căn gác ấy” [40;
1008]
“Ông Nam Thành có sắm một
cái đèn mang sông, mua xăng,
mua rượu đủ cả” [39; 35]
“Mặc dầu ở dãy nhà bình dân
phía sau, Bình vẫn quen với
tất cả các gia đình giàu có
phía trước nhờ địa vị sinh viên
của chàng, một địa vị khá le
trong xã hội ta” [37; 532]
“Chàng không đi thăm Liễu
nữa, bụng bảo dạ để Liễu tự
do lựa chọn, vì biết đâu đêm
ra ngoài xã hội mà người
Pháp nói là vào xã hội, nuốt
mất đi hai tiếng mô đen, biết
đâu đêm đầu tiên ấy nàng đã
gặp ngay người lý tưởng” [40;
1067]
“- Ê, rua nghen bồ!” [37; 564]
41
6
7
8
9
10
Ve chai
Xà bông
Xà lách son
Xe cam
nhông
Xi nê
Đồ thủy tinh nói chung bị
vứt bỏ làm đồ phế liệu
Xà phòng, chất dùng để
giặt, rửa được chế tạo bằng
cách cho một chất kiềm kết
hợp với một chất béo
Cải soong, một loại rau lá
nhỏ, láng, màu xanh đậm,
có vị đắng khi ăn sống
Loại xe tải dùng trong quân
đội, có thùng xe phía sau
buồng lái, chở lính ngồi
thành hai hàng dọc theo
chân xe, giữa thùng xe để
đồ
Chớp bóng, điện ảnh, có
tính chất bài bản như trong
phim, điện ảnh
“Hai cô đã tổ chức đánh lộn
với con trai tại vườn Tao Đàn,
hồi còn đi học đã dám vác ve
chai chọi lính Lê Dương thì có
gì mà hai cô không dám” [39;
27]
“- Làm lụng thì phải mặc đồ
đen cho nó đỡ tốn xà bông”
[38; 25]
“Cô Hương xúc cá bằng vá
dẫy rồi vội vàng đem lại đặt
lên trên nệm xà lách son trong
dĩa” [39; 17]
“Ông Nam Thành đi mướn xe
cam nhông” [39; 28]
“- Có xi nê không chị?” [40;
927]
42
2.2.1.3. Lớp đơn vị gồm nhiều từ được người dân Nam Bộ nói thành thói quen như
những tổ hợp từ, quán ngữ, thành ngữ ( gọi chung là quán ngữ)
Bảng 2.8. Quán ngữ
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1
2
3
4
5
6
Ăn đầm nằm dề
Ăn thua đủ
Giãy tê tê
Hèn chi
Hú hồn hú vía
Nên chi
Đeo bám mãi một nơi nào đó,
từ có hàm ý chê bai
Không chịu thua kém,
nhường nhịn ai
Giãy đành đạch, cựa quậy
liên tục do bị đau
Hèn nào, hèn gì, thảo nào, từ
biểu thị lẽ tất yếu trong quan
hệ logich
Hú hồn, nhưng ý diễn tả
mạnh hơn
Từ dùng để chuyển ý mang ý
nghĩa chỉ kết quả
“Bởi vì không khí ấy
còn nguyên ở đây với
những người khách ăn
dầm nằm dề hổm rày”
[39; 145]
“Ai làm cho mụt ghẻ
con bé lành là mẹ nó
ăn thua đủ thực sự
đó” [27; 556]
“Quân tham lam, bây
ăn thịt gà mắc xương
nghẹt họng bây, bây
ăn rồi bây ngã ra giãy
tê tê, chết toi, chết
dịch” [39; 61]
“Hèn chi trẻ nhỏ hồi
đó và đến người lớn
bây giờ không đùa sao
được” [37; 302]
“- Vậy hả? Hú hồn
hú vía” [39; 55]
“Nên chi Cộc nhìn
xuống chèo khuất
dạng thì quay lưng tức
khắc để chạy lên Ô
Heo” [38; 645]
43
7
8
9
10
11
Phó thường dân
Thử coi
Thất kinh ông bà
Trào máu họng
Trời đất quỷ thần
Cụm từ để diễn tả thành
phần thấp kém trong xã hội,
chưa được là dân thường nên
chưa bằng ai
Thử xem, cách dùng ở cuối
phát ngôn như lời đề nghị ai
đó làm một việc gì để xem
kết quả ra sao, có ý hi vọng
Rất sợ, sợ đến mức vừa tiếp
xúc là đã khiếp
Rất tức giận, tức giận như
muốn tuôn trào ra ngoài cổ
họng
Trời đất, nhưng được dùng để
nhấn mạnh sự ngạc nhiên,
hoặc sự đau khổ cao độ
“Làng quê nào cũng
có ít lắm là một thằng
khật khù như thằng
Bò, nó là phó thường
dân và sống bám theo
các anh thường xuyên
nói trên, vào ra công
sở một ngày” [37;
117]
“- Ông nói nghe dễ ợt.
Sao không giỏi đổi
nghề thử coi!” [39;
15]
“- Gả con Qúa về đó
cho nó khóc thất kinh
ông bà chơi” [39; 46]
“Hai người họ qua
mặt mình một cái vù
mà mình không làm gì
được họ thì có trào
máu họng hay không
chứ!” [40; 1160]
“- Trời đất quỷ thần
ơi, ngó xuống mà coi.
Cả dòng cả họ tôi,
bên nội, bên ngoại có
ai mà hư thân mất nết
như vầy không nè!”
[37; 93]
44
12 Trưa trờ trưa trật Trưa trờ, nhưng có ý nhấn
mạnh hơn ở tính chất thời
gian trưa, hoặc quá trưa
“Cả nhà mòn mỏi rồi
ngủ quên luôn cho đến
trưa trờ trưa trật mới
dậy” [39; 11]
Lớp từ ngữ cố định có 19 đơn vị, (chiếm 4.3%), và chúng được lặp lại với tần
số cao trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, nhất là trong lời nói của nhân
vật. Lớp từ ngữ này thể hiện rõ bản sắc ngôn ngữ Nam Bộ và mang sắc thái biểu
cảm cao trong tác phẩm văn chương. Đó là lý do vì sao, Bình Nguyên Lộc vận
dụng chúng khá nhiều trong tác phẩm của mình.
2.2.2. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ
Lớp từ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ cũng được tìm thấy trong
tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, tuy số lượng không nhiều, gồm 25 từ ngữ, ( chiếm
5.6%). Đây là lớp từ có nhiều từ giống với từ vựng trong phương ngữ Trung Bộ,
những từ mà người Nam Bộ sử dụng thì người Trung Bộ cũng đang còn dùng.
Nguyên nhân là vì tổ tiên của cộng đồng người Nam Bộ chính là người Việt vùng
Bắc Trung Bộ. Lớp từ ngữ này cho thấy một điều là khi nghiên cứu phương ngữ,
chúng ta không chỉ căn cứ vào sự phân chia theo không gian địa lý mà còn phải chú
ý đến yếu tố thời gian lịch sử nữa.Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi nêu ra
những từ ngữ có nguồn gốc từ Trung Bộ được lặp lại nhiều lần trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc. Cụ thể như sau:
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc

Contenu connexe

Tendances

GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơlongvanhien
 
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932 TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932 nataliej4
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ PhủThanh Cong Ma
 
đề Tài từ láy trong tiếng việt
đề Tài từ láy trong tiếng việtđề Tài từ láy trong tiếng việt
đề Tài từ láy trong tiếng việtnataliej4
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIVùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIHuynh ICT
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngPham Van Tam
 

Tendances (20)

Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đLuận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đLuận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
 
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOTLuận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
 
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932 TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
TẬP BÀI GIẢNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX – 1932
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
 
đề Tài từ láy trong tiếng việt
đề Tài từ láy trong tiếng việtđề Tài từ láy trong tiếng việt
đề Tài từ láy trong tiếng việt
 
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
 
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIVùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
 
Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAYLuận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy NghĩaLuận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
 

Similaire à Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc

Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...nataliej4
 
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Garment Space Blog0
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533jackjohn45
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...nataliej4
 
Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam Man_Ebook
 
Phương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdf
Phương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdfPhương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdf
Phương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdfDanhThsol
 
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...HanaTiti
 
[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...
[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...
[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...HanaTiti
 

Similaire à Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc (20)

Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
 
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đDạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
 
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và TháiLuận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
 
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyếnKhóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
 
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
 
Luận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAY
Luận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAYLuận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAY
Luận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAY
 
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
 
Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
Dấu ấn văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
 
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đLuận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAYLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Phương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdf
Phương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdfPhương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdf
Phương ngữ Khmer Rạch Giá nhìn từ gốc độ văn hóa_TOMTAT_LV D_SOL.pdf
 
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
 
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...
 
[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...
[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...
[123doc] - doi-chieu-thanh-ngu-va-tuc-ngu-lien-quan-den-quot-nuoc-quot-giua-t...
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Dernier

Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hardBookoTime
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem Số Mệnh
 
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ haoBookoTime
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...Xem Số Mệnh
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem Số Mệnh
 
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfLinh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfXem Số Mệnh
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Dernier (20)

Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
 
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢI BÀI TẬP ÔN THI THPTQG MÔN SINH HỌC - H...
 
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
 
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfLinh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 

Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thúy Hằng TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thúy Hằng TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HUỲNH CÔNG TÍN Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  • 3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng Sau đại học, quý thầy cô giảng viên khoa Ngữ Văn đã tận tình giảng dạy, và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi được học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Huỳnh Công Tín đã dành nhiều thời gian hướng dẫn, động viên và khuyến khích tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình làm luận văn. Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012 Tác giả Trần Thị Thúy Hằng
  • 4. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch .................................32 Bảng 2.2. Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước....33 Bảng 2.3. Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật, hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ: ...............................................34 Bảng 2.4. Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam.............................................38 Bảng 2.5. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer..........................................................41 Bảng 2.6. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán ..............................................................43 Bảng 2.7. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp.............................................................45 Bảng 2.8. Quán ngữ ...............................................................................................47 Bảng 2.9. Lớp từ có nguồn gốc từ Trung Bộ.........................................................50 Bảng 2.10. Lớp từ biến nghĩa...................................................................................55
  • 5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO VIỆC NGHIÊN CỨU .7 1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ........................................................7 1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học .................................................................7 1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học ..............................7 1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ.........................................................8 1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ ...............................................................................10 1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc ..............................................................15 1.2.1. Tiểu sử .....................................................................................................15 1.2.2. Các sáng tác chính ...................................................................................17 1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc ..............................................18 1.2.4. Nét đặc sắc về nghệ thuật ........................................................................22 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .........................................................................................24 Chương 2. KHẢO SÁT CÁC LỚP TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC......................................................................25 2.1. Cơ sở phân chia .............................................................................................25 2.2. Các lớp từ cụ thể.............................................................................................25 2.2.1. Lớp từ ngữ Nam Bộ chính gốc ................................................................25 2.2.2. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ...........44 2.2.3. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân............................46 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .........................................................................................51 Chương 3 : ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI NGÔN NGỮ CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC ...........53 3.1. So với tác giả trước Bình Nguyên Lộc...........................................................53
  • 6. 3.2. So với tác giả cùng thời với Bình Nguyên Lộc..............................................63 3.3. Nhận định chung về đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc....................79 3.3.1. Ngôn ngữ kể chuyện mang màu sắc địa phương Nam Bộ sinh động, giàu âm thanh, hình ảnh.............................................................................................80 3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật đa dạng về tính cách, đậm phong cách Nam Bộ......82 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .........................................................................................85 KẾT LUẬN..............................................................................................................86 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................87
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nghiên cứu tiếng Việt, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở mặt thống nhất của ngôn ngữ, mà cần thấy được tính đa dạng của nó. Một trong những biểu hiện rõ rệt nhất của nó là màu sắc địa phương vùng, miền. Ý thức được vấn đề lí luận này, thời gian gần đây, các nhà Việt ngữ học đã chú ý nhiều tới bình diện khác biệt địa phương này của tiếng Việt. Trong các công trình mang tính lí luận chung về phương ngữ, các nhà nghiên cứu thường quan tâm nhiều đến vấn đề phân chia tiếng Việt thành những vùng phương ngữ là: có 3 phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ), 4 phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ), hay 5 phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ). Điều này phụ thuộc vào việc xem xét sự khác biệt từ một bình diện hay nhiều bình diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách diễn đạt…) của các phương ngữ. Ở nội bộ từng phương ngữ, lại có những công trình đi sâu tìm hiểu, khai thác những vấn đề của phương ngữ ấy trên các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp… dựa vào những thực tiễn khảo sát từ người địa phương hoặc thông qua việc khảo sát các sáng tác của những nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu có tên tuổi nhất định trong dòng văn học sử của địa phương ấy. Nói riêng về phương ngữ Nam Bộ, số lượng công trình nghiên cứu phương ngữ này trong những năm gần đây ngày một dày thêm. Lí do là nếu xem xét vấn đề phương ngữ trong sự đối lập với ngôn ngữ chuẩn toàn dân, thì bản thân phương ngữ Nam Bộ có những giá trị rất đặc thù giúp làm sáng tỏ vấn đề này, hơn là những vùng phương ngữ khác như Bắc Bộ hay Trung Bộ. Trong chừng mực nào đó, phương ngữ Nam Bộ có tính hệ thống “theo kiểu” Nam Bộ khá rõ ở các bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, làm rõ sự đối lập toàn dân/ địa phương hơn các phương ngữ khác.
  • 8. 2 Mặt khác, nếu hiểu là nguồn “sinh lực” bổ sung những yếu tố địa phương làm phong phú thêm cho tiếng Việt chuẩn toàn dân, thì tiếng địa phương Nam Bộ cũng đáp ứng tốt yêu cầu này. Bởi vì đây là tiếng nói của một bộ phận người Việt tham gia vào quá trình lịch sử Nam tiến, tiếp nối và phát huy mạnh mẽ tiếng Việt trên vùng đất mới - vốn được nhìn nhận là vùng kinh tế năng động và là một trong những vùng trọng điểm của cả nước. Điều này (nhất là từ sau 1975 trở lại đây) đã đóng một vai trò không thể phủ nhận trong đời sống ngôn ngữ cũng như đời sống văn hóa- xã hội…không chỉ nội tại trong vùng Nam Bộ, mà còn được nhìn nhận như những giá trị chung của tiếng Việt toàn dân. Hơn nữa, trên 300 năm phát triển, từ tiếng nói người bình dân, phương Nam đã định hình nên một phong cách ngôn ngữ gọt giũa qua những sáng tác văn chương, những công trình khoa học có giá trị, với những tên tuổi lớn đã được khẳng định, như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… và được tiếp nối bởi những tác giả đương thời như: Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư… Vì vậy, việc nghiên cứu tập trung vào địa hạt này cũng nhằm giúp làm sáng tỏ những đóng góp và hạn chế của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình lịch sử tiếng Việt và trong quá trình thống nhất trong sự đa dạng hiện nay của tiếng Việt. Nghiên cứu phương ngữ Nam Bộ không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc về phương ngữ này mà còn giúp giải quyết nhiều vấn đề trong việc tiếp nhận những sáng tác văn chương, xác định đúng đắn vai trò của phương ngữ trong tiến trình tiếng Việt toàn dân và những vấn đề xã hội của phương ngữ trong phạm vi nhà trường và trên sách báo cũng như trong thực tiễn đời sống giao tiếp của người Việt. Xuất phát từ những lý do trên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, với đề tài “ Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi sẽ đi sâu vào bình diện từ vựng của phương ngữ Nam Bộ trên tư liệu ngôn từ của một tác giả là Bình Nguyên Lộc, qua những sáng tác văn chương để tìm hiểu sự đóng góp về ngôn ngữ, đồng thời để tìm ra những đặc sắc trong cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ của ông, trong sự so sánh với một số nhà văn trước và cùng thời với ông.
  • 9. 3 2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu Như vừa trình bày ở trên, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là phương ngữ Nam Bộ và giới hạn phạm vi nghiên cứu trong luận văn này chỉ dừng lại ở địa hạt từ ngữ Nam Bộ và trên những sáng tác của Bình Nguyên Lộc, với mục đích nghiên cứu là qua cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, nêu bật được vai trò của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và hành chức của tiếng Việt; đồng thời, thấy được sự đóng góp ngôn từ của ông so với những người đi trước và cùng thời với ông. Công việc so sánh đối chiếu với các tác giả trước hoặc cùng thời với ông, chúng tôi sẽ chủ yếu là tiếp thu kết quả nghiên cứu của những công trình khảo sát phương ngữ của các tác giả đi trước, với mục đích là thông qua những sự so sánh, đối chiếu đó, chúng tôi làm sáng tỏ những đóng góp riêng của Bình Nguyên Lộc và thấy được sự phát triển phương ngữ Nam Bộ đã để lại những dấu ấn nhất định trong dòng văn học viết của riêng Nam Bộ và của Việt Nam nói chung. 3. Phương pháp nghiên cứu Khảo sát toàn bộ tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi sẽ có được số lượng từ ngữ đủ để làm cơ sở cho những nhận định, đánh giá. Thế nhưng, để đưa ra được những gì thuộc về ý kiếng riêng của mình, chúng tôi phải dựa trên các phương pháp, thủ pháp thống kê, phân loại những kết quả đạt được trong khảo sát. Đồng thời so sánh, đối chiếu với những kết quả khảo sát khác, có thể là của các tác giả khác, để thấy được một mặt, tiến trình từ ngữ địa phương Nam Bộ tham gia vào hoạt động sáng tác văn chương để lại được ý nghĩa tích cực và cả những mặt hạn chế của nó ra sao; mặt khác, thấy được sự đóng góp của tác giả so với lớp nhà văn đi trước và cùng thời với ông, từ đó có được những đánh giá xác đáng về vị trí, vai trò, đóng góp của Bình Nguyễn Lộc trong dòng văn chương Nam Bộ nói riêng và trong văn chương của cả nước nói chung. 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Như đã đề cập ở trên, vấn đề về phương ngữ Nam Bộ đã và đang được khá nhiều nhà phương ngữ học quan tâm. Có thể kể đến các công trình sau: “Từ điển
  • 10. 4 phương ngữ Nam Bộ” của tập thể tác giả do Nguyễn Văn Ái chủ biên (1994), “Những từ ngữ gốc Khơme trong phương ngôn Nam Bộ” của Thái Văn Chải (1986), “Hai vấn đề âm vị học trong phương ngữ Nam Bộ” của Cao Xuân Hạo (1998), “Sự tiếp xúc giữa các phương ngữ ở thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Thị Ngọc Lang (1986), “Phương ngữ Nam Bộ” của Trần Thị Ngọc Lang (1995), “Tiếng địa phương” của Bình Nguyên Lộc và Nguiễn Ngu Í (1958), “Về một hiện tượng láy trong phương ngữ miền Nam” của Trịnh Sâm (1986), “Tự vị tiếng Việt miền Nam” của Vương Hồng Sển (1993), “Sơ lược hệ thống ngữ âm phương ngữ Sài Gòn” của Huỳnh Công Tín (2007),... Công trình của Vương Hồng Sển (1993) và của Nguyễn Văn Ái chủ biên (1994) đã tập hợp được số lượng tương đối đầy đủ lớp từ vựng của phương ngữ Nam Bộ. Gần đây, công trình “Từ điển Từ ngữ Nam Bộ”, in lần 1 NXB. KHXH (2007), lần 2 (bổ sung) NXB. CTQG (2009) của Huỳnh Công Tín đã tập hợp được một lượng từ ngữ hết sức phong phú. Đồng thời, tác giả nêu được những dẫn liệu trích từ nhiều nguồn sáng tác của các nhà văn Nam Bộ khiến chúng ta có được hình dung nhất định về vốn từ của phương ngữ Nam Bộ cả xưa và nay. Bài của Cao Xuân Hạo tuy chưa đề cập hết những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ, nhưng tác giả cũng đã trình bày khái quát hai trong số những đặc điểm lớn thuộc vấn đề ngữ âm của phương ngữ Nam bộ: phụ âm cuối và các nguyên âm đôi. Công trình của Trần Thị Ngọc Lang đã nêu ra được sự khác biệt trong các kiểu cấu tạo giữa hai phương ngữ và xác định được đặc điểm riêng của phương ngữ Nam Bộ trong một số nhóm từ cụ thể như từ xưng hô, tính từ chỉ mức độ, từ láy, từ hư... Luận án tiến sĩ “Đặc điểm ngữ âm của tiếng Sài Gòn so với phương ngữ Hà Nội và các phương ngữ khác ở Việt Nam” của Huỳnh Công Tín (1999) cung cấp cho ta một bức tranh khá rõ về những biểu hiện ngữ âm được ghi nhận từ tiếng Sài Gòn và những tương đồng, khác biệt có liên quan tới đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ với các phương ngữ khác trong tiếng Việt. Gần đây có nhiều luận văn thạc sĩ chú ý đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ trên cơ sở khảo sát các tác phẩm văn học dân gian và của các nhà văn cụ thể, như các công trình nghiên cứu sau: “Văn phong Nam Bộ
  • 11. 5 qua tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Biểu Chánh” của Đinh Thị Thanh Thủy, 2005; “Màu sắc Nam Bộ trong truyện kí Sơn Nam” của Nguyễn Nghiêm Phương, 2009; “Phương ngữ Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư” của Nguyễn Bình Khang, 2009; “ Phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian” của Đỗ Thị Kiều Oanh, 2012,… Riêng về việc nghiên cứu các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, đã có các công trình sau: “ Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc” của Nguyễn Lương Hải Khôi, 2004; “Văn hóa và con người Nam Bộ trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc” của Nguyễn Văn Đông, 2005; “Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc” của Dương Thị Thanh, 2011. Các công trình nghiên cứu trên tuy có đề cập đến cách sử dụng từ ngữ của Bình Nguyên Lộc nhưng chỉ với tư cách như một minh chứng để làm rõ phong cách truyện ngắn của ông, chứ không đi sâu nghiên cứu như một chuyên đề riêng biệt về từ ngữ địa phương Nam Bộ trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc . Điểm qua tình hình nghiên cứu, với luận văn “Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi hy vọng có thể đóng góp thêm, dù nhỏ bé, trong việc khảo sát các tác phẩm của một nhà văn Nam Bộ cụ thể có quá trình sinh trưởng và sáng tác ở miền Đông Nam Bộ là Bình Nguyên Lộc, để từ đó nêu bật được vai trò góp phần của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và hành chức của tiếng Việt; cũng như là làm rõ thêm sự đóng góp của ông so với những người đi trước và cùng thời với ông (như mục đích nghiên cứu mà chúng tôi đã nêu ở trên). 5. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận. 1. Phần mở đầu gồm có các tiểu mục như: lí do chọn đề tài, phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu vấn đề và cấu trúc luận án. 2. Phần nội dung gồm ba chương: chương một trình bày những vấn đề chung làm cơ sở cho việc nghiên cứu; chương hai tiến hành khảo sát, phân loại, thống kê,
  • 12. 6 so sánh, đối chiếu các kết quả nghiên cứu để rút ra những miêu tả, nhận định cần thiết; chương ba nhận xét, đánh giá đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc trong sự đối chiếu với các tác giả khác. 3. Phần kết luận
  • 13. 7 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO VIỆC NGHIÊN CỨU 1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ 1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học 1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học A. Phương ngữ Có nhiều định nghĩa về phương ngữ. Nhóm tác giả Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn quan niệm: “ Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm riêng biệt được sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp hơn là ngôn ngữ; là hệ thống kí hiệu và quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ thống khác được coi là ngôn ngữ ( cho toàn dân tộc ), các phương ngữ ( có người gọi là tiếng địa phương, phương ngôn ) khác nhau trước hết ở cách phát âm, sau đó là vốn từ vựng”[ 46; 223]. Hoàng Thị Châu định nghĩa ngắn gọn hơn: “ Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác”.[5; 29] B. Từ ngữ địa phương Theo Nguyễn Thiện Giáp:“ Từ ngữ địa phương là những từ ngữ được dùng hạn chế ở một hoặc một vài địa phương. Nói chung, từ ngữ địa phương là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc chứ không phải từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi được sử dụng vào sách báo nghệ thuật, các từ ngữ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa phương, đặc điểm của nhân vật”.[13; 466] Từ ngữ địa phương có thể bao gồm những từ ngữ biểu thị những sự vật, hiện tượng, những hoạt động, cách sống đặc biệt chỉ có ở địa phương nào đó chứ không phổ biến với toàn dân, do đó không có từ song song trong ngôn ngữ văn học toàn dân.
  • 14. 8 Ví dụ: Các từ: sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, chao,…là những từ chỉ có ở miền Nam Việt Nam. Những từ về ngữ âm giống với các từ tương ứng trong ngôn ngữ văn học toàn dân, nhưng ý nghĩa thì khác như: nón có nghĩa là cái mũ, chén có nghĩa là cái bát, dù có nghĩa là cái ô,… Những từ có sự đối lập về ngữ âm ( hoàn toàn hoặc bộ phận) với từ ngữ tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân như: mô, rào, chộ, ngái,…ở Trung Bộ ( tương ứng với các từ đâu, sông, thấy, xa,… trong ngôn ngữ toàn dân) Các từ con gấy, nác, cáo, mự, tru, chúc mào,…ở Nghệ Tĩnh ( tương ứng với các từ con gái, nước, gạo, mợ, trâu, chào mào,… trong ngôn ngữ toàn dân) Giữa từ ngữ toàn dân và từ ngữ địa phương có quan hệ qua lại lẫn nhau. Ranh giới giữa hai lớp từ này sinh động, thay đổi phụ thuộc vào vấn đề sử dụng chúng. Từ ngữ địa phương là nguồn bổ sung cho ngôn ngữ văn học ngày càng giàu có, phong phú. Như trên đã nói, từ vựng địa phương chủ yếu là từ vựng khẩu ngữ. Khi sử dụng từ địa phương vào sách báo nghệ thuật, cần phải hết sức thận trọng và có mức độ. Nghĩa là chỉ nên sử dụng những từ ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng nào đó lúc đầu chỉ được biết trong một khu vực, sau đó được phổ biến rộng rãi, có tính chất toàn dân và những từ ngữ địa phương có sắc thái biểu cảm cao so với các từ đồng nghĩa tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân. Nếu người viết làm được điều này, từ ngữ địa phương sẽ phát huy hết tác dụng của chúng trong việc tham gia vào sáng tác văn chương hay sách báo nghệ thuật. 1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ Phân vùng phương ngữ là vấn đề phức tạp. Ở bình diện ngữ âm, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc phân vùng phương ngữ, nhưng chủ yếu các tác giả phân chia tiếng Việt ra thành ba, bốn hoặc năm vùng phương ngữ. - Quan niệm chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ: Có nhiều tác giả chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ, trong đó tiêu biểu là Hoàng Thị Châu. Tác giả này cho rằng tiếng Việt có ba phương ngữ gồm: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ
  • 15. 9 và Thanh Hóa ), phương ngữ Trung ( từ Nghệ An đến Đà Nẳng), phương ngữ Nam ( từ Đà Nẵng trở vào )[5;89] - Quan niệm chia phương tiếng Việt thành bốn vùng phương ngữ: Có các tác giả sau: + Nguyễn Kim Thản chia tiếng Việt thành: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ và một phần Thanh Hóa), phương ngữ Trung Bắc ( phía Nam Thanh Hóa đến Bình Trị Thiên ), phương ngữ Trung Nam ( từ Quảng Nam đến Phú Khánh), phương ngữ Nam ( từ Thuận Hải trở vào )[5;89] + Huỳnh Công Tín: phương ngữ Bắc Bộ ( các tỉnh Bắc Bộ và Thanh Hóa), Phương ngữ Bắc Trung Bộ ( các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên – Huế), phương ngữ Nam Trung Bộ ( các tỉnh từ Đà Nẳng đến Bình Thuận), phương ngữ Nam Bộ ( gồm ba khu vực là miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ)[44;42] - Quan niệm chia tiếng Việt thành năm vùng phương ngữ: Đây là quan niệm của Nguyễn Bạt Tụy (1961). Theo ông, tiếng Việt có thể chia thành: phương ngữ miền Bắc ( Bắc Bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung Trên (từ Nghệ An đến Quảng Trị), phương ngữ Trung Giữa (từ Thừa Thiên đến Quảng Ngãi), phương ngữ Trung Dưới (từ Bình Định đến Bình Tuy) và phương ngữ miền Nam (từ Bình Tuy trở vào)[5;89] Xét trên bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, các tác giả cũng chia tiếng Việt ra làm ba vùng phương ngữ trùng với sự phân chia theo tiêu chí ngữ âm như ở trên chúng tôi đã trình bày. Chỉ có sự khác nhau về vị trí của các phương ngữ Thanh Hóa mà thôi. Có tác giả đưa tiếng Thanh Hóa vào nhóm phương ngữ Bắc Bộ (Nguyễn Bạt Tụy, 1950), nhưng lại có tác giả ghép nó vào nhóm phương ngữ miền Trung (Hoàng Thị Châu, 1963; Vương Hữu Lễ, 1974)[5;89] Tác giả Huỳnh Công Tín thì chia tiếng Việt thành hai phương ngữ: Bắc Bộ và Nam Bộ. Theo tác giả nguyên nhân của tình hình này là “ vốn từ vựng của phương ngữ Trung Bộ, ngoài một lượng từ riêng ít ỏi, lớp từ vựng còn lại, hoặc là giống với lớp từ vựng của phương ngữ Bắc Bộ hoặc Nam Bộ” [44; 43]
  • 16. 10 Chúng tôi thống nhất với cách phân chia tiếng Việt thành 4 vùng phương ngữ của Huỳnh Công Tín. Theo đó, vùng phương ngữ Nam Bộ được xác định bao gồm ba khu vực: miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ, tính từ Bình Phước, Tây Ninh đến Mũi Cà Mau. 1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ 1.1.2.1. Sự hình thành vùng đất và con người Nam Bộ Vùng Nam Bộ chia thành ba khu vực: Đông Nam Bộ, Sài Gòn (nay được gọi là thành phố Hồ Chí Minh ) và Tây Nam Bộ. Có thể khái quát một số nét về sự hình thành các khu vực này như sau: a. Miền Đông Nam Bộ bao gồm năm tỉnh: Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. So với các vùng còn lại của Nam Bộ thì đây là vùng đất được khai khẩn trước tiên trong quá trình di dân lập ấp của những lưu dân Bắc Trung Bộ. Đông Nam Bộ có vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể là kinh tế công nghiệp và du lịch, mà tiêu biểu là khu vực Biên Hòa – Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Vì thế, vùng Đông Nam Bộ là một địa bàn thu hút mạnh lực lượng lao động, sau thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thành phần dân cư của vùng này cũng có tính chất đa dạng, đến từ nhiều vùng miền khác nhau của đất nước. b. Sài Gòn là trung tâm chính trị, kinh tế, trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch lớn của cả nước. Nó nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đông Nam Á, được ví như Hòn ngọc viễn đông của vùng. Mặt khác, Sài Gòn là một thành phố lớn, nên sự giao tiếp của người Việt từ các miền của cả nước diễn ra thường xuyên và liên tục. Do đó, tính chất phương ngữ Nam Bộ ở Sài Gòn có thể bị biến đổi, bị pha trộn, không còn giữ những đặc trưng “ban đầu” của một số vùng, một số tỉnh ở Nam Bộ. c. Tây Nam Bộ ( Đồng bằng sông Cửu Long ) là một vùng đất rộng lớn và phì nhiêu của miền đồng bằng Nam Bộ, bao gồm mười ba tỉnh, thành: Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. So với các miền trong cả nước, có
  • 17. 11 thể nói, đây là vùng đất mới nhưng nhiều hứa hẹn của lưu dân Việt vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thế kỷ XVII. Môi trường mới đã tạo nên một hoàn cảnh mới, từ đó cũng hình thành ở lớp cư dân người Việt này một tính cách mới, một tư duy khác. Song song đó, những đặc trưng văn hóa mới cũng được hình thành cùng với những đặc điểm ngôn ngữ mới. 1.1.2.2. Sự hình thành phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người dân Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ được hiểu là những biến thể địa lý của ngôn ngữ toàn dân. Có nhiều nguyên nhân hình thành một phương ngữ: điều kiện địa lý, điều kiện xã hội và điều kiện kinh tế - chính trị,…Những điều kiện này sẽ dần dần dẫn đến sự khác biệt về cách phát âm, từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp và phong cách diễn đạt giữa các vùng. Sự khác biệt đó ngày càng lớn và phương ngữ ra đời. Phương ngữ Nam Bộ cũng được hình thành trên cơ sở ấy. Sự ngăn cách về địa lý núi, đồi ở một đất nước có chiều dài tương đối lớn như nước ta đã một thời làm cho sự giao lưu, tiếp xúc của người dân giữa các vùng bị hạn chế. Tiếng Việt toàn dân bị cô lập giao tiếp trong các vùng, miền nhỏ và đó là điều kiện khiến tiếng Việt thống nhất phát triển theo những khuynh hướng khác nhau. Lịch sử phát triển của vùng đất phương Nam của Tổ quốc cũng đi liền với lịch sử của nhiều cuộc chiến tranh chia cắt có tính chất dai dẳng, quyết liệt, mà chính những cuộc chiến tranh này chia cắt hẳn sự tiếp xúc giữa các vùng, miền. Cuộc chiến tranh giữa hai họ Trịnh – Nguyễn, Đàng Ngoài – Đàng Trong, kéo dài trong suốt hơn hai thế kỷ chia cắt, chiến tranh, kể từ khi Nguyễn Hoàn được lệnh vào Nam, mùa đông năm 1558, đến ngày Nguyễn Ánh lấy lại Phú Xuân, thống nhất đất nước 1802. Rồi những năm tháng trị vì ngắn ngủi của các vua nhà Nguyễn chưa thống nhất xã hội được thì đất nước lại bị họa ngoại xâm. Thực dân Pháp lại chia đất nước ta thành ba miền để trị: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Ba miền với những thể chế hành chính và những luật lệ khác nhau đã góp phần tô đậm thêm cho những sự chia cắt. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1954, đất
  • 18. 12 nước lại bị chia hai, và chúng ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cho đến ngày thống nhất đất nước 30.4.1975. Như vậy, sự phân chia lãnh thổ chính trị - hành chính do lịch sử để lại là nhân tố chính hình thành nên phương ngữ Nam Bộ. Bên cạnh đó, sự chia cắt tự nhiên về mặt địa lý, dẫn đến tâm lý vốn có ở những người Việt trước đây như ngại đi lại và giao tiếp, cũng là nguyên nhân đưa đến sự hình thành phương ngữ Nam Bộ. 1.1.2.3. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ A. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ âm - Phương ngữ Nam Bộ có 5 thanh điệu, trong đó hai thanh điệu hỏi và ngã không được phân biệt rạch ròi - Khác với phương ngữ Bắc, các cặp phụ âm /r – d /, / s – x /,/ ch- tr/ được phân biệt tương đối rõ. Tuy nhiên, sự phân biệt này không đồng đều giữa các vùng ở Nam Bộ. Một số nơi do có sự tiếp xúc với tiếng Hoa (Long An, Kiên Giang, Cà Mau, Tiền Giang, Bạc Liêu ) phụ âm quặc lưỡi /r/ biến thành phụ âm /g/ hoặc /j/, /s/ thành /x/, /tr/ thành /ch/. Không có các phụ âm /v/, /gi/,/tr/ mà thay vào đó là các âm tắc /d/, /ch/ - Người Nam Bộ không có thói quen phát âm đệm nên có hiện tượng rơi rụng âm đệm trong phát âm ( duyên phát âm thành diêng, luyện phát âm thành liệng ) - Xuất hiện âm /w/ (âm môi, mạc, hữu thanh) từ sự hòa nhập âm đệm vào các âm đầu /k/, /ng/, /h/ thể hiện trong các trường hợp như: qua – wa, ngoại- wại, hoãn- wãng,.. - Số lượng các vần ít hơn phương ngữ Bắc do sự đồng nhất của các vần: ên- ênh, ết- ếch, iết- iếc, im- iêm, in- inh, ip- iêp, it- ich, iu- iêu, oc- ôc, om- ôm-ơm, ong-ông, op-ôp-ơp, ưn- ưng, ươi –ưi, ước- ướt, ưu- ươu-u, ứt-ức,… - Bảo lưu nhiều hình thức ngữ âm đặc thù, thường là hình thức ngữ âm cổ như: binh (bênh), kiểng (cảnh), nhứt (nhất), dòm (nhòm), thúi (thối), thơ ( thư), trợt (trượt), hun (hôn), hường (hồng),… B. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện từ vựng- ngữ nghĩa
  • 19. 13 Xét vốn từ vựng Nam Bộ, chúng ta thấy có một số khác biệt so với tiếng Việt toàn dân. TS. Huỳnh Công Tín đã nêu một số điểm cơ bản về từ vựng – ngữ nghĩa của phương ngữ Nam Bộ như sau: - Phương ngữ Nam Bộ còn giữ lại một lớp từ cổ của tiếng Việt mà phương ngữ Bắc Bộ, tiếng Việt chuẩn không còn sử dụng. Đó là có thể do lớp cư dân tổ phụ phần lớn là dân vùng Bắc Trung Bộ. Hiện nay, những cứ liệu ngữ học cho thấy, còn khá nhiều yếu tố tương tự giữa hai vùng này, chẳng hạn: mầng (mừng), ngộ (dễ nhìn), coi (xem), cậy (nhờ), méc (mách), hun (hôn), thơ (thư), nhơn (nhân),… - Phương ngữ Nam Bộ gắn liền với đặc trưng văn hóa nơi đây. Đó là sự phong phú đến mức cực đại về từ ngữ chỉ địa hình, cây cối, sông nước của miền như: sông, rạch, xẻo, kinh, mương, rãnh, láng, lung, đầm, ao, bàu, đìa; tràm, đước, bần, mù u, trâm bầu, bình bát, điên điển; ghe, ghe chài, ghe bầu, ghe ngo, xuồng ba lá, tam bản, võ lãi, trẹt, xà lan, tác rán, về tên gọi các loại sản vật, trái cây như: cá bông, cá chẻm, cá chốt, cá kèo, cá he, cá linh, cá ngác, le le, chằng nghịch, thằng chài; bồn bồn, chôm chôm, điên điển, sầu riêng, thốt nốt,…các từ ngữ gắn với hoạt động sinh hoạt đời sống như: Tết mùng năm tháng năm, Tết mụ, Tục thờ cúng cá voi, đám nói, đám tôi tôi,…các ngành nghề truyền thống như: ăn ong, bắt cá đồng, khai thác lông chim, trồng hoa kiểng, làm mắm, làm nước mắm; các lễ hội của vùng như: Cúng biển, Cúng Thần Nông, Cúng Thành hoàng bốn cảnh, Vía Bà, Nghinh Ông, Đua ghe ngo; các từ ngữ gắn với sinh hoạt nghệ thuật như: cải lương, ca ra bộ, đờn ca tài tử, vọng cổ, dù kê,… - Người dân vùng đồng bằng sử dụng một số từ ngữ vay mượn từ các dân tộc sống chung như Khmer, Hoa: cà rá, cà ràng, cà ròn, xà rong, thốt nốt, len trâu, bò hóc, đi ênh,…; chế, hia, tía, số dách, xập xám, bạc xỉu, miệt, mai, báo,.. trong quá trình giao tiếp. Bên cạnh đó, tiếng Việt của người Việt, người Nam Bộ có quá trình tiếp xúc khá lâu dài với tiếng Pháp. Bởi đó, có sự tiếp nhận, vay mượn lẫn nhau. Để diễn đạt những thực tại mới, người Nam Bộ tiếp nhận, vay mượn một số yếu tố của tiếng Pháp, tiếng nước ngoài. Cách vay mượn của người Nam Bộ vừa giống, vừa khác với cách vay mượn của người Bắc Bộ.
  • 20. 14 - Có một số từ vựng Nam Bộ có hiện tượng biến âm so với lớp từ vựng chung. Sự biến âm này có thể do khuynh hướng phát âm đơn giản hóa của người Nam Bộ như: hảo hớn, minh mông, phui pha, nươm nướp, cháng váng, lè lẹt,…; hoặc do khuynh hướng kiêng kị như: huê (hoa), luông (lông), mệnh (mạng), kiểng (cảnh), hường (hồng), huỳnh (hoàng), phước (phúc), quới (quý), … Trong phương ngữ Nam Bộ, hiện tượng biến âm còn diễn ra hàng loạt từ, chẳng hạn: chư bư, chư bứ, chừ bư, chừ bự, chứ bứ,…; tèo, tẻo, téo,…; rỉnh, rểnh, rảng,…; cà cựng, cà cửng; cà khía, cà khìa, cà khịa,…’ chằm bằm, chằm quằm, chằm vằm,… - Lớp từ vựng của phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng diễn đạt nhiều khía cạnh, nhiều thực tại trong một hiện tượng từ ngữ khác với khuynh hướng từ vựng toàn dân có riêng từ để diễn đạt từng khía cạnh, thực tại riêng ấy. Nói cách khác, từ trong ngôn ngữ toàn dân có khuynh hướng chi tiết hóa, cụ thể hóa thực tại; từ trong phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng khái quát hóa, trừu tượng hóa thực tại. C. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ pháp Trên bình diện ngữ pháp, không có những khác biệt lớn giữa các ngôn ngữ. Nhưng trong cách nói của người Nam Bộ có một số hiện tượng đáng lưu ý: - Đặc điểm thứ nhất là cách xưng gọi. Trong gia đình, ngoài xã hội, người Nam Bộ có thói quen dùng thứ kết hợp với tên để xưng gọi ví dụ: Ba Dương, Năm Hà, Tám Nghệ, Tư Hoạch, …; từ xưng gọi họ hàng như: cậu, mợ, dì cô, thím, chú,…được dùng trong gia đình và cả trong làng xóm. Cách xưng gọi giữa những người trong gia đình có tính tới quan hệ thứ bậc, nhưng có chừng mực và không nặng nghi thức. Với người lớn, cao nhất chỉ gọi ông, không phân biệt cụ, cố, kỵ,…; với người có thứ bậc lớn như: cha, mẹ, cô, chú, bác,…lớp con cháu có thể dùng thứ để xưng gọi; với lớp con cháu, dù lớn tuổi, có địa vị, chức tước, vẫn được bậc cha, mẹ, ông, bà gọi con hoặc thằng (nam), con (nữ) như ngày nào còn nhỏ, không có cách xưng gọi trân trọng như anh, chị như ở gia đình miền Bắc. - Phương ngữ Nam Bộ có sự thay thế và lược bỏ đại từ ấy trong tiếng Việt. Ấy là một đại từ đi liền sau danh từ để biểu thị một không gian, thời gian, sự vật hoặc con người khiếm diện khi hội thoại diễn ra (bên ấy, hôm ấy,..). Khi xuất hiện trên các văn bản viết, đại từ ấy thường viết là ấy hoặc í. Nhưng trong thực tế hội thoại,
  • 21. 15 tất cả các phương ngữ Bắc, Trung, Nam đều lược hóa đại từ này thành âm tiết í, phát âm không có trọng âm (hôm í, bên í). Trong phương ngữ Nam Bộ, ấy càng bị nhược hóa mạnh hơn, hòa nhập vào danh từ đứng trước dưới dạng : thanh điệu hỏi (bển, đẳng, trỏng, ngoải,..). Bằng cách đó, phương ngữ Nam Bộ đã hình thành một nhóm đại từ có ý nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi.Trong một số trường hợp, nhược hóa ấy thành thanh hỏi cho từ đi trước nó: bên ấy – bển, bà ấy – bả, trong ấy – trỏng, trên ấy – trển,… - Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: Bên cạnh các phó từ chỉ mức độ dùng chung với phương ngữ Bắc Bộ như: thật, rất, lắm, quá,..phương ngữ Nam Bộ còn sử dụng các từ chỉ mức độ: lận, hà, thiệt, hung, dữ, dữ lắm,.. và các phó từ chỉ mức độ đi kèm với các tính từ: dở ẹt, tối hù, cụt ngủn, ốm nhom, mập ù,… - Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: hả, hén, hèn chi, hông, chèng ơi, dữ ác hông, trời ơi là trời,.. - Sử dụng các quán ngữ đặc thù: Bên cạnh các quán ngữ chung với phương ngữ Bắc, phương ngữ Nam còn hình thành các quán ngữ đặc thù của Nam Bộ: quá cỡ thợ mộc, quá xá quà xa, mút chỉ cà tha, mút mùa Lệ Thủy, tan nát đời cô Lựu, xí lắt léo, trần ai khoai củ, cà kê dê ngỗng, tàn canh giá lạnh,… - Nói lái là hiện tượng phổ biến, quen thuộc trong diễn đạt, nhận thức của người Nam Bộ. Hiện tượng này tạo sự liên tưởng thú vị, hài hước, thể hiện lối lạc quan yêu đời theo cách của người Nam Bộ. Tuy nhiên, nói lái có thể tạo tiếng cười thiếu nghiêm túc. Chẳng hạn nói ít li cứ nghĩ ai đó uống rượu ít, không được nhiều; nhưng nghĩa lái thì khác hoàn toàn: y lít là tửu lượng vô song, không có đối thủ; nói lì một lam hiểu bắn một loạt đạn lại được hiểu làm một ly; nói lộng kiếng trang trọng nhưng được hiểu là liệng cống; nem Bá Lộc cứ nghĩ là tên cửa hiệu bán nem nhưng hóa ra là nem bọc lá, nghĩa là nem không chất lượng,… 1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc 1.2.1. Tiểu sử Bình Nguyên Lộc (1914 – 1987 ) là nhà văn lớn Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1975, tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 tại làng Tân Uyên,
  • 22. 16 tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Bình Nguyên Lộc xuất thân trong một gia đình trung lưu có mười đời sống tại làng Tân Uyên. Cha ông là ông Tô Phương Sâm (1878 – 1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (1876 – 1972). Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh khác như : Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Diên Quỳnh,.. Thuở nhỏ, ông học chữ Hán với thầy đồ ở làng và học tiểu học Pháp - Việt ở quê. Năm 1928, ông xuống Sài Gòn học trung học tại trường Pétrus Ký ( nay là trường Lê Hồng Phong ). Ông đậu tú tài phần thứ nhất niên khóa 1933-1934 nhằm lúc kinh tế khủng hoảng nên không tiếp tục học được nữa. Năm 1934 về quê lập gia đình với cô Dương Thị Thiệt (1916-1988), rồi làm công chức kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1936 ông đổi về Sài Gòn làm nhân viên kế toán ở Tổng Nha Ngân khố Sài Gòn. Thời gian này ông bắt đầu tham gia hoạt động văn nghệ tại đây. Truyện ngắn đầu tay có tên là Phù sa đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (1913-1989). Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin nghỉ dài hạn không lương và từ đó về sau không trở lại với nghề công chức nữa. Năm 1945, ông tản cư về quê, nhưng cuối năm 1946 ông hồi cư trở lại quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một. Trong thời gian này, Bình Nguyên Lộc có tham gia công tác kháng chiến tại miền Đông Nam Bộ và là thành viên Hội Văn hóa cứu quốc Biên Hòa. Nhưng trong giai đoạn này ( những năm 1944 – 1947 ), do bệnh cũ tái phát gây khủng hoảng tinh thần nên Bình Nguyên Lộc không viết tác phẩm nào. Năm 1950, ông viết cuốn Nhốt gió và xuất bản cùng năm. Năm 1952, Bình Nguyên Lộc làm thư ký tòa soạn cho vài tờ báo xuất bản tại Sài Gòn. Năm 1953, ông chủ trương tờ báo Vui sống, tuần báo văn nghệ có khuynh hướng y học với mong muốn áp dụng kiến thức y học phổ thông vào đời sống thực tế. Năn 1956, ông cùng các văn hữu cho ra đời tờ Bến Nghé, tuần báo có tinh thần văn nghệ lành mạnh mang màu màu sắc địa phương với mục đích làm sống
  • 23. 17 dậy sinh khí của vùng đất Gia Định xưa. Ngoài ra, ông còn cùng các đồng nghiệp thành lập Nhà xuất bản Bến Nghé, chuyên xuất bản các tác phẩm văn chương mang hương vị Đồng Nai, Bến Nghé. Năm 1957, 1958 ông cộng tác với các tạp chí Bách khoa, Văn hóa ngày nay (của Nhất Linh). Năm 1959, ông làm chủ nhiệm tuần báo Vui sống. Trong thời gian này, ông đoạt giải nhất văn chương toàn quốc 1959 – 1960 thể loại tiểu thuyết với cuốn Đò dọc. Năm 1960 – 1963, ông phụ trách trang văn nghệ của báo Tiếng chuông, năm 1964 – 1965 làm chủ biên nhật báo Tin sớm.Từ năm 1965 – 1975, ông chuyên viết truyện dài kỳ cho các nhật báo. Giai đoạn 1970 – 1975, ông làm hội viên Hội đồng văn hóa giáo dục Việt Nam. Sau 1975, ông ngưng cầm bút vì bệnh nặng. Từ năm 1975 – 1985 ông không tham gia các hoạt động xã hội và văn nghệ với lý do bị bệnh kiệt sức và huyết áp cao. Sau khi sang Mỹ định cư từ tháng 10.1985, bệnh đỡ nhiều, ông bắt đầu viết lách trở lại và đăng báo nhiều bài thuộc các thể loại truyện ngắn, hồi ký, tiểu thuyết,…Một số tiểu thuyết của ông đang được viết và đăng báo dở dang thì ông qua đời. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Cordova, Sacramento, California, vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi. Ông được an táng ngày 14 tháng 3 năm 1987 tại nghĩa trang Sunset Lawn. 1.2.2. Các sáng tác chính Bình Nguyên Lộc là nhà văn lớn của Việt Nam, ông thuộc vào ba nhà văn đã sáng tác nhiều nhất trong cả nước. Trong khoảng 50 năm sáng tác, Bình Nguyên Lộc viết trên nhiều lĩnh vực như dân tộc học, cổ sử học, ngôn ngữ học, văn chương,…Riêng về văn chương, ông viết nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ,.. Cổ văn: Bình Nguyên Lộc chú giải các tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam bao gồm Văn tế chiêu hồn (Nguyễn Du), Tiếc thay duyên Tấn phận Tần (Nguyễn Du), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận). Các công trình này lần lượt được công bố trên các tạp chí Văn học ở Sài Gòn.
  • 24. 18 Dân tộc học: Nổi bật là tác phẩm Nguồn sống Mã Lai của dân tộc Việt Nam (1971). Đây là một công trình khá dài trong sự nghiệp nghiên cứu của ông. Tác phẩm cũng gây nên một dư luận đáng chú ý đối với các nhà Việt Nam học. Ngôn ngữ học: Tiêu biểu là tác phẩm Lột trần Việt ngữ (1972), là một cái nhìn mới về ngữ nghĩa tiếng Việt. Bình Nguyên Lộc đứng trên quan điểm dân tộc học để tìm hiểu nguồn gốc và nguyên nhân của tiếng Việt từ thời cổ đến thời hiện đại. Văn chương: Đây là phần đồ sộ nhất trong hành trình sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Ông từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên như Thơ Ba Mén, Việt sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca dao,… Tiểu thuyết: Ông có 53 tiểu thuyết (gồm cả xuất bản và chưa xuất bản). Một số tác phẩm nổi tiếng: Đò dọc, Tỳ vết tâm linh, Khi Từ Thức về trần, Xô ngã bức tường rêu,… Truyện ngắn: Ông có khoảng 1000 truyện ngắn. Tuy nhiên chỉ có một số nhỏ được xuất bản, số còn lại chưa xuất bản và bị thất lạc. Tác phẩm đầu tay tựa đề Hương gió Đồng Nai viết trong gần mười năm (1935 – 1942) nhưng bản thảo bị thất lạc trong lúc tản cư, khi Pháp trở lại chiếm Tân Uyên cuối 1945. Dấu vết Hương gió Đồng Nai chỉ còn lại một truyện ngắn và một tùy bút (đăng báo khoảng 1943). Nhưng sau đó cũng bị thất lạc. Tập truyện thứ nhì là tác phẩm Phù sa và nó cũng có cùng số phận với Hương gió Đồng Nai, nhưng may mắn hơn là đoạn mở đầu của nó đã được đăng trên báo Thanh niên 1943, với tên Di dân lập ấp. Về sau, ông viết lại được khoảng 1/6 tác phẩm này và cho in trên tuần báo Nhân loại. Các tập truyện nổi tiếng đã xuất bản như: Nhốt gió (1950), Tân liêu trai (1959), Ký thác (1960), Tâm trạng hồng (1963), Mưa thu nhớ tằm (Phù sa, 1965), Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Thầm lặng (1967), Nụ cười nước mắt học trò (1967), Cuốn rún chưa lìa (1969),… 1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc Tình yêu quê hương đất nước là một tình cảm mà bất cứ một người Việt Nam chân chính nào cũng có trong trái tim mình, trong đó phải kể đến đầu tiên là giới
  • 25. 19 văn nghệ sĩ Việt Nam. Nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ có cách thể hiện tình cảm ấy theo cách riêng. Trong khoảng thời gian từ 1965 -1975, khu vực Nam Bộ bị xáo động dữ dội do giặc Mỹ xâm lược. Các cuộc càn quét của Mỹ đã làm biết bao số phận phải điêu đứng. Nhiều nhà văn đã cầm bút phản ánh thực tại xã hội với niềm căm phẫn tột độ. Tuy nhiên, yêu nước trong giai đoạn này không đơn thuần là cầm bút chiến đấu. Những trang văn của Bình Nguyên Lộc không sục sôi niềm căm phẫn nhưng người đọc vẫn thấy một thời máu lửa của dân tộc trong suốt hai mươi năm chống Mỹ và cảm nhận được một trái tim luôn luôn hướng về đất nước, đau nỗi đau của dân tộc nơi tác giả Bình Nguyên Lộc. Đọc tác phẩm của ông, chúng ta thấy lòng yêu nước biểu hiện trên hai phương diện: tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ và lòng yêu thương người dân ở Nam Bộ, đặc biệt là những số phận nghèo khó 1.2.3.1. Tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ Sống gắn bó với miền Nam và là người trong hàng ngũ kháng chiến cũ ở lại miền Nam sau 1954, quê hương Đồng Nai - Bến Nghé luôn là nỗi day dứt thường trực trong tâm thức Bình Nguyên Lộc. Đó cũng là lý do vì sao tập truyện ngắn - tùy bút đầu tay của ông có tên là “Hương gió Đồng Nai”. Tập truyện là tình cảm mà ông dành cho mảnh đất Đồng Nai thân yêu. Việc thường chọn vùng đất Đồng Nai, Bến Nghé hay Gia Định xưa làm bối cảnh trong sáng tác cho thấy sự gắn bó trước hết của nhà văn với đất và con người quê hương. Đề tài về thổ ngơi, cuộc sống, mùi vị, nếp sinh hoạt của người dân vùng đồng bằng sông Đồng Nai, sông Cửu Long...luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, chắp cánh cho những trang viết thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, tạo nên đặc trưng trong phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Trong mối liên hệ ràng buộc giữa con người với tự nhiên, tình yêu đất là thứ tình cảm thiêng liêng và sâu nặng hơn cả (Rừng mắm - tập Ký thác; Thèm mùi đất, Phân nửa con người, Bám níu - tập Cuống rún chưa lìa; Đất không chết - tập Nhốt gió). Tình cảm ấy được nhà văn biểu hiện một cách đa dạng, phong phú, nhiều sắc thái, có lúc như một ám ảnh, thậm chí trở thành nỗi u uất, khủng hoảng trong tâm hồn, tình cảm con
  • 26. 20 người khi xa cách (Căn bệnh bí mật của nàng, Con Tám Cù Lần, Chiêu hồn nước, Chiếc khăn kỉ niệm, Về làng cũ, Hương hành kho- tập Cuống rún chưa lìa) Truyện ngắn “Rừng mắm” kể lại câu chuyện về một gia đình nông dân miền Nam nghèo đi khai hoang ở dải đất tận cùng của đất nước: U Minh – Cà Mau. Chính tình yêu đất, yêu người đã giúp họ bám trụ và vượt qua vô vàn cực khổ, thiếu thốn, hi sinh của thế hệ tiên phong đi mở đất. Giống như cuộc đời những cây mắm mọc trên đất bùn. Đời mắm ngã rạp đến đời tràm nối ngôi. Cứ thế, đất bùn kia có lúc sẽ thuần. Và, đến đời con cháu thì những xoài, mít, dừa, cau sẽ mọc lên. Như vậy, “Đời mắm tuy vô ích nhưng không uổng” [38; 660]. Rõ ràng đây là một lối sống, quan niệm sống nặng tình nghĩa với cộng đồng, đậm đà tính nhân văn, có cội nguồn từ truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc ta. Tình yêu đất, yêu quê hương xứ sở của người Việt còn được Bình Nguyên Lộc biểu hiện cụ thể bằng cảm giác “thèm mùi đất” thật xúc động qua truyện ngắn “ Thèm mùi đất”. Ở truyện này, ông giáo Quyền còn kể lại chuyện bà vợ quê Bến Tre theo ông về Sài Gòn, suốt ngày chỉ ngồi bó gối mà buồn. Bà chỉ vui vẻ trở lại như hồi vợ chồng mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi đâu nữa khi không biết nhờ đâu gợi ý bà mua chậu về, cho đất vào để trồng đủ các loại rau. Thậm chí, chiều lòng bà, ông còn lùi nhà ra ngoại ô xa để có nhiều đất cho bà trồng cây lớn, có cả “hai cây dừa mà bà nhà tôi nhứt quyết phải trồng, vì quê bà ấy là xứ dừa, trồng dừa cho đỡ thèm hình bóng cây dừa” [ 38; 982]. Hình ảnh ngọn lửa trong “Lửa tết” gợi cho Minh và má vợ nhớ đến biết bao mùi vị quê hương và tình cảm gia đình. Ở Sài Gòn, nhà cửa chật hẹp, ghiền khói ghiền lửa, nấu than cũng tạm an ủi phần nào. Không như thành phố chỉ có mùi nước hoa và mùi ống cống, mùi vị thôn quê không sao kể hết: “Mùi đất xông lên, sau đám mưa đầu mùa nè, mùi bông bưởi, bông sao nè, mùi củi cây rù rì nè, mùi lúa chín nè, mùi rơm khô nè, mùi phân chuồng nè, mùi rau, đậu tươi nè” [38; 967-968] – má vợ Minh lần lượt kể trong nỗi nhớ nhà đến tận cùng. Lên thành phố làm đứa ở, hình ảnh những con ốc gạo bán đầy vỉa hè gợi cho bé Tám nỗi nhớ làng quê da diết, nhớ mùa nước nổi, nhớ ngọn lửa rơm ngoài đồng mùa gió bấc, nhớ cây bần dựa rạch, nhớ đom đóm chớp tắt đậu nghẹt cành cây,
  • 27. 21 khiến bé phải xin thôi việc (Con Tám Cù Lần). Căn bệnh bí mật của nàng kể về một phụ nữ Việt Nam lấy chồng Pháp rồi mắc bệnh tâm thần. Trong một lần cùng chồng rảo bước trên vỉa hè, sự xuất hiện thình lình của một lão Tây già từng sống ở Việt Nam suốt ba mươi năm đã giúp bà khám phá ra sự thật ẩn ức lâu nay của mình, chính là nỗi sầu xứ. Được chồng đưa đi chơi, tận mắt trông thấy cái ao rau muống, những rau ngò, rau om, rau răm hiếm hoi trên đất Pháp, nước mắt bà chảy ròng ròng vì “cái mùi Việt Nam của nó “ngàn năm chưa dễ đã ai quên” [38; 918]. Tất cả những tác phẩm ấy chính là niềm thương nỗi nhớ, là tình yêu, sự gắn bó sâu nặng đối với vùng đất đã sinh ra và nuôi lớn tác giả nói riêng và đối với quê hương Việt Nam nói chung. 1.2.3.2. Lòng yêu thương đối với những người dân nghèo Là nhà văn giàu lòng thương cảm trước số phận những con người bé nhỏ, hình tượng nhân vật thường gặp trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc là phụ nữ và trẻ em với những mảnh đời và những nỗi đau khổ khác nhau, bất kể họ sống ở nông thôn hay thành thị. Đó là các nhân vật như con Nhộng mù loà (Má ơi, má!), cô Dừa đáng thương ( Cây đào lộn hột), người đàn bà mất cha, chồng và đứa con thân yêu (Người chuột cống), con bé ăn xin (Nuôi ghẻ), bệnh nhân tâm thần Bùi Thị Phượng (Xác không chôn), cô Chi và mẹ (Lá rụng về…ngọn)… Hầu hết nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc đều là những người có phẩm chất tốt đẹp. Bé Nhộng mù loà, hiếu thảo, làm nghề hái cau nuôi người mẹ bại xụi nằm một chỗ đã ba năm. Nhưng rồi cái nghề nguy hiểm ấy đã cướp đi sinh mạng của cô bé thật đáng thương do rơi từ trên cao xuống (Má ơi, má!). Nỗi đau không khóc được của người đàn bà (Người chuột cống) mất một lúc cả chồng và con trai làm nghề bắt cá ở đường cống thành phố làm xúc động người đọc, bởi “đã hết nước mắt khi năm xưa bà khóc ông cha cũng chết vì nghiệp ấy” [ 37; 161]. Xác không chôn là câu chuyện về một người phụ nữ tên Bùi Thị Phượng vì đau khổ mà hóa điên, khi chồng nàng ngoại tình bỏ nhà ra đi với nhân tình. Qua thời gian điều trị, chị khỏi bệnh. Nhiều lần bệnh viện gửi thư bảo đảm đến chồng chị, vẫn không thấy hồi âm. Vào phút chót, khi kiểm lại của cải, Viện Bác Ái chỉ nhận nuôi nổi ba mươi miệng ăn không nơi dung thân. Trong số chín người Viện trả lại bệnh viện, có Phượng. Hy vọng
  • 28. 22 cuối cùng cũng tiêu tan, chị “không còn thiết đến sự sống và những cơn đau đớn nữa!” [37; 575]. Trên đường về, chị đã lao mình vào một chiếc xe du lịch. May mắn, xe hãm kịp và chị chỉ té gãy chân . Nhưng sự tồn tại của chị cũng chỉ còn là một cái xác không chôn mà thôi. 1.2.4. Nét đặc sắc về nghệ thuật Thành công trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc không chỉ thể hiện ở tính chân thật của đề tài, các chi tiết, sự việc, cốt truyện được miêu tả, ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, mà còn ở lời văn súc tích, bối cảnh lịch sử – xã hội, khung cảnh thiên nhiên Nam Bộ hay quê hương được ông làm nền cho câu chuyện. Trong truyện Ba con cáo, nhà văn có những đoạn văn miêu tả cảnh trời mưa ở mảnh đất phía Nam Tổ Quốc thật ấn tượng: “Trời cứ mưa, mưa như cầm chỉnh mà đổ, mưa như một oanh tạc cơ định về căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót lại trên tàu, mưa cho ráo hết nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa đêm chưa phỉ lại mưa ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấy tủy khô” [38; 678]. Truyện ngắn “Rung cây dừa” viết về một Lỗ Bình Sơn tân thời, một thầy giáo, vì sự phản bội của một người đàn bà đã rời bỏ mảnh đất con người trốn ra một hòn đảo trong quần đảo Củ Tron. Nhưng rồi “tiếng vang của loài người, của xã hội văn minh lại kêu réo như tiếng còi tàu thỉnh du. Còi tàu vẳng đưa lên hình bóng nước non xa lạ, còn tiếng con người lại nghê nga chơn trời cũ, bóng bạn xưa, không thúc dục như còi tàu, nhưng lại thỏ thẻ, nỉ non, dai dẳng như lời mời nhẫn nại của một người nhiều hảo ý và thiết tha đón khách” [38; 779]. Những câu văn đầy xúc cảm và giàu chất thơ như thế rất nhiều trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Khác với các tác giả sinh ra ở miền Bắc, nhưng toàn bộ hành trang cuộc đời và văn nghiệp đều gắn liền với phương Nam như Lê Văn Trương, Nguyễn Hiến Lê, nhưng đồng thời cũng khác với các nhà văn sinh ra ở Nam Bộ nhưng hoàn toàn viết theo lối Bắc như Đông Hồ và cũng không giữ nguyên đậm đặc chất liệu Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, văn chương Bình Nguyên Lộc thể hiện sự giao lưu văn hoá, đứng ở miền giao thoa văn hoá Bắc - Nam từ trong tâm thức, cách nhìn và nhất là giọng điệu văn chương. Việc sử dụng từ địa phương trong sáng tác cho thấy Bình Nguyên Lộc am hiểu lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân Nam Bộ. Đọc tác phẩm của ông, người
  • 29. 23 đọc như được sống trong không gian Nam Bộ với những cảnh vật, con người sinh hoạt thật gần gũi, thân quen. Chính vì thế, tác phẩm của ông dễ dàng tìm được sự đồng cảm, đồng điệu từ độc giả nơi đây. Khi sử dụng một từ ngữ có tính chất đặc thù của phương ngữ miền Nam, ông thường tìm cách giải thích, truy nguyên nguồn gốc của nó ở ngoài Bắc thế nào, có khi còn phê bình là nơi nào dùng chính xác, hợp lý hơn, không chỉ trong văn phong khoa học, trong giọng điệu trần thuật hay miêu tả, mà còn thông qua ngôn ngữ nhân vật: "Con chàng hiu má à! Người Bắc thì kêu nó là con chẫu chuộc nghe ít ghê hơn tên của ta. Tiếng chàng hiu gợi hình dáng một con người mà là người ma, ghê quá." [39; 56]. Bình Nguyên Lộc được ca ngợi là nhà ảo thuật về ngôn từ, khi ông luôn có lối so sánh với những hình dung từ chính xác, đắc địa, hiện đại và tài hoa: "Là con trai tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió to" [38; 705]; hoặc "Vịnh Thái Lan, phần thuộc hải phận Việt Nam, chi chít những đảo là đảo, như có đứa trẻ tinh nghịch nào hốt đá cuội mà vứt rải trên một cái ao con" [38; 770]. Sức nặng trang văn của ông không chỉ ở vốn tri thức về văn hóa, mà còn ở sự kết hợp hài hoà giữa giọng kể và giọng tả, vừa thể hiện sự bộc trực của miệt quê nơi ông sáng tác, vừa phóng túng, mượt mà của một ngôn ngữ chuẩn mực phổ thông. Trong hàng ngũ những nhà văn cách mạng từng sống và viết trong vùng đô thị miền Nam trước 1975, Bình Nguyên Lộc có một sức viết và một phong cách viết nổi bật. Văn xuôi của ông nói chung, truyện ngắn nói riêng, đã làm say mê nhiều thế hệ độc giả miền Nam vì hiện thực bình dị, đời thường, vì tình cảm yêu quê hương đất nước, con người thấm đẫm trong từng trang viết, vì sự hấp dẫn ở nghệ thuật viết truyện. Có thể Bình Nguyên Lộc không có tác phẩm bất hủ để đời hay bao quát một phạm vi hiện thực xã hội rộng lớn, nhưng với những gì nhà văn đã cống hiến, nhất là ở thể loại truyện ngắn, văn học sử nước nhà đã ghi nhận xứng đáng công lao của ông. Ông xứng đáng là cây bút văn xuôi yêu nước nổi tiếng vùng đô thị miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
  • 30. 24 TIỂU KẾT CHƯƠNG I Trên đây là những cơ sở cho việc nghiên cứu từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Nam Bộ là một vùng đất mới, được hình thành trong quá trình nam tiến của những lưu dân từ Bắc và Trung Bộ, Việt Nam. Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh hoạt mới đòi hỏi con người phải có cách định danh sự vật hiện tượng trong cuộc sống hằng ngày bằng những từ ngữ mới, đó là phương ngữ Nam Bộ. Vì thế, có thể nói chính vùng đất mới đã tạo ra phương ngữ Nam Bộ và đến lượt mình, phương ngữ Nam Bộ đã khẳng định sự tồn tại rất riêng của vùng đất này và nét đẹp rất duyên trong cách nói năng của con người nơi đây. Cũng chính phương ngữ Nam Bộ đã làm phong phú cho vốn ngôn ngữ toàn dân, đặc biệt nó mang đến một màu sắc mới cho kho tàng văn học của nước nhà. Văn chương Nam Bộ là một bộ phận của văn học Việt Nam nhưng nó mang những đặc điểm khác biệt nhất định do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử đặc thù. Sự khác biệt rõ nhất là việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác. Có thể nói, Bình Nguyên Lộc là một đại biểu xuất sắc của văn chương Nam Bộ đầu thế kỷ XX. Các sáng tác của ông là một minh chứng giúp ta hiểu rõ về phương ngữ Nam Bộ và tiến trình mà phương ngữ Nam Bộ tham gia vào tác phẩm văn chương.
  • 31. 25 Chương 2. KHẢO SÁT CÁC LỚP TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC 2.1. Cơ sở phân chia Trong luận này, chúng tôi đã khảo sát trên 104 truyện ngắn và 5 tiểu thuyết, thu được 445 từ ngữ. Tập hợp những từ ngữ địa phương trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc, chúng tôi chia chúng thành ba lớp từ lớn: lớp từ Nam Bộ chính gốc, lớp từ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ và lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân. Trong các lớp từ lớn này, chúng tôi tiếp tục chia chúng thành những lớp từ nhỏ hơn. Cụ thể có các lớp từ sau: 2.2. Các lớp từ cụ thể 2.2.1. Lớp từ ngữ Nam Bộ chính gốc 2.2.1.1. Lớp từ ngữ riêng của Nam Bộ không thấy xuất hiện ở các phương ngữ khác Có thể nói, đây là lớp từ được Bình Nguyên Lộc sử dụng nhiều nhất trong tác phẩm, gồm 314 từ ( chiếm 70,6 %). Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì tác phẩm của ông phản ánh cuộc sống của người dân Nam Bộ; lấy Nam Bộ làm không gian nghệ thuật cho hầu hết các tác phẩm, cho nên những từ ngữ Nam Bộ sẽ phản ánh rõ nét đời sống, tập quán sinh hoạt và tính cách rất riêng của người dân Nam Bộ. Chính lối diễn đạt riêng đó của người Nam Bộ đã làm phong phú thêm ngôn ngữ của dân tộc. Bởi nó đã minh họa một cách sắc nét những điều kiện địa lý tự nhiên, những quan hệ kinh tế - xã hội đã tạo nên ngôn ngôn ngữ ấy, thể hiện bản chất và tính cách con người, phù hợp với môi trường của những cộng đồng dân cư sinh sống. Chúng tôi đã phân loại chúng ra thành nhiều lớp từ nhỏ như sau: - Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch Nam Bộ là vùng đất có hệ thống sông ngòi chằng chịt, nên các phương tiện đi lại trên sông, rạch cũng vì thế mà trở nên phong phú, đa dạng, và chúng trở thành những phương tiện đặc trưng của vùng sông nước Nam Bộ. Trong tác phẩm của
  • 32. 26 Bình Nguyên Lộc, chúng tôi thấy xuất hiện 5 từ chỉ phương tiện ( chiếm 1.9%) như: Xuồng, xuồng ba lá, xuồng cui, ghe, bè Bảng 2.1. Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch STT Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 3 4 5 Xuồng Xuồng ba lá Xuồng cui Ghe Bè Thuyền nhỏ, phương tiện vận chuyển nhỏ được dùng đi lại trên sông, rạch Xuồng được đóng bằng ba tấm ván ghép lại, một miếng ván đáy, hai miếng ván be Xuồng đóng từ năm hoặc bảy tấm ván, có khả năng chở được nhiều Thuyền, phương tiện di chuyển trên sông nước, lớn hơn xuồng Phương tiện được kết bằng tre, nứa hay gỗ dùng để vận chuyển trên sông “Bây giờ, xuồng rẽ vào một con rạch con và đi thêm cỡ chừng tàn điếu thuốc thì đậu lại” [37;323] “Những chiếc xuồng ba lá tiến mau như ghe chạy buồm và không mấy chốc, họ đã tới nơi”[37;112] “Nhưng không hiểu sao một hôm, tía má nó bán chiếc chòi lá, rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc xuồng cui,…” [38; 644] “– Mình cứ muốn đầy ghe trong một con nước sao được!” [37;110] “ Đó là những cây be chở từ rừng về Sài Gòn, bằng đường thủy, dưới những chiếc bè tre” [37;107] Nếu đem so với các tác phẩm của Sơn Nam thì số lượng các từ ngữ chỉ phương tiện di chuyển trên sông nước trong tác phẩm Sơn Nam có phần đa dạng hơn. Bên cạnh ghe, xuồng, xuồng ba lá, tác phẩm của ông còn những từ ngữ chỉ phương tiện khác như: tàu, tàu lặn, đò, thuyền, ghe bầu, ghe ngo,…
  • 33. 27 - Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước Nếu như trong tác phẩm của Sơn Nam có 12 đơn vị gọi tên các vùng có liên quan đến nước : sông, rạch, kinh, mương, đìa, lung, bàu, đầm, hồ, láng, doi, gành thì trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm được 6 đơn vị ( chiếm 1.9%) như: bưng, kinh, mương, rạch, lung, lạch Bảng 2.2. Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 3 4 5 Bưng Kinh Mương Rạch Lung Vùng đất trong đồng sâu ngập nước, có nhiều cây hoang dại chưa được khai khẩn Đường nước nhân tạo, có thể thông hoặc không thông sang rạch hoặc tận biển. Đường nước nhân tạo, nhỏ, ngắn, cùng. Đường nước thiên nhiên, hẹp hơn sông, chảy trực tiếp từ nơi phát nguyên ra sông, biển hoặc dẫn nước từ sông này qua sông khác. Đường nước thiên nhiên trên đồng, trong rừng thông hoặc không thông sang nơi khác, có thể lưu thông từng đoạn ngắn “- Đâu có. Xứ chị hổng có rừng.Chỉ có bưng thôi”[38; 929] “Ai đã từng ăn món xu xoa đường mật hạ trên kinh Tàu Hủ vào mùa nực chưa?” [38;824] “ Ông đã ướt như chuột té mương và bắt đầu lập cập dưới gió từng cơn thổi đến” [39; 87] “ - Đi vòng thì mấy tháng nữa mới qua tới bên kia rạch được. Rạch này nó sâu như vầy tới tận trên nguồn” [37; 370] “ – Uống nước đọng trên lung trên rừng chớ nước gì”.[38; 652]
  • 34. 28 6 Lạch Dòng nước chảy tự nhiên, có thể nhỏ hoặc lớn Bấy giờ xuồng rẽ vào một con lạch con, và đi thêm cỡ chừng tàn điếu thuốc thì đậu lại [ 37; 323] - Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật, hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ: Khảo sát tác phẩm Bình Nguyên Lộc, chúng tôi nhận thấy, đây là lớp từ mà tác giả sử dụng với số lượng nhiều nhất trong nhóm từ ngữ riêng của Nam Bộ, gồm 170 từ ( chiếm 54,1%). Dưới đây là những trường hợp tiêu biểu: Bảng 2.3. Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật, hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ: Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 3 4 5 Bá vơ Bài hải Bén ngót Chài bài Chành bành Không rõ căn cứ, nguồn gốc Lắm mồm, nhiều lời, to tiếng luôn với người khác Rất sắc Bừa bãi, tung tóe, không thứ tự, gọn gàng Mở rộng ra, banh rộng ra “Rồi đợi mình mãi không được nó rơi vào bất kì thằng bá vơ nào” [40;1072] “Chơn ông chạy, miệng ông la bài hải” [37; 268] “Con dao giống hệt cái mác mà nhỏ và rất ngắn lưỡi trông chừng bén ngót như lưỡi đoản kiếm” [37; 584] “Nàng vừa nói vừa chỉ năm ghim bạc mà Gô đã vứt chài bài dưới gạch” [37; 535] “Con bé chành bành cái miệng ra cười rồi lắc đầu” [37; 547]
  • 35. 29 6 7 8 9 10 11 12 13 Chào rào Chèm bẹp Chèo queo Chôm bôm Chộn rộn Chồm hổm Chồng ngồng Chù vù Rộn ràng, có cái vui rộn lên do tác động của nhiều âm thanh đến cùng một lúc Ngồi trong tư thế chân và mông sát nền Đơn độc, không có ai bên cạnh Bù xù, không gọn. Làm bận bịu, vướng víu, gây trở ngại cho ai đó Ngồi xổm, trên hai chân co gấp lại, mông không chạm đất Cao lớn, có vóc dáng người lớn Xưng tấy, phù to “Nơi buồng trong, nghe chào rào, chộn rộn, nghe lụi đụi dữ lắm, rồi có tiếng cười, lại có tiếng khóc, cười và khóc đều do con gái cả” [39; 7] “Anh ngồi chèm bẹp dưới đất, bên cạnh có cô con gái bà cả Hiệp, thỉnh thoảng liếc sang người nằm, ngập ngừng rồi lại thôi” [37; 376] “Hắn nằm chèo queo bên trong chiếc mui lật ngửa, nệm xe rơi xuống đùi hắn” [39; 89] “Trời ơi, đầu cổ mình chôm bôm như một con mẹ điên, áo quần nhàu nát hết!” [40; 1169] “Nơi buồng trong, nghe chào rào, chộn rộn, nghe lụi đụi dữ lắm, rồi có tiếng cười, lại có tiếng khóc, cười và khóc đều do con gái cả” [39; 7] “Đợi lâu quá mỏi chân, chàng ngồi chồm hổm xuống và nhìn lại đứa núp phía trong” [37; 315] “Chồng ngồng cái đầu mà sao như con nít é!” [39; 9] - “Ý ẹ, như vậy nếu cái mũi
  • 36. 30 14 15 16 17 18 19 Dáo dác Dư dả Đầy nhóc Đỏ choét Đỏ rần Hẹp té Nháo nhác, hổn loạn lên với đầy vẻ sợ hãi, hốt hoảng Thừa, phần không cần thiết Đầy vun, đầy tràn Đỏ chói, đỏ đến mức nhìn khó chịu cho mắt Đỏ đều khắp mọi bộ phận Rất hẹp, hẹp đến mức khó thực hiện vụ việc em hơi lớn hơn tí, thì anh sẽ vẽ cho nó chù vù ra à?” [ 39; 155] “Lần này ông Nam Thành giựt nảy mình, dáo dác nghe ngóng, rồi tần ngần rất lâu ông nói” [39; 40] “Nhưng ông nói thấp đèn sáng quá sợ người ta để ý ngỡ gia đình giàu có dư dả lắm, rồi trộm cướp nó mò tới” [39; 35] “Ngày mai lại, bà tư về với hai chai nước sơn khê đầy nhóc vi trùng mà bà tin chắc rằng rất thần hiệu để tiêu trừ bá bệnh” [37; 539] “Móng tay của chị đỏ choét và nhọn hoắt, nước da mặt của chị bị phấn ăn, chỗ thì mét chằng, chỗ thì thâm đen sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát bội” [38; 681] “Những lúc không uống, như giờ này, mặt ông Hương giáo Hà cũng đỏ rần” [37; 263] “Khi họ lên tới lầu, bà ấy đẩy cửa một căn buồng hẹp té thì
  • 37. 31 20 22 23 24 Lu bù Lụi đụi Lùn xủn Mét chằn Nhiều vô kể, có một số lượng quá lớn so với mức bình thường Bị vướng bận vào một công việc nào đó Lùn chủn, thấp chủn Mét xanh như con bà chằn, tái xanh vì bệnh Hà ngạc nhiên hết sức…” [38; 942] “- Gì chứ chè thì sẽ có lu bù” [38; 660] “Một tuần lễ nay, chàng lụi đụi mãi với một truyện ngắn mà không viết xong” [37; 310] “Nhà lại ở ngoài bìa hằng trăm nhà lá lúp súp, lụp sụp khác, cái nào cũng lùn xủn như đám dân bị bố ngồi bên đường” [37; 280] “Móng tay của chị đỏ choét và nhọn hoắt, nước da mặt của chị bị phấn ăn, chỗ thì mét chằn, chỗ thì thâm đen sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát bội” [38; 681] Nhìn vào các từ được liệt kê bên trên, chúng ta thấy một điều thú vị là trong tác phẩm, Bình Nguyên Lộc rất hay dùng những từ song tiết, đặc biệt là những từ láy. Ngoài những từ trong bảng thống kê, tác phẩm của ông còn rất nhiều từ láy như: lụp sụp, nhơn nhớt, rờn rợn, trống lổng, trống trơn, dơ dáy, lem luốc, ngỏn ngoẻn, lởn vởn, lia lịa, ngoe nguẩy, lành lạnh, ươn ướt, chần chừ, hề hấn, lót tót, xiên xẹo, lổn rổn, trễ tràng, lằm rằm,…Có lẽ bởi tính biểu cảm cao mà những từ ngữ này mang lại, nên tác giả thường sử dụng chúng để tạo ra hiệu quả trong lời giới thiệu về nhân vật, hoặc trong việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Điều này
  • 38. 32 cũng xuất phát từ tính cách của người Nam Bộ. Người Nam Bộ vốn bộc trực, ngay thẳng, nói điều gì thì phải nói cho hết ý, hết mức, hết cỡ. Họ không thích diễn đạt theo kiểu trung tính, ôn hòa, nhàn nhạt. Những từ ngữ này đã có sự ảnh hưởng, thâm nhập vào vốn từ ngữ toàn dân, góp phần làm phong phú cho lớp từ ngữ toàn dân.Với các từ ngữ này, Bình Nguyên Lộc đã thể hiện khả năng diễn đạt hết sức tinh tế của mình. - Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam Bảng 2.4. Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 3 4 5 Ãnh ương Ba khía Bã trầu Bình bát Bòng bong Ễnh ương, loài ếch nhái, có da màu nâu, nhớt, miệng bé, bụng to, tiếng kêu ồn. Một loại còng có hai càng to màu đỏ, sống ở vùng nước mặn, được người dân ngâm trong nước muối để làm thức ăn như một loại mắm Loại cá nhỏ ở ruộng, mương, nơi có rong rêu, có màu nâu sẫm như màu bã trầu, hình dáng như cá lia thia Cây mọc hoang ở bờ ao, kênh, rạch…có trái giống quả mãng cầu ta. Loại dây hoang, mọc thành “Cô Hồng lấy hai tiếng kêu của lũ ãnh ương ra mà làm lời để hát theo điệu Hòn vọng phu” [ 39; 85] “Nó chỉ biết họ ra biển để bắt cua và ba khía, một năm mấy kỳ” [38; 645] “Nơi đó tha hồ cho thủy thảo, cho bèo mọc, cho cá bã trầu sanh sản” [37; 279] “Nó đánh bạo chen qua những cây bình bát, cây rán mọc xen với tràm, để đi tới đích" [ 38; 647] “Sau đó, rừng tràm dày mịt,
  • 39. 33 6 7 8 9 10 11 Bồn bồn Cá lóc Choại Cò ma Cò quắm Cóc kèn bụi, lá có lông mịn, hoa xanh tím, trổ thành chùm Một loại cây thân cỏ, dẹp, phần lá non được dùng làm dưa chua ăn kèm Cá quả, cá có thân tròn, có vảy lớn và dày, phía lưng màu đen hoặc màu phèn, bụng màu ngà, đầu và mõm tròn, phóng giỏi và lóc đi trên cạn rất nhanh. Loại cây dây leo dùng làm dây buộc rất chắc, đọt non có thể luộc ăn được Loại cò có bộ lông màu đen mốc Loại cò có mỏ dài và hơi quặm Loại dây leo mọc phổ biến ở chằng chịt những dây bòng bong, dây choại bò từ thân cây này sang thân cây khác” [38; 647] “ - Nhổ bồn bồn ở dưới ấy, nhưng lên đây cho khô ráo để ăn cơm trưa é mà!” [38; 651] “Nhưng cá nhiều quá, những con cá lóc to bằng bắp chuối cứ lội đụng chơn họ hoài” [37; 157] “Sau đó, rừng tràm dày mịt, chằng chịt những dây bòng bong, dây choại bò từ thân cây này sang thân cây khác” [38; 647] “Đủ thứ là cò: cò ma, cò lông bông, cò quắm, cò hương thân mật nhìn bốn người gặt lúa nhà” [ 38; 654] “Đủ thứ là cò: cò ma, cò lông bông, cò quắm, cò hương thân mật nhìn bốn người gặt lúa nhà” [38; 654] “Những nơi ánh nắng lọt vào
  • 40. 34 12 13 14 Dừa nước Ốc gạo Ô rô bờ kinh, sông, rạch vùng đồng bằng, lá có nhiều nhánh, hoa trắng, trái dẹp Loại cây có những tàu lá, cao, to, mọc thành cụm, ở hai bên bờ sông, rạch vùng đồng bằng Sông Cửu Long Loại gốc nhìn bề ngoài hơi giống ốc đắng, nhưng lớn hơn, vỏ có màu sáng hơn Loại cây mọc hoang thành từng đám, chung với cây mái giầm, thường mọc phía trên bờ kinh, rạch, thân đỏ sẫm, lá xanh tạo thành nhiều góc nhọn được thì hai bên bờ, ô rô và cóc kèn mọc đầy” [38; 657] “Hết dừa nước, rồi đến dừa nước, dừa mọc lên đều đều như ai cặm nó ở đó để làm hàng rào” [37; 322] “- Dạ, cháu nhớ ốc gạo” [38; 924] “Những nơi ánh nắng lọt vào được thì hai bên bờ, ô rô và cóc kèn mọc đầy” [38; 657] Nhóm từ chỉ các loài động, thực vật xuất hiện trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc rất phong phú, gồm 94 từ, (chiếm 29.9%). Trong đó, những từ ngữ chỉ các loài động thực vật có đời sống gắn với sông nước, đầm lầy chiếm đa số. Một mặt nó cho thấy sự trù phú của vùng đất Nam Bộ, mặt khác, trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, nó gợi lên quang cảnh thiên nhiên của vùng đồng bằng Nam Bộ, nơi những con người Nam Bộ sinh sống và làm việc. Bên cạnh những từ ngữ chỉ thực vật ở Nam Bộ, thường thấy xuất hiện trong tác phẩm của Sơn Nam, chúng ta thấy xuất hiện những cây dầu, cây sao, cây cao su, cây xanh, cỏ bù xít,…mang nét đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ. Chính những từ ngữ này, khi xuất hiện trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc, người đọc sẽ nhận ra
  • 41. 35 khung cảnh thiên nhiên ở một vùng quê miền Đông của Nam Bộ, nơi chôn nhau, cắt rốn, nơi gắn bó yêu thương của chính tác giả. 2.2.1.2. Lớp từ vay mượn của nước ngoài theo cách riêng của người Nam Bộ Cũng như một số quốc gia, Việt Nam là một trong những quốc gia trở thành nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa. Sự tiếp xúc này đã để lại dấu vết trong vốn từ vựng của ngôn ngữ Việt. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng về văn hóa này lại không giống nhau ở các vùng phương ngữ khác nhau trong tiếng Việt. Hoàng Thị Châu trong giáo trình “Phương ngữ học tiếng Việt” đã đưa ra nhận định: “ Trong ba phương ngữ chính, phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ Hán Việt hay từ gốc Hán hơn cả (…). Trong phương ngữ Nam có nhiều từ địa phương mới vay mượn của tiếng Khmer” [5 ;108-109]. Như vậy, phân biệt sự khác nhau này cũng là cách tiếp cận về màu sắc địa phương. Trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm thấy có 27 từ ngữ ( chiếm 6.1%) được vay mượn từ các tiếng Khmer, Hán, Pháp. A. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer Bảng 2.5. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 Cà nhắc Cà rá Luôn đi bước thấp, bước cao Nhẫn đeo ở các ngón tay “Long cà nhắc lôi từ nhà ra sân chiếc ghế bố dài kiểu tàu thủy, rồi mở ra để nằm mà ngắm đầu hôm” [39; 146] “Qườn mặc pi gia ma màu vải ú màu xanh lá cây, đầu chải brilliantine Chợ Lớn sực nức mùi chanh, cổ đeo dây chuyền vàng khè, tay nặng trịu nào là lắc vàng, cà rá vàng và đồng hồ cũng
  • 42. 36 3 4 5 6 7 Cà ràng Cà ròn Cà rỡn Ên Nóp Bếp lò bằng đất nung, dạng dài, có phần phụ để đặt củi hoặc cào than ra Một loại bao đệm đan bằng cọng bàng, có kích cỡ lớn hơn túi đệm Đùa giỡn, có những lời nói đùa, pha trò vui vẻ Một mình, không có ai khác phụ, tham dự Bao đệm được đan bằng cọng bàng, có kích cỡ vừa với khổ người dùng thay cho chiếu và màn bằng vàng” [39; 66] “Nồi gạo vo rồi, được chị Nhánh bắc lên chiếc cà ràng mà bây giờ lửa đã cháy hỏa hào hỏa đế rồi” [37; 106] “Nàng vừa cúi xuống định kéo hai cái cà ròn no nóc quà nhà quê thì Hảo cản” [39; 269] “- Chớ nãy giờ con ngỡ ba,má nói cà rỡn hay sao? Sách có chữ : Tọa thực sơn băng..” [39; 24] “Ngày bốn bận đi về, còn chúa nhựt thì thầy dạo phố có mình ên” [38; 579] “Đêm khuya nhờ nóp che thân cho đỡ bị muỗi đốt và gió cắt da” [38; 656] Là một tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Khmer đã sinh sống lâu đời ở Đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các sóc, ấp,…Và chính trong đời sống cộng cư ấy, sự ảnh hưởng qua lại giữa tiếng Khmer và tiếng Việt diễn ra như một qui luật tất yếu của ngôn ngữ. Sự ảnh hưởng của tiếng Khmer trong tiếng Việt được diễn ra theo nhiều cách: giữ nguyên gốc hoặc được Việt hóa theo phiên âm riêng của người Việt. Trong khảo sát này,
  • 43. 37 chúng ta thấy số lượng từ ngữ vay mượn từ tiếng Khmer không nhiều nhưng chúng được lặp lại nhiều lần trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Điều này chứng tỏ, khi đi vào tiếng Việt lâu dần, tiếng Khmer được người Việt xem chúng như là lớp từ riêng của Nam Bộ và được sử dụng phổ biến trong người Việt ở Nam Bộ. Bởi vì, mặc dù chúng có nguồn gốc từ Khmer, nhưng được dùng quá lâu đời nên đã hoàn toàn Việt hóa, chúng ta không hề nghĩ đến những từ ngữ ấy có nguồn gốc từ đâu. Mặt khác, qua ngôn ngữ, cụ thể là qua ngôn ngữ trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng ta có thể nhận thấy sự giao lưu văn hóa, ngôn ngữ diễn ra một cách tự nhiên giữa hai dân tộc sống gần nhau. B. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán Bảng 2.6. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 3 4 Á khẩu Cắc chú Lộ Ngộ Ở tình trạng bệnh làm ảnh hưởng tới dây thần kinh miệng nên không thể phát ngôn, nói chuyện bình thường Tiếng gọi người Hoa kiều, cách gọi có vẻ không được trân trọng Đường, phố, đường lớn xe có thể chạy được Tôi, tao, từ chỉ ngôi thứ nhất số ít, phát âm theo cách phátt “ Nhưng nó vẫn á khẩu và bí đái suốt hai hôm”[37; 82] “- Bác ráng chờ, người chết là dân Việt Nam, mướn người Tàu, họ khóc tiếng cắc chú, nghe sao được” [37; 192] “- Đi chợ ngoài đường lộ, chứ có phải đi chợ Bưng đâu?” [ 38; 930] “Ngộ chạy không được mà ngộ tức lắm” [38; 798]
  • 44. 38 5 6 7 8 Nhựt trình Qua Số dách Tía âm của người Hoa nói chung Báo ra hằng ngày Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút khách quan nhưng thân tình Hạng nhất, không còn gì hơn Cha, cách xưng gọi của người đàn ông có con, trong mối quan hệ cha – con “Chị ta đọc nhựt trình vanh vách và chị ta có lần khinh anh làm nghề đi xin” [37; 335] “- Thằng Mùi thì qua cho một loi là nhào hớt” [38; 647] “Cá sát thịt rất ngon, nấu cháo ăn thì số dách” [37; 107] “- Tía nó sao câm cái miệng, không bắt vậy?” [38; 655] Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là nơi chịu ảnh hưởng ngôn ngữ của người Hoa nhiều hơn hết so với Trung Bộ và Nam Bộ. Tuy nhiên, trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm được số lượng từ có vay mượn từ tiếng Hán, dù không nhiều. So với những từ ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy một điều: Những từ xưng gọi trong tác phẩm Sơn Nam thường là những từ vay mượn từ tiếng Hán như: tía, hia, chế,…còn trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc, chúng tôi chỉ phát hiện được một trường hợp là tía. Nhưng từ này cũng chỉ diễn ra khi nhân vật là những người sinh sống ở cùng nông thôn mà thôi, còn nhân vật ở thành thị thì xưng và gọi là ba. C. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp
  • 45. 39 Trong gần 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, người dân Nam Bộ đã sử dụng tiếng Pháp theo cách riêng của mình, đó là nói theo phiên âm tiếng Việt và viết bằng cách phân tiết các từ vay mượn ấy. Chính vì thế mà trong phương ngữ Nam Bộ có nhiều từ ngữ được vay mượn theo cách này. Nhưng sự vay mượn của người miền Nam và người miền Bắc không giống nhau. Sau đây là một vài trường hợp được lặp lại với tần số cao trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc:
  • 46. 40 Bảng 2.7. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 3 4 5 Bê tông Đèn măng sông Le Mô đen Rua Hỗn hợp xi măng, sắt đá, cát,.. Đèn đốt bằng dầu có bơm hơi, ánh sáng phát ra từ chụp mang sông rất sáng thường dùng trong những đêm đám tiệc. Làm đỏm, làm đẹp, làm theo một cách phô trương hình thức bên ngoài, không được tự nhiên Hiện đại, hợp thời trang Bắt tay để tỏ tình thân ái khi mới gặp hoặc khi chia tay “Nhà bếp được phá nóc, làm trần bằng bê tông, trần này là nền của căn gác ấy” [40; 1008] “Ông Nam Thành có sắm một cái đèn mang sông, mua xăng, mua rượu đủ cả” [39; 35] “Mặc dầu ở dãy nhà bình dân phía sau, Bình vẫn quen với tất cả các gia đình giàu có phía trước nhờ địa vị sinh viên của chàng, một địa vị khá le trong xã hội ta” [37; 532] “Chàng không đi thăm Liễu nữa, bụng bảo dạ để Liễu tự do lựa chọn, vì biết đâu đêm ra ngoài xã hội mà người Pháp nói là vào xã hội, nuốt mất đi hai tiếng mô đen, biết đâu đêm đầu tiên ấy nàng đã gặp ngay người lý tưởng” [40; 1067] “- Ê, rua nghen bồ!” [37; 564]
  • 47. 41 6 7 8 9 10 Ve chai Xà bông Xà lách son Xe cam nhông Xi nê Đồ thủy tinh nói chung bị vứt bỏ làm đồ phế liệu Xà phòng, chất dùng để giặt, rửa được chế tạo bằng cách cho một chất kiềm kết hợp với một chất béo Cải soong, một loại rau lá nhỏ, láng, màu xanh đậm, có vị đắng khi ăn sống Loại xe tải dùng trong quân đội, có thùng xe phía sau buồng lái, chở lính ngồi thành hai hàng dọc theo chân xe, giữa thùng xe để đồ Chớp bóng, điện ảnh, có tính chất bài bản như trong phim, điện ảnh “Hai cô đã tổ chức đánh lộn với con trai tại vườn Tao Đàn, hồi còn đi học đã dám vác ve chai chọi lính Lê Dương thì có gì mà hai cô không dám” [39; 27] “- Làm lụng thì phải mặc đồ đen cho nó đỡ tốn xà bông” [38; 25] “Cô Hương xúc cá bằng vá dẫy rồi vội vàng đem lại đặt lên trên nệm xà lách son trong dĩa” [39; 17] “Ông Nam Thành đi mướn xe cam nhông” [39; 28] “- Có xi nê không chị?” [40; 927]
  • 48. 42 2.2.1.3. Lớp đơn vị gồm nhiều từ được người dân Nam Bộ nói thành thói quen như những tổ hợp từ, quán ngữ, thành ngữ ( gọi chung là quán ngữ) Bảng 2.8. Quán ngữ Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh 1 2 3 4 5 6 Ăn đầm nằm dề Ăn thua đủ Giãy tê tê Hèn chi Hú hồn hú vía Nên chi Đeo bám mãi một nơi nào đó, từ có hàm ý chê bai Không chịu thua kém, nhường nhịn ai Giãy đành đạch, cựa quậy liên tục do bị đau Hèn nào, hèn gì, thảo nào, từ biểu thị lẽ tất yếu trong quan hệ logich Hú hồn, nhưng ý diễn tả mạnh hơn Từ dùng để chuyển ý mang ý nghĩa chỉ kết quả “Bởi vì không khí ấy còn nguyên ở đây với những người khách ăn dầm nằm dề hổm rày” [39; 145] “Ai làm cho mụt ghẻ con bé lành là mẹ nó ăn thua đủ thực sự đó” [27; 556] “Quân tham lam, bây ăn thịt gà mắc xương nghẹt họng bây, bây ăn rồi bây ngã ra giãy tê tê, chết toi, chết dịch” [39; 61] “Hèn chi trẻ nhỏ hồi đó và đến người lớn bây giờ không đùa sao được” [37; 302] “- Vậy hả? Hú hồn hú vía” [39; 55] “Nên chi Cộc nhìn xuống chèo khuất dạng thì quay lưng tức khắc để chạy lên Ô Heo” [38; 645]
  • 49. 43 7 8 9 10 11 Phó thường dân Thử coi Thất kinh ông bà Trào máu họng Trời đất quỷ thần Cụm từ để diễn tả thành phần thấp kém trong xã hội, chưa được là dân thường nên chưa bằng ai Thử xem, cách dùng ở cuối phát ngôn như lời đề nghị ai đó làm một việc gì để xem kết quả ra sao, có ý hi vọng Rất sợ, sợ đến mức vừa tiếp xúc là đã khiếp Rất tức giận, tức giận như muốn tuôn trào ra ngoài cổ họng Trời đất, nhưng được dùng để nhấn mạnh sự ngạc nhiên, hoặc sự đau khổ cao độ “Làng quê nào cũng có ít lắm là một thằng khật khù như thằng Bò, nó là phó thường dân và sống bám theo các anh thường xuyên nói trên, vào ra công sở một ngày” [37; 117] “- Ông nói nghe dễ ợt. Sao không giỏi đổi nghề thử coi!” [39; 15] “- Gả con Qúa về đó cho nó khóc thất kinh ông bà chơi” [39; 46] “Hai người họ qua mặt mình một cái vù mà mình không làm gì được họ thì có trào máu họng hay không chứ!” [40; 1160] “- Trời đất quỷ thần ơi, ngó xuống mà coi. Cả dòng cả họ tôi, bên nội, bên ngoại có ai mà hư thân mất nết như vầy không nè!” [37; 93]
  • 50. 44 12 Trưa trờ trưa trật Trưa trờ, nhưng có ý nhấn mạnh hơn ở tính chất thời gian trưa, hoặc quá trưa “Cả nhà mòn mỏi rồi ngủ quên luôn cho đến trưa trờ trưa trật mới dậy” [39; 11] Lớp từ ngữ cố định có 19 đơn vị, (chiếm 4.3%), và chúng được lặp lại với tần số cao trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, nhất là trong lời nói của nhân vật. Lớp từ ngữ này thể hiện rõ bản sắc ngôn ngữ Nam Bộ và mang sắc thái biểu cảm cao trong tác phẩm văn chương. Đó là lý do vì sao, Bình Nguyên Lộc vận dụng chúng khá nhiều trong tác phẩm của mình. 2.2.2. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ Lớp từ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ cũng được tìm thấy trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, tuy số lượng không nhiều, gồm 25 từ ngữ, ( chiếm 5.6%). Đây là lớp từ có nhiều từ giống với từ vựng trong phương ngữ Trung Bộ, những từ mà người Nam Bộ sử dụng thì người Trung Bộ cũng đang còn dùng. Nguyên nhân là vì tổ tiên của cộng đồng người Nam Bộ chính là người Việt vùng Bắc Trung Bộ. Lớp từ ngữ này cho thấy một điều là khi nghiên cứu phương ngữ, chúng ta không chỉ căn cứ vào sự phân chia theo không gian địa lý mà còn phải chú ý đến yếu tố thời gian lịch sử nữa.Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi nêu ra những từ ngữ có nguồn gốc từ Trung Bộ được lặp lại nhiều lần trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Cụ thể như sau: