SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  97
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM TIẾN THÀNH
Tõ BIÖN PH¸P Xö Lý HµNH CHÝNH §¦A VµO C¥ Së CH÷A BÖNH
§ÕN BIÖN PH¸P §¦A VµO C¥ Së CAI NGHIÖN B¾T BUéC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Tiến Thành
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH......................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đƣa
vào cơ sở chữa bệnh ........................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh............ 9
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh ......12
1.2. Mục đích, vai trò của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ
sở chữa bệnh.......................................................................................15
1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.......................................................18
1.3.1. Khái niệm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
chữa bệnh.............................................................................................18
1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở chữa bệnh..................................................................................18
1.4. Các yếu tố tác động và những yêu cầu cơ bản đối việc việc
xây dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ
sở chữa bệnh.......................................................................................20
1.4.1. Các yếu tố tác động đối việc việc xây dựng pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh...................................20
1.4.2. Những yêu cầu cơ bản đối với việc xây dựng pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh...................................23
1.5. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về
biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.................26
1.6. Pháp luật của một số quốc gia liên quan tới biện pháp đƣa
vào cơ sở chữa bệnh...........................................................................30
1.6.1. Pháp luật Trung Quốc có liên quan tới biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh ...........................................................................................30
1.6.2. Pháp luật Thái Lan có liên quan đến biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh ...........................................................................................33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ
CHỮA BỆNH .......................................................................................... 37
2.1. Thực trạng các quy phạm pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.......................................................37
2.1.1. Các quy định về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh ...........................................................................................37
2.1.2. Các quy định về thẩm quyền xem xét áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở chữa bệnh..................................................................................42
2.1.3. Các quy định về trình tự thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở chữa bệnh.......................................................................................44
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp
xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh....................................52
2.3. Những tồn tại, bất cập của pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh trong thực tiễn áp dụng....58
Chƣơng 3: VIỆC CHUYỂN ĐỔI TỪ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH
CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH SANG BIỆN
PHÁP ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC.................62
3.1. Sự cần thiết của việc chuyển đổi từ biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh sang biện pháp đƣa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay................................62
3.2. Quy định về biện pháp đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong
Luật xử lý hành chính và các văn bản hƣớng dẫn thi hành............66
3.2.1. Quy định về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc ..................................................................................66
3.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.............................................................................68
3.3. Những tồn tại, bất cập của pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thực
tiễn áp dụng......................................................................................75
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp
luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc trong thời gian tới.............................................................79
KẾT LUẬN....................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................87
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CSCB: Cơ sở chữa bệnh
XLHC: Xử lý hành chính
XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước với ưu tiên cốt lõi là xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa đất nước ta thoát
khỏi sự khủng hoảng kinh tế và từng bước cải thiện được đời sống vật chất
cho nhân dân. Những thành tự của quá trình đổi mới không chỉ dừng lại ở tốc
độ phát triển kinh tế, sự ổn định của đời sống xã hội và đảm bảo an ninh quốc
gia, độc lập chủ quyền của dân tộc mà còn được thể hiện trong các thành tựu
về văn hóa, xã hội, công tác giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và đảm
bảo an ninh quốc phòng.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được dưới tác động của toàn cầu hoá
và mặt trái của kinh tế thị trường đã xuất hiện nhiều yếu tố tác động đến đời
sống xã hội, gây nguy hại không nhỏ đến nếp sống, thuần phong mỹ tục, làm
băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người. Tệ nạn ma tuý, mại dâm, buôn
bán người ở nước ta diễn biến phức tạp là một trong những vấn đề nóng bỏng,
nhức nhối, ảnh hưởng xấu đến đời sống và an toàn của xã hội, vi phạm pháp
luật, đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, phá vỡ hạnh phúc nhiều
gia đình, đe doạ tương lai của dân tộc. Trong tình hình đất nước mở rộng giao
lưu quốc tế hiện nay, cùng với việc phòng, chống nhiễm HIV/AIDS, thì vấn
đề đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, ma túy đang trở thành một trong
những vấn đề quan trọng, cấp bách ở nước ta, góp phần tạo sự ổn định tình
hình chính trị- xã hội, phát triển đất nước.
Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh là một trong bốn biện pháp xử lý
hành chính khác được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002 áp dụng đối với
người nghiện ma túy và người bán dâm với mục đích là bắt buộc cai nghiện,
chữa bệnh, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của các cơ sở chữa bệnh.
2
Biện pháp này có bản chất là hạn chế quyền tự do của công dân, do người
đứng đầu cơ quan hành chính ở địa phương quyết định. Thực tiễn áp dụng
biện pháp này trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập cần
được sửa đổi, bổ sung như: quy trình xem xét áp dụng biện pháp này chưa
thật sự đảm bảo công khai; là những biện pháp hạn chế quyền tự do của công
dân nhưng quá trình xem xét áp dụng lại không có sự tham gia của người bị
áp dụng cũng như luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích của họ… Đồng thời,
việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với gái mại dâm không
đáp ứng được yêu cầu đảm bảo về quyền con người trong tình hình mới. Bởi
vì, trong nhận thức hiện nay, họ nên được coi như một nhóm đối tượng dễ bị
tổn thương trong quan hệ xã hội, đồng thời cũng nên coi họ như nạn nhân của
các tệ nạn xã hội. Do đó, nhu cầu của việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh đối với gái mại dâm là không cần thiết nữa.
Trong bối cảnh định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật những năm gần đây đặc biệt nhấn mạnh đến
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân; quan điểm về tệ nạn xã hội và các biện pháp
phòng, chống tệ nạn xã hội đã có những thay đổi nhất định; yêu cầu thực hiện
các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên… quy định về các biện pháp
xử lý hành chính nói chung và quy định về biện pháp đưa vào cơ sở chữa
bệnh nói riêng cần được sửa đổi theo hướng bảo đảm tính công khai, minh
bạch và bảo đảm dân chủ, công bằng.
Chính vì vậy, Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã ban hành Luật XLVPHC năm 2012 đã có nhiều sửa đổi quan trọng.
Trong đó có vấn đề sửa đổi biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa
bệnh thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sự khác biệt của
Luật XLVPHC 2012 so với Pháp lệnh XLVPHC 2002 về biện pháp đưa
3
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở đối tượng áp dụng biện pháp; chủ
thể áp dụng; trình tự thủ tục áp dụng...
Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của Đảng về mục tiêu
cải cách bộ máy nhà nước nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung cũng như hiệu quả của hoạt động xử lý vi phạm hành
chính nói riêng, trong đó có biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trước đây và
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay, thì việc tăng cường nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa
bệnh trước đây và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay là
hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những phân tích nêu trên, học viên mạnh dạn chọn đề tài
“Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật Việt Nam về các biện pháp XLHC khác nói chung và biện
pháp XLHC đưa vào CSCB trước đây nói riêng, khi nghiên cứu cần đặt nó
trong tổng thể các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Liên quan
đến lĩnh vực này cũng đã có một số tác giả tập trung nghiên cứu như sau:
* Các công trình nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính nói chung
- Tác giả Vũ Thư với luận án phó tiến sĩ luật học về “Chế tài hành
chính – Lí luận và thực tiễn”, bảo vệ thành công tại Viện Nhà nước và pháp
luật, 1996;
- Tác giả Nguyễn Trọng Bình với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn
thiện các quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”,
bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002;
- Tác giả Nguyễn Ngọc Bích với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn
thiện pháp luật về XLHC với người chưa thành niên”, bảo vệ thành công tại
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
4
Các công trình nghiên cứu trên đây, đã đưa ra một số vấn đề lý luận
cũng như thực tiễn của việc xử phạt vi phạm hành chính đồng thời cũng đã đề
cập đến một số khía cạnh của các biện pháp XLHC khác như: đưa vào CSCB;
đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn…
* Các công trình nghiên cứu về các biện pháp XLHC khác
Trực tiếp đề cập nội dung về các biện pháp XLHC khác có thể kể đến
một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp “Các biện pháp
XLHC khác và việc bảo đảm quyền con người” do Thạc sĩ Đặng Thanh Sơn
làm chủ nhiệm đề tài cũng nhóm nghiên cứu. Đây là công trình có tính quy
mô và khá chi tiết về các biện pháp XLHC khác.
- Tác giả Hoàng Thị Kim Quế với bài viết “Về các biện pháp XLHC
khác: Thực tiễn và giải pháp” đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
- Tác giả Trần Thanh Hương với bài viết “Quyền công dân, quyền con
người và chỗ đứng của các biện pháp XLHC khác trong pháp luật về vi phạm
hành chính” đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
* Các công trình nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào CSCB
Hiện nay, việc nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng đã
được một số tác giả nghiên cứu, tuy nhiên, các công trình đã công bố mới chỉ
dừng lại ở mức độ các bài viết nghiên cứu đăng trên một số tạp chí chuyên
ngành luật học, có thể kể đến một số công trình như:
- Tác giả Đào Thị Thu An với bài viết “Biện pháp đưa vào cơ sở chữa
bệnh trong Dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính” đăng trong Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 20/2011;
Còn lại, việc nghiên cứu về pháp luật trong lĩnh vực này còn rất hạn chế.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phần nào giải quyết được một số
5
khía cạnh của vấn đề lý luận và và thực tiễn về biện pháp đưa vào CSCB trước
kia cũng như biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện
nay. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có bất kỳ một công trình nào được công bố ở
cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có liên quan đến vấn đề này, cũng như chưa có
một công trình nào giải quyết được một cách triệt để và tổng thể các vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào CSCB.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Công trình tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực trạng
pháp luật về biện pháp đưa vào CSCB trước kia và biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc hiện nay. Luận văn cũng tập trung lý giải những nguyên
nhân, những cơ sở lý luận cho việc chuyển đổi biện pháp đưa vào cơ sở chữa
bệnh thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Từ đó luận giải cho
những sửa đổi bổ sung này về mặt lý luận.
Luận văn cũng phân tích thực trạng của việc áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở chữa bệnh cho đến trước giai đoạn Luật XLVPHC năm 2012 có hiệu
lực và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay.
Mục đích của việc này là nhằm luận giải những thay đổi của các biện pháp
này từ vấn đề thực trạng tổ chức và thực hiện.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được các mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ phải thực
hiện như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp XLHC đưa vào CSCB
nhằm xây dựng khái niệm mang tính khoa học về biện pháp này, tìm ra các
đặc trưng riêng và vai trò của biện pháp này trong việc đấu tranh chống lại
các hành vi vi phạm hành chính góp phần bảo vệ trật tự xã hội và đảm bảo an
ninh đất nước;
6
- Xác định những yêu cầu cơ bản trong việc xây dựng và áp dụng biện
pháp XLHC đưa vào CSCB nhằm đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời bảo đảm
quyền tự do, quyền con người, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện
qua việc phân tích các số liệu thống kê về thực tiễn áp dụng biện pháp XLHC
đưa vào CSCB trong những năm vừa qua;
- Lý giải những nguyên nhân, sự cần thiết của việc chuyển biện pháp
đưa vào CSCB thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Trình bày những vấn đề pháp lý hiện nay về biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc về thực trạng pháp luật và tổ chức thực hiện.
- Đề xuất những kiến nghị, những giải pháp xác đáng, khoa học có tính
khả thi cho việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả việc tổ
chức thực hiện pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước
về định hướng xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về các biện pháp
XLHC khác nói chung cũng như biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng.
Nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB và
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các biện pháp XLHC khác bao gồm: Biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào
7
CSCB. Đây là một lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong phạm vi luận văn của
mình, học viên tập trung phân tích và đi sâu vào nghiên cứu biện pháp XLHC
đưa vào CSCB được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002 được sửa đổi, bổ
sung năm 2007 và năm 2008. Đồng thời luận văn cũng tập trung nghiên cứu
về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật XLVPHC 2012. Để
tìm ra mối liên hệ giữa hai biện pháp này, lý giải được tại sao biện pháp đưa
vào CSCB lại được thay đổi chuyển thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc. Đồng thời luận văn nghiên cứu về vấn đề thực tiễn áp dụng biện
pháp XLHC đưa vào CSCB trong giai đoạn từ từ năm 2006 - 2013 và việc áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử để thấy rõ sự hình thành, phát triển của pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào CSCB.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh
đối chiếu, suy luận logic được sử dụng nằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp
cho mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp
lý và chưa hợp lý của các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó
đưa ra được kết luận có tính khoa học và nổi bật về vấn đề.
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử
dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được
có thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB, đó là cơ sở chính
xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả thi.
8
6. Nhƣng đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu trực tiếp và tương đối toàn diện về
biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luận văn xác định được những yếu tố cơ bản tác động đến quy định
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc trong Luật XLVPHC, đồng thời cũng đưa ra được
những yêu cầu cụ thể trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của
pháp luật liên quan biện pháp này, đảm bảo việc tổ chức thực hiện trong
thực tiễn đạt kết quả cao.
Luận văn có giá trị trong việc làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu khoa
học của các sinh viên ngành luật học khi tiếp cận nghiên cứu vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở chữa bệnh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Chương 3: Việc chuyển đổi từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
chữa bệnh sang biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
cơ sở chữa bệnh
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
Xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển vững mạnh khi có sự ổn định về
trật tự an toàn về kinh tế, chính trị cũng như xã hội. Trật tự đó được bảo đảm
thực hiện bằng hệ thống chế tài, các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, cũng như để ngăn ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật hết sức đa dạng và phức tạp. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng
chế nhà nước có rất nhiều các biện pháp khác nhau như: cưỡng chế hình sự,
cưỡng chế dân sự và kỷ luật, bên cạnh đó cưỡng chế hành chính cũng có một
vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp
luật, duy trì ổn định xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, tăng cường hiệu quả
quản lý nhà nước.
Cưỡng chế hành chính cũng bao gồm nhiều cách thức, biện pháp khác
nhau. Dựa trên cơ sở áp dụng, cưỡng chế hành chính có thể chia thành hai
nhóm lớn là: nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính được áp dụng khi có vi
phạm hành chính xảy ra; nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính được áp dụng
trong trường hợp không có vi phạm hành chính nhằm mục đích ngăn chặn,
phòng ngừa vi phạm hành chính hoặc vì mục đích an ninh quốc gia, bảo vệ
cộng đồng, phòng chống thiên tai… Các hình thức XLHC thuộc nhóm biện
pháp cưỡng chế hành chính áp dụng trên cơ sở có vi phạm hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khái niệm “xử lý vi phạm
10
hành chính” được cấu thành bởi hai nội dung cơ bản là biện pháp “xử phạt
vi phạm hành chính” và biện pháp “XLHC khác”. Tại Pháp lệnh XLVPHC
năm 2002 quy định:
Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành
chính và các biện pháp XLHC khác và Các biện pháp XLHC khác
được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự được quy định tại các Điều 23, 24, 25, 26 của Pháp
lệnh này [44, Điều 1, khoản 1, 2].
Các biện pháp XLHC khác được xem là biện pháp cưỡng chế hành
chính đặc biệt vì thực chất các biện pháp XLHC khác đã hạn chế quyền tự do
cá nhân trong một giai đoạn nhất định với hình thức: đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào CSCB và đưa vào cơ sở giáo dục. Các biện pháp này cũng
cách ly người bị xử lý ra khỏi đời sống xã hội, đưa vào một môi trường quản
lý đặc biệt có tính kỷ luật cao và chặt chẽ, về mức độ các biện pháp này
không hề thua kém các biện pháp tư pháp hình sự khác. Nhóm biện pháp này
có đặc trưng là thời gian cưỡng chế khá dài từ 3 tháng đến 2 năm; người bị áp
dụng phải chịu sự giám sát và quản lý chặt chẽ của cơ quan hành chính nhà
nước, tổ chức xã hội và các đoàn thể… Đối tượng bị áp dụng các biện pháp
này cũng đa dạng và đặc biệt hơn.
Theo quy định tại Điều 22, Pháp lệnh XLVPHC 2002 và Pháp lệnh
XLVPHC sửa đổi năm 2007 thì các biện pháp XLHC khác bao gồm:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Đưa vào trường giáo dưỡng;
- Đưa vào cơ sở giáo dục;
- Đưa vào cơ sở chữa bệnh [44]; [45].
Biện pháo đưa vào CSCB là một trong bốn biện pháp XLHC khác được
11
áp dụng đối với người nghiện ma túy và người bán dâm với mục đích là bắt
buộc cai nghiện, chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý
của các CSCB.
Biện pháp đưa vào CSCB nhìn chung cũng mang những đặc điểm của
biện pháp XLHC, bản chất là biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, do
người đứng dầu cơ quan hành chính ở địa phương quyết định. Như chúng ta
đã biết, các đối tượng vi phạm hành chính mà là người nghiện ma túy, hoặc
người bán dâm thường có những biểu hiện về bệnh lý nhất định. Hiện nay, y
học đã chứng minh nghiện ma túy là một bệnh của não bộ, vì vậy việc tiến
hành các biện pháp điều trị (cai nghiện ma túy) được tiến hành như việc chữa
bệnh. Còn đối với người bán dâm, bản thân việc bán dâm chỉ là một tệ nạn xã
hội cần bị lên án, tuy nhiên, đối với người bán dâm rất hay mắc phải các bệnh
truyền nhiễm lây qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS. Bên cạnh đó,
việc đưa người bán dâm vào các CSCB còn nhằm mục đích để họ được lao
động, học văn hóc, học nghề nên điều này là cần thiết trong việc ngăn chặn tệ
nạn mại dâm đang ngày càng nhức nhối hiện nay.
Hiện nay, khái niệm về CSCB còn được hiểu khác nhau giữa các văn
bản luật, theo Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 thì việc cai nghiện bắt
buộc cho người nghiện ma túy được thực hiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc,
còn theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi
hành thì được hiểu là CSCB áp dụng đối với người nghiện ma túy bị XLHC.
Theo quy định của Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày
10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự
nguyện vào cơ sở chữa bệnh thì cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật Phòng,
12
chống ma túy và cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh XLVPHC được gọi chung là
Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội. Đây là nơi chữa trị, học
tập và lao động phục hồi đối với người nghiện ma túy, người bán dâm bị xử lý
vi phạm hành chính bằng biện pháp đưa vào CSCB; người nghiện ma túy và
người bán dâm là người chưa thành niên và người nghiện ma túy, người bán
dâm tự nguyện vào CSCB để cai nghiện, chữa trị.
Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm biện pháp XLHC đưa vào CSCB một
cách khái quát như sau: “Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là một trong những
biện pháp XLHC khác được pháp luật quy định mà nội dung của biện pháp
này là việc đưa các đối tượng bán dâm, nghiện ma túy có đủ các điều kiện
quy định vào các CSCB (hay còn gọi là Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục –
Lao động Xã hội) để chữa trị, học tập và lao động phục hồi, nhằm mục đích
giúp những đối tượng đó trở thành công dân có ích cho xã hội”.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là nằm trong nhóm biện pháp XLHC
khác được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002. Vì vậy, xét về đặc điểm
biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng có những đặc điểm chung của các biện
pháp XLHC khác.
- Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp cưỡng chế hành chính
nhà nước
Xét về đặc điểm này, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có tính pháp lý,
bởi vì biện pháp này được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp
luật của nhà nước, cụ thể là Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Nghị
định của Chính phủ… Biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng do các cơ quan
có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật. Nghĩa là chỉ có các chủ
thể được pháp luật quy định mới có thể tiến hành áp dụng biện pháp này khi
XLHC đối với người nghiện ma túy hoặc người bán dâm. Việc tiến hành biện
13
pháp XLHC đưa vào CSCB cũng được tiến hành theo những thủ tục hành
chính chặt chẽ, công khai, minh bạch do các quy phạm thủ tục hành chính quy
định. Thủ tục này được pháp luật hành chính quy định một cách chặt chẽ qua
nhiều khâu, quy định khác nhau.
Tính cưỡng chế hành chính nhà nước của biện pháp XLHC đưa vào
CSCB thể hiện ở chỗ biện pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với
người bị áp dụng, đồng thời đây cũng là biện pháp cưỡng chế mang tính
nghiêm khắc cao chỉ sau cưỡng chế hình sự. Thể hiện ở việc hạn chế quyền tự
do nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
- Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp xử lý chỉ áp dụng đối
với cá nhân – công dân Việt Nam
Theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp XLHC đưa
vào CSCB chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp
luật về an ninh trật tự, an toàn xã hội. Như trên đã phân tích, việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế hành chính đưa vào CSCB có bản chất là hạn chế các
quyền tự do của đối tượng bị áp dụng, đồng thời trong các CSCB thì chủ thể
đó sẽ được chữa bệnh, giáo dục, cải tạo và học tập để trở thành người có ích
cho xã hội. Chính vì vậy, đây là biện cưỡng chế hành chính chỉ áp dụng đối
với cá nhân mà không áp dụng đối với tổ chức như các biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính.
- Việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng theo
những trình tự, thủ tục chặt chẽ và đối tượng bị áp dụng phải chịu sự quản lý
và hạn chế một số quyền tự do cá nhân nhất định
Với nội dung là hạn chế một số quyền tự do của con người khi áp dụng
biện pháp XLHC đưa vào CSCB nên Pháp lệnh XLVPHC 2002 cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối chặt chẽ trình tự, thủ tục
áp dụng biện pháp này. Điều này đảm bảo tính minh bạch trong quá trình xử
lý, đồng thời tránh tình trạng vi phạm các quyền con người trong khi áp dụng.
14
- Biện pháp XLHC đưa vào CSCB chỉ được áp dụng đối với hai nhóm
đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm
Để phân biệt với các biện pháp XLHC khác được quy định trong Pháp
lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp XLHC đưa vào CSCB chỉ được áp dụng
đối với nhóm đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm. Theo quy
định của Điều 26, Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì những đối tượng sau bị áp
dụng biện pháp đưa vào CSCB [43]: Thứ nhất, người nghiện ma tuý từ đủ 18
tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; Thứ
hai, người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện
pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Đây là những nhóm đối
tượng có hành vi vi phạm thường xuyên các quy định của pháp luật về an
toàn, trật tự xã hội mà đã bị áp dụng các biện pháp xử lý khác nhưng vẫn vi
phạm hoặc trường hợp chưa bị áp dụng các biện pháp xử lý khác nhưng
không có nơi cư trú rõ ràng.
- Về nội dung việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB là nhằm để
người nghiện ma túy, người bán dâm lao động, học văn hoá, học nghề và
chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB
Theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì mục đích cũng như
bản chất của việc đưa người nghiện ma túy, người bán dâm vào CSCB là
nhằm để họ cải tạo, lao động, học văn hóa, học nghề và chữa bệnh dưới sự
quản lý tập trung, thống nhất và kỷ luật của CSCB. Như vậy, về tên gọi biện
pháp này được thể hiện trong Pháp lệnh XLVPHC 2002 là biện pháp đưa vào
CSCB. Tuy nhiên, trên thực tế việc bị áp dụng biện pháp xử lý này, đối tượng
không chỉ vào để chữa bệnh mà còn để học tập, lao động, học nghề để đảm
bảo sau khi ra ngoài đời sống xã hội không quay trở lại con đường cũ mà có
15
thể làm ăn, sinh sống như những người bình thường khác. Đây cũng chính là
chính sách nhân văn trong việc xử phạt vi phạm hành chính của Nhà nước ta,
khi mà trong biện pháp trừng trị luôn có sự giáo dục và cải tạo.
1.2. Mục đích, vai trò của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở
chữa bệnh
Việc xác định mục đích của một loại biện pháp cưỡng chế cần xuất
phát từ chính vai trò của nó đối với xã hội, đồng thời căn cứ vào đối tượng áp
dụng của biện pháp đó. Các biện pháp XLHC có vai trò to lớn trong việc giáo
dục, cảm hóa, chữa bệnh và tạo điều kiện cho người vi phạm pháp luật trở
thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội, góp phần ổn định an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững trật tự quản lý hành chính nhà nước.
Biện pháp XLHC đưa vào CSCB được ban hành và áp dụng nhằm
hướng đến các mục đích sau:
Thứ nhất, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích trước hết là
để nhằm chữa bệnh cho người nghiện ma túy, người bán dâm. Như tên gọi
của biện pháp XLHC này là đưa vào CSCB vì vậy, mục đích đầu tiên của
biện pháp này là việc chữa bệnh cho những đối tượng được đưa vào CSCB.
Như chúng ta đã biết, khoa học đã chứng minh nghiện ma túy là một bệnh lý
thần kinh về não bộ và y học đã tìm ra các phương pháp chữa bệnh để khắc
phục tình trạng nghiện của người nghiện ma túy. Bên cạnh đó, người bán
dâm cũng là những đối tượng có nguy cơ cao trong việc bị nhiễm các bệnh
lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS, vì vậy, việc áp dụng
biện pháp chữa bệnh đối với những đối tượng này là cần thiết trong việc
giúp đỡ những người này.
Việc chữa bệnh cho người nghiện ma túy, người bán dâm là mục đích
cơ bản, quan trọng của việc áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Điều này thể
hiện tính nhân văn của biện pháp XLHC này khi mà bên cạnh mục đích trừng
16
trị, trừng phạt người có hành vi vi phạm hành chính mà còn là nhằm mục đích
chữa bệnh cho họ, để đạt được mục đích vừa giáo dục, vừa tạo điều kiện cho
người vi phạm hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích giáo dục, chú ý
đến cải tạo tư tưởng, coi trọng các mối quan hệ của người bị áp dụng với cộng
đồng, gia đình và xã hội. Giáo dục là mục đích quan trọng của biện pháp
XLHC đưa vào CSCB, bắt nguồn từ bản chất nhân đạo sâu sắc của xã hội ta
luôn tạo điều kiện hoàn thiện nhân cách con người, biết tôn trọng và tuân thủ
pháp luật. Mục đích giáo dục ở đây không chỉ là giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật của đối tượng vi phạm mà còn cảm hóa, giáo dục cả về đạo đức, lối
sống, cũng như phục hồi sức khỏe tạo điều kiện cho người vi phạm trở thành
người công dân có ích cho xã hội, sớm hòa nhập cộng đồng. Chính vì vậy, các
CSCB đã được cụ thể hóa trong Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004
của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức
hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC và chế độ áp dụng đối với
người thành niên, người tự nguyện vào CSCB và Nghị định 61/2011/NĐ-CP
ngày 26/7/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung nghị định 135/2004/NĐ-
CP nói trên thì tên gọi của các CSCB và cơ sở cai nghiện bắt buộc được gọi
chung là các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động Xã hội. Đó là mục
đích quan trọng và có ý nghĩa của biện pháp XLHC này.
Thứ ba, biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng nhằm mục đích
trừng phạt người có hành vi vi phạm hành chính. Tính trừng phạt được coi là
một thuộc tính vốn có của các biện pháp cưỡng chế, không chỉ có trong cưỡng
chế hành chính mà còn trong cả cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự…
Trong luật hình sự thì một trong các mục đích của hình phạt đó là tính trừng
trị của hình phạt. Tương tự như vậy, các biện pháp cưỡng chế hành chính có
tính trừng phạt tương đối cao, chỉ sau cưỡng chế hình sự. Đặc biệt là các biện
17
pháp XLHC khác, trong đó có biện pháp đưa vào CSCB. Biện pháp đưa vào
CSCB là một biện pháp tính cưỡng chế tương đối cao khi nội dung của nó là
tước bỏ một số quyền nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng thời
gian nhất định. Chính vì tính chất này nên người bị áp dụng chúng sẽ phải
sinh sống, học tập và chữa bệnh trong các CSCB và chịu sự quản lý nghiêm
ngặt của các cơ sở này.
Tính trừng phạt của biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hết sức cần thiết.
Bởi vì, đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC này là những đối tượng nghiện
ma túy hoặc bán dâm thường xuyên, đã bị áp dụng các biện pháp XLHC khác ở
cấp độ nhẹ hơn nhưng vẫn tái phạm hoặc các đối tượng này không có nơi cư
trú cố định. Các đối tượng này thường có những hành vi vi phạm pháp luật, gây
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tính trừng phạt của
biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hết sức cần thiết, thể hiện tính nghiêm minh
của pháp luật, buộc họ phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi là hạn chế một
phần quyền tự do và chịu sự quản lý giám sát của CSCB.
Thứ tư, biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng nhằm mục
đích phòng ngừa, ngăn chặn khả năng tái phạm của người bị áp dụng. Như
chúng ta đã biết, đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB là
những đối tượng nghiện ma túy, bán dâm đã vi phạm nhiều lần, đã bị xử lý
bằng các biện pháp khác nhưng vẫn tái phạm hoặc không có nơi cư trú rõ
ràng. Vì vậy, việc áp dụng đối biện pháp XLHC đưa vào CSCB đối với
những đối tượng này là cần thiết để ngăn chặn họ tái phạm và tiếp tục đi
vào con đường lầm lạc.
Mục đích phòng ngừa ở đây bao gồm cả phòng ngừa chung và phòng
ngừa riêng, chú ý loại trừ những nguyên nhân thực hiện hành vi trái pháp luật
và tạo điều kiện cho người bị áp dụng tái hòa nhập cộng đồng. Khả năng
phòng ngừa chung của biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích nhằm
18
răn đe, cảnh báo và ngăn ngừa sự vi phạm của các đối tượng khác trong xã
hội, khi đang có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Như chúng ta đã biết, đối tượng nghiện ma túy hoặc người bán dâm
thường là những đối tượng nguy hiểm, mức độ tái phạm thường xuyên, cần
phải hạn chế quyền tự do đối với họ, cần sự giám sát và quản lý chặt chẽ để
ngăn ngừa khả năng tái phạm của họ. Mục đích phòng ngừa được thực hiện
thông qua sự kết hợp giữa giáo dục và trừng trị, lôi cuốn các lực lượng xã hội
tham gia đấu tranh và phòng ngừa vi phạm, thúc đẩy dư luận xã hội.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB còn có vai
trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, khôi phục trật tự quản lý hành chính nhà nước,
trật tự pháp luật.
1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh
1.3.1. Khái niệm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở chữa bệnh
Pháp luật là là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng quyền
lực Nhà nước. Do đó, ta có thể hiểu pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào
CSCB như sau: “Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hệ thống
các quy định do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó nội
dung của nó là việc quy định đưa những đối tượng nghiện ma túy hoặc bán
dâm có các điều kiện theo quy định của pháp luật vào các CSCB để lao động,
học văn hóa, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB”.
1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở chữa bệnh
Với tư cách là một nhóm các quy định pháp luật có tính độc lập trong
19
hệ thống pháp luật về các biện pháp XLHC, pháp luật về biện pháp XLHC
đưa vào CSCB cũng có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
- Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB do những cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Cũng như đặc điểm chung của pháp luật, biện
pháp XLHC đưa vào CSCB cũng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành, cụ thể ở đây là: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh
XLVPHC 2002, trong đó có quy định về biện pháp XLHC đưa vào CSCB tại
Điều 26; Chính phủ quy định cụ thể biện pháp này bằng Nghị định
135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh
XLVPHC và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện
vào CSCB; Nghị định 61/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ
áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức hoạt động của CSCB theo Pháp
lệnh XLVPHC và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự
nguyện vào CSCB. Đồng thời, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chủ
trì, phối hợp với các Bộ, ngành trung ương ban hành một loạt thông tư, thông
tư liên tịch hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Đặc điểm này còn cho thấy, tính pháp chế trong việc quy định biện
pháp XLHC đưa vào CSCB, theo đó, việc áp dụng biện pháp này phải tuân
theo những quy định hết sức cụ thể và chặt chẽ trong các văn bản quy phạm
pháp luật của nhà nước. Điều này cũng dễ hiểu bởi đây là biện pháp cưỡng
chế hành chính tương đối nghiêm khắc, khi tước đi một phần quyền tự do cá
nhân của chủ thể khi áp dụng.
- Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB có nội dung là nhằm
đưa người nghiện ma túy, người bán dâm vi phạm nhiều lần đã được áp dụng
các biện pháp XLHC khác nhưng vẫn vi phạm hoặc không có nơi cư trú rõ
20
ràng vào các CSCB để lao động, học tập, học nghề và chữa bệnh. Đây là đặc
điểm thể hiện nội dung cơ bản của biện pháp XLHC này. Bởi đối tượng quy
định của biện pháp XLHC này chính là người nghiện ma túy và người bán
dâm, là những đối tượng có hành vi vi phạm hành chính ở mức độ tương đối
nguy hiểm, xâm phạm vào trật tự quản lý hành chính nhà nước, đe dọa an
toàn trật tự công cộng cần phải cách ly một thời gian khỏi cộng đồng để quản
lý và giáo dục thành người lương thiện cho xã hội.
- Pháp luật về biện pháp đưa vào CSCB có nội dung chủ yếu là biện
pháp giáo dục, học tập, cải tạo và chữa bệnh đối với những đối tượng bị áp
dụng. Bản chất của biện pháp này là việc đưa các đối tượng bán dâm, người
nghiện ma túy vào các CSCB để họ làm lại cuộc đời. Trong các CSCB người
nghiện ma túy, người bán dâm được học tập văn hóa, học nghề, lao động sản
xuất và chữa bệnh để phục hồi sức khỏe, cắt cơn và cai nghiện, chữa các bệnh
truyền nhiễm khác, đồng thời với đó là học nghề để đảm bảo quá trình tái hòa
nhập cộng đồng. Mục đích của pháp luật quy định về biện pháp XLHC đưa
vào CSCB là nhằm cho người nghiện ma túy, người bán dâm lao động, học
nghề, học tập và chữa bệnh để trở thành người có ích cho xã hội. Đây chính là
tính nhân văn của các quy định pháp luật về biện pháp XLHC này.
1.4. Các yếu tố tác động và những yêu cầu cơ bản đối việc việc xây
dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh
1.4.1. Các yếu tố tác động đối việc việc xây dựng pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
- Yếu tố chính trị - tư tưởng
Các yếu tố về chính trị - tư tưởng là các yếu tố thuộc thượng tầng kiến
trúc luôn có sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Pháp luật về các biện
pháp cưỡng chế hành chính cũng bị chi phối và phụ thuộc nhiều vào yếu tố
chính trị - tư tưởng. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
21
tư tưởng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo và mở rộng các
quyền tự do dân chủ luôn là những yếu tố chính trị - tư tưởng có tác động
mạnh mẽ đến pháp luật về các biện pháp XLHC trong đó có biện pháp
XLHC đưa vào CSCB.
Nằm trong mối tương quan với các biện pháp XLHC khác, biện pháp
đưa vào CSCB cần được xây dựng một cách đúng đắn và phù hợp nhất, đáp
ứng hiệu lực, hiệu quả tình hình xử lý vi phạm pháp luật, phản ánh được
các yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội đồng
thời thể hiện được nội dung dân chủ, công bằng và nhân đạo của pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, về mặt bản chất, các biện pháp XLHC khác nói chung và
biện pháp đưa vào CSCB nói riêng luôn mang trong mình ý chí của giai cấp
thống trị. Khi có sự thay đổi về giai cấp thống trị xã hội thì tất yếu dẫn đến
quan niệm, nội dung, mục đích áp dụng các biện pháp này là khác nhau. Quan
niệm của các giai cấp trong xã hội đối với các đối tượng bị áp dụng các biện
pháp, về tệ nạn, hiện tượng trong xã hội sẽ quy định nội dung, trình tự, thủ tục
của biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Cụ thể như, sự nhìn nhận của xã hội về
các đối tượng bán dâm là người vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp
XLHC đưa vào CSCB hay họ chỉ là nạn nhân cần được hỗ trợ trong quá trình
tái hòa nhập cộng đồng, cũng làm thay đổi quan niệm về đối tượng áp dụng
biện pháp đưa vào CSCB.
Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cũng có ảnh hưởng đến pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Theo đó, ở nước ta quyền lực nhà
nước tập trung vào Quốc hội, cơ quan đại diện cho lợi ích và ý chí của đông
đảo người dân. Tuy nhiên, giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp có
sự phân công, phối hợp hài hòa với nhau. Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là
biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân được quy định tại Điều 26 của
22
Pháp lệnh XLVPHC 2002 thuộc thẩm quyền xử lý của các cơ quan hành
chính nhà nước. Nhưng việc quy định cơ sở pháp lý của biện pháp XLHC này
lại thuộc về Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Yếu tố kinh tế - văn hóa – xã hội
Sự tác động của các yếu tố kinh tế - văn hóa – xã hội tới pháp luật là
một vấn đề đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra. Theo
đó, pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng của kiến trúc thượng tầng
phản ánh cơ sở hạ tầng tương ứng và chịu sự quyết định của các yếu tố cơ sở
hạ tầng này. Trong đó yếu tố kinh tế là yếu tố hàng đầu. Một hệ thống pháp
luật đảm bảo được sự phù hợp với điều kiện kinh tế tại thời kỳ đó thì sẽ có
tính điều chỉnh cao và sẽ có tác dụng bảo vệ cũng như thúc đẩy sự phát triển
của các quan hệ xã hội.
Những biến đổi về mặt kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới sự quy định về
các biện pháp XLHC khác nói chung và biện pháp đưa vào CSCB nói riêng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, với các hệ quả của nó đã
kéo theo nhiều sự thay đổi cả về đời sống tư tưởng và con người, đặc biệt là
giới trẻ. Trong nền kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội phát triển ngày càng
nhanh chóng, mà điển hình là tệ nạn mại dâm và nghiện ma túy. Chính vì vậy,
sự thay đổi của các yếu tố này sẽ dẫn đến pháp luật về biện pháp XLHC đưa
vào CSCB cũng cần phải biến đổi cho phù hợp, để nhằm đảm bảo ngăn ngừa
được tình trạng vi phạm pháp luật, giáo dục, cải tạo các đối tượng nghiện ma
túy, bán dâm trở thành người có ích cho xã hội.
- Các yếu tố khác từ bên ngoài tác động tới pháp luật về XLHC đưa
vào CSCB
Việt Nam đã và đang tiến hành quá trình hội nhập quốc tế ngày càng
sâu sắc. Hiện nay, chúng ta đã trở thành thành viên của rất nhiều điều ước
quốc tế song phương và đa phương, trong đó có các điều ước về quyền con
23
người cơ bản. Chính vì vậy, việc thực hiện các cam kết quốc tế được thể hiện
cụ thể tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia có ảnh hưởng nhất
định đến hệ thống pháp luật nói chung trong đó có hệ thống pháp luật về các
biện pháp XLHC.
Như chúng ta đã biết, biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp xử
lý có tác động đến các quyền tự do cá nhân của công dân. Vì vậy, khi Việt
Nam đã là thành viên của các Điều ước quốc tế về quyền con người thì cần có
những quy định pháp luật hết sức cụ thể, minh bạch trong việc áp dụng biện
pháp này đối với các đối tượng. Đặc biệt xu thế của thế giới về việc có nên
coi đối tượng bán dâm là đối tượng vi phạm pháp luật hay không, hoặc việc
áp dụng biện pháp xử lý đối với người bán dâm là nên áp dụng biện pháp gì
để vừa đảm bảo việc ngăn chặn tình trạng tái vi phạm, vừa hỗ trợ trợ trong
việc hòa nhập cộng đồng là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Tất cả những tác động trên đây có thể tác động một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp đến pháp luật về XLHC đưa vào CSCB mà trong quá trình
xây dựng pháp luật về lĩnh vực này nhà làm luật cần tính toán trong việc xây
dựng để nhằm đảm bảo ban hành một quy định phù hợp, chặt chẽ và có tính
nhân văn cao.
1.4.2. Những yêu cầu cơ bản đối với việc xây dựng pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
Thứ nhất, biện pháp XLHC đưa vào CSCB phải được quy định bởi các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cũng như các biện pháp XLHC khác, biện
pháp đưa vào CSCB là một biện pháp cưỡng chế hành chính tương đối
nghiêm khắc và nó hạn chế quyền tự do của công dân vì vậy việc xây dựng
các quy định pháp luật về lĩnh vực này cần được tiến hành hết sức chặt chẽ và
đảm bảo phải do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Ngoài Quốc
hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về căn cứ chung áp dụng biện
24
pháp XLHC này. Chính phủ quy định chế độ áp dụng, cách thức tổ chức hoạt
động cụ thể của các CSCB, còn các cơ quan nhà nước khác không được quy
định các biện pháp vượt quá quy định mà do các cơ quan trên đã ban hành.
Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB phải quy định rõ những cơ quan
có thẩm quyền để đảm bảo sự thống nhất về cơ sở pháp lý trong việc áp dụng
biện pháp này trong thực tế, tránh sự chồng chéo, lạm dụng thầm quyền.
Thứ hai, việc quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB phải xuất
phát từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước và yêu cầu đấu tranh, phòng
chống vi phạm pháp luật trong từng giai đoạn. Bản chất của pháp luật nói
riêng và của các thiết chế trong kiến trúc thượng tầng nói chung phải luôn
thay đổi để phù hợp với cơ sở hạ tầng và sự phát triển của xã hội. Đời sống
chính trị, kinh tế - xã hội không ngừng thay đổi và phát triển sẽ kéo theo các
vi phạm pháp luật ngày càng đa dạng và phức tạp, trong đó có các tệ nạn về
ma túy, mại dâm… Do đó, việc quy định biện pháp XLHC khác nói chung
và biện pháp đưa vào CSCB nói riêng cần luôn luôn thay đổi cho phù hợp
với từng thời kỳ dể đảm bảo tính răn đe, xử lý kịp thời, triệt để mọi đối
tượng nghiện ma túy, bán dâm. Đồng thời, hệ thống các biện pháp cũng phải
được quy định một cách nghiêm minh, rõ ràng, hợp lý, minh bạch vừa đảm
bảo khả năng áp dụng thích ứng, linh hoạt với các vi phạm xảy ra trong lĩnh
vực mua túy và mại dâm đồng thời bảo vệ được các quyền, lợi ích của Nhà
nước, công dân và tổ chức.
Thứ ba, quy định của pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần
cụ thể, chặt chẽ về thẩm quyền, thủ tục, các trường hợp và giới hạn áp dụng
của biện pháp này. Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng, bởi vì việc quy
định chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp
XLHC này có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý thống thất, nhanh chóng,
tránh việc lạm quyền, tùy tiện trong việc xử lý, đồng thời hạn chế việc xâm
25
phạm quyền của người bị áp dụng, đặc biệt là nhóm đối tượng người nghiện
ma túy và người bán dâm.
Thứ tư, việc quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần đảm bảo
dân chủ, quyền công dân, quyền con người phù hợp với các Điều ước quốc
tế có liên quan mà Việt Nam tham gia. Như chúng ta đã biết, biện pháp đưa
vào CSCB có tính cưỡng chế hành chính nghiêm khắc tương đối cao, nội
dung của biện pháp này hạn chế quyền tự do cá nhân của người bị áp dụng.
Do vậy, khi quy định về biện pháp XLHC này trong hệ thống các quy định
về xử lý vi phạm hành chính cần hết sức chặt chẽ, minh bạch. Trong đó có
tính đến các chuẩn mực quốc tế về quyền con người tại các Điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia. Nhằm đảm bảo mục đích và hiệu quả áp dụng của
biện pháp này, đồng thời bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, quyền con
người trong tình hình hiện nay.
Thứ năm, việc quy định về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần phải
đồng bộ, nằm trong tổng thể mối quan hệ với các biện pháp XLHC khác nói
riêng cũng như các biện pháp xử lý vi phạm hành chính nói chung. Biện pháp
đưa vào CSCB là một biện pháp XLHC khác, do đó nó cần phải tương thích,
đồng bộ với các biện pháp pháp XLHC khác như: giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào trường giáo dưỡng… Theo quy định
của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì người bán dâm, người nghiện ma túy sau
khi đã được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn vi
phạm thì mới bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Vì vậy, giữa các biện pháp
này phải đảm bảo tính đồng bộ cao cả về quy trình, thủ tục, thời gian áp
dụng… Việc quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần thống nhất với
các biện pháp khác để đảm bảo nguyên tắc pháp lý cơ bản về công bằng, nhân
đạo, bảo đảm pháp chế, kết hợp giáo dục với cưỡng chế, trừng trị.
26
1.5. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về
biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh
Trong lịch sử lập pháp của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
từ 1945 đến nay, chúng ta đã ban hành rất nhiều văn bản về xử lý vi phạm
hành chính nói chung và XLHC khác nói riêng, trong đó có biện pháp đưa
vào CSCB. Các biện pháp XLHC khác nói chung trong đó có biện pháp đưa
vào CSCB của Pháp lệnh hiện hành có nguồn gốc ban đầu là biện pháp cưỡng
chế đặc biệt, xuất phát từ Nghị quyết 49 năm 1961 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội. Nghị quyết này quy định việc đưa vào các cơ sở tập trung giáo dục,
cải tạo đối với những người có hành động nguy hại cho xã hội, được giáo dục
nhiều lần, nhưng không hối cải. Chủ tịch tỉnh ra quyết định và Bộ trưởng
Công an duyệt với thời hạn 03 năm mà không cần thông qua việc xét xử của
các cơ quan tư pháp – Tòa án. Những biện pháp này được dành cho những
người chống đối chế độ biểu hiện qua các hành vi gián điệp, mật thám, ngụy
quân, ngụy quyền, cốt cán đảng phái phản động… Biện pháp tập trung giáo
dục, cải tạo ngoài những đối tượng nói trên, cũng được áp dụng cho những
người có hành vi phạm tội như lưu manh, trộm cắp, lừa đảo. Các biện pháp
XLHC khác về cơ bản là không phải biện pháp xử phạt hành chính mà có bản
chất rất khác so với xử phạt các hành vi vi phạm hành chính [41, tr.53].
Năm 1977, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/CP ngày 27/5/1977
về Điều lệ xử phạt vi cảnh. Đây được coi như văn bản pháp lý cơ bản đầu tiên
về vấn đề xử lý vi phạm hành chính được ban hành ở nước ta. Trong đó, có
quy định các vấn đề cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính, cũng như các biện
pháp xử lý khác nhằm ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật ở mức
độ thường xuyên nhưng chưa truy cứu trách nhiệm hình sự.
Sau giai đoạn này, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, vấn đề
xử lý vi phạm hành chính đã được điều chỉnh bởi một văn bản ở cấp độ Pháp
27
lệnh. Ngày 30/11/1989, Hội đồng nhà nước đã ban hành Pháp lệnh XLVPHC.
Đây là văn bản pháp lý quy định tương đối đầy đủ và cơ bản về các biện pháp
xử phạt vi phạm hành chính cũng như biện pháp XLHC khác.
Sau một thời gian thi hành, để đáp ứng được yêu cầu trong công tác đấu
tranh chống các vi phạm pháp luật, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành mới vào năm 1995. Trong Pháp lệnh
XLVPHC 1995 có quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Điều 24 của
Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 quy định về biện pháp đưa vào CSCB như
sau: “Người nghiện ma túy, người mại dâm có tính chất thường xuyên, đã
được Chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không
chịu sửa chữa thì đưa vào CSCB để chữa bệnh, học tập và lao động trong
thời hạn từ ba tháng đến một năm” [43]. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định
việc không đưa vào CSCB đối với người chưa đủ 18 tuổi, nữ trên 55 tuổi và
nam trên 60 tuổi. Về thủ tục áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB, Pháp
lệnh XLVPHC 1995 đã quy định rõ việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào CSCB
được giao cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xem xét,
lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Việc xem xét hồ sơ, thẩm
tra sẽ được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét trong vòng 07 ngày
làm việc và lập văn bản đề nghị đưa vào CSCB gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân cấp
tỉnh để xem xét ra quyết định đưa vào CSCB đối với người bị áp dụng.
Theo Nghị định số 20/CP ngày 13 tháng 4 năm 1996 của Chính phủ
ban hành quy chế về CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC 1995 thì đối tượng áp
dụng biện pháp đưa vào CSCB là người nghiện ma túy và người mại dâm,
trong đó: Người nghiện ma túy đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn
nhưng vẫn chưa cai nghiện được đã được đưa vào CSCB để cai nghiện nhưng
vẫn tái nghiện; người nghiện nặng không có khả năng để cai nghiện tại nhà
hoặc cai nghiện tại cộng đồng; người mại dâm đã được giáo dục tại xã,
28
phường, thị trấn nhưng vẫn không chịu sửa chữa, đã được đưa vào CSCB
nhưng vẫn tái phạm hoặc mại dâm có tính chất thường xuyên [14].
Như vậy, đối tượng được áp dụng biện pháp đưa vào CSCB theo Pháp
lệnh 1995 và Nghị định số 20/CP đã có những quan niệm chưa chính xác về
người nghiện ma túy và người bán dâm. Theo đó, những đối tượng nghiện
nặng không có khả năng cai nghiện ở nhà hoặc cai nghiện tại cộng đồng cũng
bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Đây là quy định chưa chính xác, bở xác
định một đối tượng là nghiện nặng hay không chưa có các quy chuẩn cụ thể
để áp dụng, đồng thời việc đánh giá khả năng cai nghiện của đối tượng tại nhà
hoặc cộng đồng cũng còn thiếu những chuẩn mực để đánh giá. Phần lớn các
đối tượng nghiện có cai nghiện thành công không phụ thuộc vào ý chí của
chính họ. Việc áp dụng biện pháp đưa vào CSCB nhưng chưa qua các biện
pháp xử lý khác, như giáo dục tại xã, phường, thị trấn với họ là chưa đảm bảo
tính chính xác và khách quan. Thứ hai, là việc cả Pháp lệnh năm 1995 và
Nghị định 20/CP dùng cụm từ người mại dâm là chưa chính xác. Bởi như ta
đã biết, mại dâm hiểu theo nghĩa thông thường là sự trao đổi tình dục có thu
tiền [49, tr.154]. Trong nội hàm của khái niệm mại dâm bao hàm cả hành vi
mua dâm, bán dâm và các hành vi hỗ trợ khác như môi giới, tổ chức… Như
vậy, việc các văn bản dùng cụm từ “người mại dâm” là chưa đảm bảo tính
chính xác về khoa học, bởi biện pháp đưa vào CSCB không áp dụng đối với
người mua dâm, đồng thời đối với người môi giới, tổ chức hoạt động mại dâm
thì sẽ bị xử lý hình sự. Do đó, nếu trong các văn bản này sử dụng cụm từ
“người bán dâm” sẽ đảm bảo tính chính xác hơn. Và điều này đã được khắc
phục trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002.
Như vậy, Pháp lệnh XLVPHC 1995 đã quy định một trình tự tương đối
chặt chẽ về quy trình áp dụng biện pháp đưa vào CSCB với ba cấp thực hiện
từ Uỷ ban nhân dân cấp xã cho đến cấp huyện và cuối cùng là cấp tỉnh ra
29
quyết định. Việc này đảm bảo tính chặt chẽ, chính xác của việc áp dụng biện
pháp này, tuy nhiên, việc quy định nhiều cấp thực hiện và áp dụng thủ tục này
làm cho quá trình áp dụng trở nên rườm rà, thiếu sự linh hoạt và nhanh chóng.
Các nhược điểm về việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB trên
đã được Pháp lệnh XLVPHC 2002 khắc phục. Pháp lệnh lần này đã có các
quy định tương đối khác so với các văn bản trước kia về việc áp dụng biện
pháp XLHC đưa vào CSCB. Theo đó, Điều 26, Pháp lệnh XLVPHC 2002 quy
định việc đưa vào CSCB do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật là người nghiện ma tuý từ đủ 18
tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; người
bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này
nhưng không có nơi cư trú nhất định để lao động, học văn hoá, học nghề và
chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào
CSCB đối với người nghiện ma tuý là từ một năm đến hai năm, đối với người
bán dâm là từ ba tháng đến mười tám tháng [44].
Như vậy, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB trong Pháp
lệnh XLVPHC 2002 đã có những điểm khác biệt cơ bản so với Pháp lệnh
XLVPHC 1995. Điều này thể hiện ở một số điểm như sau: Thứ nhất, về thẩm
quyền được phép áp dụng biện pháp này ở Pháp lệnh năm 2002 là Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp huyện chứ không còn là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh như
Pháp lệnh 1995, đồng thời cũng tinh giản một số thủ tục cơ bản để đảm bảo
tính nhanh chóng áp dụng của biện pháp này; Thứ hai, đối tượng bị áp dụng
biện pháp đưa vào CSCB tại Pháp lệnh năm 2002 mở rộng hơn khi áp dụng
cho cả người bán dâm từ đủ 16 tuổi trở lên còn Pháp lệnh năm 1995 thì chỉ áp
dụng đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên; Thứ ba, về thời hạn áp dụng biện
30
pháp này cho đối tượng bị áp dụng theo Pháp lệnh 2002 thì có sự phân loại ra
hai trường hợp, đối với người nghiện ma túy thì thời hạn là từ 1 năm đến 2
năm, đối với người bán dâm là từ ba tháng đến mười tám tháng, trong khi đó
tại Pháp lệnh 1995 thì thời gian áp dụng biện pháp này là đồng nhất với hai
nhóm đối tượng là từ ba tháng đến một năm.
Việc quy định biện pháp đưa vào CSCB tại Pháp lệnh XLVPHC mang
tính chất lịch sử. Các biện pháp này được áp dụng đối với đối tượng tệ nạn xã
hô ̣i là người bán dâm, người nghiê ̣n xì ke, ma túy trong thời gian chiến tranh
và sau khi đất nước thống nhất. Người nghiê ̣n ma túy, người bán dâm bi ̣coi là
"sản phẩm của chế độ cũ ", không phù hợp với các chuẩn mực xã hội về con
người mới xã hội chủ nghĩa , cần phải được giáo dục , cải tạo. Người bán dâm
được đưa vào các cơ sở với tên go ̣i như "Trường phục hồi nhân phẩm " hoă ̣c
"Trung tâm phục hồi nhân phẩm "; người nghiê ̣n ma túy được đưa vào các
trung tâm cai nghiê ̣n ma túy . Trước năm 1995 không có quy đi ̣nh của pháp
luâ ̣t về viê ̣c áp dụng biê ̣n pháp này . Từ năm 1995, biê ̣n pháp này được quy
định chính thức trong nhóm các biê ̣n pháp xử lý hành chính khác với tên gọi
là "đưa vào cơ sở chữ a bê ̣nh". Hiện nay, biện pháp này được áp dụng đối với
người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn mà vẫn nghiện ma túy hoặc người bán dâm thường
xuyên có độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường thị trấn mà vẫn tái phạm hoặc không có nơi cư trú nhất định.
1.6. Pháp luật của một số quốc gia liên quan tới biện pháp đƣa vào
cơ sở chữa bệnh
1.6.1. Pháp luật Trung Quốc có liên quan tới biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh
Các quy định về cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy ở
Trung Quốc được thể hiện trong Luật Phòng, chống ma túy nước Cộng hòa
31
Nhân dân Trung Hoa được thông qua ngày 29 tháng 12 năm 2007 và các văn
bản khác hướng dẫn thi hành. Luật Phòng chống ma túy Trung Quốc đã thể
hiện “Nhà nước áp dụng các biện pháp giúp đỡ người nghiện ma túy từ bỏ ma
túy, giáo dục và phục hồi người nghiện ma túy. Người nghiện ma túy có trách
nhiệm phải thực hiện điều trị cai nghiện…” [48, Điều 31]. Ngoài ra, Luật này
còn quy định các biện pháp cai nghiện tại cộng đồng đối với người nghiện ma
túy, Luật Phòng chống ma túy Trung Quốc quy định:
Đối với người nghiện ma túy, cơ quan công an có thể cho
phép người nghiện thực hiện cai nghiện tại cộng đồng và gửi
thông báo tới nơi quan lý hộ tịch hoặc chính quyền nhân dân xã,
khu phố nơi người đó đang sinh sống. Thời hạn cai nghiện tại
cộng đồng là 3 năm[48, Điều 33].
Hoặc người nghiện cũng có thể áp dụng biện pháp tự nguyện đến cơ sở y
tế có điều trị cai nghiện để được điều trị cai nghiện.
Biện pháp cai nghiện bắt buộc được áp dụng đối với người nghiện theo
quy định tại Điều 38 Luật Phòng, chống ma túy Trung Quốc, được gọi với tên
cai nghiện cách ly bắt buộc, quy định như sau: “Người nghiện thuộc một
trong các trường hợp sau thì cơ quan công an cấp huyện trở lên phải ra quyết
định cai nghiện cách ly bắt buộc”:
1. Chống đối cai nghiện tại cộng đồng
2. Sử dụng ma túy trong thời gian cai nghiện cộng đồng
3. Vi phạm nghiêm trọng thỏa thuận cai nghiện tại cộng cộng đồng
4. Sau khi cai nghiện cộng đồng, cai nghiện cách ly bắt buộc vẫn
tiếp tục sử dụng ma túy [48, Điều 38].
Ngoài ra Luật Phòng chống ma túy Trung Quốc còn quy định cụ thể
đối tượng không được áp dụng biện pháp cai nghiện cách ly bắt buộc, đó là:
người nghiện là phụ nữ mang thai hoặc có con nhỏ dưới 1 tuổi, người chưa
thành niên dưới 16 tuổi.
32
Quy định về vấn đề trình tự thủ tục áp dụng biện pháp cai nghiện cách
ly bắt buộc, theo đó cơ quan công an ra quyết định cai nghiện cách ly bắt
buộc cho người nghiện phải cấp giấy quyết định cai nghiện cách ly bắt buộc,
gửi cho người nghiện trước khi tiến hành. Người nghiện ma túy có thể không
đồng ý với quyết định cai nghiện cách ly bắt buộc và khiếu nại hoặc khởi kiện
ra tòa theo quy định. Về thời gian áp dụng biện pháp cai nghiện cách ly bắt
buộc là 2 năm và có thể được kết thúc trước thời hạn sau khi đã được đánh giá
chuẩn đoán là cai nghiện thành công [48, tr.106-108]. Luật Phòng chống ma
túy Trung Quốc còn quy định cụ thể việc xây dựng các cơ sở cai nghiện cách
ly bắt buộc, mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ sở này.
Như vậy, biện pháp xử lý đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của pháp
luật Trung Quốc có điểm tương đồng với biện pháp XLHC đưa vào CSCB
của Việt Nam. Đối tượng áp dụng là những người nghiện chống đối cai
nghiện tại cộng đồng; sử dụng ma túy trong thời gian cai nghiện cộng đồng;
vi phạm nghiêm trọng thỏa thuận cai nghiện tại cộng cộng đồng; sau khi cai
nghiện cộng đồng, cai nghiện cách ly bắt buộc vẫn tiếp tục sử dụng ma túy.
Đây là các đối tượng mang tính nguy hiểm cho xã hội cao hoặc đã được áp
dụng biện pháp cai nghiện tại cộng đồng nhưng lại tái phạm. Tương tự như
quy định về XLHC đưa vào CSCB của Việt Nam, cũng là áp dụng đối với
những người nghiện ma túy đã được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn nhưng tái phạm hoặc không có nơi cư trú nhất định. Về chủ
thể được quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện cách ly bắt buộc
theo Luật Phòng, chống ma túy Trung Quốc đó là cơ quan công an cấp huyện
ra quyết định, điều này là khác biệt so với quy định của pháp luật Việt Nam
hiện nay, như: Luật Phòng chống ma túy, Pháp lệnh XLVPHC, theo đó thẩm
quyền áp dụng biện pháp xử lý cai nghiện bắt buộc hoặc đưa vào CSCB đối
với người nghiện ma túy thuộc về Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
33
Về biện pháp xử lý đối với người bán dâm, thì theo pháp luật Trung
Quốc đã quy định nghiêm cấm mại dâm, đĩ điếm dưới mọi hình thức. Đối với
các đối tượng bán dâm sẽ bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế tập trung nhằm
tiến hành giáo dục pháp luật, đạo đức và lao động sản xuất để họ sửa bỏ thói
xấu với thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm. Nếu sau khi bị cơ quan công an xử lý
về hành vi bán dâm mà vẫn tiếp tục bán dâm thì phải giáo dục, lao động đồng
thời bị cơ quan công an phạt tiền theo quy định của pháp luật về XLHC của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngoài hành vi bán dâm, nếu đối tượng có
hành vi môi giới, cưỡng bức, giới thiệu mại dâm có thể bị xử phạt hết sức
nghiêm khắc (có thể bị tử hình) [48, tr.212].
Như vậy, đối với người bán dâm, pháp luật Trung Quốc cũng có những
quy định về việc áp dụng biện pháp giáo dục cưỡng chế tập trung để học tập,
giáo dục pháp luật, đạo đức và lao động sản xuất nhằm loại bỏ thói xấu để trở
thành người có ích cho xã hội với một khoảng thời gian nhất định. Điều này
cũng tương tự như quan điểm về chính sách đối với người bán dâm của Việt
Nam được thể hiện trong Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm cũng như Pháp
lệnh XLVPHC.
1.6.2. Pháp luật Thái Lan có liên quan đến biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh
Các quy định có tính chất tương tự như biện pháp đưa vào CSCB của
Việt Nam áp dụng đối với người nghiện ma túy trong pháp luật Thái Lan
được thể hiện cụ thể tại Đạo Luật về phục hồi đối với người nghiện ma túy ở
Thái Lan được ban hành ngày 27 tháng 09 năm 2002. Theo Đạo Luật này thì
người nghiện ma túy được coi là thường xuyên dùng ma túy và ở trong tình
trạng phụ thuộc và ma túy, tình trạng này có thể xác định trên cơ sở các tiêu
chuẩn kỹ thuật. Biện pháp phục hồi cai nghiện ma túy được áp dụng cho
người bị coi là đã sử dụng và sở hữu các chất ma túy; sử dụng và sở hữu các
34
chất ma túy để đem bán… nếu họ không có dấu hiệu phạm tội hoặc bị truy tố
vì các tội khác có khung hình phạt tù giam hoặc bị phạt tù thì quan chức điều
tra phải đưa họ ra tòa trong vòng 48 tiếng kể từ thời điểm họ đến văn phòng
của nhân viên điều tra để tòa xem xét, quyết định kiểm tra bắt buộc nhằm xác
định họ có phải là người nghiện hay đã sử dụng ma túy hay không. Trong
trường hợp xác định họ là người chưa đủ 18 tuổi thì nhân viên điều tra xác
định nhân thân của họ kể từ thời điểm người này đến cơ quan điều tra.
Sau đó Tòa án sẽ xem xét và quyết định tạm giữ người vi phạm để xác
định việc sử dụng ma túy hoặc nghiện ma túy tại một cơ sở cai nghiện ma túy,
hoặc tại một cơ cơ sở cai nghiện phục hồi được quy định cụ thể. Quyết định
về việc đưa người nghiện ma túy đi cai nghiện cần phải được cân nhắc, tính
toán về độ tuổi, giới tính và đặc điểm cá nhân đồng thời cũng cần phải thông
báo cho Tiểu ban cai nghiện phục hồi biết.
Sau khi Tòa án ra quyết định đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện
phục hồi thì Tiểu ban cai nghiện phục hồi ra quyết định tiếp nhận và xác minh
người nghiện có các tiểu sử phạm tội không, nghiện loại ma túy gì. Sau khi
xác minh các biện pháp trên Tiểu ban cai nghiện phục hồi sẽ đưa người đó
vào cơ sở cai nghiện phục hồi và thông báo cho công tố viên biết.
Về thời gian cai nghiện phục hồi theo quy định của Đạo Luật về phục
hồi đối với người nghiện ma túy được xác định là 6 tháng, sau khi trải qua
thời gian này Tiểu ban cai nghiện phục hồi sẽ xem xét gia hạn thêm nếu người
nghiện chưa cai nghiện thành công. Việc gia hạn có thể được tiến hành nhiều
lần như không quá 3 năm kể từ ngày người nghiện ma túy đó vào trung tâm
cai nghiện phục hồi [48, tr.215-217].
Như vậy, ta có thể thấy quy định về cai nghiện phục hồi đối với người
nghiện ma túy của Thái Lan có tính chất tương tự như biện pháp đưa vào
CSCB của pháp luật Việt Nam hiện nay. Điều này là cần thiết để cách ly
35
người nghiện khỏi xã hội, nhằm tránh tình trạng họ bị dụ dỗ, lôi kéo sử dụng
ma túy trong quá trình cai nghiện. Đồng thời các cơ sở cai nghiện phục hồi có
những phương tiện, các quy trình cai nghiện phù hợp nhằm đảm bảo việc cai
nghiện thành công. Một điểm khác biệt về quy trình xem xét đưa người
nghiện vào cơ sở cai nghiện phục hồi của Thái Lan đó chính là việc giao cho
Tòa án có thẩm quyền trong việc xem xét có đưa người nghiện vào các cơ sở
cai nghiện phục hồi hay không. Đây chính là việc tư pháp hóa các biện pháp
xử lý đối với người nghiện ma túy, đảm bảo tính minh bạch, dân chủ và công
bằng trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc này. Đó cũng là xu thế
chung của các nước hiện nay, mà Việt Nam cần quan tâm khi áp dụng các
biện pháp xử lý đối với người nghiện ma túy.
Ngoài ra, Đạo Luật về phục hồi đối với người nghiện ma túy ở Thái
Lan còn quy định các thiết chế cần thiết cho việc thiết lập một hệ thống các cơ
quan có thẩm quyền trong việc áp dụng các biện pháp cai nghiện phục hồi.
Đầu tiên là Uỷ ban phục hồi người nghiện ma túy được quy định tại Điều 6
của Đạo luật với rất nhiều thành viên thuộc các cơ quan khác nhau, Uỷ ban
phục hồi người nghiện ma túy sẽ thành lập ra Tiểu ban phục hồi người nghiện
ma túy ở các nơi cần thiết để phụ trách việc xem xét, quyết định việc người
nghiện có bị áp dụng biện pháp cai nghiện phục hồi hay không.
Về biện pháp xử lý đối với các đối tượng bán dâm, trước năm 1960
Thái Lan đã có một hệ thống mại dâm hợp pháp hóa. Theo Đạo Luật về bệnh
lây nhiễm ra đời năm 1980 thì các nhà chứa và gái mại dâm phải đăng ký và
nộp một khoản lệ phí nhất định cho nhà nước. Điều đó được xem như là một
quy định đối với nạn mại dâm và kiểm soát sự tràn lan các bệnh hoa liễu. Hệ
thống mại dâm có giấy phép đã thất bại trong sự kiểm soát sự gia tăng của nạn
mại dâm có đăng ký. Vào năm 1960, Thái Lan đã ban hành đạo luật mới với
tên gọi Đạo Luật kiềm chế nạn mại dâm. Đạo Luật này quy định các hoạt
36
động liên quan đến mại dâm đều là phạm pháp và phải trừng trị. Các hoạt
động phạm tội bao gồm việc sở hữu, quản lý nhà chứa, gạ gẫm bán dâm nơi
công cộng, bị phát hiện tại các nhà chứa, tham gia vào mại dâm tại các nhà
chứa…[48, tr.207-208]. Vào năm 1996, Thái Lan tiếp tục ban hành Đạo Luật
phòng chống tệ nạn mại dâm mới với các hình phạt nghiêm khắc hơn. Ở Thái
Lan, mại dâm không còn là hiện tượng bất hợp pháp, nhưng người bán dâm
có thể bị bắt vì gạ gẫm mua dâm ở nơi công cộng.
Hiện nay, tại Thái Lan cũng có các cơ sở phục hồi nhân phẩm cho
người hành nghề mại dâm theo quy định của Đạo Luật phòng chống mại
dâm. Các cơ sở này là nơi tiếp nhận, và quản lý những người bán dâm không
có nơi cư trú rõ ràng, hoặc là người nhập cảnh bất hợp pháp vào Thái Lan
với mục đích bán dâm. Sau khi được hỗ trợ bởi các trung tâm, các đối tượng
này sẽ được đưa trở về quê hương để sinh sống với mục đích tái hòa nhập
cộng đồng [48, tr.104-105].
Như vậy, nhìn chung pháp luật Thái Lan cũng đã có những quy định
mang tính cưỡng chế hoặc hỗ trợ những người nghiện ma túy, người bán
dâm trong việc cai nghiện hoặc học tập, lao động để tái hòa nhập cộng
đồng. Các quy định này với mục đích đảm bảo các quyền con người cơ bản
của nhóm đối tượng này. Đồng thời ngăn chặn tình trạng họ tiếp tục tái vi
phạm nhiều lần.
37
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH
2.1. Thực trạng các quy phạm pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh
2.1.1. Các quy định về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh
Theo Điều 26, Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp đưa vào CSCB
được áp dụng đối với những nhóm đối tượng sau: thứ nhất, người nghiện ma
túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn hoặc chưa bị áp dụng nhưng không có nơi cư trú nhất định; thứ hai,
người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp
này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Theo Nghị định số 135/2004/NĐ-
CP ngày 10 tháng 6 năm 2004 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào
CSCB, tổ chức, hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC về chế độ áp
dụng đối với người chưa thành niên tự nguyện vào CSCB (gọi tắt là Nghị
định 135/2004/NĐ-CP) và Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 07
năm 2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 135/2004/NĐ-CP nêu
trên (gọi tắt là Nghị định 61/2011/NĐ-CP) thì cụ thể hóa các đối tượng bị áp
dụng biện pháp đưa vào CSCB như sau:
- Người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên có hành vi sử dụng
trái phép chất ma túy mà đã bị xử phạt vi phạm hành chính về việc
sử dụng trái phép chất ma túy; đã được giáo dục tại xã, phường, thị
trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú
nhất định; đã được cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện
ma túy tại cộng đồng.
38
- Người bán dâm từ đủ 16 tuổi trở lên đã được giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đã bị đưa vào CSCB nhưng tái phạm; người bán dâm
có tính chất thường xuyên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định [19]; [21].
Theo Thông tư liên tịch số 14/2012/TTLT-BLĐTBXH-BCA ngày
6/6/2012 của Liên bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an quy
định chi tiết chế độ áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB và chế độ áp
dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào CSCB (gọi tắt là
Thông tư liên tịch 14/2012/TTLT-BTLĐTBXH-BCA) thì đã cụ thể hóa cách
xác định các đối tượng bị đưa vào CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC 2002 và
các Nghị định hướng dẫn thi hành như sau:
- Đối với người nghiện ma túy bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB thì
áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, đến 60 tuổi đối
với nam, mà có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và thuộc một trong các
trường hợp sau:
+ Đã chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về việc
sử dụng trái phép chất ma túy hoặc đã hết thời hiệu thi hành Quyết định
nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính;
+ Đã chấp hành xong Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn về
việc sử dụng trái phép chất ma túy hoặc đã hết thời hiệu thi hành Quyết định
nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính;
+ Đã được cấp giấy chứng nhận hoàn thành thời gian cai nghiện ma tuý
tại gia đình, cộng đồng hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận này nhưng đã
hết thời hạn thực hiện Quyết định quản lý cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia
đình, cộng đồng hoặc Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt
buộc tại cộng đồng;
+ Người chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do
sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không có nơi cư trú nhất định.
39
Việc xác định người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy để áp
dụng biện pháp đưa vào CSCB là người thuộc một trong các trường hợp sau:
đang sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc qua điều tra, xác minh, cơ quan chức
năng xác định người đó có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; người tự
khai báo về việc sử dụng trái phép chất ma túy; qua xét nghiệm tìm chất ma
tuý trong cơ thể người đó có kết quả dương tính mà không chứng minh được
tính hợp pháp của việc có chất ma túy.
- Người bán dâm bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB là người bán
dâm từ đủ 16 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam và thuộc một
trong các trường hợp sau:
+ Đã chấp hành xong Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
Quyết định đưa vào CSCB về hành vi bán dâm hoặc đã hết thời hiệu thi hành
các Quyết định nêu trên nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý
vi phạm hành chính;
+ Người không có nơi cư trú nhất định có từ 02 lần trở lên trong thời
hạn 12 tháng bị xử phạt hành chính về hành vi bán dâm, chưa bị giáo dục tại
xã, phường, thị trấn.
Theo Thông tư liên tịch 14/2012/TTLT-BTLĐTBXH-BCA thì việc xác
định người nghiện ma túy, người bán dâm không có nơi cư trú nhất định là
không xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú thường xuyên
đi lang thang, không có nơi ở nhất định hoặc có nơi đăng ký thường trú hoặc nơi
đăng ký tạm trú nhưng không thường xuyên sinh sống tại đó và thường xuyên đi
lang thang, không ở nhất định tại nơi đăng ký thường trú, tạm trú.
*) Nhận xét các quy định của pháp luật về đối tượng bị áp dụng biện
pháp đưa vào CSCB trong Pháp lệnh XLVPHC 2002
Thứ nhất, về độ tuổi của đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB
theo Pháp lệnh có nhiều bất cập khi quy định nhóm đối tượng là người bán
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Contenu connexe

Tendances

Tendances (20)

Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOTLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
 
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAYLuận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
 
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOTLuận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
 
Luận văn: Thế chấp dự án đầu tư kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Thế chấp dự án đầu tư kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Thế chấp dự án đầu tư kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Thế chấp dự án đầu tư kinh doanh bất động sản, HOT
 
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
 
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đNhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình thức kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức kỷ luật lao động theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hình thức kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuýLuận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
 
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đLuận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
 

Similaire à Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Similaire à Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (20)

Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào c...
Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào c...Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào c...
Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào c...
 
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, HAY
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, HAYLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, HAY
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, HAY
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAYLuận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
 
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOTKiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
 
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật, 9đ
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật, 9đKiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật, 9đ
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật
Luận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luậtLuận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật
Luận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật
 
Đề tài: Những quy định mới của luật xử lý vi phạm hành chính với việc bảo đảm...
Đề tài: Những quy định mới của luật xử lý vi phạm hành chính với việc bảo đảm...Đề tài: Những quy định mới của luật xử lý vi phạm hành chính với việc bảo đảm...
Đề tài: Những quy định mới của luật xử lý vi phạm hành chính với việc bảo đảm...
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
 
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOTLuận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình Định
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình Định
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình Định
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCMLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luậtLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò VấpLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
 
Đề tài: Vai trò của pháp luật về xây dựng đạo đức thầy thuốc, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật về xây dựng đạo đức thầy thuốc, HOTĐề tài: Vai trò của pháp luật về xây dựng đạo đức thầy thuốc, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật về xây dựng đạo đức thầy thuốc, HOT
 
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của thanh tra y tế tại TPHCM
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của thanh tra y tế tại TPHCMLuận văn: Tổ chức và hoạt động của thanh tra y tế tại TPHCM
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của thanh tra y tế tại TPHCM
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Dernier

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Dernier (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 

Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM TIẾN THÀNH Tõ BIÖN PH¸P Xö Lý HµNH CHÝNH §¦A VµO C¥ Së CH÷A BÖNH §ÕN BIÖN PH¸P §¦A VµO C¥ Së CAI NGHIÖN B¾T BUéC Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Tiến Thành
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH......................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh ........................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh............ 9 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh ......12 1.2. Mục đích, vai trò của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.......................................................................................15 1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.......................................................18 1.3.1. Khái niệm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh.............................................................................................18 1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh..................................................................................18 1.4. Các yếu tố tác động và những yêu cầu cơ bản đối việc việc xây dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.......................................................................................20 1.4.1. Các yếu tố tác động đối việc việc xây dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh...................................20 1.4.2. Những yêu cầu cơ bản đối với việc xây dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh...................................23
  • 4. 1.5. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.................26 1.6. Pháp luật của một số quốc gia liên quan tới biện pháp đƣa vào cơ sở chữa bệnh...........................................................................30 1.6.1. Pháp luật Trung Quốc có liên quan tới biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh ...........................................................................................30 1.6.2. Pháp luật Thái Lan có liên quan đến biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh ...........................................................................................33 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH .......................................................................................... 37 2.1. Thực trạng các quy phạm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh.......................................................37 2.1.1. Các quy định về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh ...........................................................................................37 2.1.2. Các quy định về thẩm quyền xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh..................................................................................42 2.1.3. Các quy định về trình tự thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.......................................................................................44 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh....................................52 2.3. Những tồn tại, bất cập của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh trong thực tiễn áp dụng....58 Chƣơng 3: VIỆC CHUYỂN ĐỔI TỪ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH SANG BIỆN PHÁP ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC.................62 3.1. Sự cần thiết của việc chuyển đổi từ biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh sang biện pháp đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay................................62
  • 5. 3.2. Quy định về biện pháp đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong Luật xử lý hành chính và các văn bản hƣớng dẫn thi hành............66 3.2.1. Quy định về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................................................................................66 3.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.............................................................................68 3.3. Những tồn tại, bất cập của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thực tiễn áp dụng......................................................................................75 3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian tới.............................................................79 KẾT LUẬN....................................................................................................85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................87
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CSCB: Cơ sở chữa bệnh XLHC: Xử lý hành chính XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới đất nước với ưu tiên cốt lõi là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa đất nước ta thoát khỏi sự khủng hoảng kinh tế và từng bước cải thiện được đời sống vật chất cho nhân dân. Những thành tự của quá trình đổi mới không chỉ dừng lại ở tốc độ phát triển kinh tế, sự ổn định của đời sống xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia, độc lập chủ quyền của dân tộc mà còn được thể hiện trong các thành tựu về văn hóa, xã hội, công tác giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và đảm bảo an ninh quốc phòng. Bên cạnh những thành quả đã đạt được dưới tác động của toàn cầu hoá và mặt trái của kinh tế thị trường đã xuất hiện nhiều yếu tố tác động đến đời sống xã hội, gây nguy hại không nhỏ đến nếp sống, thuần phong mỹ tục, làm băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người. Tệ nạn ma tuý, mại dâm, buôn bán người ở nước ta diễn biến phức tạp là một trong những vấn đề nóng bỏng, nhức nhối, ảnh hưởng xấu đến đời sống và an toàn của xã hội, vi phạm pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, phá vỡ hạnh phúc nhiều gia đình, đe doạ tương lai của dân tộc. Trong tình hình đất nước mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, cùng với việc phòng, chống nhiễm HIV/AIDS, thì vấn đề đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, ma túy đang trở thành một trong những vấn đề quan trọng, cấp bách ở nước ta, góp phần tạo sự ổn định tình hình chính trị- xã hội, phát triển đất nước. Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh là một trong bốn biện pháp xử lý hành chính khác được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002 áp dụng đối với người nghiện ma túy và người bán dâm với mục đích là bắt buộc cai nghiện, chữa bệnh, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của các cơ sở chữa bệnh.
  • 8. 2 Biện pháp này có bản chất là hạn chế quyền tự do của công dân, do người đứng đầu cơ quan hành chính ở địa phương quyết định. Thực tiễn áp dụng biện pháp này trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung như: quy trình xem xét áp dụng biện pháp này chưa thật sự đảm bảo công khai; là những biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân nhưng quá trình xem xét áp dụng lại không có sự tham gia của người bị áp dụng cũng như luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích của họ… Đồng thời, việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với gái mại dâm không đáp ứng được yêu cầu đảm bảo về quyền con người trong tình hình mới. Bởi vì, trong nhận thức hiện nay, họ nên được coi như một nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong quan hệ xã hội, đồng thời cũng nên coi họ như nạn nhân của các tệ nạn xã hội. Do đó, nhu cầu của việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với gái mại dâm là không cần thiết nữa. Trong bối cảnh định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật những năm gần đây đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; quan điểm về tệ nạn xã hội và các biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội đã có những thay đổi nhất định; yêu cầu thực hiện các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên… quy định về các biện pháp xử lý hành chính nói chung và quy định về biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh nói riêng cần được sửa đổi theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch và bảo đảm dân chủ, công bằng. Chính vì vậy, Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật XLVPHC năm 2012 đã có nhiều sửa đổi quan trọng. Trong đó có vấn đề sửa đổi biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sự khác biệt của Luật XLVPHC 2012 so với Pháp lệnh XLVPHC 2002 về biện pháp đưa
  • 9. 3 vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở đối tượng áp dụng biện pháp; chủ thể áp dụng; trình tự thủ tục áp dụng... Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của Đảng về mục tiêu cải cách bộ máy nhà nước nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như hiệu quả của hoạt động xử lý vi phạm hành chính nói riêng, trong đó có biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trước đây và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay, thì việc tăng cường nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa bệnh trước đây và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những phân tích nêu trên, học viên mạnh dạn chọn đề tài “Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Pháp luật Việt Nam về các biện pháp XLHC khác nói chung và biện pháp XLHC đưa vào CSCB trước đây nói riêng, khi nghiên cứu cần đặt nó trong tổng thể các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Liên quan đến lĩnh vực này cũng đã có một số tác giả tập trung nghiên cứu như sau: * Các công trình nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính nói chung - Tác giả Vũ Thư với luận án phó tiến sĩ luật học về “Chế tài hành chính – Lí luận và thực tiễn”, bảo vệ thành công tại Viện Nhà nước và pháp luật, 1996; - Tác giả Nguyễn Trọng Bình với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn thiện các quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”, bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002; - Tác giả Nguyễn Ngọc Bích với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp luật về XLHC với người chưa thành niên”, bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
  • 10. 4 Các công trình nghiên cứu trên đây, đã đưa ra một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của việc xử phạt vi phạm hành chính đồng thời cũng đã đề cập đến một số khía cạnh của các biện pháp XLHC khác như: đưa vào CSCB; đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn… * Các công trình nghiên cứu về các biện pháp XLHC khác Trực tiếp đề cập nội dung về các biện pháp XLHC khác có thể kể đến một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả như: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp “Các biện pháp XLHC khác và việc bảo đảm quyền con người” do Thạc sĩ Đặng Thanh Sơn làm chủ nhiệm đề tài cũng nhóm nghiên cứu. Đây là công trình có tính quy mô và khá chi tiết về các biện pháp XLHC khác. - Tác giả Hoàng Thị Kim Quế với bài viết “Về các biện pháp XLHC khác: Thực tiễn và giải pháp” đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội. - Tác giả Trần Thanh Hương với bài viết “Quyền công dân, quyền con người và chỗ đứng của các biện pháp XLHC khác trong pháp luật về vi phạm hành chính” đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật. * Các công trình nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào CSCB Hiện nay, việc nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng đã được một số tác giả nghiên cứu, tuy nhiên, các công trình đã công bố mới chỉ dừng lại ở mức độ các bài viết nghiên cứu đăng trên một số tạp chí chuyên ngành luật học, có thể kể đến một số công trình như: - Tác giả Đào Thị Thu An với bài viết “Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong Dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính” đăng trong Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20/2011; Còn lại, việc nghiên cứu về pháp luật trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phần nào giải quyết được một số
  • 11. 5 khía cạnh của vấn đề lý luận và và thực tiễn về biện pháp đưa vào CSCB trước kia cũng như biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có bất kỳ một công trình nào được công bố ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có liên quan đến vấn đề này, cũng như chưa có một công trình nào giải quyết được một cách triệt để và tổng thể các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào CSCB. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Công trình tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về biện pháp đưa vào CSCB trước kia và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay. Luận văn cũng tập trung lý giải những nguyên nhân, những cơ sở lý luận cho việc chuyển đổi biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Từ đó luận giải cho những sửa đổi bổ sung này về mặt lý luận. Luận văn cũng phân tích thực trạng của việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh cho đến trước giai đoạn Luật XLVPHC năm 2012 có hiệu lực và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay. Mục đích của việc này là nhằm luận giải những thay đổi của các biện pháp này từ vấn đề thực trạng tổ chức và thực hiện. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được các mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ phải thực hiện như sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp XLHC đưa vào CSCB nhằm xây dựng khái niệm mang tính khoa học về biện pháp này, tìm ra các đặc trưng riêng và vai trò của biện pháp này trong việc đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm hành chính góp phần bảo vệ trật tự xã hội và đảm bảo an ninh đất nước;
  • 12. 6 - Xác định những yêu cầu cơ bản trong việc xây dựng và áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB nhằm đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời bảo đảm quyền tự do, quyền con người, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện qua việc phân tích các số liệu thống kê về thực tiễn áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB trong những năm vừa qua; - Lý giải những nguyên nhân, sự cần thiết của việc chuyển biện pháp đưa vào CSCB thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; - Trình bày những vấn đề pháp lý hiện nay về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về thực trạng pháp luật và tổ chức thực hiện. - Đề xuất những kiến nghị, những giải pháp xác đáng, khoa học có tính khả thi cho việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về định hướng xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về các biện pháp XLHC khác nói chung cũng như biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng. Nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Các biện pháp XLHC khác bao gồm: Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào
  • 13. 7 CSCB. Đây là một lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong phạm vi luận văn của mình, học viên tập trung phân tích và đi sâu vào nghiên cứu biện pháp XLHC đưa vào CSCB được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008. Đồng thời luận văn cũng tập trung nghiên cứu về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật XLVPHC 2012. Để tìm ra mối liên hệ giữa hai biện pháp này, lý giải được tại sao biện pháp đưa vào CSCB lại được thay đổi chuyển thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đồng thời luận văn nghiên cứu về vấn đề thực tiễn áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB trong giai đoạn từ từ năm 2006 - 2013 và việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để thấy rõ sự hình thành, phát triển của pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu, suy luận logic được sử dụng nằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp cho mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp lý và chưa hợp lý của các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó đưa ra được kết luận có tính khoa học và nổi bật về vấn đề. Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được có thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB, đó là cơ sở chính xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả thi.
  • 14. 8 6. Nhƣng đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu trực tiếp và tương đối toàn diện về biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luận văn xác định được những yếu tố cơ bản tác động đến quy định pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong Luật XLVPHC, đồng thời cũng đưa ra được những yêu cầu cụ thể trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan biện pháp này, đảm bảo việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn đạt kết quả cao. Luận văn có giá trị trong việc làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu khoa học của các sinh viên ngành luật học khi tiếp cận nghiên cứu vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh. Chương 3: Việc chuyển đổi từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh sang biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
  • 15. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh 1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh Xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển vững mạnh khi có sự ổn định về trật tự an toàn về kinh tế, chính trị cũng như xã hội. Trật tự đó được bảo đảm thực hiện bằng hệ thống chế tài, các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội, cũng như để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật hết sức đa dạng và phức tạp. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế nhà nước có rất nhiều các biện pháp khác nhau như: cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự và kỷ luật, bên cạnh đó cưỡng chế hành chính cũng có một vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật, duy trì ổn định xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Cưỡng chế hành chính cũng bao gồm nhiều cách thức, biện pháp khác nhau. Dựa trên cơ sở áp dụng, cưỡng chế hành chính có thể chia thành hai nhóm lớn là: nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính được áp dụng khi có vi phạm hành chính xảy ra; nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính được áp dụng trong trường hợp không có vi phạm hành chính nhằm mục đích ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính hoặc vì mục đích an ninh quốc gia, bảo vệ cộng đồng, phòng chống thiên tai… Các hình thức XLHC thuộc nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính áp dụng trên cơ sở có vi phạm hành chính. Theo quy định của pháp luật hiện hành, khái niệm “xử lý vi phạm
  • 16. 10 hành chính” được cấu thành bởi hai nội dung cơ bản là biện pháp “xử phạt vi phạm hành chính” và biện pháp “XLHC khác”. Tại Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 quy định: Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp XLHC khác và Các biện pháp XLHC khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các Điều 23, 24, 25, 26 của Pháp lệnh này [44, Điều 1, khoản 1, 2]. Các biện pháp XLHC khác được xem là biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt vì thực chất các biện pháp XLHC khác đã hạn chế quyền tự do cá nhân trong một giai đoạn nhất định với hình thức: đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào CSCB và đưa vào cơ sở giáo dục. Các biện pháp này cũng cách ly người bị xử lý ra khỏi đời sống xã hội, đưa vào một môi trường quản lý đặc biệt có tính kỷ luật cao và chặt chẽ, về mức độ các biện pháp này không hề thua kém các biện pháp tư pháp hình sự khác. Nhóm biện pháp này có đặc trưng là thời gian cưỡng chế khá dài từ 3 tháng đến 2 năm; người bị áp dụng phải chịu sự giám sát và quản lý chặt chẽ của cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức xã hội và các đoàn thể… Đối tượng bị áp dụng các biện pháp này cũng đa dạng và đặc biệt hơn. Theo quy định tại Điều 22, Pháp lệnh XLVPHC 2002 và Pháp lệnh XLVPHC sửa đổi năm 2007 thì các biện pháp XLHC khác bao gồm: - Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; - Đưa vào trường giáo dưỡng; - Đưa vào cơ sở giáo dục; - Đưa vào cơ sở chữa bệnh [44]; [45]. Biện pháo đưa vào CSCB là một trong bốn biện pháp XLHC khác được
  • 17. 11 áp dụng đối với người nghiện ma túy và người bán dâm với mục đích là bắt buộc cai nghiện, chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của các CSCB. Biện pháp đưa vào CSCB nhìn chung cũng mang những đặc điểm của biện pháp XLHC, bản chất là biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, do người đứng dầu cơ quan hành chính ở địa phương quyết định. Như chúng ta đã biết, các đối tượng vi phạm hành chính mà là người nghiện ma túy, hoặc người bán dâm thường có những biểu hiện về bệnh lý nhất định. Hiện nay, y học đã chứng minh nghiện ma túy là một bệnh của não bộ, vì vậy việc tiến hành các biện pháp điều trị (cai nghiện ma túy) được tiến hành như việc chữa bệnh. Còn đối với người bán dâm, bản thân việc bán dâm chỉ là một tệ nạn xã hội cần bị lên án, tuy nhiên, đối với người bán dâm rất hay mắc phải các bệnh truyền nhiễm lây qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS. Bên cạnh đó, việc đưa người bán dâm vào các CSCB còn nhằm mục đích để họ được lao động, học văn hóc, học nghề nên điều này là cần thiết trong việc ngăn chặn tệ nạn mại dâm đang ngày càng nhức nhối hiện nay. Hiện nay, khái niệm về CSCB còn được hiểu khác nhau giữa các văn bản luật, theo Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 thì việc cai nghiện bắt buộc cho người nghiện ma túy được thực hiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, còn theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành thì được hiểu là CSCB áp dụng đối với người nghiện ma túy bị XLHC. Theo quy định của Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh thì cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật Phòng,
  • 18. 12 chống ma túy và cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh XLVPHC được gọi chung là Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội. Đây là nơi chữa trị, học tập và lao động phục hồi đối với người nghiện ma túy, người bán dâm bị xử lý vi phạm hành chính bằng biện pháp đưa vào CSCB; người nghiện ma túy và người bán dâm là người chưa thành niên và người nghiện ma túy, người bán dâm tự nguyện vào CSCB để cai nghiện, chữa trị. Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm biện pháp XLHC đưa vào CSCB một cách khái quát như sau: “Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là một trong những biện pháp XLHC khác được pháp luật quy định mà nội dung của biện pháp này là việc đưa các đối tượng bán dâm, nghiện ma túy có đủ các điều kiện quy định vào các CSCB (hay còn gọi là Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động Xã hội) để chữa trị, học tập và lao động phục hồi, nhằm mục đích giúp những đối tượng đó trở thành công dân có ích cho xã hội”. 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là nằm trong nhóm biện pháp XLHC khác được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002. Vì vậy, xét về đặc điểm biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng có những đặc điểm chung của các biện pháp XLHC khác. - Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước Xét về đặc điểm này, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có tính pháp lý, bởi vì biện pháp này được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, cụ thể là Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ… Biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật. Nghĩa là chỉ có các chủ thể được pháp luật quy định mới có thể tiến hành áp dụng biện pháp này khi XLHC đối với người nghiện ma túy hoặc người bán dâm. Việc tiến hành biện
  • 19. 13 pháp XLHC đưa vào CSCB cũng được tiến hành theo những thủ tục hành chính chặt chẽ, công khai, minh bạch do các quy phạm thủ tục hành chính quy định. Thủ tục này được pháp luật hành chính quy định một cách chặt chẽ qua nhiều khâu, quy định khác nhau. Tính cưỡng chế hành chính nhà nước của biện pháp XLHC đưa vào CSCB thể hiện ở chỗ biện pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với người bị áp dụng, đồng thời đây cũng là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc cao chỉ sau cưỡng chế hình sự. Thể hiện ở việc hạn chế quyền tự do nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định. - Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp xử lý chỉ áp dụng đối với cá nhân – công dân Việt Nam Theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp XLHC đưa vào CSCB chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh trật tự, an toàn xã hội. Như trên đã phân tích, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính đưa vào CSCB có bản chất là hạn chế các quyền tự do của đối tượng bị áp dụng, đồng thời trong các CSCB thì chủ thể đó sẽ được chữa bệnh, giáo dục, cải tạo và học tập để trở thành người có ích cho xã hội. Chính vì vậy, đây là biện cưỡng chế hành chính chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không áp dụng đối với tổ chức như các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. - Việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ và đối tượng bị áp dụng phải chịu sự quản lý và hạn chế một số quyền tự do cá nhân nhất định Với nội dung là hạn chế một số quyền tự do của con người khi áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB nên Pháp lệnh XLVPHC 2002 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối chặt chẽ trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này. Điều này đảm bảo tính minh bạch trong quá trình xử lý, đồng thời tránh tình trạng vi phạm các quyền con người trong khi áp dụng.
  • 20. 14 - Biện pháp XLHC đưa vào CSCB chỉ được áp dụng đối với hai nhóm đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm Để phân biệt với các biện pháp XLHC khác được quy định trong Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp XLHC đưa vào CSCB chỉ được áp dụng đối với nhóm đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm. Theo quy định của Điều 26, Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì những đối tượng sau bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB [43]: Thứ nhất, người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; Thứ hai, người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Đây là những nhóm đối tượng có hành vi vi phạm thường xuyên các quy định của pháp luật về an toàn, trật tự xã hội mà đã bị áp dụng các biện pháp xử lý khác nhưng vẫn vi phạm hoặc trường hợp chưa bị áp dụng các biện pháp xử lý khác nhưng không có nơi cư trú rõ ràng. - Về nội dung việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB là nhằm để người nghiện ma túy, người bán dâm lao động, học văn hoá, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB Theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì mục đích cũng như bản chất của việc đưa người nghiện ma túy, người bán dâm vào CSCB là nhằm để họ cải tạo, lao động, học văn hóa, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý tập trung, thống nhất và kỷ luật của CSCB. Như vậy, về tên gọi biện pháp này được thể hiện trong Pháp lệnh XLVPHC 2002 là biện pháp đưa vào CSCB. Tuy nhiên, trên thực tế việc bị áp dụng biện pháp xử lý này, đối tượng không chỉ vào để chữa bệnh mà còn để học tập, lao động, học nghề để đảm bảo sau khi ra ngoài đời sống xã hội không quay trở lại con đường cũ mà có
  • 21. 15 thể làm ăn, sinh sống như những người bình thường khác. Đây cũng chính là chính sách nhân văn trong việc xử phạt vi phạm hành chính của Nhà nước ta, khi mà trong biện pháp trừng trị luôn có sự giáo dục và cải tạo. 1.2. Mục đích, vai trò của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh Việc xác định mục đích của một loại biện pháp cưỡng chế cần xuất phát từ chính vai trò của nó đối với xã hội, đồng thời căn cứ vào đối tượng áp dụng của biện pháp đó. Các biện pháp XLHC có vai trò to lớn trong việc giáo dục, cảm hóa, chữa bệnh và tạo điều kiện cho người vi phạm pháp luật trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững trật tự quản lý hành chính nhà nước. Biện pháp XLHC đưa vào CSCB được ban hành và áp dụng nhằm hướng đến các mục đích sau: Thứ nhất, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích trước hết là để nhằm chữa bệnh cho người nghiện ma túy, người bán dâm. Như tên gọi của biện pháp XLHC này là đưa vào CSCB vì vậy, mục đích đầu tiên của biện pháp này là việc chữa bệnh cho những đối tượng được đưa vào CSCB. Như chúng ta đã biết, khoa học đã chứng minh nghiện ma túy là một bệnh lý thần kinh về não bộ và y học đã tìm ra các phương pháp chữa bệnh để khắc phục tình trạng nghiện của người nghiện ma túy. Bên cạnh đó, người bán dâm cũng là những đối tượng có nguy cơ cao trong việc bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS, vì vậy, việc áp dụng biện pháp chữa bệnh đối với những đối tượng này là cần thiết trong việc giúp đỡ những người này. Việc chữa bệnh cho người nghiện ma túy, người bán dâm là mục đích cơ bản, quan trọng của việc áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Điều này thể hiện tính nhân văn của biện pháp XLHC này khi mà bên cạnh mục đích trừng
  • 22. 16 trị, trừng phạt người có hành vi vi phạm hành chính mà còn là nhằm mục đích chữa bệnh cho họ, để đạt được mục đích vừa giáo dục, vừa tạo điều kiện cho người vi phạm hòa nhập cộng đồng. Thứ hai, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích giáo dục, chú ý đến cải tạo tư tưởng, coi trọng các mối quan hệ của người bị áp dụng với cộng đồng, gia đình và xã hội. Giáo dục là mục đích quan trọng của biện pháp XLHC đưa vào CSCB, bắt nguồn từ bản chất nhân đạo sâu sắc của xã hội ta luôn tạo điều kiện hoàn thiện nhân cách con người, biết tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Mục đích giáo dục ở đây không chỉ là giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng vi phạm mà còn cảm hóa, giáo dục cả về đạo đức, lối sống, cũng như phục hồi sức khỏe tạo điều kiện cho người vi phạm trở thành người công dân có ích cho xã hội, sớm hòa nhập cộng đồng. Chính vì vậy, các CSCB đã được cụ thể hóa trong Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC và chế độ áp dụng đối với người thành niên, người tự nguyện vào CSCB và Nghị định 61/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung nghị định 135/2004/NĐ- CP nói trên thì tên gọi của các CSCB và cơ sở cai nghiện bắt buộc được gọi chung là các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động Xã hội. Đó là mục đích quan trọng và có ý nghĩa của biện pháp XLHC này. Thứ ba, biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng nhằm mục đích trừng phạt người có hành vi vi phạm hành chính. Tính trừng phạt được coi là một thuộc tính vốn có của các biện pháp cưỡng chế, không chỉ có trong cưỡng chế hành chính mà còn trong cả cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự… Trong luật hình sự thì một trong các mục đích của hình phạt đó là tính trừng trị của hình phạt. Tương tự như vậy, các biện pháp cưỡng chế hành chính có tính trừng phạt tương đối cao, chỉ sau cưỡng chế hình sự. Đặc biệt là các biện
  • 23. 17 pháp XLHC khác, trong đó có biện pháp đưa vào CSCB. Biện pháp đưa vào CSCB là một biện pháp tính cưỡng chế tương đối cao khi nội dung của nó là tước bỏ một số quyền nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Chính vì tính chất này nên người bị áp dụng chúng sẽ phải sinh sống, học tập và chữa bệnh trong các CSCB và chịu sự quản lý nghiêm ngặt của các cơ sở này. Tính trừng phạt của biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hết sức cần thiết. Bởi vì, đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC này là những đối tượng nghiện ma túy hoặc bán dâm thường xuyên, đã bị áp dụng các biện pháp XLHC khác ở cấp độ nhẹ hơn nhưng vẫn tái phạm hoặc các đối tượng này không có nơi cư trú cố định. Các đối tượng này thường có những hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tính trừng phạt của biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hết sức cần thiết, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, buộc họ phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi là hạn chế một phần quyền tự do và chịu sự quản lý giám sát của CSCB. Thứ tư, biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn khả năng tái phạm của người bị áp dụng. Như chúng ta đã biết, đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB là những đối tượng nghiện ma túy, bán dâm đã vi phạm nhiều lần, đã bị xử lý bằng các biện pháp khác nhưng vẫn tái phạm hoặc không có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, việc áp dụng đối biện pháp XLHC đưa vào CSCB đối với những đối tượng này là cần thiết để ngăn chặn họ tái phạm và tiếp tục đi vào con đường lầm lạc. Mục đích phòng ngừa ở đây bao gồm cả phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng, chú ý loại trừ những nguyên nhân thực hiện hành vi trái pháp luật và tạo điều kiện cho người bị áp dụng tái hòa nhập cộng đồng. Khả năng phòng ngừa chung của biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích nhằm
  • 24. 18 răn đe, cảnh báo và ngăn ngừa sự vi phạm của các đối tượng khác trong xã hội, khi đang có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Như chúng ta đã biết, đối tượng nghiện ma túy hoặc người bán dâm thường là những đối tượng nguy hiểm, mức độ tái phạm thường xuyên, cần phải hạn chế quyền tự do đối với họ, cần sự giám sát và quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa khả năng tái phạm của họ. Mục đích phòng ngừa được thực hiện thông qua sự kết hợp giữa giáo dục và trừng trị, lôi cuốn các lực lượng xã hội tham gia đấu tranh và phòng ngừa vi phạm, thúc đẩy dư luận xã hội. Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB còn có vai trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, khôi phục trật tự quản lý hành chính nhà nước, trật tự pháp luật. 1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh 1.3.1. Khái niệm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh Pháp luật là là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Do đó, ta có thể hiểu pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB như sau: “Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hệ thống các quy định do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó nội dung của nó là việc quy định đưa những đối tượng nghiện ma túy hoặc bán dâm có các điều kiện theo quy định của pháp luật vào các CSCB để lao động, học văn hóa, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB”. 1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh Với tư cách là một nhóm các quy định pháp luật có tính độc lập trong
  • 25. 19 hệ thống pháp luật về các biện pháp XLHC, pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng có những đặc điểm riêng cơ bản sau: - Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Cũng như đặc điểm chung của pháp luật, biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, cụ thể ở đây là: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh XLVPHC 2002, trong đó có quy định về biện pháp XLHC đưa vào CSCB tại Điều 26; Chính phủ quy định cụ thể biện pháp này bằng Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào CSCB; Nghị định 61/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào CSCB. Đồng thời, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành trung ương ban hành một loạt thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Đặc điểm này còn cho thấy, tính pháp chế trong việc quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB, theo đó, việc áp dụng biện pháp này phải tuân theo những quy định hết sức cụ thể và chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Điều này cũng dễ hiểu bởi đây là biện pháp cưỡng chế hành chính tương đối nghiêm khắc, khi tước đi một phần quyền tự do cá nhân của chủ thể khi áp dụng. - Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB có nội dung là nhằm đưa người nghiện ma túy, người bán dâm vi phạm nhiều lần đã được áp dụng các biện pháp XLHC khác nhưng vẫn vi phạm hoặc không có nơi cư trú rõ
  • 26. 20 ràng vào các CSCB để lao động, học tập, học nghề và chữa bệnh. Đây là đặc điểm thể hiện nội dung cơ bản của biện pháp XLHC này. Bởi đối tượng quy định của biện pháp XLHC này chính là người nghiện ma túy và người bán dâm, là những đối tượng có hành vi vi phạm hành chính ở mức độ tương đối nguy hiểm, xâm phạm vào trật tự quản lý hành chính nhà nước, đe dọa an toàn trật tự công cộng cần phải cách ly một thời gian khỏi cộng đồng để quản lý và giáo dục thành người lương thiện cho xã hội. - Pháp luật về biện pháp đưa vào CSCB có nội dung chủ yếu là biện pháp giáo dục, học tập, cải tạo và chữa bệnh đối với những đối tượng bị áp dụng. Bản chất của biện pháp này là việc đưa các đối tượng bán dâm, người nghiện ma túy vào các CSCB để họ làm lại cuộc đời. Trong các CSCB người nghiện ma túy, người bán dâm được học tập văn hóa, học nghề, lao động sản xuất và chữa bệnh để phục hồi sức khỏe, cắt cơn và cai nghiện, chữa các bệnh truyền nhiễm khác, đồng thời với đó là học nghề để đảm bảo quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Mục đích của pháp luật quy định về biện pháp XLHC đưa vào CSCB là nhằm cho người nghiện ma túy, người bán dâm lao động, học nghề, học tập và chữa bệnh để trở thành người có ích cho xã hội. Đây chính là tính nhân văn của các quy định pháp luật về biện pháp XLHC này. 1.4. Các yếu tố tác động và những yêu cầu cơ bản đối việc việc xây dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh 1.4.1. Các yếu tố tác động đối việc việc xây dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh - Yếu tố chính trị - tư tưởng Các yếu tố về chính trị - tư tưởng là các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc luôn có sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Pháp luật về các biện pháp cưỡng chế hành chính cũng bị chi phối và phụ thuộc nhiều vào yếu tố chính trị - tư tưởng. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
  • 27. 21 tư tưởng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo và mở rộng các quyền tự do dân chủ luôn là những yếu tố chính trị - tư tưởng có tác động mạnh mẽ đến pháp luật về các biện pháp XLHC trong đó có biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Nằm trong mối tương quan với các biện pháp XLHC khác, biện pháp đưa vào CSCB cần được xây dựng một cách đúng đắn và phù hợp nhất, đáp ứng hiệu lực, hiệu quả tình hình xử lý vi phạm pháp luật, phản ánh được các yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội đồng thời thể hiện được nội dung dân chủ, công bằng và nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, về mặt bản chất, các biện pháp XLHC khác nói chung và biện pháp đưa vào CSCB nói riêng luôn mang trong mình ý chí của giai cấp thống trị. Khi có sự thay đổi về giai cấp thống trị xã hội thì tất yếu dẫn đến quan niệm, nội dung, mục đích áp dụng các biện pháp này là khác nhau. Quan niệm của các giai cấp trong xã hội đối với các đối tượng bị áp dụng các biện pháp, về tệ nạn, hiện tượng trong xã hội sẽ quy định nội dung, trình tự, thủ tục của biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Cụ thể như, sự nhìn nhận của xã hội về các đối tượng bán dâm là người vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB hay họ chỉ là nạn nhân cần được hỗ trợ trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng, cũng làm thay đổi quan niệm về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cũng có ảnh hưởng đến pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Theo đó, ở nước ta quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội, cơ quan đại diện cho lợi ích và ý chí của đông đảo người dân. Tuy nhiên, giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự phân công, phối hợp hài hòa với nhau. Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân được quy định tại Điều 26 của
  • 28. 22 Pháp lệnh XLVPHC 2002 thuộc thẩm quyền xử lý của các cơ quan hành chính nhà nước. Nhưng việc quy định cơ sở pháp lý của biện pháp XLHC này lại thuộc về Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. - Yếu tố kinh tế - văn hóa – xã hội Sự tác động của các yếu tố kinh tế - văn hóa – xã hội tới pháp luật là một vấn đề đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra. Theo đó, pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng của kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ tầng tương ứng và chịu sự quyết định của các yếu tố cơ sở hạ tầng này. Trong đó yếu tố kinh tế là yếu tố hàng đầu. Một hệ thống pháp luật đảm bảo được sự phù hợp với điều kiện kinh tế tại thời kỳ đó thì sẽ có tính điều chỉnh cao và sẽ có tác dụng bảo vệ cũng như thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ xã hội. Những biến đổi về mặt kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới sự quy định về các biện pháp XLHC khác nói chung và biện pháp đưa vào CSCB nói riêng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, với các hệ quả của nó đã kéo theo nhiều sự thay đổi cả về đời sống tư tưởng và con người, đặc biệt là giới trẻ. Trong nền kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội phát triển ngày càng nhanh chóng, mà điển hình là tệ nạn mại dâm và nghiện ma túy. Chính vì vậy, sự thay đổi của các yếu tố này sẽ dẫn đến pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng cần phải biến đổi cho phù hợp, để nhằm đảm bảo ngăn ngừa được tình trạng vi phạm pháp luật, giáo dục, cải tạo các đối tượng nghiện ma túy, bán dâm trở thành người có ích cho xã hội. - Các yếu tố khác từ bên ngoài tác động tới pháp luật về XLHC đưa vào CSCB Việt Nam đã và đang tiến hành quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc. Hiện nay, chúng ta đã trở thành thành viên của rất nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương, trong đó có các điều ước về quyền con
  • 29. 23 người cơ bản. Chính vì vậy, việc thực hiện các cam kết quốc tế được thể hiện cụ thể tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia có ảnh hưởng nhất định đến hệ thống pháp luật nói chung trong đó có hệ thống pháp luật về các biện pháp XLHC. Như chúng ta đã biết, biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp xử lý có tác động đến các quyền tự do cá nhân của công dân. Vì vậy, khi Việt Nam đã là thành viên của các Điều ước quốc tế về quyền con người thì cần có những quy định pháp luật hết sức cụ thể, minh bạch trong việc áp dụng biện pháp này đối với các đối tượng. Đặc biệt xu thế của thế giới về việc có nên coi đối tượng bán dâm là đối tượng vi phạm pháp luật hay không, hoặc việc áp dụng biện pháp xử lý đối với người bán dâm là nên áp dụng biện pháp gì để vừa đảm bảo việc ngăn chặn tình trạng tái vi phạm, vừa hỗ trợ trợ trong việc hòa nhập cộng đồng là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tất cả những tác động trên đây có thể tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến pháp luật về XLHC đưa vào CSCB mà trong quá trình xây dựng pháp luật về lĩnh vực này nhà làm luật cần tính toán trong việc xây dựng để nhằm đảm bảo ban hành một quy định phù hợp, chặt chẽ và có tính nhân văn cao. 1.4.2. Những yêu cầu cơ bản đối với việc xây dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh Thứ nhất, biện pháp XLHC đưa vào CSCB phải được quy định bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cũng như các biện pháp XLHC khác, biện pháp đưa vào CSCB là một biện pháp cưỡng chế hành chính tương đối nghiêm khắc và nó hạn chế quyền tự do của công dân vì vậy việc xây dựng các quy định pháp luật về lĩnh vực này cần được tiến hành hết sức chặt chẽ và đảm bảo phải do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Ngoài Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về căn cứ chung áp dụng biện
  • 30. 24 pháp XLHC này. Chính phủ quy định chế độ áp dụng, cách thức tổ chức hoạt động cụ thể của các CSCB, còn các cơ quan nhà nước khác không được quy định các biện pháp vượt quá quy định mà do các cơ quan trên đã ban hành. Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB phải quy định rõ những cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo sự thống nhất về cơ sở pháp lý trong việc áp dụng biện pháp này trong thực tế, tránh sự chồng chéo, lạm dụng thầm quyền. Thứ hai, việc quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB phải xuất phát từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước và yêu cầu đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp luật trong từng giai đoạn. Bản chất của pháp luật nói riêng và của các thiết chế trong kiến trúc thượng tầng nói chung phải luôn thay đổi để phù hợp với cơ sở hạ tầng và sự phát triển của xã hội. Đời sống chính trị, kinh tế - xã hội không ngừng thay đổi và phát triển sẽ kéo theo các vi phạm pháp luật ngày càng đa dạng và phức tạp, trong đó có các tệ nạn về ma túy, mại dâm… Do đó, việc quy định biện pháp XLHC khác nói chung và biện pháp đưa vào CSCB nói riêng cần luôn luôn thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ dể đảm bảo tính răn đe, xử lý kịp thời, triệt để mọi đối tượng nghiện ma túy, bán dâm. Đồng thời, hệ thống các biện pháp cũng phải được quy định một cách nghiêm minh, rõ ràng, hợp lý, minh bạch vừa đảm bảo khả năng áp dụng thích ứng, linh hoạt với các vi phạm xảy ra trong lĩnh vực mua túy và mại dâm đồng thời bảo vệ được các quyền, lợi ích của Nhà nước, công dân và tổ chức. Thứ ba, quy định của pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần cụ thể, chặt chẽ về thẩm quyền, thủ tục, các trường hợp và giới hạn áp dụng của biện pháp này. Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng, bởi vì việc quy định chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp XLHC này có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý thống thất, nhanh chóng, tránh việc lạm quyền, tùy tiện trong việc xử lý, đồng thời hạn chế việc xâm
  • 31. 25 phạm quyền của người bị áp dụng, đặc biệt là nhóm đối tượng người nghiện ma túy và người bán dâm. Thứ tư, việc quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần đảm bảo dân chủ, quyền công dân, quyền con người phù hợp với các Điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam tham gia. Như chúng ta đã biết, biện pháp đưa vào CSCB có tính cưỡng chế hành chính nghiêm khắc tương đối cao, nội dung của biện pháp này hạn chế quyền tự do cá nhân của người bị áp dụng. Do vậy, khi quy định về biện pháp XLHC này trong hệ thống các quy định về xử lý vi phạm hành chính cần hết sức chặt chẽ, minh bạch. Trong đó có tính đến các chuẩn mực quốc tế về quyền con người tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Nhằm đảm bảo mục đích và hiệu quả áp dụng của biện pháp này, đồng thời bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong tình hình hiện nay. Thứ năm, việc quy định về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần phải đồng bộ, nằm trong tổng thể mối quan hệ với các biện pháp XLHC khác nói riêng cũng như các biện pháp xử lý vi phạm hành chính nói chung. Biện pháp đưa vào CSCB là một biện pháp XLHC khác, do đó nó cần phải tương thích, đồng bộ với các biện pháp pháp XLHC khác như: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào trường giáo dưỡng… Theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì người bán dâm, người nghiện ma túy sau khi đã được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn vi phạm thì mới bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Vì vậy, giữa các biện pháp này phải đảm bảo tính đồng bộ cao cả về quy trình, thủ tục, thời gian áp dụng… Việc quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB cần thống nhất với các biện pháp khác để đảm bảo nguyên tắc pháp lý cơ bản về công bằng, nhân đạo, bảo đảm pháp chế, kết hợp giáo dục với cưỡng chế, trừng trị.
  • 32. 26 1.5. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh Trong lịch sử lập pháp của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1945 đến nay, chúng ta đã ban hành rất nhiều văn bản về xử lý vi phạm hành chính nói chung và XLHC khác nói riêng, trong đó có biện pháp đưa vào CSCB. Các biện pháp XLHC khác nói chung trong đó có biện pháp đưa vào CSCB của Pháp lệnh hiện hành có nguồn gốc ban đầu là biện pháp cưỡng chế đặc biệt, xuất phát từ Nghị quyết 49 năm 1961 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Nghị quyết này quy định việc đưa vào các cơ sở tập trung giáo dục, cải tạo đối với những người có hành động nguy hại cho xã hội, được giáo dục nhiều lần, nhưng không hối cải. Chủ tịch tỉnh ra quyết định và Bộ trưởng Công an duyệt với thời hạn 03 năm mà không cần thông qua việc xét xử của các cơ quan tư pháp – Tòa án. Những biện pháp này được dành cho những người chống đối chế độ biểu hiện qua các hành vi gián điệp, mật thám, ngụy quân, ngụy quyền, cốt cán đảng phái phản động… Biện pháp tập trung giáo dục, cải tạo ngoài những đối tượng nói trên, cũng được áp dụng cho những người có hành vi phạm tội như lưu manh, trộm cắp, lừa đảo. Các biện pháp XLHC khác về cơ bản là không phải biện pháp xử phạt hành chính mà có bản chất rất khác so với xử phạt các hành vi vi phạm hành chính [41, tr.53]. Năm 1977, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/CP ngày 27/5/1977 về Điều lệ xử phạt vi cảnh. Đây được coi như văn bản pháp lý cơ bản đầu tiên về vấn đề xử lý vi phạm hành chính được ban hành ở nước ta. Trong đó, có quy định các vấn đề cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính, cũng như các biện pháp xử lý khác nhằm ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật ở mức độ thường xuyên nhưng chưa truy cứu trách nhiệm hình sự. Sau giai đoạn này, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, vấn đề xử lý vi phạm hành chính đã được điều chỉnh bởi một văn bản ở cấp độ Pháp
  • 33. 27 lệnh. Ngày 30/11/1989, Hội đồng nhà nước đã ban hành Pháp lệnh XLVPHC. Đây là văn bản pháp lý quy định tương đối đầy đủ và cơ bản về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính cũng như biện pháp XLHC khác. Sau một thời gian thi hành, để đáp ứng được yêu cầu trong công tác đấu tranh chống các vi phạm pháp luật, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành mới vào năm 1995. Trong Pháp lệnh XLVPHC 1995 có quy định biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Điều 24 của Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 quy định về biện pháp đưa vào CSCB như sau: “Người nghiện ma túy, người mại dâm có tính chất thường xuyên, đã được Chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không chịu sửa chữa thì đưa vào CSCB để chữa bệnh, học tập và lao động trong thời hạn từ ba tháng đến một năm” [43]. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định việc không đưa vào CSCB đối với người chưa đủ 18 tuổi, nữ trên 55 tuổi và nam trên 60 tuổi. Về thủ tục áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB, Pháp lệnh XLVPHC 1995 đã quy định rõ việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào CSCB được giao cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xem xét, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Việc xem xét hồ sơ, thẩm tra sẽ được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét trong vòng 07 ngày làm việc và lập văn bản đề nghị đưa vào CSCB gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân cấp tỉnh để xem xét ra quyết định đưa vào CSCB đối với người bị áp dụng. Theo Nghị định số 20/CP ngày 13 tháng 4 năm 1996 của Chính phủ ban hành quy chế về CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC 1995 thì đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào CSCB là người nghiện ma túy và người mại dâm, trong đó: Người nghiện ma túy đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng vẫn chưa cai nghiện được đã được đưa vào CSCB để cai nghiện nhưng vẫn tái nghiện; người nghiện nặng không có khả năng để cai nghiện tại nhà hoặc cai nghiện tại cộng đồng; người mại dâm đã được giáo dục tại xã,
  • 34. 28 phường, thị trấn nhưng vẫn không chịu sửa chữa, đã được đưa vào CSCB nhưng vẫn tái phạm hoặc mại dâm có tính chất thường xuyên [14]. Như vậy, đối tượng được áp dụng biện pháp đưa vào CSCB theo Pháp lệnh 1995 và Nghị định số 20/CP đã có những quan niệm chưa chính xác về người nghiện ma túy và người bán dâm. Theo đó, những đối tượng nghiện nặng không có khả năng cai nghiện ở nhà hoặc cai nghiện tại cộng đồng cũng bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Đây là quy định chưa chính xác, bở xác định một đối tượng là nghiện nặng hay không chưa có các quy chuẩn cụ thể để áp dụng, đồng thời việc đánh giá khả năng cai nghiện của đối tượng tại nhà hoặc cộng đồng cũng còn thiếu những chuẩn mực để đánh giá. Phần lớn các đối tượng nghiện có cai nghiện thành công không phụ thuộc vào ý chí của chính họ. Việc áp dụng biện pháp đưa vào CSCB nhưng chưa qua các biện pháp xử lý khác, như giáo dục tại xã, phường, thị trấn với họ là chưa đảm bảo tính chính xác và khách quan. Thứ hai, là việc cả Pháp lệnh năm 1995 và Nghị định 20/CP dùng cụm từ người mại dâm là chưa chính xác. Bởi như ta đã biết, mại dâm hiểu theo nghĩa thông thường là sự trao đổi tình dục có thu tiền [49, tr.154]. Trong nội hàm của khái niệm mại dâm bao hàm cả hành vi mua dâm, bán dâm và các hành vi hỗ trợ khác như môi giới, tổ chức… Như vậy, việc các văn bản dùng cụm từ “người mại dâm” là chưa đảm bảo tính chính xác về khoa học, bởi biện pháp đưa vào CSCB không áp dụng đối với người mua dâm, đồng thời đối với người môi giới, tổ chức hoạt động mại dâm thì sẽ bị xử lý hình sự. Do đó, nếu trong các văn bản này sử dụng cụm từ “người bán dâm” sẽ đảm bảo tính chính xác hơn. Và điều này đã được khắc phục trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002. Như vậy, Pháp lệnh XLVPHC 1995 đã quy định một trình tự tương đối chặt chẽ về quy trình áp dụng biện pháp đưa vào CSCB với ba cấp thực hiện từ Uỷ ban nhân dân cấp xã cho đến cấp huyện và cuối cùng là cấp tỉnh ra
  • 35. 29 quyết định. Việc này đảm bảo tính chặt chẽ, chính xác của việc áp dụng biện pháp này, tuy nhiên, việc quy định nhiều cấp thực hiện và áp dụng thủ tục này làm cho quá trình áp dụng trở nên rườm rà, thiếu sự linh hoạt và nhanh chóng. Các nhược điểm về việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB trên đã được Pháp lệnh XLVPHC 2002 khắc phục. Pháp lệnh lần này đã có các quy định tương đối khác so với các văn bản trước kia về việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Theo đó, Điều 26, Pháp lệnh XLVPHC 2002 quy định việc đưa vào CSCB do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định đối với người có hành vi vi phạm pháp luật là người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định để lao động, học văn hoá, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào CSCB đối với người nghiện ma tuý là từ một năm đến hai năm, đối với người bán dâm là từ ba tháng đến mười tám tháng [44]. Như vậy, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB trong Pháp lệnh XLVPHC 2002 đã có những điểm khác biệt cơ bản so với Pháp lệnh XLVPHC 1995. Điều này thể hiện ở một số điểm như sau: Thứ nhất, về thẩm quyền được phép áp dụng biện pháp này ở Pháp lệnh năm 2002 là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện chứ không còn là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh như Pháp lệnh 1995, đồng thời cũng tinh giản một số thủ tục cơ bản để đảm bảo tính nhanh chóng áp dụng của biện pháp này; Thứ hai, đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB tại Pháp lệnh năm 2002 mở rộng hơn khi áp dụng cho cả người bán dâm từ đủ 16 tuổi trở lên còn Pháp lệnh năm 1995 thì chỉ áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên; Thứ ba, về thời hạn áp dụng biện
  • 36. 30 pháp này cho đối tượng bị áp dụng theo Pháp lệnh 2002 thì có sự phân loại ra hai trường hợp, đối với người nghiện ma túy thì thời hạn là từ 1 năm đến 2 năm, đối với người bán dâm là từ ba tháng đến mười tám tháng, trong khi đó tại Pháp lệnh 1995 thì thời gian áp dụng biện pháp này là đồng nhất với hai nhóm đối tượng là từ ba tháng đến một năm. Việc quy định biện pháp đưa vào CSCB tại Pháp lệnh XLVPHC mang tính chất lịch sử. Các biện pháp này được áp dụng đối với đối tượng tệ nạn xã hô ̣i là người bán dâm, người nghiê ̣n xì ke, ma túy trong thời gian chiến tranh và sau khi đất nước thống nhất. Người nghiê ̣n ma túy, người bán dâm bi ̣coi là "sản phẩm của chế độ cũ ", không phù hợp với các chuẩn mực xã hội về con người mới xã hội chủ nghĩa , cần phải được giáo dục , cải tạo. Người bán dâm được đưa vào các cơ sở với tên go ̣i như "Trường phục hồi nhân phẩm " hoă ̣c "Trung tâm phục hồi nhân phẩm "; người nghiê ̣n ma túy được đưa vào các trung tâm cai nghiê ̣n ma túy . Trước năm 1995 không có quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t về viê ̣c áp dụng biê ̣n pháp này . Từ năm 1995, biê ̣n pháp này được quy định chính thức trong nhóm các biê ̣n pháp xử lý hành chính khác với tên gọi là "đưa vào cơ sở chữ a bê ̣nh". Hiện nay, biện pháp này được áp dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn nghiện ma túy hoặc người bán dâm thường xuyên có độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn mà vẫn tái phạm hoặc không có nơi cư trú nhất định. 1.6. Pháp luật của một số quốc gia liên quan tới biện pháp đƣa vào cơ sở chữa bệnh 1.6.1. Pháp luật Trung Quốc có liên quan tới biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh Các quy định về cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy ở Trung Quốc được thể hiện trong Luật Phòng, chống ma túy nước Cộng hòa
  • 37. 31 Nhân dân Trung Hoa được thông qua ngày 29 tháng 12 năm 2007 và các văn bản khác hướng dẫn thi hành. Luật Phòng chống ma túy Trung Quốc đã thể hiện “Nhà nước áp dụng các biện pháp giúp đỡ người nghiện ma túy từ bỏ ma túy, giáo dục và phục hồi người nghiện ma túy. Người nghiện ma túy có trách nhiệm phải thực hiện điều trị cai nghiện…” [48, Điều 31]. Ngoài ra, Luật này còn quy định các biện pháp cai nghiện tại cộng đồng đối với người nghiện ma túy, Luật Phòng chống ma túy Trung Quốc quy định: Đối với người nghiện ma túy, cơ quan công an có thể cho phép người nghiện thực hiện cai nghiện tại cộng đồng và gửi thông báo tới nơi quan lý hộ tịch hoặc chính quyền nhân dân xã, khu phố nơi người đó đang sinh sống. Thời hạn cai nghiện tại cộng đồng là 3 năm[48, Điều 33]. Hoặc người nghiện cũng có thể áp dụng biện pháp tự nguyện đến cơ sở y tế có điều trị cai nghiện để được điều trị cai nghiện. Biện pháp cai nghiện bắt buộc được áp dụng đối với người nghiện theo quy định tại Điều 38 Luật Phòng, chống ma túy Trung Quốc, được gọi với tên cai nghiện cách ly bắt buộc, quy định như sau: “Người nghiện thuộc một trong các trường hợp sau thì cơ quan công an cấp huyện trở lên phải ra quyết định cai nghiện cách ly bắt buộc”: 1. Chống đối cai nghiện tại cộng đồng 2. Sử dụng ma túy trong thời gian cai nghiện cộng đồng 3. Vi phạm nghiêm trọng thỏa thuận cai nghiện tại cộng cộng đồng 4. Sau khi cai nghiện cộng đồng, cai nghiện cách ly bắt buộc vẫn tiếp tục sử dụng ma túy [48, Điều 38]. Ngoài ra Luật Phòng chống ma túy Trung Quốc còn quy định cụ thể đối tượng không được áp dụng biện pháp cai nghiện cách ly bắt buộc, đó là: người nghiện là phụ nữ mang thai hoặc có con nhỏ dưới 1 tuổi, người chưa thành niên dưới 16 tuổi.
  • 38. 32 Quy định về vấn đề trình tự thủ tục áp dụng biện pháp cai nghiện cách ly bắt buộc, theo đó cơ quan công an ra quyết định cai nghiện cách ly bắt buộc cho người nghiện phải cấp giấy quyết định cai nghiện cách ly bắt buộc, gửi cho người nghiện trước khi tiến hành. Người nghiện ma túy có thể không đồng ý với quyết định cai nghiện cách ly bắt buộc và khiếu nại hoặc khởi kiện ra tòa theo quy định. Về thời gian áp dụng biện pháp cai nghiện cách ly bắt buộc là 2 năm và có thể được kết thúc trước thời hạn sau khi đã được đánh giá chuẩn đoán là cai nghiện thành công [48, tr.106-108]. Luật Phòng chống ma túy Trung Quốc còn quy định cụ thể việc xây dựng các cơ sở cai nghiện cách ly bắt buộc, mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ sở này. Như vậy, biện pháp xử lý đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của pháp luật Trung Quốc có điểm tương đồng với biện pháp XLHC đưa vào CSCB của Việt Nam. Đối tượng áp dụng là những người nghiện chống đối cai nghiện tại cộng đồng; sử dụng ma túy trong thời gian cai nghiện cộng đồng; vi phạm nghiêm trọng thỏa thuận cai nghiện tại cộng cộng đồng; sau khi cai nghiện cộng đồng, cai nghiện cách ly bắt buộc vẫn tiếp tục sử dụng ma túy. Đây là các đối tượng mang tính nguy hiểm cho xã hội cao hoặc đã được áp dụng biện pháp cai nghiện tại cộng đồng nhưng lại tái phạm. Tương tự như quy định về XLHC đưa vào CSCB của Việt Nam, cũng là áp dụng đối với những người nghiện ma túy đã được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng tái phạm hoặc không có nơi cư trú nhất định. Về chủ thể được quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện cách ly bắt buộc theo Luật Phòng, chống ma túy Trung Quốc đó là cơ quan công an cấp huyện ra quyết định, điều này là khác biệt so với quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, như: Luật Phòng chống ma túy, Pháp lệnh XLVPHC, theo đó thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý cai nghiện bắt buộc hoặc đưa vào CSCB đối với người nghiện ma túy thuộc về Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
  • 39. 33 Về biện pháp xử lý đối với người bán dâm, thì theo pháp luật Trung Quốc đã quy định nghiêm cấm mại dâm, đĩ điếm dưới mọi hình thức. Đối với các đối tượng bán dâm sẽ bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế tập trung nhằm tiến hành giáo dục pháp luật, đạo đức và lao động sản xuất để họ sửa bỏ thói xấu với thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm. Nếu sau khi bị cơ quan công an xử lý về hành vi bán dâm mà vẫn tiếp tục bán dâm thì phải giáo dục, lao động đồng thời bị cơ quan công an phạt tiền theo quy định của pháp luật về XLHC của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngoài hành vi bán dâm, nếu đối tượng có hành vi môi giới, cưỡng bức, giới thiệu mại dâm có thể bị xử phạt hết sức nghiêm khắc (có thể bị tử hình) [48, tr.212]. Như vậy, đối với người bán dâm, pháp luật Trung Quốc cũng có những quy định về việc áp dụng biện pháp giáo dục cưỡng chế tập trung để học tập, giáo dục pháp luật, đạo đức và lao động sản xuất nhằm loại bỏ thói xấu để trở thành người có ích cho xã hội với một khoảng thời gian nhất định. Điều này cũng tương tự như quan điểm về chính sách đối với người bán dâm của Việt Nam được thể hiện trong Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm cũng như Pháp lệnh XLVPHC. 1.6.2. Pháp luật Thái Lan có liên quan đến biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh Các quy định có tính chất tương tự như biện pháp đưa vào CSCB của Việt Nam áp dụng đối với người nghiện ma túy trong pháp luật Thái Lan được thể hiện cụ thể tại Đạo Luật về phục hồi đối với người nghiện ma túy ở Thái Lan được ban hành ngày 27 tháng 09 năm 2002. Theo Đạo Luật này thì người nghiện ma túy được coi là thường xuyên dùng ma túy và ở trong tình trạng phụ thuộc và ma túy, tình trạng này có thể xác định trên cơ sở các tiêu chuẩn kỹ thuật. Biện pháp phục hồi cai nghiện ma túy được áp dụng cho người bị coi là đã sử dụng và sở hữu các chất ma túy; sử dụng và sở hữu các
  • 40. 34 chất ma túy để đem bán… nếu họ không có dấu hiệu phạm tội hoặc bị truy tố vì các tội khác có khung hình phạt tù giam hoặc bị phạt tù thì quan chức điều tra phải đưa họ ra tòa trong vòng 48 tiếng kể từ thời điểm họ đến văn phòng của nhân viên điều tra để tòa xem xét, quyết định kiểm tra bắt buộc nhằm xác định họ có phải là người nghiện hay đã sử dụng ma túy hay không. Trong trường hợp xác định họ là người chưa đủ 18 tuổi thì nhân viên điều tra xác định nhân thân của họ kể từ thời điểm người này đến cơ quan điều tra. Sau đó Tòa án sẽ xem xét và quyết định tạm giữ người vi phạm để xác định việc sử dụng ma túy hoặc nghiện ma túy tại một cơ sở cai nghiện ma túy, hoặc tại một cơ cơ sở cai nghiện phục hồi được quy định cụ thể. Quyết định về việc đưa người nghiện ma túy đi cai nghiện cần phải được cân nhắc, tính toán về độ tuổi, giới tính và đặc điểm cá nhân đồng thời cũng cần phải thông báo cho Tiểu ban cai nghiện phục hồi biết. Sau khi Tòa án ra quyết định đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện phục hồi thì Tiểu ban cai nghiện phục hồi ra quyết định tiếp nhận và xác minh người nghiện có các tiểu sử phạm tội không, nghiện loại ma túy gì. Sau khi xác minh các biện pháp trên Tiểu ban cai nghiện phục hồi sẽ đưa người đó vào cơ sở cai nghiện phục hồi và thông báo cho công tố viên biết. Về thời gian cai nghiện phục hồi theo quy định của Đạo Luật về phục hồi đối với người nghiện ma túy được xác định là 6 tháng, sau khi trải qua thời gian này Tiểu ban cai nghiện phục hồi sẽ xem xét gia hạn thêm nếu người nghiện chưa cai nghiện thành công. Việc gia hạn có thể được tiến hành nhiều lần như không quá 3 năm kể từ ngày người nghiện ma túy đó vào trung tâm cai nghiện phục hồi [48, tr.215-217]. Như vậy, ta có thể thấy quy định về cai nghiện phục hồi đối với người nghiện ma túy của Thái Lan có tính chất tương tự như biện pháp đưa vào CSCB của pháp luật Việt Nam hiện nay. Điều này là cần thiết để cách ly
  • 41. 35 người nghiện khỏi xã hội, nhằm tránh tình trạng họ bị dụ dỗ, lôi kéo sử dụng ma túy trong quá trình cai nghiện. Đồng thời các cơ sở cai nghiện phục hồi có những phương tiện, các quy trình cai nghiện phù hợp nhằm đảm bảo việc cai nghiện thành công. Một điểm khác biệt về quy trình xem xét đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện phục hồi của Thái Lan đó chính là việc giao cho Tòa án có thẩm quyền trong việc xem xét có đưa người nghiện vào các cơ sở cai nghiện phục hồi hay không. Đây chính là việc tư pháp hóa các biện pháp xử lý đối với người nghiện ma túy, đảm bảo tính minh bạch, dân chủ và công bằng trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc này. Đó cũng là xu thế chung của các nước hiện nay, mà Việt Nam cần quan tâm khi áp dụng các biện pháp xử lý đối với người nghiện ma túy. Ngoài ra, Đạo Luật về phục hồi đối với người nghiện ma túy ở Thái Lan còn quy định các thiết chế cần thiết cho việc thiết lập một hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng các biện pháp cai nghiện phục hồi. Đầu tiên là Uỷ ban phục hồi người nghiện ma túy được quy định tại Điều 6 của Đạo luật với rất nhiều thành viên thuộc các cơ quan khác nhau, Uỷ ban phục hồi người nghiện ma túy sẽ thành lập ra Tiểu ban phục hồi người nghiện ma túy ở các nơi cần thiết để phụ trách việc xem xét, quyết định việc người nghiện có bị áp dụng biện pháp cai nghiện phục hồi hay không. Về biện pháp xử lý đối với các đối tượng bán dâm, trước năm 1960 Thái Lan đã có một hệ thống mại dâm hợp pháp hóa. Theo Đạo Luật về bệnh lây nhiễm ra đời năm 1980 thì các nhà chứa và gái mại dâm phải đăng ký và nộp một khoản lệ phí nhất định cho nhà nước. Điều đó được xem như là một quy định đối với nạn mại dâm và kiểm soát sự tràn lan các bệnh hoa liễu. Hệ thống mại dâm có giấy phép đã thất bại trong sự kiểm soát sự gia tăng của nạn mại dâm có đăng ký. Vào năm 1960, Thái Lan đã ban hành đạo luật mới với tên gọi Đạo Luật kiềm chế nạn mại dâm. Đạo Luật này quy định các hoạt
  • 42. 36 động liên quan đến mại dâm đều là phạm pháp và phải trừng trị. Các hoạt động phạm tội bao gồm việc sở hữu, quản lý nhà chứa, gạ gẫm bán dâm nơi công cộng, bị phát hiện tại các nhà chứa, tham gia vào mại dâm tại các nhà chứa…[48, tr.207-208]. Vào năm 1996, Thái Lan tiếp tục ban hành Đạo Luật phòng chống tệ nạn mại dâm mới với các hình phạt nghiêm khắc hơn. Ở Thái Lan, mại dâm không còn là hiện tượng bất hợp pháp, nhưng người bán dâm có thể bị bắt vì gạ gẫm mua dâm ở nơi công cộng. Hiện nay, tại Thái Lan cũng có các cơ sở phục hồi nhân phẩm cho người hành nghề mại dâm theo quy định của Đạo Luật phòng chống mại dâm. Các cơ sở này là nơi tiếp nhận, và quản lý những người bán dâm không có nơi cư trú rõ ràng, hoặc là người nhập cảnh bất hợp pháp vào Thái Lan với mục đích bán dâm. Sau khi được hỗ trợ bởi các trung tâm, các đối tượng này sẽ được đưa trở về quê hương để sinh sống với mục đích tái hòa nhập cộng đồng [48, tr.104-105]. Như vậy, nhìn chung pháp luật Thái Lan cũng đã có những quy định mang tính cưỡng chế hoặc hỗ trợ những người nghiện ma túy, người bán dâm trong việc cai nghiện hoặc học tập, lao động để tái hòa nhập cộng đồng. Các quy định này với mục đích đảm bảo các quyền con người cơ bản của nhóm đối tượng này. Đồng thời ngăn chặn tình trạng họ tiếp tục tái vi phạm nhiều lần.
  • 43. 37 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH 2.1. Thực trạng các quy phạm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở chữa bệnh 2.1.1. Các quy định về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh Theo Điều 26, Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp đưa vào CSCB được áp dụng đối với những nhóm đối tượng sau: thứ nhất, người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng nhưng không có nơi cư trú nhất định; thứ hai, người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Theo Nghị định số 135/2004/NĐ- CP ngày 10 tháng 6 năm 2004 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức, hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC về chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên tự nguyện vào CSCB (gọi tắt là Nghị định 135/2004/NĐ-CP) và Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 07 năm 2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 135/2004/NĐ-CP nêu trên (gọi tắt là Nghị định 61/2011/NĐ-CP) thì cụ thể hóa các đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB như sau: - Người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà đã bị xử phạt vi phạm hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy; đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; đã được cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện ma túy tại cộng đồng.
  • 44. 38 - Người bán dâm từ đủ 16 tuổi trở lên đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đã bị đưa vào CSCB nhưng tái phạm; người bán dâm có tính chất thường xuyên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định [19]; [21]. Theo Thông tư liên tịch số 14/2012/TTLT-BLĐTBXH-BCA ngày 6/6/2012 của Liên bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an quy định chi tiết chế độ áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào CSCB (gọi tắt là Thông tư liên tịch 14/2012/TTLT-BTLĐTBXH-BCA) thì đã cụ thể hóa cách xác định các đối tượng bị đưa vào CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC 2002 và các Nghị định hướng dẫn thi hành như sau: - Đối với người nghiện ma túy bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB thì áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, đến 60 tuổi đối với nam, mà có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và thuộc một trong các trường hợp sau: + Đã chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy hoặc đã hết thời hiệu thi hành Quyết định nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; + Đã chấp hành xong Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn về việc sử dụng trái phép chất ma túy hoặc đã hết thời hiệu thi hành Quyết định nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; + Đã được cấp giấy chứng nhận hoàn thành thời gian cai nghiện ma tuý tại gia đình, cộng đồng hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận này nhưng đã hết thời hạn thực hiện Quyết định quản lý cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng hoặc Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng; + Người chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không có nơi cư trú nhất định.
  • 45. 39 Việc xác định người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy để áp dụng biện pháp đưa vào CSCB là người thuộc một trong các trường hợp sau: đang sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc qua điều tra, xác minh, cơ quan chức năng xác định người đó có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; người tự khai báo về việc sử dụng trái phép chất ma túy; qua xét nghiệm tìm chất ma tuý trong cơ thể người đó có kết quả dương tính mà không chứng minh được tính hợp pháp của việc có chất ma túy. - Người bán dâm bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB là người bán dâm từ đủ 16 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam và thuộc một trong các trường hợp sau: + Đã chấp hành xong Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc Quyết định đưa vào CSCB về hành vi bán dâm hoặc đã hết thời hiệu thi hành các Quyết định nêu trên nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; + Người không có nơi cư trú nhất định có từ 02 lần trở lên trong thời hạn 12 tháng bị xử phạt hành chính về hành vi bán dâm, chưa bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Theo Thông tư liên tịch 14/2012/TTLT-BTLĐTBXH-BCA thì việc xác định người nghiện ma túy, người bán dâm không có nơi cư trú nhất định là không xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở nhất định hoặc có nơi đăng ký thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú nhưng không thường xuyên sinh sống tại đó và thường xuyên đi lang thang, không ở nhất định tại nơi đăng ký thường trú, tạm trú. *) Nhận xét các quy định của pháp luật về đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB trong Pháp lệnh XLVPHC 2002 Thứ nhất, về độ tuổi của đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào CSCB theo Pháp lệnh có nhiều bất cập khi quy định nhóm đối tượng là người bán