SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  112
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MINH THU
VAI TRß CñA HIÕN PH¸P
TRONG VIÖC KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ N¦íC
Chuyên ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Minh Thu
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục những chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: HIẾN PHÁP VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC ........................................................................................ 5
1.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước - Lý do ra đời Hiến pháp................ 5
1.2. Biểu hiện của kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp ...21
1.2.1. Hiến pháp ghi nhận quyền lực nhà nước được phân công, phân
nhiệm và tự kiểm tra bên trong bằng cơ chế kìm chế và đối trọng
- một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước.........21
1.2.2. Hiến pháp kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc bảo đảm cho
nhân quyền không bị vi phạm.............................................................31
Chương 2: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC
HIẾN PHÁP VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2013..............................37
2.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1946.........37
2.2. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1959.........47
2.3. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1980.........52
2.4. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992.........57
2.4.1. Sự kiểm soát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan
hành chính và tư pháp .........................................................................58
2.4.2. Sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với các cơ quan khác của
nhà nước..............................................................................................62
Chương 3: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG HIẾN
PHÁP NĂM 2013 ..............................................................................72
3.1. Phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. .......72
3.2. Quyền con người được đề cao và đảm bảo trong Hiến pháp 2013....88
KẾT LUẬN..................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................102
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
DN: Doanh nghiệp
HĐND: Hội đồng nhân dân
QH: Quốc hội
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
UBND: Ủy ban nhân dân
UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong cuốn sách “Các quyền của con người” (1791-1792), Thomas
Paine viết: Hiến pháp không phải là một đạo luật của chính quyền nhưng là
của nhân dân tạo dựng nên chính quyền và một chính quyền không có Hiến
pháp là quyền lực không có quyền… Hiến pháp là một vấn đề đứng trước
chính quyền và chính quyền chỉ là tay sai của Hiến pháp.
Hiến pháp là bản văn đặt nền móng cho một quốc gia hiện đại, là hiện
thân của khế ước cơ bản giữa nhân dân và là hình thức cao nhất của pháp luật.
Thông qua hiến pháp, con người chính thức đánh đổi quyền tự do tự nhiên để
trở thành một công dân, chính thức đánh đổi một phần quyền tự do quyết định
của mình vào tay một số người cầm quyền để có được sự che chở của xã hội,
đại diện bởi luật pháp.
Nhà nước là rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Cho đến hiện
nay và tương lai sau này con người không thể sống thiếu nhà nước, trong một
trạng thái vô chính phủ, ít nhất là cho đến khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng
sản. Ở phương diện nào đó, Nhà nước có xu hướng lạm quyền mà vi phạm
đến quyền lợi của cá nhân sống trong Nhà nước đó. Chính vì nhằm mục đích
ngăn chặn sự vi phạm này từ phía Nhà nước, hay theo cách nói của C.Mác là
sự tha hóa của nhà nước nên cần phải có một bản văn quy định sự kiểm soát
quyền lực nha nước. Đó là Bản Hiến pháp. Hiến pháp là một bản văn luật có
vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam trong suốt gần nửa thế kỷ, mặc dù Hiến pháp 1946 đã thiết
lập sự chế ước quyền lực lẫn nhau giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhưng do chiến tranh nổ ra nên không thực hiện được. Hiến pháp 1959
và Hiến pháp 1980 tổ chức quyền lực Nhà nước ở Việt Nam cho thấy việc
2
phân công quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp còn mờ
nhạt. Đến Hiến pháp 1992 được xây dựng trong thời kỳ công cuộc đổi mới
đất nước, mở cửa nền kinh tế và nhất là chủ trương xây dựng nhà nước pháp
quyền thì quyền lực nhà nước đã được phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đến thời điểm hiện nay, Hiến pháp 2013 đã tiến thêm bước rất quan
trọng khi ghi nhận sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được của phương diện kiểm soát quyền
lực Nhà nước qua các bản Hiến pháp lịch sử và đặc biệt là Bản Hiến pháp mới
năm 2013, tôi đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ: “Vai trò của Hiến pháp
trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm những năm gần đây đã có một số đề tài, công trình
nghiên cứu kiểm soát quyền lực Nhà nước với mục đích, góc độ phạm vi tiếp
cận khác nhau trong đó ít nhiều đề cập tới vấn đề học viên đang nghiên cứu.
Các tài liệu học viên được tiếp cận gồm:
- Sự hạn chế quyền lực Nhà nước – GS.TS. Nguyễn Đăng Dung
- Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, Một số tiểu luận của các học
giả nước ngoài – Sách tham khảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
- Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn- Sách chuyên khảo,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra, còn có một số bài viết của các chuyên gia luật học liên quan
đến đề tài luận văn đã được đăng trên các tạp chí - đặc san Luật học, trên
trang tin điện tử của Chính phủ, Bộ tư pháp, một số bài viết về thành tựu của
Hiến pháp năm 2013 trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, vv…
Tài liệu và bài viết của các tác giả trên đã có những đóng góp đáng kể
3
trong trong việc hoàn thiện các quy định của Hiến pháp về kiểm soát quyền
lực Nhà nước. Qua tham khảo đã giúp học viên có thêm những kinh nghiệm
quý để triển khai những vấn đề, nội dung chưa được đề cập, tiếp cận sâu. Tuy
vậy, các công trình này đều được nghiên cứu trước khi có Hiến pháp năm
2013, chưa có công trình nào đề cập tới kiểm soát quyền lực nhà nước của các
bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là: Làm rõ những vấn đề lý luận về
vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Đánh giá
được các thành tựu cũng như chỉ ra các những bất cập, tồn tại của các quy
định của các bản Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Với mục đích nói trên, Luận văn có nhiệm vụ: Phân tích làm rõ cơ sở lý
luận về vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước ở các
thời kỳ khác nhau của đất nước và nêu bật những điểm mới đạt được của Hiến
pháp năm 2013.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận về vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát
quyền lực Nhà nước ở các thời kỳ khác nhau của đất nước và nêu bật những
điểm mới đạt được của Hiến pháp năm 2013.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những quy định của Hiến
pháp về phương diện kiểm soát quyền lực nhà nước được xác định trong giới
hạn sau đây:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về sự cần
thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp và nội dung kiểm soát
quyền lực nhà nước của Hiến pháp.
4
Thứ hai, kiểm soát quyền lực nhà nước của các bản Hiến pháp lịch sử.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về nhà nước và
pháp luật, Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thực tiễn, thống kê.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu một cách khá toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống về vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của các
bản Hiến pháp, đặc biệt là việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp
năm 2013.
7. Ý nghĩa của Luận văn
Với những kết quả của Luận văn, hi vọng rằng Luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, lý luận của các luật gia, đồng
thời sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên
cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam về việc kiểm soát quyền
lực nhà nước của Hiến pháp.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì nội dung của Luận văn được chi thành
3 chương như sau:
- Chương 1: Hiến pháp và vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước.
- Chương 2: Kiểm soát quyền lực Nhà nước của các Hiến pháp Việt
Nam trước năm 2013.
- Chương 3: Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp 2013.
5
Chương 1
HIẾN PHÁP VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước - Lý do ra đời Hiến pháp.
“Cuộc sống mà không có nhà nước hiệu lực để duy trì trật tự thì rất
đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi”.
Đây là câu nói nổi tiếng của nhà triết học và xã hội học người Anh
Thomas Hobbes (1588-1679) khi viết về vị trí, vai trò quan trọng của nhà
nước trong tác phẩm “ Leviathan”. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra cơ sở
của việc thành lập ra nhà nước là khế ước xã hội, thấy được tính tất yếu của
việc thành lập ra nhà nước cũng như những mặt trái của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, Nhà nước được hình thành từ sự
đấu tranh giai cấp và nhu cầu phải chống thiên tai, bão lụt để duy trì sự tồn tại
của các nhà nước phương Đông. Như vậy, Nhà nước “không phải là một
quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội”, mà là “một lực lượng nảy sinh từ
xã hội”, do nhu cầu của chính con người, nhà nước như là một lực lượng “ tựa
hồ như đứng trên xã hội”, vì không trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất,
nhưng lại có chức năng làm dịu bớt xung đột và giữ cho những xung đột đó
nằm trong một trật tự nhất định để cho sản xuất phát triển và xã hội loài người
không thể đi đến chỗ diệt vong.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của giai cấp thống trị và của xã hội.
Nhưng nó khác với các tổ chức xã hội khác chủ yếu ở chỗ: nhà nước được sử
dụng một thứ quyền lực đặc biệt do xã hội trao cho- quyền lực nhà nước. Đó
là một loại quyền lực gắn liền với khả năng bắt buộc- cưỡng chế đối với tất cả
mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đó còn là thứ quyền lực cho phép nhà
nước thâu tóm trong tay mình hầu hết các nguồn nhân lực, tài lực của Quốc
gia. Nhà nước còn là chủ thể duy nhất được đại diện cho quốc gia- dân tộc
6
trong các quan hệ quốc tế. Trong các chế độ nô lệ và phong kiến, quyền lực
nhà nước- mà thể hiện tập trung ở quyền lực của nhà vua, được coi như một
thứ quyền lực thần thánh, không giới hạn.
Đặc trưng về sự vận động của mọi loại quyền lực nói chung, trong đó
có quyền lực nhà nước, là hai xu hướng:
Thứ nhất, đó là xu hướng sử dụng trái phép quyền lực được giao để
phục vụ cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ (lợi dụng quyền hạn). Xu
hướng thứ hai là lạm dụng quyền lực (lộng quyền, lạm quyền). Cả hai xu
hướng này đều là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực, vốn là xu hướng khách
quan trong quá trình vận động, phát triển của quyền lực. Cả hai xu hướng trên
đều dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại cho xã hội, và người phải gánh
chịu chính là nhân dân [17].
Do tính chất đặc biệt của quyền lực nhà nước như vậy, nên ngay từ khi
nhà nước ra đời cho tới nay, tất cả các chế độ xã hội đều nhận thức và đặc biệt
coi trọng việc kiểm soát quyền lực nhà nước, với những phương thức và thiết
chế đa dạng khác nhau. Nhân loại, bằng kinh nghiệm lịch sử đầy máu và nước
mắt của mình, đã hiểu ra rằng, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, hơn
thế nữa, phải được kiểm soát chặt chẽ. Nói cách khác, quyền lực nhà nước
phải được giới hạn, không phải là vô hạn, nhất là trong một chế độ dân chủ,
đặc biệt là trong chế độ dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thuở ban đầu mọi nhà nước sinh ra với một ý nghĩa hết sức tốt đẹp
với mục đích duy trì và phát triển cuộc sống của nhân loại, làm cho nhân
loại thoát khỏi sự diệt vong và duy trì sự phát triển, nhưng sau đấy nhà nước
dần dần đều là những tổ chức chuyên chế. Nhà Vua- người thống trị thay
mặt cho nhà nước đều cho mình là nguồn gốc của mọi công lý trong xã hội.
Ông ta một mình có cả quyền lập pháp, hành pháp, sửa đổi, đình chỉ và cả
việc xét xử sự vi phạm pháp luật do chính ông ta ban hành. Là người cai trị,
7
ông ta có quyền tuyệt đối và không phải tuân thủ pháp luật. Vị trí của ông ta
không phải ở dưới mà ở trên pháp luật. Đó là một nhà nước độc tài, chuyên
chế gắn liền với các chế độ chính trị phi dân chủ, quyền lực nhà nước có một
đặc điểm quan trọng là vô hạn định, luôn luôn tiềm ẩn một mối nguy hại cho
loài người. [17]
Tham nhũng, độc tài, chuyên chế là bệnh chung của mọi xã hội có nhà
nước. Chế độ độc tài là chế độ loại trừ đa số nhân dân tham gia vào các công
việc nhà nước. Chế độ chuyên chế rất gần với chế độ độc tài, không những
loại trừ đa số nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước mà còn can thiệp
quá sâu vào lĩnh vực của đời sống nhân dân. Tham nhũng là sự lạm dụng
quyền hành của nhà nước để mưu lợi ích riêng mà quyền hành thì rất dễ bị lợi
dụng. “Do đó các nước phải cố gắng thiết lập và nuôi dưỡng những cơ chế
mang lại cho các cơ quan nhà nước sự mềm dẻo và sự khuyến khích để hoạt
động vì lợi ích chung, đồng thời kiềm chế những hành vi độc đoán tham
nhũng trong cách cư xử với các doanh nghiệp và công dân”. Những cơ chế
này chính là những quy định hạn chế quyền lực trong pháp luật của mỗi quốc
gia, mà trước hết là phải nói đến Hiến pháp.
Nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm quyền mà vi phạm đến quyền lợi
của cá nhân. Chính vì nhằm mục đích ngăn chặn sự vi phạm này từ phía nhà
nước, ngăn chặn sự “ tha hóa” của Nhà nước mà cần phải có một bản văn quy
định sự kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là bản Hiến pháp. Hiến pháp là
một bản văn luật có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm soát để
bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay có thể còn được gọi là bản
chất của hiến pháp, tức là xét đến cùng, cá tính chất sâu xa nhất của Hiến
pháp đó chính là tính nhân bản của Hiến pháp và đồng thời cũng là nhiệm vụ
của Hiến pháp.
Việc bảo vệ của cá nhân trong lịch sử tổ chức và hoạt động của bộ máy
8
nhà nước cũng như trong sinh hoạt của các chế độ chính trị càng ngày càng
được đặt ra một cách bức xúc. Xã hội càng dân chủ và văn minh bao nhiêu thì
giá trị của con người càng được bảo đảm bấy nhiêu, trước sự áp bức từ nhiều
phía. Nhà nước dân chủ và văn minh có một trách nhiệm vô cùng lớn trong
việc bảo đảm, bảo vệ nhân phẩm và giá trị của con người trước sự tấn công
của các chiều hướng khác nhau, tong đó có cả từ phía bản thân nhà nước
thông qua các hoạt động của các quan chức nhà nước, thay mặt nhà nước thực
thi công vụ. Để đảm bảo vấn đề bảo vệ giá trị nhân phẩm của con người trước
sự tha hóa của nhà nước, Hiến pháp có nhiều những biện pháp khác nhau như:
quy định các quyền lợi của cá nhân được thụ hưởng, quy định những bảo đảm
thi hành các quyền lợi và giá trị nhân phẩm của con người. Trong số những
biện pháp ấy thì việc phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau
để đi đến chỗ kiểm tra, kiềm chế lẫn nhau để đảm bảo quyền lợi của cá nhân
chiếm một vị trí rất quan trọng. Việc phân chia càng nhiều bao nhiêu thì bảo
vệ quyền các quyền cá nhân của con người càng nhiều bấy nhiêu.
Lý thuyết kiểm soát quyền lực đó được thể hiện bởi một nguyên nhân
bản tính của con người là đam mê quyền lực: Để phát triển và tồn tại, con
người rất cần đến nhà nước. Nhưng khi có nhà nước thì con người phải kiểm
soát nhà nước, bởi lẽ nhà nước do con người điều khiển. Và khi có quyền lực
nhà nước trong tay, con người có thể đạt được nhiều thứ quyền lợi khác như:
của cải, danh vọng, dễ có khả năng buộc người khác phải làm theo những ý
muốn đam mê của mình…. Sự thực “Lòng đam mê quyền lực và lòng đam
mê danh vọng là những ước muốn vô hạn định của con người”. Vì thế, khi có
quyền lực, con người hay có xu hướng lạm quyền. Đó là một trong những rủi
ro vô cùng nguy hiểm của xã hội.
Hoạt động của Nhà nước là một hoạt động phức tạp, thường là phải
do nhiều người cùng đảm nhiệm, nên nếu không có sự phân công rõ ràng
9
thì rất dễ rơi vào tình trạng ỷ lại lẫn nhau, theo kiểu “Cha chung, không ai
khóc.” Trong hoạt động của lĩnh vực công, càng tập trung bao nhiêu và
càng làm việc tập thể với nguyên tắc đa số để ban hành quyết định bao
nhiêu, thì lại càng tạo ra cơ sở nhiều hơn cho sự ỷ lại và không chịu trách
nhiệm cá nhân bấy nhiêu.
Con người có sai lầm nên không có một thể chế nào của con người
thoát khỏi sự sai lầm: Sự kiểm soát quyền lực nhà nước còn một nguyên nhân
sâu xa nữa là bản tính hay tùy tiện của chính con người. Con người vốn dĩ
hành động theo bản năng thiếu sự cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện hoàn cảnh
chi phối các hành vi của mình. Để tránh sự tùy tiện trong việc sử dụng quyền
lực nhà nước, không còn cách nào khác hơn là phải kiểm soát quyền lực. Khả
năng phạm sai lầm nằm ngay trong con người. Sở dĩ như vậy, vì rằng trí tuệ
thuộc về lý tính của con người là có hạn. Một người có trí tuệ siêu việt đến
đâu đi chăng nữa, thì cũng không thể thoát khỏi sai lầm. J.S.Mill, một triết gia
và một nhà kinh tế lớn của Anh quốc thế kỷ XIX, đã từng cảnh báo: “Loài
người không thể là thánh thần, không bao giờ sai, chân lý của họ phần nhiều
chỉ là các chân lý một nửa”. Khi soạn thảo ra bản Hiến pháp thành văn đầu
tiên của thế giới, Hiến pháp Mỹ năm 1787, J. Madison cũng đã từng nói về
điều đó: Chính phủ không phải là những thiên thần, nên chính phủ cũng có
thể mắc sai lầm. Đây là nhận thức căn bản của ông khi đề xuất hệ thống kìm
chế và đối trọng cho bản Hiến pháp này.
Con người vốn dĩ không muốn có trách nhiệm, mà chỉ muốn có
quyền: Nếu quyền hạn là những gì mà con người được hưởng, được quyền ra
lệnh yêu cầu những người khác phải thực hiện, thì ngược lại trách nhiệm là
những gì họ buộc phải làm và phải chịu dưới sự giám sát của những người
khác. Có những lúc hai thứ quyền hạn và trách nhiệm là hòa nhập trong nhau.
Nhưng cơ bản giữa chúng vẫn có một sự phân biệt nhất định. Ví dụ như, trong
10
chế độ phong kiến, nhà Vua thì bao giờ cũng chỉ có quyền, mà không bao giờ
phải gánh chịu trách nhiệm về những hành vi thực hiện các quyền của mình.
Từ đây mới xuất hiện trong luật học các chế định về việc miễn trừ trách
nhiệm pháp lý của các quan chức của Nhà nước phong kiến.
Bản tính của con người là những gì thuộc về tính chất, tính cách của số
đông con người đều mắc phải. Đã là con người thì không mấy ai thích trách
nhiệm, nhất là những trách nhiệm phải gánh vác hậu qủa do chính bản thân
mình gây ra. Bản tính con người giữ gìn và tăng cường danh dự. Khi phải
gánh chịu trách nhiệm như phải từ chức, phải trừng phạt, phải bồi thường
thiệt hại do những hành vi cầm quyền của mình gây ra là một trong những
biểu hiện nặng nề nhất của sự tổn thất danh dự của con người. Vì vậy, con
người có xu hướng bản năng trốn tránh trách nhiệm. Các hình thức trốn tránh
trách nhiệm: Tạo ra các vỏ bọc, tạo ra các cấp dưới trung gian trực thuộc
mình, chính quyền trở thành nhiều tầng nhiều nấc. Sự không hiểu vấn đề cũng
như sự phức tạp hóa vấn đề cần phải giải quyết.
Mức độ nguy hiểm của quyền lực nhà nước: Cơ sở của sự phải kiểm
soát quyền lực nhà nước xuất phát từ đặc điểm công khai, mang tính quyền
lực công cộng làm cho Nhà nước có một sức mạnh ghê gớm. Cùng là một loại
tội phạm, nhưng tội phạm cấu kết với các nhân viên tha hóa của Nhà nước
bao giờ cũng có hậu quả nặng nề hơn và cũng rất khó phát hiện hơn...
Việc kiềm chế tiềm năng sử dụng và lạm quyền lực nhà nước là một
thách thức đối với bất cứ Nhà nước nào. Điều khó khăn hơn nữa là làm việc
này mà không làm cho các cơ quan nhà nước mất đi tính mềm dẻo cần phải
có để tiến hành các công việc của Nhà nước. Việc sử dụng không đúng quyền
lực nhà nước tạo ra những vấn đề nghiêm trọng của sự tín nhiệm Nhà nước
của công chúng sẽ có tác động rất lâu dài trước công luận.
Lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước được thiết lập đầu tiên bởi các
11
nhà tư tưởng chính trị - pháp lý, đó là của Aristotle, J. Locke, S.L. Montesquieu
và J.J. Rousseau, tạo thành học thuyết được gọi là chủ nghĩa Hiến pháp, mà
cái cốt lõi của nó là sự giới hạn quyền lực nhà nước nhằm chống lại chế độ
chuyên chế phong kiến, và bảo vệ nhân quyền. Các nhà tư tưởng thời bấy giờ
lập luận rằng, một chính phủ được thành lập không hợp pháp và chính quyền
đó không có mục đích bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Vấn đề nhân quyền hầu
như không được chính quyền đó bảo vệ. Quyền lực nhà nước nằm trong tay
một số người theo thể thức thế tập truyền ngôi, có toàn quyền ban hành các
quyết định theo ý chí của mình và buộc mọi người phải thực hiện. J.Locke
trong tác phẩm “Hai chuyên luận về chính quyền” (1690) được coi là lý
thuyết đầu tiên chống lại tư tưởng chuyên chế, khi ông đưa ra lý thuyết về sự
giới hạn quyền lực chuyên chế của nhà Vua. Lý thuyết căn bản của J.Locke
dựa trên hai nền tảng quyền tự nhiên của con người và khế ước xã hội, nền
tảng của chế độ nhà nước. Locke cho rằng, con người “vốn dĩ tự do, bình
đẳng và độc lập”, đã chọn lựa một cuộc sống chung cùng với những người
khác và phải chịu từ bỏ trạng thái tự nhiên, để tuân thủ một “khế ước xã hội”,
nhằm có được một sự an ninh tốt hơn không thể có được khi ở “trạng thái tự
nhiên”. Họ nhất trí sống theo ý chí của số đông và chính vì mục đích này mà
các chính phủ được thành lập và chính phủ đó có thể bị giải thể nếu họ mất
niềm tin vào chính phủ. [17]
Vấn đề kiểm soát quyền lực và trách nhiệm của Nhà nước chỉ được giải
quyết một cách triệt để hơn và bài bản hơn, vì mục đích của sự bảo đảm nhân
quyền trong cách mạng tư sản. Càng ngày kiểm soát và trách nhiệm của
quyền lực nhà nước càng trở nên gắn bó mật thiết với dân chủ và sự kiểm soát
này được quy định thành luật, nhất là quy định của đạo luật có hiệu lực pháp
lý tối cao để cho mọi chủ thể nắm quyền lực nhà nước phải chấp hành. Đó là
Hiến pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là một căn cứ căn bản cho việc kiểm
12
soát quyền lực của nhà nước, khác với Nhà nước phong kiến nơi không tồn tại
hiến pháp.
Vì những lẽ đó, việc phải quy định về kiểm soát quyền lực Nhà nước
như là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, một khi mà xã hội
cần đến Nhà nước. Sự hiện diện của những quy định trong Hiến pháp nhằm
mục đích kiểm soát hay là kiểm soát quyền lực nhà nước là dấu hiệu của dân
chủ, của tiến bộ xã hội. Có như vậy mới thể hiện được tính nhân bản và xã hội
sâu sắc cần phải có của Hiến pháp.
Hiến pháp là một bản văn có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Kiểm soát để bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay có thể còn
được gọi là bản chất của Hiến pháp. Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh ở
nghĩa hẹp là quy định chế độ chính trị. Hay nói cách khác hơn, Hiến pháp có
đối tượng điều chỉnh là việc quy định chế độ nhà nước trong thời kỳ dân chủ.
Điều đó nghĩa là Hiến pháp được sinh ra trong cách mạng tư sản dân chủ, trở
thành văn bản quy định chế độ Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước xét về
mặt cơ cấu bao gồm các cơ quan nhà nước hợp thành bộ máy nhà nước. Vì
vậy chế độ nha nước là chế độ được hình thành từ những hoạt động của các
cơ quan thuộc bộ máy nhà nước.
Cho nên Hiến pháp có trách nhiệm phải quy định về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước; hay nói cách khác đối tượng điều chỉnh của Luật
Hiến pháp là những mối quan hệ về tổ chức bộ máy Nhà nước, làm cho bộ
máy đó thuộc về nhân dân.
Về nguyên tắc Hiến pháp không thể quy định tất cả việc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương: Lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Chính vì lẽ đó, ta có thể hiểu Hiến pháp là bản văn phân chia quyền lực.
Một bộ máy nhà nước tốt không chỉ biết đảm nhiệm các công việc được
phân công của mình mà còn phải trù liệu trước và ngăn ngừa trước những hậu
13
quả xấu có thể xẩy ra trong hoạt động điều hành và quản lý đất nước. Một bản
Hiến pháp tốt không chỉ hướng những quy định của mình vào những mặt tốt
của bộ máy nhà nước, mà còn tính đến việc hạn chế những mặt yếu có tính tất
yếu của nó. Hiến pháp là đọa luật quy định việc con người phải quản lý con
người. Vì vậy một bản Hiến pháp tốt khi và chỉ khi các quy định của nó phản
ánh được hết các bản tính vốn có của con người.
Giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia có sự gắn kết mật thiết với
nhau. Nhân quyền được bảo đảm bằng nhiều biện pháp, hình thức khác nhau.
Trước tiên phải được đảm bảo bằng nhà nước. Đồng thời nhà nước cũng là
một trong những nơi tiềm ẩn mối nguy hiểm nhất cho sự vi phạm nhân quyền.
Sở dĩ nhà nước là một mối nguy hiểm nhất cho sự vi phạm nhân quyền, vì so
với các chủ thể khác trong xã hội nhà nước có nhiều ưu thế hơn cả: Nắm
quyền lực nhà nước trong tay, có nhân lực có vũ khí, có cả tiền bạc, nhất
quyền được bắt, giam, giữ con người, khi cho họ là những nghi can, theo quy
định mà chính bản thân nhà nước tự đặt ra. Tất cả những đặc quyền đó các
chủ thể khác trong xã hội không thể nào có.
Bảo vệ nhân quyền trước hết phải có sự ngăn ngừa từ phía nhà nước.
Ngăn ngừa bằng cách quy định một cách chặt chẽ các cách thức tổ chức và
hoạt động của nhà nước thông qua các hoạt động của những người đảm nhiệm
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, giữ gìn cho họ luôn luôn giữ được
phẩm chất như khi họ được nhân dân lựa chọn vào các chức vụ quan chức nhà
nước. Và một khi họ không còn những phẩm chất xứng đáng nữa thì cũng căn
cứ vào những quy định của Hiến pháp mà nhân dân có quyền phế truất chức
vụ của họ. Hay nói một cách khác, sự ngăn chặn những hành vi vi phạm
quyền con người trước hết và hơn bao giờ hết là từ phía nhà nước là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của Hiến pháp.
Sự kiểm soát quyền lực nhà nước được các nhà triết học, xã hội học đặt
ra từ rất xa xưa.
14
Theo J.J. Rousseau thì “chủ quyền nhân dân” xuất phát từ “khế ước xã
hội”. Tác phẩm quan trọng nhất của ông là cuốn “Khế ước xã hội” (1762)
được mở đầu bằng câu nổi tiếng: “Con người được sinh ra một cách tự do,
nhưng khắp nơi lại bị xiềng xích”.
Rousseau nhận thấy con người tự do và tự nhiên, những người “mông
muội cao quý” là tốt đẹp, nhưng các thiết chế xã hội đã làm cho nó tha hóa.
Hình thức tổ chức xã hội duy nhất có thể đưa họ về trạng thái tự nhiên tự do
là nền dân chủ trực tiếp. CHỉ có chủ quyền đại chúng này mới có tính chính
đáng; chỉ có ý chí chung được nhân dân thực hiện mới làm pháp luật có hiệu
lực. Tư tưởng cơ bản của ông cho rằng, nhưng người bình thường cũng có
quyền tự chủ và có quyền lật đỏ những ông vua tự cho mình là thiên mệnh.
J.J. Rousseau phát triển ý tưởng về nhà nước lý tưởng thông qua các hội nghị
toàn thể nhân dân. Đó là nguồn gốc của sự giới hạn quyền lực nhà nước mà
nền tảng của nó là chủ quyền thuộc về nhân dân. [17]
Học thuyết của J.Locke về chính phủ bị hạn chế có ảnh hưởng lớn đến
Hiến pháp của Mỹ. Học thuyết này nhìn từ góc độ bảo vệ các quyền về tài
sản, cùng các quyền khác của con người trong trạng thái tự nhiên, đã được các
nhà lập hiến của nước Mỹ tiếp nhận rất đầy đủ qua các bài luận của họ Hiến
pháp. Các nhà soạn thảo Hiến pháp còn cho rằng, sự ra đời của các thiết chế
quyền giám sát bảo hiến và sự phát triển học thuyết phân quyền của
S.L.Montesquieu được coi là một nền tảng cơ bản chống lại sự chuyên chế
của đa số. Vấn đề hạn chế quyền lực nhà nước được xuất hiện dựa trên nền
tảng của việc đảm bảo các quyền và tự do của các công dân.
Trong tác phẩm của mình, S.L.Montesquieu cho rằng tự do chính trị chỉ
có thể tìm thấy ở đâu có một “chính phủ hợp lý”, tức là một chính phủ trong
đó “không có sự lạm dụng quyền lực”, tức là một chính phủ bị hạn chế. Vì
vậy, nếu quyền lực nhà nước không bị hạn chế, không bị kiểm soát thì hậu
15
quả rõ ràng nhất là sự vi phạm các quyền của con người. Ông còn cho rằng
muốn hạn chế thì buộc phải phân quyền. Do đó tư tưởng của S.L.Montesquieu
dựa trên sự phân quyền và ông coi đó là một trong những điều kiện tiên quyết
của những bảo đảm cho tự do chính trị cho mọi người dân.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến hiện đại là
việc vạch ra giới hạn giữa quyền lực nhà nước và quyền và tự do của công
dân theo nguyên tắc nhà nước thì không được can thiệp vào các lĩnh vực
thuộc quyền tự do của công dân. Lý thuyết về các quyền tự nhiên của con
người được hình thành và phát triển cùng với tư tưởng về một chính quyền bị
kiểm soát trong một trật tự của hiến pháp là điều kiện tiên quyết cho việc đảm
bảo quyền cơ bản của công dân.
Cơ sở cho việc cần phải giới hạn quyền lực nhà nước không chỉ nằm ở
chỗ chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước mà còn ở chỗ chống lại sự tùy
tiện của nhà nước thông qua các hành vi của các quan chức thay mặt nhà
nước đảm trách các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Trong một xã hội dân chủ, các thể chế chính trị gồm các quy tắc bầu cử
đặt ra các thủ tục bầu và thay thế các chính phủ. Chúng cũng bao gồm quy
định sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp,
giữa trung ương và địa phương cũng như những giới hạn quyền lực đối với tất
cả các cơ quan này.
Khi soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập cho nước Mỹ, T.Jefferson cho
tằng quyền được chống đối bất cứ loại chính quyền nào không đáp ứng được
những nguyện vọng của kẻ bị trị. Ông muốn có một xã hội của những người
tự do, vì đối với ông tự do là trên hết. Ông công nhận rằng, người tự do cũng
phải chấp nhận một vài hạn chế trong lối sống của họ và luật lệ cũng phải
được thi hành đối với những kẻ vi phạm.
Lý giải sự kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề có tính khách quan,
16
James Madison cho rằng: “Trong việc tạo dựng một chính phủ được những con
người quản lý để cai trị những con người khác, khó khăn lớn nằm trong điều
này: Trước hết anh phải làm cho chính phủ có khả năng kiểm soát những người
bị cai trị và điều tiếp theo sau là buộc chính phủ phải tự kiểm soát mình.”
Việc kiềm chế tiềm năng sử dụng và lạm dụng quyền lực nhà nước là
một thách thức đối với bất cứ nhà nước nào. Điều khó khăn hơn nữa là làm
việc này mà không làm cho các cơ quan nhà nước mất đi tính mềm dẻo cần
phải có để tiến hành các công việc của nhà nước. Việc sử dụng không đúng
quyền lực nhà nước tạo ra những vấn đề nghiêm trọng của sự tín nhiệm nhà
nước của công chúng sẽ có tác động rất lâu dài trước công luận [17].
Trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân
vì dân hiện nay ở nước ta, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đang là một
vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách. Là vấn đề cơ bản, vì nó là một yếu tố cấu
thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Khi chúng ta
thừa nhận quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, thì hoạt động thực thi
quyền lực nhà nước sẽ gồm ba yếu tố cấu thành: trao quyền, sử dụng quyền
và kiểm soát quyền. Để bảo đảm quyền lực thực sự của nhân dân, không để
xảy ra việc dân “ trao quyền rồi mất quyền”, thì tất yếu phải kiểm soát. Mặt
khác, việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay ở nước ta tuy có nhiều cố
gắng và đạt được một số tiến bộ, nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế, cả về lý
luận và thực tiễn.
Pháp luật ngày càng trở nên là một công cụ hữu hiệu cho việc điều
chỉnh các hoạt động của xã hội. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân
theo các quy định – chuẩn mực của pháp luật. Tất cả các quy phạm điều chỉnh
mọi hoạt động của xã hội hợp thành hệ thống thống nhất các văn bản pháp
luật của quốc gia. Đứng đầu các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật là
Hiến pháp và các văn bản của Nghị viện/Quốc hội ban hành. So với các đạo
17
luật khác hợp thành hệ thống pháp luật thống nhất của mỗi quốc gia thì Hiến
pháp có một đời sống ngắn hơn tất cả. Nhưng khác các đạo luật khác, Hiến
pháp có hiệu lực pháp lý cao hơn. Tất cả các đạo luật dù được ban hành trước
hay sau đều không được mâu thuẫn với Hiến pháp.
Về mặt hình thức Hiến pháp, Hiến pháp được Nhà nước quy định là
đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia. Chính vì tính cơ bản này buộc các đạo luật
khác phải tuân thủ theo Hiến pháp.
Sở dĩ Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao nằm ở nội dung của Hiến
pháp, hay nói cách khác chính là đối tượng điều chỉnh đặc biệt của Hiến pháp.
Đó là mối quan hệ xã hội trong việc chính con người phải quản lý con người.
Chính đối tượng này đã làm cho Hiến pháp phải là văn bản có hiệu lực pháp
lý tối cao.
Việc quy định sự hạn chế quyền lực nhà nước có thể gọi đó là tính nhân
bản của Hiến pháp. Hay có thể nói ngược lại Hiến pháp muốn thể hiện tính
nhân bản của mình thì phải có các quy định nhằm kiểm soát quyền lực nhà
nước. Tính nhân bản của Hiến pháp thể hiện ở hai mặt: Thứ nhất Hiến pháp
quy định một cách trực tiếp các quyền con người nhằm mục đích chống lại sự
vi phạm của tất cả các phía, trong đó có cả từ phía nhà nước. Thứ hai, Hiến
pháp quy định những cơ chế kìm hãm và ngăn ngừa những bản tính xấu của
người cầm quyền, nhằm mục đích giữ cho họ luôn luôn ở trạng thái cân bằng
với những đức tính tốt như khi mới được giao quyền. Cả hai mặt trên đều
quan trọng, nhưng tính nhân bản của Hiến pháp nặng về mặt thứ hai, vì dẫu
sao đi chăng nữa Hiến pháp vẫn là bản văn quy định chế độ nhà nước – cách
thức làm việc của chính quyền.
Trách nhiệm của chính quyền – tức là nghĩa vụ của công chức phải báo
cáo về các hoạt động của họ cho các công dân và quyền của các công dân
được hành động chống lại các quan chức có các hành vi mà các công dân coi
là không chuẩn mực - là một yếu tố thiết yếu của dân chủ.
18
Với mục tiêu bảo vệ con người, Hiến pháp có hai vấn đề cần phải quy định:
Thứ nhất, quy định quyền con người, bao gồm cả những quy định bảo
đảm cho nhân quyền đó không bị xâm phạm; thứ hai quy định về chế độ làm
việc của nhà nước.
Chính việc quy định về chế độ nhà nước ở thể thức kìm chế và đối
trọng nhau một cách chặt chẽ trong một bản văn có hiệu lực tối cao so với các
văn bản luật khác là một trong những bảo đảm quan trọng nhất cho việc nhân
quyền không bị vi phạm trước hết là từ phía nhà nước.
Bên cạnh đó, sự hạn chế quyền hạn của các cơ quan nắm giữ quyền lực
nhà nước, chỉ được hoạt động trong phạm vi quy định các quyền được phép
làm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng là việc đảm bảo các
quyền của con người không được vi phạm. Vì các cơ quan nhà nước chỉ được
phép làm những gì mà Hiến pháp quy định mà không được vượt ra ngoài
những quy định đó mà dẫn đến việc vi phạm nhân quyền.
Việc Hiến pháp phải quy định, trù liệu để hạn chế những bản tính xấu
của con người là biểu hiện của tính nhân bản quan trọng nhất của Hiến pháp.
Những quy định này cũng góp phần tạo nên tính chính trị của Hiến pháp. Một
trong những đặc tính khác với các đạo luật thường khác của mỗi quốc gia.
Với đối tượng điều chỉnh đặc biệt là hành vi của con người phải quản lý
con người, việc tạo ra những quy định nhằm hạn chế bớt những mặt tiêu cực
của người cầm quyền là rất quan trọng. Vì hành vi của họ có mức độ ảnh
hưởng lớn và rộng đến các cá nhân, một số người, thậm chí hành vi quản lý
xã hội của nhà cầm quyền sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ, thậm chí tương lai
của cả một dân tộc.
Bản tính của con người cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, hay nói một
cách khác, có cả mặt và mặt ác, nhưng Hiến pháp xét về mặt nội dung thì chủ
yếu chỉ chú trọng đến mặt tiêu cực nhằm hạn chế hậu quả của nó hơn là việc
19
phát huy những mặt tích cực của con người. Vì rằng hậu quả những mặt trái
của bản tính con người là nguy hiểm cho xã hội hơn cả. Và đồng thời chính
sự ngăn ngừa này cũng là mở rộng phạm vi tính tích cực của con người. Mục
đích của pháp luật là không nên khen ngợi những hành vi tốt/tích cực mà cần
phải ngăn ngừa hoặc thậm chí còn phải trừng trị những mặt tiêu cực của con
người và tấm lòng tốt thông qua các cử chỉ điều hành của họ luôn luôn như
trước khi họ được nhân dân bầu ra.
Với bản tính của con người mặt tốt/tích cực vẫn là cơ bản. Nhưng lại
không được điều chỉnh trong Hiến pháp, điều đó không cần phải nhắc. Nếu họ
tốt thì nhân dân sẽ tín nhiệm họ luôn luôn và liên tục trong các nhiệm kỳ tiếp
theo. Mà nếu như là xấu thì phải bằng mọi cách dừng ngay lại sự cầm quyền/
điều hành của họ, không nên chờ đến một hậu quả khôn lường.
Vì vậy, bảo vệ nhân quyền như là mục tiêu thiết yếu của Hiến pháp.
Chính vì mục đích này mà phải có Hiến pháp, bản văn có hiệu lực tối cao
không những chỉ quy định các cách thức thực hiện quyền lực nhà nước, để
nhà nước không thể vượt ra khỏi khuôn khổ đã được quy định, mà vi phạm
đến nhân quyền, mà còn có cả quy định nhằm mục đích ngăn chặn những bản
tính xấu của con người cầm quyền khỏi những nguy cơ vi phạm nhân quyền.
Lịch sử sự phát triển của nhà nước là như vậy. Nhà nước là rất cần thiết cho
sự phát triển của con người. Nhưng nhà nước cũng là mầm mống chủ yếu cho
việc xâm phạm đến quyền con người. Đó là nội dung hạn chế quyền lực nhà
nước của Hiến pháp.
Đảm bảo Hiến pháp được thi hành như một trong những phương pháp
hữu hiệu nhất của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hiến pháp tư sản thường có một số quy định nhằm bảo đảm cho Hiến
pháp được thực hiện. Trung tâm của những bảo đảm này là hoạt động của
Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp. Để Hiến pháp có hiệu lực trên
20
thực tế, nhiều nước quy định việc giám sát Hiến pháp và việc bảo vệ Hiến
pháp. Theo quan niệm chung của nhiều nước trên thế giới, giám sát việc thi
hành Hiến pháp cũng như việc bảo vệ Hiến pháp là kiểm tra tính hợp hiến
của các đạo luật.
Vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật được thể hiện rõ nét nhất trong
thể chế nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ
chức nhà nước và vận hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này
được phân định và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền
tự do, dân chủ của người dân được bảo vệ. Hiến pháp là các công cụ quan
trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Vì vậy, Hiến pháp được coi là
linh hồn của pháp quyền và là bản khế ước xã hội quan trọng nhất.
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ
chức quyền lực công khai. Mọi đường lối, chính sách và quyết định của nhà
nước đều phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các mối quan hệ qua lại
giữa nhà nước và cá nhân cũng phải dựa trên pháp luật [2]. Khác với nhà
nước pháp trị, pháp luật của nhà nước pháp quyền phải vươn tới sự đầy đủ
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, với phương châm:
Đối với “cá nhân thì cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không
cấm”, còn đối với “cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp
luật quy định”. Pháp luật của nhà nước pháp quyền còn có mục tiêu vì con
người, vì quyền con người. Đó là một trong những biện pháp kiểm soát quyền
lực hữu hiệu nhất.
Khi một quốc gia không tôn trọng nguyên tắc pháp trị, thì người bị trị
không thể nào được che chở hữu hiệu trước những hành động bột phát của
những người cầm quyền. Bạo tàn và độc đoán hay độc tài sẽ phát sinh một khi
một chính quyền làm luật và xóa bỏ luật mà không để cho dân chúng phê
bình, chỉ trích đạo luật, khi chính quyền bỏ tù một cá nhân mà không tiến
21
hành xử án một cách công khai, hay không có cơ hội cho người bị xử án biện
hộ, khi các thẩm phán xử án dưới sự đe dọa của các cơ quan công quyền…
Nhưng sẽ không có một hệ thống pháp luật nào có thể hoạt động cách tự
động, vô nhân tính và chính xác như một cái máy. Luật pháp không tự nó mà
có, không tự nó thi hành, đều phải thông qua con người. Chính con người làm
ra pháp luật, và cũng chính con người thi hành pháp luật và cũng chính con
người giải thích pháp luật. Trong mọi trường hợp, con người cần phải kiểm
soát và chế ngự.
Hiến pháp với vị trí và vai trò tối thượng trong hệ thống pháp luật. Tất
cả các thành viên của chính phủ cho đến các nghị sỹ của Quốc hội cũng các
nhân viên của nhà nước trung ương cho đến địa phương, dù bầu hay chỉ định
đều phải tuyên thệ ủng hộ hiến pháp, đều có thể bị truy tố khi vi phạm hiến
pháp. Do đó, bất cứ đạo luật nào do lập pháp soạn thảo ra và được đã Tổng
thống công bố hay ban hành sau khi Tổng thống phủ quyết vẫn có thể bị xét
xử tính hợp hiến.
Như vậy, nhà nước pháp quyền là nhà nước bị giới hạn quyền lực, mà
phương tiện giới hạn quyền lực của nhà nước là các văn bản quy phạm pháp
luật, đứng đầu là bản Hiến pháp. Cho đến nay, nhà nước pháp quyền trở thành
một giá trị văn minh của nhân loại mà mọi nhà nước muốn trở thành dân chủ,
văn minh đều phải hướng tới không phân biệt chế độ chính trị. Tại các Đại
hội gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đều quan tâm và mong muốn xây dựng
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương đúng đắn,
phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại.
1.2. Biểu hiện của kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp
1.2.1. Hiến pháp ghi nhận quyền lực nhà nước được phân công,
phân nhiệm và tự kiểm tra bên trong bằng cơ chế kìm chế và đối trọng -
một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
Thực tế sự phân quyền theo cách nói của nhà nước tư bản khác với sự
22
phân công, phân nhiệm giữa lập pháp và hành pháp. Phân quyền không hoàn
toàn đơn giản có nghĩa là phân chia hoàn toàn, phân chia một cách tuyệt đối
giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ngược lại, hoạt động của hành pháp có
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của lập pháp. Thậm chí, Nghị viện lập pháp
theo nhu cầu của Chính phủ - hành pháp, giữa Chính phủ - hành pháp và
Quốc hội – lập pháp phải có quan hệ mật thiết với nhau. Sự quan hệ mật thiết
này tạo nên tính thống nhất của quyền lực nhà nước.
Tổ chức và hoạt động của lập pháp và hành pháp trên thực tế không có
sự phân định một cách cứng nhắc theo tinh thần của học thuyết phân quyền
trước kia của thời kỳ tiền cách mạng tư sản mà chúng có quan hệ mật thiết với
nhau, giữa lập pháp và hành pháp cũng như tư pháp chúng hoàn toàn biệt lập
với nhau, mà giữa chúng cũng có sự phụ thuộc lẫn nhau. Chính ngay trong sự
phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp đã tạo nên sự thống nhất của
quyền lực nhà nước. Lập pháp thì ban hành luật, hành pháp thực thi luật đã
được lập pháp ban hành và tòa án tư pháp xét xử các hành vi vi phạm luật.
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp quan trọng đến mức tạo thành
mô hình tổ chức của nhà nước mỗi quốc gia. Đó là chính thể nhà nước: Chính
thể đại nghị kể cả cộng hòa lẫn quân chủ; Chính thể cộng hòa tổng thống và
chính thể cộng hòa hỗn hợp của sự pha trộn những đặc tính của hai loại hình
đại nghị và cộng hòa tổng thống.
Cho dù được tổ chức theo mô hình đại nghị hay được tổ chức theo mô
hình của chế độ tổng thống thì lập pháp và hành pháp vẫn không có sự phân
chia tuyệt đối với nhau. Mặc dù có sự phân quyền nhưng hành pháp vẫn can
thiệp sang lĩnh vực lập pháp, thậm chí các hoạt động lập pháp lại còn là nhu
cầu của hành pháp. Bản thân Quốc hội không có nhu cầu của sự lập pháp.
Nhưng Quốc hội với chức năng lập pháp được Hiến pháp quy định vẫn còn có
quyền biểu quyết thông qua dự án luật được Chính phủ đệ trình sang. Với
23
quyền quyết định này Quốc hội có quyền thông qua những dự án luật tốt có
khả năng khả thi và cho phép sự tồn tại và nhất là sự phát triển của đất nước,
ngược lại, những dự án không có khả năng thực thi, hoặc không cho sự phát
triển và tồn vong của quốc gia, Quốc hội – lập pháp phải có trách nhiệm gạt
bỏ. Đó là chức năng lập pháp đích thực của Nghị viện của một nhà nước dân
chủ. Trong trường hợp này, Quốc hội vẫn đảm bảo thực hiện vai trò lập pháp
của mình và học thuyết phân quyền vẫn có giá trị nhất định, mà không phải là
một sự phủ nhận hoàn toàn [17].
Trong một nhà nước dân chủ, sự quản lý của nhà nước phải theo pháp
luật. Chính phủ hành pháp chỉ hoạt động trên cơ sở của các đạo luật. Việc
điều hành đất nước của hành pháp không dựa trên cơ sở của luật pháp là biểu
hiện của một nhà nước độc tài, chuyên chế. Mà người có quyền thông qua luật
đó lại là Quốc hội, người đại diện của nhân dân. Trong nhà nước dân chủ,
Chính phủ - hành pháp luôn luôn đòi hỏi phải có luật để có cơ sở cho Chính
phủ điều hành đất nước, tạo nên nhu cầu lập pháp của hành pháp.
Sự hợp lý của nhu cầu lập pháp của hành pháp còn thể hiện ở chỗ chính
sách thông qua các đề xuất lập pháp mà hành pháp có khả năng triển khai các
chủ trương chính sách của đảng cầm quyền nằm trong chương trình tranh cử
của họ trước nhân dân. Vì vậy, ở đây rõ ràng là nhu cầu lập pháp nằm trong
tay hành pháp chứ không phải hoàn toàn nằm trong tay lập pháp. Trên thực tế
không có một phân quyền tuyệt đối giữa lập pháp và hành pháp.
Bản thân khái niệm “hành pháp” theo luật của Quốc hội buộc Chính
phủ phải có các dự án luật cho Quốc hội. Không những thế, sự ảnh hưởng của
Chính phủ - hành pháp sang hoạt động Quốc hội – lập pháp còn vượt ra khỏi
chương trình lập pháp của Quốc hội sang tất cả các lĩnh vực khác thuộc thẩm
quyền của Quốc hội. Thậm chí, trong nhiều trường hợp Chính phủ còn quyết
định cả chương trình làm việc của Quốc hội. Đó là kinh nghiệm của nhiều
24
nước phát triển như Pháp, Anh, Mỹ,... Ở Pháp, Quốc hội không có chương
trình kỳ họp riêng mà chương trình đó do Chính phủ ấn định. Điều này phải
chăng là vi phạm dân chủ? Bởi lẽ nguồn lực và ưu tiên của nhà nước chỉ có
một không thể cùng một lúc cùng chia cho Quốc hội lẫn Chính phủ.
Những năm gần đây, ở Việt Nam cũng xảy ra xuất hiện việc Chính phủ
đã lấn sân sang phần công việc của Quốc hội. Thậm chí, thông qua việc trình
các dự án, Chính phủ, các bộ có khả năng cho việc gài các quyền lợi của mình
vào các dự án luật. Nhận xét về sự kiện có tính khách quan này và gợi ý cho
việc tránh được hậu quả của sự gài các lợi ích của hành pháp vào các dự án
luật, trong một Hội thảo gần đây về “Dự án nâng cao năng lực của các cơ
quan dân cử”, ông Kevin Deveaux, cố vấn kỹ thuật dự án của UNDP đã nói: “
Việc nếu các Ủy ban tự soạn thảo dự án luật, trình và thẩm tra – như hai Ủy
ban của Quốc hội đã làm trong khóa XI cũng là điều tốt, bởi nó thể nghiệm
những khả năng có thể đảm đương được một tỷ lệ nhất định nào đó trong đầu
vào của các dự án luật. Tránh sự độc quyền tuyệt đối của bên hành pháp.
Song tuyệt đại đa số các dự án luật đều do cơ quan hành pháp trình Quốc hội
cũng không phải là điều tệ hại, bởi đó là yêu cầu tất yếu của thực tế cuộc
sống. Quốc hội không phải là cơ quan điều hành, vì vậy sẽ khó có thể nằm
lòng được những gì vướng mắc, những gì cần điều chỉnh để đảm bảo hiệu quả
điều hành của cơ quan hành pháp như chính họ được. Vì vậy, cơ quan hành
pháp trình dự án luật dường như là đương nhiên, và họ có động lực để làm
việc đó. Quốc hội cần quan tâm và cần làm tốt phần việc quan trọng của mình
đó là – thẩm tra và thông qua các dự án luật hơn là việc băn khoăn rằng nếu
để tỷ lệ quá lớn các dự án luật do các Bộ, ngành trình thì sẽ mờ nhạt đi vai trò
“làm luật” theo đúng nghĩa đen của nó. Thay vì lo lắng điều đó, việc tốt hơn
nên làm là thẩm định xem các dự án luật khi áp dụng vào cuộc sống thì người
dân do đại diện làm đại diện sẽ ảnh hưởng thế nào và phải cân đối giữa lợi ích
25
giữa các đối tượng điều chỉnh của luật để chọn giải pháp tối ưu nhất. Chính từ
hoạt động thẩm tra của các Ủy ban được đẩy mạnh, các dự án luật đó mới qua
quá trình tương tác giữa các đại biểu, xung đột lợi ích địa phương và trung
ương, giữa ngành, giới, dân tộc, ý kiến các chuyên gia, người dân...Đây cũng
chính là khâu quan trọng quyết định chất lượng dự án luật [37].
Vậy thì Quốc hội/ Nghị viện vẫn mang danh là cơ quan lập pháp còn lại
trách nhiệm chỉnh lý các dự án luật của Chính phủ đệ trình sang theo ý chí
người dân, mà Quốc hội/ Nghị viện là người đại diện [42] và là kiểm tra giám
sát việc thực thi các chính sách đã được Nghị viện/Quốc hội thông qua. Tất cả
những quy định đó đã định hình dần dần trong lịch sử nhà nước Anh quốc, để
bảo tồn sự vững chắc sự trị vì của mình mà các nhà Vua Anh quốc đều phải
chấp nhận.
Chế định chịu trách nhiệm được hình thành trong lịch sử của Anh quốc
mà không bằng một đạo luật nào của họ ghi nhận. Mãi về sau này, chế định
quan trọng nói trên mới được các Hiến pháp của nhiều nước ghi nhận và
chính nó trở thành một nguyên tắc quan trọng bậc nhất của mô hình chính thể
đại nghị kể cả của các nền cộng hòa và của cả nền quân chủ lập hiến. Đây
cũng là cơ sở pháp lý của việc giải tán Quốc hội và lật đổ Chính phủ mà trả
lại quyền thành lập Chính phủ mới của người dân.
Đó là tính thống nhất của quyền lực nhà nước mà nhà nước nào cũng
cần đến sự thống nhất này. Sự thống nhất này được quy định rất rõ một cách
trực tiếp trong Hiến pháp của các nhà nước được tổ chức theo mô hình đại
nghị. Với mong muốn có một cách thức tổ chức khác hoàn toàn với những
đặc điểm cơ bản của nhà nước đại nghị và được quy định một cách gián tiếp
trong Hiến pháp của các nhà nước tổ chức theo mô hình tổng thống.
Sự thống nhất quyền lực nhà nước thể hiện qua sự thống nhất giữa lập
pháp và hành pháp mà chủ yếu là thống nhất vào hành pháp – Chính phủ.
26
Đằng sau Chính phủ chính là ban lãnh đạo của đảng cầm quyền. Trong nhận
thức của chính trị học, người ta thống nhất rằng đảng cầm quyền là đảng nắm
hành pháp chứ không phải là đảng nắm lập pháp hoặc tư pháp. Thông qua
hoạt động của hành pháp mà các đảng cầm quyền chi phối các hoạt động của
lập pháp và tư pháp. Còn cành quyền lực tư pháp thể hiện ở việc các tòa án
thông qua các thẩm phán phải có trách nhiệm trong phán xử các hành vi vi
phạm pháp luật đã được Quốc hội – lập pháp thông qua, theo đề nghị của
hành pháp. Sự không thống nhất giữa các cành quyền lực nói trên là nguy cơ
của sự thay đổi cơ cấu quyền lực nhà nước, hoặc chí ít là thay đổi thành phần
Chính phủ - hành pháp.
Các hình thức tổ chức và kiểm soát có thể được phân định gồm: Kiểm
soát bên trong và kiểm soát bên ngoài. Kiểm soát bên ngoài bao gồm các biện
pháp có tác động từ bên ngoài gồm: Kiểm soát bằng lãnh thổ, kiểm soát bằng
các điều ước quốc tế và quan hệ quốc tế, kiểm soát bằng tự do ngôn luận, tự
do báo chí, kiểm soát bằng sự tự trị của chủ thể hợp thành nhà nước...Kiểm
soát bên trong bao gồm các biện pháp tự nhiên, mặc nhiên xuất phát từ những
nội lực bên trong có thể bao gồm: kiểm soát bằng đạo đức, tâm lý, thần
quyền, kiểm soát quyền lực bằng phân công, phân quyền, kìm chế và đối
trọng giữa các cành quyền lực, bằng bầu cử...Trong tất cả các loại hình kiểm
soát quyền lực nhà nước thì kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong là
quan trọng nhất và cũng là hiệu quả nhất, đồng thời cũng ít tốn kém nhất.
Quyền lực nhà nước được quy định trong Hiến pháp để buộc người sử dụng
quyền lực phải tuân thủ. Chính vì lẽ đó cho nên nhiều nhà nước quan tâm và
sử dụng rộng rãi các loại hình kiểm soát này.
Nội dung căn bản của kiểm soát là sự tổ chức phân công, phân nhiệm,
tức là sự phân quyền giữa các cơ quan nắm giữ quyền lực nhà nước. Kiểm
soát quyền lực nhà nước như là lý do của sự phân quyền. Sự phân quyền và
27
kìm chế đối trọng quyền lực có thể được phân thành hai loại cơ bản: Phân
quyền ở chiều ngang và phân quyền ở chiều dọc. Phân quyền ở chiều ngang là
phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phân quyền theo chiều dọc:
Quyền lực nhà nước được chế ước bằng việc phân quyền cho địa phượng và
việc công nhận chế độ tự tri của chính quyền địa phương. Phân quyền theo
chiều ngang giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp là quan trọng nhất. Đây
cũng là trọng tâm của việc tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của bất
kể nhà nước nào.
Tiêu điểm của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là Chính phủ - hành
pháp phải chịu trách nhiệm – tiêu điểm của kiểm soát quyền lực nhà nước từ
bên trọng. Sở dĩ như vậy, bởi vì trong tất cả các bộ phận cấu thành nên quyền
lực nhà nước kể từ lập pháp cho đến hành pháp và kể cả tư pháp, chỉ có hành
pháp là thể hiện nguyên hình bản chất nhà nước nhất. Tất cả các quyền hành
từ lập pháp cho đến tư pháp đều được chia ra từ quyền tập trung của nhà Vua
mà ra. Quyền hành pháp là quyền còn lại sau khi đã được phân chia cho lập
pháp cho tư pháp. Chính phủ - hành pháp phải chịu trách nhiệm bởi vì hành
pháp là cơ quan duy nhất nắm cả biên chế, nắm cả ngân sách [17].
Kiểm soát quyền lực nhà nước không những chỉ được hiểu ở nghĩa chế
ước phạm vi hoạt động của chính quyền, mà còn được hiểu ở nghĩa chính
quyền phải chịu trách nhiệm về những hành vi hoạt động của các quan chức
nhà nước. Có ba loại Chính phủ phải chịu trách nhiệm tương ứng với hai loại
phân quyền: (i) Phân quyền mềm dẻo, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước
một Quốc hội – một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhà nước tổ
chức theo chế độ đại nghị; (ii) Phân quyền cứng rắn, Chính phủ không chịu
trách nhiệm trước Quốc hội mà phải chịu trách nhiệm trước nhân dân – một
hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của các nhà nước tổ chức theo chế độ
tổng thống; (iii) Phân quyền hỗn hợp: Chính phủ hành pháp không phải chịu
28
trách nhiệm trước Quốc hội, mà còn phải chịu trách nhiệm trước Tổng thống.
Bên cạnh đó, như chế độ Tổng thống, Tổng thống – người đứng đầu nhà nước
cũng phải chịu trách nhiệm trước cử tri. Đây là một hình thức khác, thứ ba
của mô hình tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước. [38]
Sự kiểm soát quyền lực nhà nước của các mô hình nói trên tăng tỷ lệ
thuận với mức độ phân quyền. Sở dĩ sự kiểm soát quyền lực nhà nước của
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ được đánh giá rất cao, vì ở đó có sự phân quyền một
cách mạnh mẽ hơn các mô hình phân quyền khác của chế độ đại nghị và của
chế độ lưỡng tính. Sự kiểm soát mạnh mẽ ở đây thể hiện ở chỗ: Tổng thống –
hành pháp không được quyền trình dự án luật trước Quốc hội – lập pháp;
Tổng thống và các bộ trưởng không được kiêm nhiệm cả nhiệm vụ của lập
pháp – nghị sỹ. Sự phân quyền còn được thể hiện bằng một hệ thống kìm chế
và đối trọng, lấy cành quyền lực nọ kiểm soát cành quyền lực kia.
Việc tổ chức quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước phải
được quy định trong Hiến pháp của các quốc gia. Hai bộ phận trên gắn bó
chặt chẽ với nhau không thể tách rời, như hai mặt của một tấm huân chương.
Hiến pháp của Việt Nam cũng có những điều khoản quy định những vấn đề
nêu trên, tuy nhiên mối quan hệ phân công thể hiện qua sự kiểm soát và đối
trọng giữa các quyền vẫn còn rất mờ nhạt. Sự hiện diện của Hiến pháp, sự
thực thi Hiến pháp và việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp tạo nên tính
thống nhất của quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước khi đã được hình thành thì phải cần đến những thể
chế, cơ chế cụ thể mới vận hành được. Những thể chế, cơ chế này được biểu
hiện bằng việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước; đó là cách thức tổ
chức, cấu trúc quyền lực nhà nước thống nhất thành các bộ phận khác nhau,
nhằm thực hiện những chức năng khác nhau, thiết lập sự ràng buộc hợp lý
trên cơ sở luật pháp để cho quyền lực nhà nước vận hành hiệu quả, đảm bảo
29
tính thống nhất cũng như thực hiện được mục tiêu của quyền lực nhà nước.
Từ trước đến nay, cách thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước
thường xoay quanh hai phương thức căn bản: tập trung quyền lực và phân
chia quyền lực. Nội dung của hai phương thức căn bản này chính là việc sắp
xếp, cấu trúc các thể chế quyền lực khác nhau cũng như thiết lập mối quan hệ
giữa chúng trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong
cơ cấu quyền lực nhà nước, quyền lập pháp là quyền làm ra luật, thể hiện ý
chí quốc gia, ý chí nhân dân; quyền hành pháp là quyền tổ chức thi hành ý chí
ấy trong cuộc sống; quyền tư pháp là để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm và
giải quyết những tranh chấp về mặt pháp lý. Như vậy, trong bản tính của nó,
quyền lực nhà nước luôn là một thể thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Các bộ phận này của quyền lực nhà nước có quan hệ mật thiết với
nhau và luôn bị ràng buộc với luật pháp.
Trong Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi năm 2001), nguyên tắc
“Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” [49, Điều 2] là nguyên tắc cơ bản chi phối việc thiết kế vận hành của
các thiết chế quyền lực cũng như những cải cách, đổi mới bộ máy nhà nước.
Theo tinh thần của nguyên tắc này, quyền lực nhà nước được cấu trúc thành
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền lập pháp được giao
cho Quốc hội, quyền hành pháp được trao cho Chính phủ và quyền tư pháp do
các cơ quan tư pháp (mà chủ yếu là Tòa án và Viện kiểm sát) đảm nhiệm. Sự
phân định quyền lực nhà nước thành các bộ phận khác nhau như vậy được thể
hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, trước hết là nhằm mục đích phân công
lao động quyền lực, chuyên môn hóa hoạt động thực thi quyền lực, từ đó làm
tăng hiệu quà của mỗi nhánh quyền lực trong việc thực hiện những chức năng
được giao, vừa khắc phục tình trạng quyền lực được tập trung quá mức vào
30
một cơ quan cụ thể, đồng thời hạn chế sự chồng chéo lẫn nhau giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thực tiễn vận hành của mô hình quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay
cho thấy, nếu chỉ có sự phân công, phối hợp quyền lực không thôi thì chưa
đủ, mà để đảm bảo tính thống nhất của quyền lực cũng như hiệu lực, hiệu quả
của nó trong thực tế, cần thiết phải thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực,
mà cơ chế kiểm soát hiệu quả nhất chính là sự kiểm soát lẫn nhau của các
thiết chế quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Đó cũng chính là lý do giải
thích tại sao trước đây chúng ta chỉ chấp nhận sự phân định quyền lực của lý
thuyết phân quyền, thì trong Đại hội XI (năm 2011) vừa qua, Đảng ta đã thừa
nhận sự cần thiết phải thiết lập cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là một
bước chuyển lớn về nhận thức trong việc thừa nhận và vận dụng hạt nhân cốt
lõi của lý thuyết phân quyền, nó vượt qua những rào cản định kiến chính trị
để đi đến thừa nhận giá trị chung, phổ biến của nhân loại.
Có thể thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước ở
nước ta hiện nay chưa thực sự hiệu quả. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm
2001), sự kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước chỉ thể hiện một
chiều của cơ chế tập trung quyền lực, đó là việc thực hiện chức năng giám
sát tối cao của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp, tư pháp và không có sự
kiểm soát lẫn nhau giữa hành pháp và tư pháp. Hơn nữa, trong lúc hiệu lực
và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội
còn thấp thì ngay bản thân Quốc hội lại chưa có cơ chế hữu hiệu để kiểm
soát hoạt động của mình.
Chính vì vậy, việc chuyển từ cơ chế kiểm soát quyền lực mang tính một
chiều từ trên xuống của cơ chế tập trung quyền lực sang cơ chế kiểm soát
mang tính “đối trọng” giữa các bộ phận khác nhau của quyền lực nhà nước là
31
một trong những đòi hỏi tất yếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền, nhằm làm cho quyền lực nhà nước được kiểm soát một cách hiệu quả
hơn. Nội dung của cơ chế kiểm soát này đòi hỏi việc xác định tập hợp các
quyền và trách nhiệm do pháp luật quy định làm cơ sở để các nhánh quyền
lực thực hiện kiểm soát lẫn nhau. Nó tạo lập mối quan hệ chính trị - pháp lý
giữa các bộ phận quyền lực sao cho các bộ phận đó có thể độc lập thực thi
nhiệm vụ bằng những thẩm quyền pháp lý của mình, đồng thời có thể ngăn
chặn được sự lạm quyền của một bộ phận quyền lực nào trong hệ thống.
Như vậy, tinh thần dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực đã được
Đảng ra thừa nhận và trở thành quan điểm chỉ đạo trong thiết kế mô hình
quyền lực giai đoạn sắp tới. Theo tinh thần đó, phân công quyền lực và kiểm
soát quyền lực có quan hệ chặt chẽ với nhau, phân công quyền lực là tiền đề
cho kiểm soát quyền lực. Phân công để xác định rõ chức năng, thẩm quyền
của mỗi bộ phận quyền lực. Nếu không có phân công rõ ràng, cụ thể thì các
bộ phận quyền lực không thể kiểm soát nhau được; còn việc kiểm soát lân
nhau giữa các bộ phận quyền lực nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng chức
năng, thẩm quyền đã được Hiến pháp và pháp luật trao cho, đảm bảo sự thống
nhất của quyền lực nhà nước.
1.2.2. Hiến pháp kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc bảo đảm
cho nhân quyền không bị vi phạm
Xét đến cùng hiến pháp có mục tiêu là bảo vệ quyền con người. Chỉ có
trong chế độ chính trị của chủ nghĩa tư bản vấn đề quyền con người mới được
đặt ra như là một yêu cầu cấp bách của đời sống xã hội. Các chế độ chính trị
trước chế độ tư bản đều không tồn tại một văn bản quy định các chế độ chính
trị cũng như không có bản tuyên bố nhân quyền. Các chế độ chính trị trước
chủ nghĩa tư bản đều là các chế độ chuyên chế không có quyền con người và
không có hiến pháp. Hay nói cách khác cuộc đấu tranh ấy chưa đủ những điều
32
kiện của sự chín muồi cho sự ra đời của cả bản văn hiến pháp lẫn bản tuyên
ngôn nhân quyền. Nhà nước lúc đó chỉ gắn liền với chế độ quân chủ chuyên
chế, người dân vẫn chỉ được phép gánh vác nghĩa vụ, mà không được hưởng
quyền lợi, cũng như sự ràng buộc chính quyền trong việc phải bảo đảm an
ninh trật tự, an toàn cho con người, và tất nhiên lại càng không được tham gia
vào các công việc nhà nước- không có tự do chính trị.
Việc đảm bảo nhân quyền cần có cả bản hiến văn quy định chế độ
chính trị, lề lối tổ chức hoạt động của chính quyền – nhà nước, có tác dụng
kiểm soát quyền lực nhà nước và cần có cả bản tuyên ngôn nhân quyền. Hoặc
chí ít trong nội dung của hiến pháp phải có quy định về nhân quyền.
Hay nói một cách khác vừa phải có nhân quyền và vừa phải có hiến
pháp quy định việc tổ chức chính quyền. Hai thứ này đều có mục tiêu chung
bảo vệ nhân quyền, và cùng có hiệu lực tối cao trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia [17].
Vấn đề nhân quyền luôn luôn đi kèm và không thế thiếu được vấn đề
bảo vệ nhân quyền. Một mặt phải chỉ ra, tức là ghi nhận cho rõ và đầy đủ tất
cả các quyền con người có thể có, để con người cần phải biết mà có thể thụ
hưởng và ngăn chặn ngay sự vi phạm chính những quy định quyền con người
đã được ghi nhận ra từ bất kỳ chủ thể nào. Một mặt khác phải ngăn ngừa ngay
từ trước sự có thể vi phạm đến quyền con người của một chủ thể quan trọng
nhất đó là Nhà nước; một khi các quyền đó bị vi phạm cần phải có những biện
pháp trừng trị những chủ thể vi phạm và cũng cần có những biện pháp khôi
phục lại những quyền đó, đồng thời cũng nhấn mạnh nghĩa vụ, trách nhiệm
phải bảo vệ nhân quyền từ phía Nhà nước. Hai mặt này gắn liền với nhau và
cùng cần phải được ghi nhận bằng một bản văn có một hiệu lực pháp lý tối
cao trong hệ thống pháp luật của quốc gia. Đó là Hiến pháp.
Khác với các chủ thể khác trong xã hội, nhà nước do con người thành
33
lập ra được giao một nhiệm vụ quan trọng nhất là bảo vệ con người, đồng thời
cũng lại được giao nhiệm vụ kết tội con người: Nên nhà nước cũng phải đứng
ra bảo vệ con người trước khi bị kết tội. Vì trước khi kết được tội họ vẫn là
một con người chưa có tội. Vì lẽ con người là quý giá nhất, nên không thể có
lý rằng, “bắt nhầm còn hơn bỏ sót”, mà phải là, thà “bỏ lọt còn hơn bắt
nhầm”. Bản thân trong nhà nước cùng một lúc phải thi hành đồng thời hai
nhiệm vụ trái ngược nhau, vừa không bỏ lọt tội phạm để bảo vệ an ninh cho
xã hội, đồng thời lại không thể bắt oan người vô tội. Cho nên việc bắt giam,
việc xét xử, việc điều tra phải được tiến hành theo một trình tự tố tụng nhất
định. Mục tiêu của trình tự này là bảo vệ bị can, bị cáo mà không phải làm
cho những người thay mặt nhà nước tiến hành các thủ tục này một cách dễ
dàng hơn, để có nguy cơ làm oan người vô tội.
Quyền được công bằng trước pháp luật hay nói cách khác là được bảo
vệ ngang nhau là trong những yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Cho dù giàu
hay nghèo, thiểu số, tôn giáo hay là dân tộc đa số, liên minh chính trị hay là
đối lập đều được pháp luật bảo vệ như nhau. Nhà nước dân chủ không đảm
bảo rằng, mọi con người đều được cuộc sống xã hội đối xử một cách công
bằng, vì vốn dĩ con người sinh ra đã hàm chứa một cách tự nhiên sự bất bình
đẳng giữa họ. Nhưng cuộc sống đòi hỏi nhà nước phải giải quyết công bằng
giữa mọi người. Một nhà nước dân chủ theo đúng nghĩa của từ này là nhà
nước từ khi thành lập ra các cơ cấu cho đến khi quyết định các chủ trương,
chính sách và pháp luật nhà nước phải tuân theo nguyên tắc đa số, nhưng phải
tính đến quyền lợi của thiểu số; khi thi hành và nhất là khi bảo vệ thì lẽ đương
nhiên lại phải tính đến quyền lợi của từng cá nhân, với mục đích ngăn ngừa sự
bất bình đẳng, sự oan sai cho từng trường hợp cá nhân cụ thể.
Vấn đề nhân quyền được quy định dưới nhiều hình thức khác nhau.
Nhân quyền có thể được quy định trong một văn bản riêng gọi là bản Tuyên
34
ngôn nhân quyền hoặc nhân quyền được quy định thành chương điều trong
nội dung của Hiến pháp. Đôi khi nhân quyền nằm trong nội dung của bản phụ
trương của hiến pháp, như 10 tu chính án của nước Mỹ. Tất cả tựu chung lại
đều nhằm làm nổi bật nội dung cơ bản về nhân quyền đó là quy định những
quyền thiết yếu nhát của con người: đó là quyền được sống, quyền được tự do
và quyền được mưu cầu hạnh phúc… Đó là những quyền tự do chính trị,
quyền tự do cá nhân như: ngôn luận, tín ngưỡng, cư trú; quyền bất khả xâm
phạm nơi cư trú, quyền bất khả xâm phạm thân thể,…
Bảo đảm nhân quyền vừa là mục đích vừa là cách thức để kiểm soát
quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền có mục tiêu đảm bảo quyền tự do
của con người, đối lập với nhà nước bạo lực. Nhà nước thừa nhận và có nghĩa
vụ đảm bảo tự do của con người. Pháp luật phải thể hiện là pháp luật của công
lý, của lý trí và phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người. Nhà nước được
xây dựng trên nền tảng của xã hội công dân. Một xã hội mà ở đó công dân là
chủ thể, nhà nước có trách nhiệm phải phục tùng lợi ích của công dân mà
không có điều ngược lại. Pháp luật phải đứng trên nhà nước và nhà nước phải
có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Để bảo đảm cho tính chất này nhà nước pháp
quyền phải nêu cao vị trí vai trò của tòa án. Tính độc lập của tòa án được tuân
thủ một cách nghiêm ngặt. Chỉ có tòa án mới có chức năng phán xét các tranh
chấp, mâu thuẫn trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được thành
lập từ đa số nhưng lại phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của những người
yếu, của thiểu số, cá nhân [17].
Một nhà nước tốt phải có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của thiểu số. Vì
vậy một bản Hiến pháp tốt không thể không tính đến quyền lợi của thiểu số.
Đó cũng là một trong những yêu cầu nhân bản của một bản Hiến văn. Hiến
pháp Việt Nam thể hiện ở việc thành lập ra các cơ cấu Hội đồng dân tộc trong
Quốc hội, hay là Ủy ban các dân tộc và miền núi của Chính phủ…
35
Nhân quyền trong một trường hợp cụ thể, không thể nào là khác hơn
như là việc bảo vệ quyền lợi của các cá nhân và của những nhóm người thiểu
số trước sự lấn át của đa số. Những quy định thể hiện nguyên tắc này trong
hiến pháp sẽ góp phần tạo ra một hàng rào không thể vượt qua được của bất
kể chính sách nào chỉ dựa trên ý chí của đa số, mà không tính đến quyền lợi
của thiểu số. Ví dụ như quyền hoãn bỏ phiếu thông qua một quyết định mà họ
không đồng ý của thiểu số, hoặc quyền được bảo lưu của thiểu số…
Không như một số nhà nước tư bản điển hình, các nước xã hội chủ
nghĩa không có một bản tuyên ngôn nhân quyền riêng. Trong những nội dung
cơ bản của Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa không có những quy định về
nhân quyền hay đảm bảo về nhân quyền mà được thay bằng những quy định
về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Trong Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa đều nhất quán khẳng
định: “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là vì con người, vì hạnh phúc nhân dân,
Vì vậy, quyền con người, quyền công dân là cái thuộc về bản chát của nhà
nước kiểu mới, là ngọn cờ đích thực của chủ nghĩa xã hội” [22].
Như vậy, quyền con người trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa về
nguyên tắc càng phải được đảm bảo tốt hơn. Nhưng rất tiếc rằng vì nhiều lý
do khác nhau về mặt chủ quan và cả mặt khách quan, vấn đề nhân quyền
không được các nhà nước xã hội chủ nghĩa quan tâm một cách thích đáng.
Điều đó được thể hiện ở chỗ, không một nhà nước nào trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa trước kia có một bản tuyên ngôn nhân quyền riêng, và trong
các văn bản hiến pháp của mình vấn đề nhân quyền cũng rất hiếm khi được
nhắc tới một cách đậm nét xứng đáng với vị trí của nó. Nội dung chính của
nhân quyền, quyền con người được hiến pháp và pháp luật các nước xã hội
chủ nghĩa thể hiện thành quyền công dân. Một trong những nguyên nhân
của vấn đề như đã nêu ở phần trên, là trong cả một thời gian dài chúng ta
36
đã ngộ nhận rằng, nhân quyền chỉ là một vấn đề thuần túy của chủ nghĩa tư
bản và chế độ phong kiến, mà không thuộc phạm trù của chủ nghĩa xã hội
cần phải giải quyết.
Thứ đến là việc hình thành nên chế độ xã hội chủ nghĩa với một loạt
các nước thường gắn với công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi chế độ
ngoại xâm. Trong cuộc đấu tranh này vấn đề nhân quyền – quyền con
người được gắn liền cuộc giải phóng dân tộc và vấn đề chủ quyền công
dân. Vì lẽ đó, nhiều người cho rằng ở các nước xã hội chủ nghĩa trước kia
và hiện nay không có quy định về vấn đề nhân quyền cũng là một vấn đề
không hoàn toàn đúng.
37
Chương 2
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA
CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2013
2.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1946
Các quy định của Hiến pháp năm 1946 đã có những yếu tố nhất định
thể hiện cơ chế phân công quyền lực thể hiện rõ vai trò kiểm soát quyền lực
Nhà nước của Hiến pháp.
Hiến pháp năm 1946 là bản hiến văn ghi nhận thành quả Cách mạng
tháng 8 năm 1945 của toàn thể nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chủ tịch. Nhân dân là người sáng tạo nên
lịch sử cách mạng của mình nên nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Chính
từ cội nguồn sâu xa ấy, Hiến pháp ghi nhận: “Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo” [49]. Quy phạm Hiến pháp này một mặt đã khẳng
định nguồn gốc của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ
thể tối cao của quyền lực, mặt khác khẳng định sự thống nhất của quyền lực
nhà nước – quyền lực nhân dân. Sự ghi nhận này của Hiến pháp 1946 về
quyền lực nhân dân là mốc lịch sử quan trọng về cách tổ chức quyền lực nhà
nước ở Việt Nam, chấm dứt thời kỳ dài trong lịch sử đất nước: “Quyền lực
tập trung trong tay nhà vua, vua là con trời, vua là tất cả”, chuyển sang thời
kỳ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Thuật ngữ
“quyền bính” trong bối cảnh điều này của Hiến pháp được hiểu với hai nghĩa
của nó: quyền bính là quyền lực, quyền bính là quyền tự quyết của nhân dân
về vận mệnh, số phận của mình, còn thuật ngữ “nhân dân” được hiểu một
cách đầy đủ nhất của từ này, bao gồm tất cả mọi công dân, không phân biệt
38
dân tộc, giới tính, giai cấp, tầng lớp, tôn giáo. Quan điểm Hiến pháp này là cơ
sở nền tảng cho việc xây dựng đời sống nhà nước và đời sống xã hội “xây nền
độc lập trên nền nhân dân” với đầy đủ nhất của từ “nhân dân”. Với logic “mọi
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân” nên trong thành phần Quốc
hội đầu tiên của nước ta có đầy đủ mọi thành phần giai cấp, tầng lớp, đảng
phái chính trị. Chính quan điểm này đã tạo nên sức mạnh đoàn kết của toàn
dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Như vậy, ngay từ đây đã chính thức hình thành, xác lập một quan điểm
mới về quyền lực nhân dân trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam.
Về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 1946 không
chọn nguyên mẫu cách tổ chức quyền lực theo mô hình của bất kỳ nhà nước
nào, mà có cách tiếp cận sáng tạo, toàn diện cả về khía cạnh chính tri, xã hội
và khía cạnh kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.
Từ quan điểm “tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân Việt
Nam” nên cơ quan đại diện của nhân dân được khẳng định là cơ quan có
quyền cao nhất. Hiến pháp quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có
quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” [49, Điều 22]. Chỉ
với quy định này đã thấy Hiến pháp năm 1946 đi theo hướng đề cao vị thế của
Nghị viện với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, trong tương
quan với các nhánh quyền lực hành pháp và tư pháp tính trội thuộc về Nghị
viện. Nhưng nếu chỉ dừng ở đây, có thể nhầm là Hiến pháp năm 1946 đi theo
chế độ đại nghị - chế độ tính trội thuộc về cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân. Với vị thế là cơ quan có quyền cao nhất nên Nghị viện nhân dân lập ra
Chính phủ bao gồm: Chủ tịch nước và nội các, Nội các gồm Thủ tướng, có
thể có Phó thủ tướng … Thủ tướng là người đứng đầu Nội các được bầu từ số
các nghị viên. Theo logic này thì chính phủ, chủ tịch nước phải chịu trách
nhiệm trước Nghị viện nhân dân nhưng Hiến pháp không đi theo hướng đó
39
mà đi theo hướng hỗn hợp giữa chế độ đại nghị và chế độ Tổng thống với cơ
chế ưu thế thuộc về Chủ tịch nước. Điều này thể hiện tại Điều 50: “Chủ tịch
nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản
quốc” [49, Điều 50].
Hiến pháp năm 1946 đã áp dụng những nguyên lý cơ bản của thuyết
phân quyền ở khía cạnh kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Ngày
nay trong nhiều ấn phẩm khoa học nước ngoài và cả trong Hiến pháp của
nhiều quốc gia trên thế giới đều khẳng định nguyên tắc “phân quyền” hay
“phân lập các quyền” lập pháp, hành pháp, tư pháp và đều coi đó là nguyên
tắc căn bản của nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1946 tuy không trực
tiếp ghi nhận nguyên tắc này, nhưng tư tưởng này đã thể hiện rất rõ nét trong
nhiều quy định. Ví dụ: Điều 22 nêu rõ: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có
quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa”. Điều 43 quy định:
“Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân
chủ cộng hòa”. Theo Điều 63: “Cơ quan tư pháp của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án
đệ nhị cấp và sơ cấp” [49]. Như vậy, trong cơ cấu quyền lực gồm các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, mỗi nhánh quyền lực do một loại thiết chế
nhà nước thực hiện. Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện nhân dân; quyền
hành pháp thuộc Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về các tòa án. Từ những quy
định này, có thể rút ra hai nhận định quan trong: Thứ nhất, Hiến pháp bảo
đảm tính độc lập của quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thứ hai, sự
khẳng định có tính nguyên tắc là các cơ quan: Nghị viện, Chính phủ và Tòa
án đều là những cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, mỗi cơ quan nhà
nước nắm một bộ phận quyền lực nhà nước. Chính những quy định này đã thể
hiện sự phân công lao động quyền lực giữa các cơ quan cao nhất của quyền
lực nhà nước khá rạch ròi.
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước

Contenu connexe

Tendances

Tendances (20)

Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
 
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyềnMối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
 
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOTĐề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOTLuận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà NẵngLuận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
 
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luậtĐề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
 
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà NguyễnLuận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAYĐề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
 
Luận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TP Hồ Chí Minh, HAY
Luận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TP Hồ Chí Minh, HAYLuận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TP Hồ Chí Minh, HAY
Luận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TP Hồ Chí Minh, HAY
 

Similaire à Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước

Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vnHoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luật hiến pháp
Luật hiến phápLuật hiến pháp
Luật hiến pháp
N3 Q
 

Similaire à Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước (20)

Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nướcĐề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
 
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vnHoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nướcĐề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013, HOT, HAY
Luận văn: Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013, HOT, HAYLuận văn: Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013, HOT, HAY
Luận văn: Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013, HOT, HAY
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cáchTư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
 
Luật hiến pháp
Luật hiến phápLuật hiến pháp
Luật hiến pháp
 
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
 
Quyền Tư Pháp Theo Hiến Pháp Năm 2013, HOT, HAY.docx
Quyền Tư Pháp Theo Hiến Pháp Năm 2013, HOT, HAY.docxQuyền Tư Pháp Theo Hiến Pháp Năm 2013, HOT, HAY.docx
Quyền Tư Pháp Theo Hiến Pháp Năm 2013, HOT, HAY.docx
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyềnLuận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
 
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docÝ thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
 
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoáTính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
 
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAYĐề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
 
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt NamTòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
 
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước taGiám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
 
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAYLuận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Dernier

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Dernier (20)

cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 

Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH THU VAI TRß CñA HIÕN PH¸P TRONG VIÖC KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ N¦íC Chuyên ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Minh Thu
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục những chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: HIẾN PHÁP VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ........................................................................................ 5 1.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước - Lý do ra đời Hiến pháp................ 5 1.2. Biểu hiện của kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp ...21 1.2.1. Hiến pháp ghi nhận quyền lực nhà nước được phân công, phân nhiệm và tự kiểm tra bên trong bằng cơ chế kìm chế và đối trọng - một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước.........21 1.2.2. Hiến pháp kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc bảo đảm cho nhân quyền không bị vi phạm.............................................................31 Chương 2: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2013..............................37 2.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1946.........37 2.2. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1959.........47 2.3. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1980.........52 2.4. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992.........57 2.4.1. Sự kiểm soát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan hành chính và tư pháp .........................................................................58 2.4.2. Sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với các cơ quan khác của nhà nước..............................................................................................62
  • 4. Chương 3: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013 ..............................................................................72 3.1. Phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. .......72 3.2. Quyền con người được đề cao và đảm bảo trong Hiến pháp 2013....88 KẾT LUẬN..................................................................................................100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................102
  • 5. DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CNXH: Chủ nghĩa xã hội DN: Doanh nghiệp HĐND: Hội đồng nhân dân QH: Quốc hội TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao UBND: Ủy ban nhân dân UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong cuốn sách “Các quyền của con người” (1791-1792), Thomas Paine viết: Hiến pháp không phải là một đạo luật của chính quyền nhưng là của nhân dân tạo dựng nên chính quyền và một chính quyền không có Hiến pháp là quyền lực không có quyền… Hiến pháp là một vấn đề đứng trước chính quyền và chính quyền chỉ là tay sai của Hiến pháp. Hiến pháp là bản văn đặt nền móng cho một quốc gia hiện đại, là hiện thân của khế ước cơ bản giữa nhân dân và là hình thức cao nhất của pháp luật. Thông qua hiến pháp, con người chính thức đánh đổi quyền tự do tự nhiên để trở thành một công dân, chính thức đánh đổi một phần quyền tự do quyết định của mình vào tay một số người cầm quyền để có được sự che chở của xã hội, đại diện bởi luật pháp. Nhà nước là rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Cho đến hiện nay và tương lai sau này con người không thể sống thiếu nhà nước, trong một trạng thái vô chính phủ, ít nhất là cho đến khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản. Ở phương diện nào đó, Nhà nước có xu hướng lạm quyền mà vi phạm đến quyền lợi của cá nhân sống trong Nhà nước đó. Chính vì nhằm mục đích ngăn chặn sự vi phạm này từ phía Nhà nước, hay theo cách nói của C.Mác là sự tha hóa của nhà nước nên cần phải có một bản văn quy định sự kiểm soát quyền lực nha nước. Đó là Bản Hiến pháp. Hiến pháp là một bản văn luật có vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam trong suốt gần nửa thế kỷ, mặc dù Hiến pháp 1946 đã thiết lập sự chế ước quyền lực lẫn nhau giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng do chiến tranh nổ ra nên không thực hiện được. Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 tổ chức quyền lực Nhà nước ở Việt Nam cho thấy việc
  • 7. 2 phân công quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp còn mờ nhạt. Đến Hiến pháp 1992 được xây dựng trong thời kỳ công cuộc đổi mới đất nước, mở cửa nền kinh tế và nhất là chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền thì quyền lực nhà nước đã được phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đến thời điểm hiện nay, Hiến pháp 2013 đã tiến thêm bước rất quan trọng khi ghi nhận sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được của phương diện kiểm soát quyền lực Nhà nước qua các bản Hiến pháp lịch sử và đặc biệt là Bản Hiến pháp mới năm 2013, tôi đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ: “Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước”. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm những năm gần đây đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu kiểm soát quyền lực Nhà nước với mục đích, góc độ phạm vi tiếp cận khác nhau trong đó ít nhiều đề cập tới vấn đề học viên đang nghiên cứu. Các tài liệu học viên được tiếp cận gồm: - Sự hạn chế quyền lực Nhà nước – GS.TS. Nguyễn Đăng Dung - Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài – Sách tham khảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội - Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn- Sách chuyên khảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, còn có một số bài viết của các chuyên gia luật học liên quan đến đề tài luận văn đã được đăng trên các tạp chí - đặc san Luật học, trên trang tin điện tử của Chính phủ, Bộ tư pháp, một số bài viết về thành tựu của Hiến pháp năm 2013 trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, vv… Tài liệu và bài viết của các tác giả trên đã có những đóng góp đáng kể
  • 8. 3 trong trong việc hoàn thiện các quy định của Hiến pháp về kiểm soát quyền lực Nhà nước. Qua tham khảo đã giúp học viên có thêm những kinh nghiệm quý để triển khai những vấn đề, nội dung chưa được đề cập, tiếp cận sâu. Tuy vậy, các công trình này đều được nghiên cứu trước khi có Hiến pháp năm 2013, chưa có công trình nào đề cập tới kiểm soát quyền lực nhà nước của các bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích nghiên cứu của Luận văn là: Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Đánh giá được các thành tựu cũng như chỉ ra các những bất cập, tồn tại của các quy định của các bản Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Với mục đích nói trên, Luận văn có nhiệm vụ: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước ở các thời kỳ khác nhau của đất nước và nêu bật những điểm mới đạt được của Hiến pháp năm 2013. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận về vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước ở các thời kỳ khác nhau của đất nước và nêu bật những điểm mới đạt được của Hiến pháp năm 2013. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những quy định của Hiến pháp về phương diện kiểm soát quyền lực nhà nước được xác định trong giới hạn sau đây: Thứ nhất, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp và nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp.
  • 9. 4 Thứ hai, kiểm soát quyền lực nhà nước của các bản Hiến pháp lịch sử. Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật, Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thực tiễn, thống kê. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu một cách khá toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của các bản Hiến pháp, đặc biệt là việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013. 7. Ý nghĩa của Luận văn Với những kết quả của Luận văn, hi vọng rằng Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, lý luận của các luật gia, đồng thời sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam về việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp. 8. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận thì nội dung của Luận văn được chi thành 3 chương như sau: - Chương 1: Hiến pháp và vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước. - Chương 2: Kiểm soát quyền lực Nhà nước của các Hiến pháp Việt Nam trước năm 2013. - Chương 3: Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp 2013.
  • 10. 5 Chương 1 HIẾN PHÁP VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 1.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước - Lý do ra đời Hiến pháp. “Cuộc sống mà không có nhà nước hiệu lực để duy trì trật tự thì rất đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi”. Đây là câu nói nổi tiếng của nhà triết học và xã hội học người Anh Thomas Hobbes (1588-1679) khi viết về vị trí, vai trò quan trọng của nhà nước trong tác phẩm “ Leviathan”. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra cơ sở của việc thành lập ra nhà nước là khế ước xã hội, thấy được tính tất yếu của việc thành lập ra nhà nước cũng như những mặt trái của nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, Nhà nước được hình thành từ sự đấu tranh giai cấp và nhu cầu phải chống thiên tai, bão lụt để duy trì sự tồn tại của các nhà nước phương Đông. Như vậy, Nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội”, mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, do nhu cầu của chính con người, nhà nước như là một lực lượng “ tựa hồ như đứng trên xã hội”, vì không trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất, nhưng lại có chức năng làm dịu bớt xung đột và giữ cho những xung đột đó nằm trong một trật tự nhất định để cho sản xuất phát triển và xã hội loài người không thể đi đến chỗ diệt vong. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của giai cấp thống trị và của xã hội. Nhưng nó khác với các tổ chức xã hội khác chủ yếu ở chỗ: nhà nước được sử dụng một thứ quyền lực đặc biệt do xã hội trao cho- quyền lực nhà nước. Đó là một loại quyền lực gắn liền với khả năng bắt buộc- cưỡng chế đối với tất cả mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đó còn là thứ quyền lực cho phép nhà nước thâu tóm trong tay mình hầu hết các nguồn nhân lực, tài lực của Quốc gia. Nhà nước còn là chủ thể duy nhất được đại diện cho quốc gia- dân tộc
  • 11. 6 trong các quan hệ quốc tế. Trong các chế độ nô lệ và phong kiến, quyền lực nhà nước- mà thể hiện tập trung ở quyền lực của nhà vua, được coi như một thứ quyền lực thần thánh, không giới hạn. Đặc trưng về sự vận động của mọi loại quyền lực nói chung, trong đó có quyền lực nhà nước, là hai xu hướng: Thứ nhất, đó là xu hướng sử dụng trái phép quyền lực được giao để phục vụ cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ (lợi dụng quyền hạn). Xu hướng thứ hai là lạm dụng quyền lực (lộng quyền, lạm quyền). Cả hai xu hướng này đều là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực, vốn là xu hướng khách quan trong quá trình vận động, phát triển của quyền lực. Cả hai xu hướng trên đều dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại cho xã hội, và người phải gánh chịu chính là nhân dân [17]. Do tính chất đặc biệt của quyền lực nhà nước như vậy, nên ngay từ khi nhà nước ra đời cho tới nay, tất cả các chế độ xã hội đều nhận thức và đặc biệt coi trọng việc kiểm soát quyền lực nhà nước, với những phương thức và thiết chế đa dạng khác nhau. Nhân loại, bằng kinh nghiệm lịch sử đầy máu và nước mắt của mình, đã hiểu ra rằng, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, hơn thế nữa, phải được kiểm soát chặt chẽ. Nói cách khác, quyền lực nhà nước phải được giới hạn, không phải là vô hạn, nhất là trong một chế độ dân chủ, đặc biệt là trong chế độ dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa. Thuở ban đầu mọi nhà nước sinh ra với một ý nghĩa hết sức tốt đẹp với mục đích duy trì và phát triển cuộc sống của nhân loại, làm cho nhân loại thoát khỏi sự diệt vong và duy trì sự phát triển, nhưng sau đấy nhà nước dần dần đều là những tổ chức chuyên chế. Nhà Vua- người thống trị thay mặt cho nhà nước đều cho mình là nguồn gốc của mọi công lý trong xã hội. Ông ta một mình có cả quyền lập pháp, hành pháp, sửa đổi, đình chỉ và cả việc xét xử sự vi phạm pháp luật do chính ông ta ban hành. Là người cai trị,
  • 12. 7 ông ta có quyền tuyệt đối và không phải tuân thủ pháp luật. Vị trí của ông ta không phải ở dưới mà ở trên pháp luật. Đó là một nhà nước độc tài, chuyên chế gắn liền với các chế độ chính trị phi dân chủ, quyền lực nhà nước có một đặc điểm quan trọng là vô hạn định, luôn luôn tiềm ẩn một mối nguy hại cho loài người. [17] Tham nhũng, độc tài, chuyên chế là bệnh chung của mọi xã hội có nhà nước. Chế độ độc tài là chế độ loại trừ đa số nhân dân tham gia vào các công việc nhà nước. Chế độ chuyên chế rất gần với chế độ độc tài, không những loại trừ đa số nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước mà còn can thiệp quá sâu vào lĩnh vực của đời sống nhân dân. Tham nhũng là sự lạm dụng quyền hành của nhà nước để mưu lợi ích riêng mà quyền hành thì rất dễ bị lợi dụng. “Do đó các nước phải cố gắng thiết lập và nuôi dưỡng những cơ chế mang lại cho các cơ quan nhà nước sự mềm dẻo và sự khuyến khích để hoạt động vì lợi ích chung, đồng thời kiềm chế những hành vi độc đoán tham nhũng trong cách cư xử với các doanh nghiệp và công dân”. Những cơ chế này chính là những quy định hạn chế quyền lực trong pháp luật của mỗi quốc gia, mà trước hết là phải nói đến Hiến pháp. Nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm quyền mà vi phạm đến quyền lợi của cá nhân. Chính vì nhằm mục đích ngăn chặn sự vi phạm này từ phía nhà nước, ngăn chặn sự “ tha hóa” của Nhà nước mà cần phải có một bản văn quy định sự kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là bản Hiến pháp. Hiến pháp là một bản văn luật có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm soát để bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay có thể còn được gọi là bản chất của hiến pháp, tức là xét đến cùng, cá tính chất sâu xa nhất của Hiến pháp đó chính là tính nhân bản của Hiến pháp và đồng thời cũng là nhiệm vụ của Hiến pháp. Việc bảo vệ của cá nhân trong lịch sử tổ chức và hoạt động của bộ máy
  • 13. 8 nhà nước cũng như trong sinh hoạt của các chế độ chính trị càng ngày càng được đặt ra một cách bức xúc. Xã hội càng dân chủ và văn minh bao nhiêu thì giá trị của con người càng được bảo đảm bấy nhiêu, trước sự áp bức từ nhiều phía. Nhà nước dân chủ và văn minh có một trách nhiệm vô cùng lớn trong việc bảo đảm, bảo vệ nhân phẩm và giá trị của con người trước sự tấn công của các chiều hướng khác nhau, tong đó có cả từ phía bản thân nhà nước thông qua các hoạt động của các quan chức nhà nước, thay mặt nhà nước thực thi công vụ. Để đảm bảo vấn đề bảo vệ giá trị nhân phẩm của con người trước sự tha hóa của nhà nước, Hiến pháp có nhiều những biện pháp khác nhau như: quy định các quyền lợi của cá nhân được thụ hưởng, quy định những bảo đảm thi hành các quyền lợi và giá trị nhân phẩm của con người. Trong số những biện pháp ấy thì việc phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau để đi đến chỗ kiểm tra, kiềm chế lẫn nhau để đảm bảo quyền lợi của cá nhân chiếm một vị trí rất quan trọng. Việc phân chia càng nhiều bao nhiêu thì bảo vệ quyền các quyền cá nhân của con người càng nhiều bấy nhiêu. Lý thuyết kiểm soát quyền lực đó được thể hiện bởi một nguyên nhân bản tính của con người là đam mê quyền lực: Để phát triển và tồn tại, con người rất cần đến nhà nước. Nhưng khi có nhà nước thì con người phải kiểm soát nhà nước, bởi lẽ nhà nước do con người điều khiển. Và khi có quyền lực nhà nước trong tay, con người có thể đạt được nhiều thứ quyền lợi khác như: của cải, danh vọng, dễ có khả năng buộc người khác phải làm theo những ý muốn đam mê của mình…. Sự thực “Lòng đam mê quyền lực và lòng đam mê danh vọng là những ước muốn vô hạn định của con người”. Vì thế, khi có quyền lực, con người hay có xu hướng lạm quyền. Đó là một trong những rủi ro vô cùng nguy hiểm của xã hội. Hoạt động của Nhà nước là một hoạt động phức tạp, thường là phải do nhiều người cùng đảm nhiệm, nên nếu không có sự phân công rõ ràng
  • 14. 9 thì rất dễ rơi vào tình trạng ỷ lại lẫn nhau, theo kiểu “Cha chung, không ai khóc.” Trong hoạt động của lĩnh vực công, càng tập trung bao nhiêu và càng làm việc tập thể với nguyên tắc đa số để ban hành quyết định bao nhiêu, thì lại càng tạo ra cơ sở nhiều hơn cho sự ỷ lại và không chịu trách nhiệm cá nhân bấy nhiêu. Con người có sai lầm nên không có một thể chế nào của con người thoát khỏi sự sai lầm: Sự kiểm soát quyền lực nhà nước còn một nguyên nhân sâu xa nữa là bản tính hay tùy tiện của chính con người. Con người vốn dĩ hành động theo bản năng thiếu sự cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện hoàn cảnh chi phối các hành vi của mình. Để tránh sự tùy tiện trong việc sử dụng quyền lực nhà nước, không còn cách nào khác hơn là phải kiểm soát quyền lực. Khả năng phạm sai lầm nằm ngay trong con người. Sở dĩ như vậy, vì rằng trí tuệ thuộc về lý tính của con người là có hạn. Một người có trí tuệ siêu việt đến đâu đi chăng nữa, thì cũng không thể thoát khỏi sai lầm. J.S.Mill, một triết gia và một nhà kinh tế lớn của Anh quốc thế kỷ XIX, đã từng cảnh báo: “Loài người không thể là thánh thần, không bao giờ sai, chân lý của họ phần nhiều chỉ là các chân lý một nửa”. Khi soạn thảo ra bản Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới, Hiến pháp Mỹ năm 1787, J. Madison cũng đã từng nói về điều đó: Chính phủ không phải là những thiên thần, nên chính phủ cũng có thể mắc sai lầm. Đây là nhận thức căn bản của ông khi đề xuất hệ thống kìm chế và đối trọng cho bản Hiến pháp này. Con người vốn dĩ không muốn có trách nhiệm, mà chỉ muốn có quyền: Nếu quyền hạn là những gì mà con người được hưởng, được quyền ra lệnh yêu cầu những người khác phải thực hiện, thì ngược lại trách nhiệm là những gì họ buộc phải làm và phải chịu dưới sự giám sát của những người khác. Có những lúc hai thứ quyền hạn và trách nhiệm là hòa nhập trong nhau. Nhưng cơ bản giữa chúng vẫn có một sự phân biệt nhất định. Ví dụ như, trong
  • 15. 10 chế độ phong kiến, nhà Vua thì bao giờ cũng chỉ có quyền, mà không bao giờ phải gánh chịu trách nhiệm về những hành vi thực hiện các quyền của mình. Từ đây mới xuất hiện trong luật học các chế định về việc miễn trừ trách nhiệm pháp lý của các quan chức của Nhà nước phong kiến. Bản tính của con người là những gì thuộc về tính chất, tính cách của số đông con người đều mắc phải. Đã là con người thì không mấy ai thích trách nhiệm, nhất là những trách nhiệm phải gánh vác hậu qủa do chính bản thân mình gây ra. Bản tính con người giữ gìn và tăng cường danh dự. Khi phải gánh chịu trách nhiệm như phải từ chức, phải trừng phạt, phải bồi thường thiệt hại do những hành vi cầm quyền của mình gây ra là một trong những biểu hiện nặng nề nhất của sự tổn thất danh dự của con người. Vì vậy, con người có xu hướng bản năng trốn tránh trách nhiệm. Các hình thức trốn tránh trách nhiệm: Tạo ra các vỏ bọc, tạo ra các cấp dưới trung gian trực thuộc mình, chính quyền trở thành nhiều tầng nhiều nấc. Sự không hiểu vấn đề cũng như sự phức tạp hóa vấn đề cần phải giải quyết. Mức độ nguy hiểm của quyền lực nhà nước: Cơ sở của sự phải kiểm soát quyền lực nhà nước xuất phát từ đặc điểm công khai, mang tính quyền lực công cộng làm cho Nhà nước có một sức mạnh ghê gớm. Cùng là một loại tội phạm, nhưng tội phạm cấu kết với các nhân viên tha hóa của Nhà nước bao giờ cũng có hậu quả nặng nề hơn và cũng rất khó phát hiện hơn... Việc kiềm chế tiềm năng sử dụng và lạm quyền lực nhà nước là một thách thức đối với bất cứ Nhà nước nào. Điều khó khăn hơn nữa là làm việc này mà không làm cho các cơ quan nhà nước mất đi tính mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc của Nhà nước. Việc sử dụng không đúng quyền lực nhà nước tạo ra những vấn đề nghiêm trọng của sự tín nhiệm Nhà nước của công chúng sẽ có tác động rất lâu dài trước công luận. Lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước được thiết lập đầu tiên bởi các
  • 16. 11 nhà tư tưởng chính trị - pháp lý, đó là của Aristotle, J. Locke, S.L. Montesquieu và J.J. Rousseau, tạo thành học thuyết được gọi là chủ nghĩa Hiến pháp, mà cái cốt lõi của nó là sự giới hạn quyền lực nhà nước nhằm chống lại chế độ chuyên chế phong kiến, và bảo vệ nhân quyền. Các nhà tư tưởng thời bấy giờ lập luận rằng, một chính phủ được thành lập không hợp pháp và chính quyền đó không có mục đích bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Vấn đề nhân quyền hầu như không được chính quyền đó bảo vệ. Quyền lực nhà nước nằm trong tay một số người theo thể thức thế tập truyền ngôi, có toàn quyền ban hành các quyết định theo ý chí của mình và buộc mọi người phải thực hiện. J.Locke trong tác phẩm “Hai chuyên luận về chính quyền” (1690) được coi là lý thuyết đầu tiên chống lại tư tưởng chuyên chế, khi ông đưa ra lý thuyết về sự giới hạn quyền lực chuyên chế của nhà Vua. Lý thuyết căn bản của J.Locke dựa trên hai nền tảng quyền tự nhiên của con người và khế ước xã hội, nền tảng của chế độ nhà nước. Locke cho rằng, con người “vốn dĩ tự do, bình đẳng và độc lập”, đã chọn lựa một cuộc sống chung cùng với những người khác và phải chịu từ bỏ trạng thái tự nhiên, để tuân thủ một “khế ước xã hội”, nhằm có được một sự an ninh tốt hơn không thể có được khi ở “trạng thái tự nhiên”. Họ nhất trí sống theo ý chí của số đông và chính vì mục đích này mà các chính phủ được thành lập và chính phủ đó có thể bị giải thể nếu họ mất niềm tin vào chính phủ. [17] Vấn đề kiểm soát quyền lực và trách nhiệm của Nhà nước chỉ được giải quyết một cách triệt để hơn và bài bản hơn, vì mục đích của sự bảo đảm nhân quyền trong cách mạng tư sản. Càng ngày kiểm soát và trách nhiệm của quyền lực nhà nước càng trở nên gắn bó mật thiết với dân chủ và sự kiểm soát này được quy định thành luật, nhất là quy định của đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao để cho mọi chủ thể nắm quyền lực nhà nước phải chấp hành. Đó là Hiến pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là một căn cứ căn bản cho việc kiểm
  • 17. 12 soát quyền lực của nhà nước, khác với Nhà nước phong kiến nơi không tồn tại hiến pháp. Vì những lẽ đó, việc phải quy định về kiểm soát quyền lực Nhà nước như là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, một khi mà xã hội cần đến Nhà nước. Sự hiện diện của những quy định trong Hiến pháp nhằm mục đích kiểm soát hay là kiểm soát quyền lực nhà nước là dấu hiệu của dân chủ, của tiến bộ xã hội. Có như vậy mới thể hiện được tính nhân bản và xã hội sâu sắc cần phải có của Hiến pháp. Hiến pháp là một bản văn có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực Nhà nước. Kiểm soát để bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay có thể còn được gọi là bản chất của Hiến pháp. Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh ở nghĩa hẹp là quy định chế độ chính trị. Hay nói cách khác hơn, Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh là việc quy định chế độ nhà nước trong thời kỳ dân chủ. Điều đó nghĩa là Hiến pháp được sinh ra trong cách mạng tư sản dân chủ, trở thành văn bản quy định chế độ Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước xét về mặt cơ cấu bao gồm các cơ quan nhà nước hợp thành bộ máy nhà nước. Vì vậy chế độ nha nước là chế độ được hình thành từ những hoạt động của các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước. Cho nên Hiến pháp có trách nhiệm phải quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; hay nói cách khác đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là những mối quan hệ về tổ chức bộ máy Nhà nước, làm cho bộ máy đó thuộc về nhân dân. Về nguyên tắc Hiến pháp không thể quy định tất cả việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chính vì lẽ đó, ta có thể hiểu Hiến pháp là bản văn phân chia quyền lực. Một bộ máy nhà nước tốt không chỉ biết đảm nhiệm các công việc được phân công của mình mà còn phải trù liệu trước và ngăn ngừa trước những hậu
  • 18. 13 quả xấu có thể xẩy ra trong hoạt động điều hành và quản lý đất nước. Một bản Hiến pháp tốt không chỉ hướng những quy định của mình vào những mặt tốt của bộ máy nhà nước, mà còn tính đến việc hạn chế những mặt yếu có tính tất yếu của nó. Hiến pháp là đọa luật quy định việc con người phải quản lý con người. Vì vậy một bản Hiến pháp tốt khi và chỉ khi các quy định của nó phản ánh được hết các bản tính vốn có của con người. Giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia có sự gắn kết mật thiết với nhau. Nhân quyền được bảo đảm bằng nhiều biện pháp, hình thức khác nhau. Trước tiên phải được đảm bảo bằng nhà nước. Đồng thời nhà nước cũng là một trong những nơi tiềm ẩn mối nguy hiểm nhất cho sự vi phạm nhân quyền. Sở dĩ nhà nước là một mối nguy hiểm nhất cho sự vi phạm nhân quyền, vì so với các chủ thể khác trong xã hội nhà nước có nhiều ưu thế hơn cả: Nắm quyền lực nhà nước trong tay, có nhân lực có vũ khí, có cả tiền bạc, nhất quyền được bắt, giam, giữ con người, khi cho họ là những nghi can, theo quy định mà chính bản thân nhà nước tự đặt ra. Tất cả những đặc quyền đó các chủ thể khác trong xã hội không thể nào có. Bảo vệ nhân quyền trước hết phải có sự ngăn ngừa từ phía nhà nước. Ngăn ngừa bằng cách quy định một cách chặt chẽ các cách thức tổ chức và hoạt động của nhà nước thông qua các hoạt động của những người đảm nhiệm các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, giữ gìn cho họ luôn luôn giữ được phẩm chất như khi họ được nhân dân lựa chọn vào các chức vụ quan chức nhà nước. Và một khi họ không còn những phẩm chất xứng đáng nữa thì cũng căn cứ vào những quy định của Hiến pháp mà nhân dân có quyền phế truất chức vụ của họ. Hay nói một cách khác, sự ngăn chặn những hành vi vi phạm quyền con người trước hết và hơn bao giờ hết là từ phía nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hiến pháp. Sự kiểm soát quyền lực nhà nước được các nhà triết học, xã hội học đặt ra từ rất xa xưa.
  • 19. 14 Theo J.J. Rousseau thì “chủ quyền nhân dân” xuất phát từ “khế ước xã hội”. Tác phẩm quan trọng nhất của ông là cuốn “Khế ước xã hội” (1762) được mở đầu bằng câu nổi tiếng: “Con người được sinh ra một cách tự do, nhưng khắp nơi lại bị xiềng xích”. Rousseau nhận thấy con người tự do và tự nhiên, những người “mông muội cao quý” là tốt đẹp, nhưng các thiết chế xã hội đã làm cho nó tha hóa. Hình thức tổ chức xã hội duy nhất có thể đưa họ về trạng thái tự nhiên tự do là nền dân chủ trực tiếp. CHỉ có chủ quyền đại chúng này mới có tính chính đáng; chỉ có ý chí chung được nhân dân thực hiện mới làm pháp luật có hiệu lực. Tư tưởng cơ bản của ông cho rằng, nhưng người bình thường cũng có quyền tự chủ và có quyền lật đỏ những ông vua tự cho mình là thiên mệnh. J.J. Rousseau phát triển ý tưởng về nhà nước lý tưởng thông qua các hội nghị toàn thể nhân dân. Đó là nguồn gốc của sự giới hạn quyền lực nhà nước mà nền tảng của nó là chủ quyền thuộc về nhân dân. [17] Học thuyết của J.Locke về chính phủ bị hạn chế có ảnh hưởng lớn đến Hiến pháp của Mỹ. Học thuyết này nhìn từ góc độ bảo vệ các quyền về tài sản, cùng các quyền khác của con người trong trạng thái tự nhiên, đã được các nhà lập hiến của nước Mỹ tiếp nhận rất đầy đủ qua các bài luận của họ Hiến pháp. Các nhà soạn thảo Hiến pháp còn cho rằng, sự ra đời của các thiết chế quyền giám sát bảo hiến và sự phát triển học thuyết phân quyền của S.L.Montesquieu được coi là một nền tảng cơ bản chống lại sự chuyên chế của đa số. Vấn đề hạn chế quyền lực nhà nước được xuất hiện dựa trên nền tảng của việc đảm bảo các quyền và tự do của các công dân. Trong tác phẩm của mình, S.L.Montesquieu cho rằng tự do chính trị chỉ có thể tìm thấy ở đâu có một “chính phủ hợp lý”, tức là một chính phủ trong đó “không có sự lạm dụng quyền lực”, tức là một chính phủ bị hạn chế. Vì vậy, nếu quyền lực nhà nước không bị hạn chế, không bị kiểm soát thì hậu
  • 20. 15 quả rõ ràng nhất là sự vi phạm các quyền của con người. Ông còn cho rằng muốn hạn chế thì buộc phải phân quyền. Do đó tư tưởng của S.L.Montesquieu dựa trên sự phân quyền và ông coi đó là một trong những điều kiện tiên quyết của những bảo đảm cho tự do chính trị cho mọi người dân. Một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến hiện đại là việc vạch ra giới hạn giữa quyền lực nhà nước và quyền và tự do của công dân theo nguyên tắc nhà nước thì không được can thiệp vào các lĩnh vực thuộc quyền tự do của công dân. Lý thuyết về các quyền tự nhiên của con người được hình thành và phát triển cùng với tư tưởng về một chính quyền bị kiểm soát trong một trật tự của hiến pháp là điều kiện tiên quyết cho việc đảm bảo quyền cơ bản của công dân. Cơ sở cho việc cần phải giới hạn quyền lực nhà nước không chỉ nằm ở chỗ chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước mà còn ở chỗ chống lại sự tùy tiện của nhà nước thông qua các hành vi của các quan chức thay mặt nhà nước đảm trách các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, các thể chế chính trị gồm các quy tắc bầu cử đặt ra các thủ tục bầu và thay thế các chính phủ. Chúng cũng bao gồm quy định sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa trung ương và địa phương cũng như những giới hạn quyền lực đối với tất cả các cơ quan này. Khi soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập cho nước Mỹ, T.Jefferson cho tằng quyền được chống đối bất cứ loại chính quyền nào không đáp ứng được những nguyện vọng của kẻ bị trị. Ông muốn có một xã hội của những người tự do, vì đối với ông tự do là trên hết. Ông công nhận rằng, người tự do cũng phải chấp nhận một vài hạn chế trong lối sống của họ và luật lệ cũng phải được thi hành đối với những kẻ vi phạm. Lý giải sự kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề có tính khách quan,
  • 21. 16 James Madison cho rằng: “Trong việc tạo dựng một chính phủ được những con người quản lý để cai trị những con người khác, khó khăn lớn nằm trong điều này: Trước hết anh phải làm cho chính phủ có khả năng kiểm soát những người bị cai trị và điều tiếp theo sau là buộc chính phủ phải tự kiểm soát mình.” Việc kiềm chế tiềm năng sử dụng và lạm dụng quyền lực nhà nước là một thách thức đối với bất cứ nhà nước nào. Điều khó khăn hơn nữa là làm việc này mà không làm cho các cơ quan nhà nước mất đi tính mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc của nhà nước. Việc sử dụng không đúng quyền lực nhà nước tạo ra những vấn đề nghiêm trọng của sự tín nhiệm nhà nước của công chúng sẽ có tác động rất lâu dài trước công luận [17]. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân hiện nay ở nước ta, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đang là một vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách. Là vấn đề cơ bản, vì nó là một yếu tố cấu thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Khi chúng ta thừa nhận quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, thì hoạt động thực thi quyền lực nhà nước sẽ gồm ba yếu tố cấu thành: trao quyền, sử dụng quyền và kiểm soát quyền. Để bảo đảm quyền lực thực sự của nhân dân, không để xảy ra việc dân “ trao quyền rồi mất quyền”, thì tất yếu phải kiểm soát. Mặt khác, việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay ở nước ta tuy có nhiều cố gắng và đạt được một số tiến bộ, nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế, cả về lý luận và thực tiễn. Pháp luật ngày càng trở nên là một công cụ hữu hiệu cho việc điều chỉnh các hoạt động của xã hội. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo các quy định – chuẩn mực của pháp luật. Tất cả các quy phạm điều chỉnh mọi hoạt động của xã hội hợp thành hệ thống thống nhất các văn bản pháp luật của quốc gia. Đứng đầu các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật là Hiến pháp và các văn bản của Nghị viện/Quốc hội ban hành. So với các đạo
  • 22. 17 luật khác hợp thành hệ thống pháp luật thống nhất của mỗi quốc gia thì Hiến pháp có một đời sống ngắn hơn tất cả. Nhưng khác các đạo luật khác, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao hơn. Tất cả các đạo luật dù được ban hành trước hay sau đều không được mâu thuẫn với Hiến pháp. Về mặt hình thức Hiến pháp, Hiến pháp được Nhà nước quy định là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia. Chính vì tính cơ bản này buộc các đạo luật khác phải tuân thủ theo Hiến pháp. Sở dĩ Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao nằm ở nội dung của Hiến pháp, hay nói cách khác chính là đối tượng điều chỉnh đặc biệt của Hiến pháp. Đó là mối quan hệ xã hội trong việc chính con người phải quản lý con người. Chính đối tượng này đã làm cho Hiến pháp phải là văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao. Việc quy định sự hạn chế quyền lực nhà nước có thể gọi đó là tính nhân bản của Hiến pháp. Hay có thể nói ngược lại Hiến pháp muốn thể hiện tính nhân bản của mình thì phải có các quy định nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước. Tính nhân bản của Hiến pháp thể hiện ở hai mặt: Thứ nhất Hiến pháp quy định một cách trực tiếp các quyền con người nhằm mục đích chống lại sự vi phạm của tất cả các phía, trong đó có cả từ phía nhà nước. Thứ hai, Hiến pháp quy định những cơ chế kìm hãm và ngăn ngừa những bản tính xấu của người cầm quyền, nhằm mục đích giữ cho họ luôn luôn ở trạng thái cân bằng với những đức tính tốt như khi mới được giao quyền. Cả hai mặt trên đều quan trọng, nhưng tính nhân bản của Hiến pháp nặng về mặt thứ hai, vì dẫu sao đi chăng nữa Hiến pháp vẫn là bản văn quy định chế độ nhà nước – cách thức làm việc của chính quyền. Trách nhiệm của chính quyền – tức là nghĩa vụ của công chức phải báo cáo về các hoạt động của họ cho các công dân và quyền của các công dân được hành động chống lại các quan chức có các hành vi mà các công dân coi là không chuẩn mực - là một yếu tố thiết yếu của dân chủ.
  • 23. 18 Với mục tiêu bảo vệ con người, Hiến pháp có hai vấn đề cần phải quy định: Thứ nhất, quy định quyền con người, bao gồm cả những quy định bảo đảm cho nhân quyền đó không bị xâm phạm; thứ hai quy định về chế độ làm việc của nhà nước. Chính việc quy định về chế độ nhà nước ở thể thức kìm chế và đối trọng nhau một cách chặt chẽ trong một bản văn có hiệu lực tối cao so với các văn bản luật khác là một trong những bảo đảm quan trọng nhất cho việc nhân quyền không bị vi phạm trước hết là từ phía nhà nước. Bên cạnh đó, sự hạn chế quyền hạn của các cơ quan nắm giữ quyền lực nhà nước, chỉ được hoạt động trong phạm vi quy định các quyền được phép làm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng là việc đảm bảo các quyền của con người không được vi phạm. Vì các cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà Hiến pháp quy định mà không được vượt ra ngoài những quy định đó mà dẫn đến việc vi phạm nhân quyền. Việc Hiến pháp phải quy định, trù liệu để hạn chế những bản tính xấu của con người là biểu hiện của tính nhân bản quan trọng nhất của Hiến pháp. Những quy định này cũng góp phần tạo nên tính chính trị của Hiến pháp. Một trong những đặc tính khác với các đạo luật thường khác của mỗi quốc gia. Với đối tượng điều chỉnh đặc biệt là hành vi của con người phải quản lý con người, việc tạo ra những quy định nhằm hạn chế bớt những mặt tiêu cực của người cầm quyền là rất quan trọng. Vì hành vi của họ có mức độ ảnh hưởng lớn và rộng đến các cá nhân, một số người, thậm chí hành vi quản lý xã hội của nhà cầm quyền sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ, thậm chí tương lai của cả một dân tộc. Bản tính của con người cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, hay nói một cách khác, có cả mặt và mặt ác, nhưng Hiến pháp xét về mặt nội dung thì chủ yếu chỉ chú trọng đến mặt tiêu cực nhằm hạn chế hậu quả của nó hơn là việc
  • 24. 19 phát huy những mặt tích cực của con người. Vì rằng hậu quả những mặt trái của bản tính con người là nguy hiểm cho xã hội hơn cả. Và đồng thời chính sự ngăn ngừa này cũng là mở rộng phạm vi tính tích cực của con người. Mục đích của pháp luật là không nên khen ngợi những hành vi tốt/tích cực mà cần phải ngăn ngừa hoặc thậm chí còn phải trừng trị những mặt tiêu cực của con người và tấm lòng tốt thông qua các cử chỉ điều hành của họ luôn luôn như trước khi họ được nhân dân bầu ra. Với bản tính của con người mặt tốt/tích cực vẫn là cơ bản. Nhưng lại không được điều chỉnh trong Hiến pháp, điều đó không cần phải nhắc. Nếu họ tốt thì nhân dân sẽ tín nhiệm họ luôn luôn và liên tục trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Mà nếu như là xấu thì phải bằng mọi cách dừng ngay lại sự cầm quyền/ điều hành của họ, không nên chờ đến một hậu quả khôn lường. Vì vậy, bảo vệ nhân quyền như là mục tiêu thiết yếu của Hiến pháp. Chính vì mục đích này mà phải có Hiến pháp, bản văn có hiệu lực tối cao không những chỉ quy định các cách thức thực hiện quyền lực nhà nước, để nhà nước không thể vượt ra khỏi khuôn khổ đã được quy định, mà vi phạm đến nhân quyền, mà còn có cả quy định nhằm mục đích ngăn chặn những bản tính xấu của con người cầm quyền khỏi những nguy cơ vi phạm nhân quyền. Lịch sử sự phát triển của nhà nước là như vậy. Nhà nước là rất cần thiết cho sự phát triển của con người. Nhưng nhà nước cũng là mầm mống chủ yếu cho việc xâm phạm đến quyền con người. Đó là nội dung hạn chế quyền lực nhà nước của Hiến pháp. Đảm bảo Hiến pháp được thi hành như một trong những phương pháp hữu hiệu nhất của kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp tư sản thường có một số quy định nhằm bảo đảm cho Hiến pháp được thực hiện. Trung tâm của những bảo đảm này là hoạt động của Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp. Để Hiến pháp có hiệu lực trên
  • 25. 20 thực tế, nhiều nước quy định việc giám sát Hiến pháp và việc bảo vệ Hiến pháp. Theo quan niệm chung của nhiều nước trên thế giới, giám sát việc thi hành Hiến pháp cũng như việc bảo vệ Hiến pháp là kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật. Vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật được thể hiện rõ nét nhất trong thể chế nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức nhà nước và vận hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này được phân định và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của người dân được bảo vệ. Hiến pháp là các công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Vì vậy, Hiến pháp được coi là linh hồn của pháp quyền và là bản khế ước xã hội quan trọng nhất. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ chức quyền lực công khai. Mọi đường lối, chính sách và quyết định của nhà nước đều phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và cá nhân cũng phải dựa trên pháp luật [2]. Khác với nhà nước pháp trị, pháp luật của nhà nước pháp quyền phải vươn tới sự đầy đủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, với phương châm: Đối với “cá nhân thì cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm”, còn đối với “cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp luật quy định”. Pháp luật của nhà nước pháp quyền còn có mục tiêu vì con người, vì quyền con người. Đó là một trong những biện pháp kiểm soát quyền lực hữu hiệu nhất. Khi một quốc gia không tôn trọng nguyên tắc pháp trị, thì người bị trị không thể nào được che chở hữu hiệu trước những hành động bột phát của những người cầm quyền. Bạo tàn và độc đoán hay độc tài sẽ phát sinh một khi một chính quyền làm luật và xóa bỏ luật mà không để cho dân chúng phê bình, chỉ trích đạo luật, khi chính quyền bỏ tù một cá nhân mà không tiến
  • 26. 21 hành xử án một cách công khai, hay không có cơ hội cho người bị xử án biện hộ, khi các thẩm phán xử án dưới sự đe dọa của các cơ quan công quyền… Nhưng sẽ không có một hệ thống pháp luật nào có thể hoạt động cách tự động, vô nhân tính và chính xác như một cái máy. Luật pháp không tự nó mà có, không tự nó thi hành, đều phải thông qua con người. Chính con người làm ra pháp luật, và cũng chính con người thi hành pháp luật và cũng chính con người giải thích pháp luật. Trong mọi trường hợp, con người cần phải kiểm soát và chế ngự. Hiến pháp với vị trí và vai trò tối thượng trong hệ thống pháp luật. Tất cả các thành viên của chính phủ cho đến các nghị sỹ của Quốc hội cũng các nhân viên của nhà nước trung ương cho đến địa phương, dù bầu hay chỉ định đều phải tuyên thệ ủng hộ hiến pháp, đều có thể bị truy tố khi vi phạm hiến pháp. Do đó, bất cứ đạo luật nào do lập pháp soạn thảo ra và được đã Tổng thống công bố hay ban hành sau khi Tổng thống phủ quyết vẫn có thể bị xét xử tính hợp hiến. Như vậy, nhà nước pháp quyền là nhà nước bị giới hạn quyền lực, mà phương tiện giới hạn quyền lực của nhà nước là các văn bản quy phạm pháp luật, đứng đầu là bản Hiến pháp. Cho đến nay, nhà nước pháp quyền trở thành một giá trị văn minh của nhân loại mà mọi nhà nước muốn trở thành dân chủ, văn minh đều phải hướng tới không phân biệt chế độ chính trị. Tại các Đại hội gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đều quan tâm và mong muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại. 1.2. Biểu hiện của kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp 1.2.1. Hiến pháp ghi nhận quyền lực nhà nước được phân công, phân nhiệm và tự kiểm tra bên trong bằng cơ chế kìm chế và đối trọng - một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước Thực tế sự phân quyền theo cách nói của nhà nước tư bản khác với sự
  • 27. 22 phân công, phân nhiệm giữa lập pháp và hành pháp. Phân quyền không hoàn toàn đơn giản có nghĩa là phân chia hoàn toàn, phân chia một cách tuyệt đối giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ngược lại, hoạt động của hành pháp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của lập pháp. Thậm chí, Nghị viện lập pháp theo nhu cầu của Chính phủ - hành pháp, giữa Chính phủ - hành pháp và Quốc hội – lập pháp phải có quan hệ mật thiết với nhau. Sự quan hệ mật thiết này tạo nên tính thống nhất của quyền lực nhà nước. Tổ chức và hoạt động của lập pháp và hành pháp trên thực tế không có sự phân định một cách cứng nhắc theo tinh thần của học thuyết phân quyền trước kia của thời kỳ tiền cách mạng tư sản mà chúng có quan hệ mật thiết với nhau, giữa lập pháp và hành pháp cũng như tư pháp chúng hoàn toàn biệt lập với nhau, mà giữa chúng cũng có sự phụ thuộc lẫn nhau. Chính ngay trong sự phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp đã tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Lập pháp thì ban hành luật, hành pháp thực thi luật đã được lập pháp ban hành và tòa án tư pháp xét xử các hành vi vi phạm luật. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp quan trọng đến mức tạo thành mô hình tổ chức của nhà nước mỗi quốc gia. Đó là chính thể nhà nước: Chính thể đại nghị kể cả cộng hòa lẫn quân chủ; Chính thể cộng hòa tổng thống và chính thể cộng hòa hỗn hợp của sự pha trộn những đặc tính của hai loại hình đại nghị và cộng hòa tổng thống. Cho dù được tổ chức theo mô hình đại nghị hay được tổ chức theo mô hình của chế độ tổng thống thì lập pháp và hành pháp vẫn không có sự phân chia tuyệt đối với nhau. Mặc dù có sự phân quyền nhưng hành pháp vẫn can thiệp sang lĩnh vực lập pháp, thậm chí các hoạt động lập pháp lại còn là nhu cầu của hành pháp. Bản thân Quốc hội không có nhu cầu của sự lập pháp. Nhưng Quốc hội với chức năng lập pháp được Hiến pháp quy định vẫn còn có quyền biểu quyết thông qua dự án luật được Chính phủ đệ trình sang. Với
  • 28. 23 quyền quyết định này Quốc hội có quyền thông qua những dự án luật tốt có khả năng khả thi và cho phép sự tồn tại và nhất là sự phát triển của đất nước, ngược lại, những dự án không có khả năng thực thi, hoặc không cho sự phát triển và tồn vong của quốc gia, Quốc hội – lập pháp phải có trách nhiệm gạt bỏ. Đó là chức năng lập pháp đích thực của Nghị viện của một nhà nước dân chủ. Trong trường hợp này, Quốc hội vẫn đảm bảo thực hiện vai trò lập pháp của mình và học thuyết phân quyền vẫn có giá trị nhất định, mà không phải là một sự phủ nhận hoàn toàn [17]. Trong một nhà nước dân chủ, sự quản lý của nhà nước phải theo pháp luật. Chính phủ hành pháp chỉ hoạt động trên cơ sở của các đạo luật. Việc điều hành đất nước của hành pháp không dựa trên cơ sở của luật pháp là biểu hiện của một nhà nước độc tài, chuyên chế. Mà người có quyền thông qua luật đó lại là Quốc hội, người đại diện của nhân dân. Trong nhà nước dân chủ, Chính phủ - hành pháp luôn luôn đòi hỏi phải có luật để có cơ sở cho Chính phủ điều hành đất nước, tạo nên nhu cầu lập pháp của hành pháp. Sự hợp lý của nhu cầu lập pháp của hành pháp còn thể hiện ở chỗ chính sách thông qua các đề xuất lập pháp mà hành pháp có khả năng triển khai các chủ trương chính sách của đảng cầm quyền nằm trong chương trình tranh cử của họ trước nhân dân. Vì vậy, ở đây rõ ràng là nhu cầu lập pháp nằm trong tay hành pháp chứ không phải hoàn toàn nằm trong tay lập pháp. Trên thực tế không có một phân quyền tuyệt đối giữa lập pháp và hành pháp. Bản thân khái niệm “hành pháp” theo luật của Quốc hội buộc Chính phủ phải có các dự án luật cho Quốc hội. Không những thế, sự ảnh hưởng của Chính phủ - hành pháp sang hoạt động Quốc hội – lập pháp còn vượt ra khỏi chương trình lập pháp của Quốc hội sang tất cả các lĩnh vực khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Thậm chí, trong nhiều trường hợp Chính phủ còn quyết định cả chương trình làm việc của Quốc hội. Đó là kinh nghiệm của nhiều
  • 29. 24 nước phát triển như Pháp, Anh, Mỹ,... Ở Pháp, Quốc hội không có chương trình kỳ họp riêng mà chương trình đó do Chính phủ ấn định. Điều này phải chăng là vi phạm dân chủ? Bởi lẽ nguồn lực và ưu tiên của nhà nước chỉ có một không thể cùng một lúc cùng chia cho Quốc hội lẫn Chính phủ. Những năm gần đây, ở Việt Nam cũng xảy ra xuất hiện việc Chính phủ đã lấn sân sang phần công việc của Quốc hội. Thậm chí, thông qua việc trình các dự án, Chính phủ, các bộ có khả năng cho việc gài các quyền lợi của mình vào các dự án luật. Nhận xét về sự kiện có tính khách quan này và gợi ý cho việc tránh được hậu quả của sự gài các lợi ích của hành pháp vào các dự án luật, trong một Hội thảo gần đây về “Dự án nâng cao năng lực của các cơ quan dân cử”, ông Kevin Deveaux, cố vấn kỹ thuật dự án của UNDP đã nói: “ Việc nếu các Ủy ban tự soạn thảo dự án luật, trình và thẩm tra – như hai Ủy ban của Quốc hội đã làm trong khóa XI cũng là điều tốt, bởi nó thể nghiệm những khả năng có thể đảm đương được một tỷ lệ nhất định nào đó trong đầu vào của các dự án luật. Tránh sự độc quyền tuyệt đối của bên hành pháp. Song tuyệt đại đa số các dự án luật đều do cơ quan hành pháp trình Quốc hội cũng không phải là điều tệ hại, bởi đó là yêu cầu tất yếu của thực tế cuộc sống. Quốc hội không phải là cơ quan điều hành, vì vậy sẽ khó có thể nằm lòng được những gì vướng mắc, những gì cần điều chỉnh để đảm bảo hiệu quả điều hành của cơ quan hành pháp như chính họ được. Vì vậy, cơ quan hành pháp trình dự án luật dường như là đương nhiên, và họ có động lực để làm việc đó. Quốc hội cần quan tâm và cần làm tốt phần việc quan trọng của mình đó là – thẩm tra và thông qua các dự án luật hơn là việc băn khoăn rằng nếu để tỷ lệ quá lớn các dự án luật do các Bộ, ngành trình thì sẽ mờ nhạt đi vai trò “làm luật” theo đúng nghĩa đen của nó. Thay vì lo lắng điều đó, việc tốt hơn nên làm là thẩm định xem các dự án luật khi áp dụng vào cuộc sống thì người dân do đại diện làm đại diện sẽ ảnh hưởng thế nào và phải cân đối giữa lợi ích
  • 30. 25 giữa các đối tượng điều chỉnh của luật để chọn giải pháp tối ưu nhất. Chính từ hoạt động thẩm tra của các Ủy ban được đẩy mạnh, các dự án luật đó mới qua quá trình tương tác giữa các đại biểu, xung đột lợi ích địa phương và trung ương, giữa ngành, giới, dân tộc, ý kiến các chuyên gia, người dân...Đây cũng chính là khâu quan trọng quyết định chất lượng dự án luật [37]. Vậy thì Quốc hội/ Nghị viện vẫn mang danh là cơ quan lập pháp còn lại trách nhiệm chỉnh lý các dự án luật của Chính phủ đệ trình sang theo ý chí người dân, mà Quốc hội/ Nghị viện là người đại diện [42] và là kiểm tra giám sát việc thực thi các chính sách đã được Nghị viện/Quốc hội thông qua. Tất cả những quy định đó đã định hình dần dần trong lịch sử nhà nước Anh quốc, để bảo tồn sự vững chắc sự trị vì của mình mà các nhà Vua Anh quốc đều phải chấp nhận. Chế định chịu trách nhiệm được hình thành trong lịch sử của Anh quốc mà không bằng một đạo luật nào của họ ghi nhận. Mãi về sau này, chế định quan trọng nói trên mới được các Hiến pháp của nhiều nước ghi nhận và chính nó trở thành một nguyên tắc quan trọng bậc nhất của mô hình chính thể đại nghị kể cả của các nền cộng hòa và của cả nền quân chủ lập hiến. Đây cũng là cơ sở pháp lý của việc giải tán Quốc hội và lật đổ Chính phủ mà trả lại quyền thành lập Chính phủ mới của người dân. Đó là tính thống nhất của quyền lực nhà nước mà nhà nước nào cũng cần đến sự thống nhất này. Sự thống nhất này được quy định rất rõ một cách trực tiếp trong Hiến pháp của các nhà nước được tổ chức theo mô hình đại nghị. Với mong muốn có một cách thức tổ chức khác hoàn toàn với những đặc điểm cơ bản của nhà nước đại nghị và được quy định một cách gián tiếp trong Hiến pháp của các nhà nước tổ chức theo mô hình tổng thống. Sự thống nhất quyền lực nhà nước thể hiện qua sự thống nhất giữa lập pháp và hành pháp mà chủ yếu là thống nhất vào hành pháp – Chính phủ.
  • 31. 26 Đằng sau Chính phủ chính là ban lãnh đạo của đảng cầm quyền. Trong nhận thức của chính trị học, người ta thống nhất rằng đảng cầm quyền là đảng nắm hành pháp chứ không phải là đảng nắm lập pháp hoặc tư pháp. Thông qua hoạt động của hành pháp mà các đảng cầm quyền chi phối các hoạt động của lập pháp và tư pháp. Còn cành quyền lực tư pháp thể hiện ở việc các tòa án thông qua các thẩm phán phải có trách nhiệm trong phán xử các hành vi vi phạm pháp luật đã được Quốc hội – lập pháp thông qua, theo đề nghị của hành pháp. Sự không thống nhất giữa các cành quyền lực nói trên là nguy cơ của sự thay đổi cơ cấu quyền lực nhà nước, hoặc chí ít là thay đổi thành phần Chính phủ - hành pháp. Các hình thức tổ chức và kiểm soát có thể được phân định gồm: Kiểm soát bên trong và kiểm soát bên ngoài. Kiểm soát bên ngoài bao gồm các biện pháp có tác động từ bên ngoài gồm: Kiểm soát bằng lãnh thổ, kiểm soát bằng các điều ước quốc tế và quan hệ quốc tế, kiểm soát bằng tự do ngôn luận, tự do báo chí, kiểm soát bằng sự tự trị của chủ thể hợp thành nhà nước...Kiểm soát bên trong bao gồm các biện pháp tự nhiên, mặc nhiên xuất phát từ những nội lực bên trong có thể bao gồm: kiểm soát bằng đạo đức, tâm lý, thần quyền, kiểm soát quyền lực bằng phân công, phân quyền, kìm chế và đối trọng giữa các cành quyền lực, bằng bầu cử...Trong tất cả các loại hình kiểm soát quyền lực nhà nước thì kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong là quan trọng nhất và cũng là hiệu quả nhất, đồng thời cũng ít tốn kém nhất. Quyền lực nhà nước được quy định trong Hiến pháp để buộc người sử dụng quyền lực phải tuân thủ. Chính vì lẽ đó cho nên nhiều nhà nước quan tâm và sử dụng rộng rãi các loại hình kiểm soát này. Nội dung căn bản của kiểm soát là sự tổ chức phân công, phân nhiệm, tức là sự phân quyền giữa các cơ quan nắm giữ quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước như là lý do của sự phân quyền. Sự phân quyền và
  • 32. 27 kìm chế đối trọng quyền lực có thể được phân thành hai loại cơ bản: Phân quyền ở chiều ngang và phân quyền ở chiều dọc. Phân quyền ở chiều ngang là phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phân quyền theo chiều dọc: Quyền lực nhà nước được chế ước bằng việc phân quyền cho địa phượng và việc công nhận chế độ tự tri của chính quyền địa phương. Phân quyền theo chiều ngang giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp là quan trọng nhất. Đây cũng là trọng tâm của việc tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của bất kể nhà nước nào. Tiêu điểm của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là Chính phủ - hành pháp phải chịu trách nhiệm – tiêu điểm của kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trọng. Sở dĩ như vậy, bởi vì trong tất cả các bộ phận cấu thành nên quyền lực nhà nước kể từ lập pháp cho đến hành pháp và kể cả tư pháp, chỉ có hành pháp là thể hiện nguyên hình bản chất nhà nước nhất. Tất cả các quyền hành từ lập pháp cho đến tư pháp đều được chia ra từ quyền tập trung của nhà Vua mà ra. Quyền hành pháp là quyền còn lại sau khi đã được phân chia cho lập pháp cho tư pháp. Chính phủ - hành pháp phải chịu trách nhiệm bởi vì hành pháp là cơ quan duy nhất nắm cả biên chế, nắm cả ngân sách [17]. Kiểm soát quyền lực nhà nước không những chỉ được hiểu ở nghĩa chế ước phạm vi hoạt động của chính quyền, mà còn được hiểu ở nghĩa chính quyền phải chịu trách nhiệm về những hành vi hoạt động của các quan chức nhà nước. Có ba loại Chính phủ phải chịu trách nhiệm tương ứng với hai loại phân quyền: (i) Phân quyền mềm dẻo, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước một Quốc hội – một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhà nước tổ chức theo chế độ đại nghị; (ii) Phân quyền cứng rắn, Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Quốc hội mà phải chịu trách nhiệm trước nhân dân – một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của các nhà nước tổ chức theo chế độ tổng thống; (iii) Phân quyền hỗn hợp: Chính phủ hành pháp không phải chịu
  • 33. 28 trách nhiệm trước Quốc hội, mà còn phải chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Bên cạnh đó, như chế độ Tổng thống, Tổng thống – người đứng đầu nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm trước cử tri. Đây là một hình thức khác, thứ ba của mô hình tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước. [38] Sự kiểm soát quyền lực nhà nước của các mô hình nói trên tăng tỷ lệ thuận với mức độ phân quyền. Sở dĩ sự kiểm soát quyền lực nhà nước của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ được đánh giá rất cao, vì ở đó có sự phân quyền một cách mạnh mẽ hơn các mô hình phân quyền khác của chế độ đại nghị và của chế độ lưỡng tính. Sự kiểm soát mạnh mẽ ở đây thể hiện ở chỗ: Tổng thống – hành pháp không được quyền trình dự án luật trước Quốc hội – lập pháp; Tổng thống và các bộ trưởng không được kiêm nhiệm cả nhiệm vụ của lập pháp – nghị sỹ. Sự phân quyền còn được thể hiện bằng một hệ thống kìm chế và đối trọng, lấy cành quyền lực nọ kiểm soát cành quyền lực kia. Việc tổ chức quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước phải được quy định trong Hiến pháp của các quốc gia. Hai bộ phận trên gắn bó chặt chẽ với nhau không thể tách rời, như hai mặt của một tấm huân chương. Hiến pháp của Việt Nam cũng có những điều khoản quy định những vấn đề nêu trên, tuy nhiên mối quan hệ phân công thể hiện qua sự kiểm soát và đối trọng giữa các quyền vẫn còn rất mờ nhạt. Sự hiện diện của Hiến pháp, sự thực thi Hiến pháp và việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp tạo nên tính thống nhất của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước khi đã được hình thành thì phải cần đến những thể chế, cơ chế cụ thể mới vận hành được. Những thể chế, cơ chế này được biểu hiện bằng việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước; đó là cách thức tổ chức, cấu trúc quyền lực nhà nước thống nhất thành các bộ phận khác nhau, nhằm thực hiện những chức năng khác nhau, thiết lập sự ràng buộc hợp lý trên cơ sở luật pháp để cho quyền lực nhà nước vận hành hiệu quả, đảm bảo
  • 34. 29 tính thống nhất cũng như thực hiện được mục tiêu của quyền lực nhà nước. Từ trước đến nay, cách thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước thường xoay quanh hai phương thức căn bản: tập trung quyền lực và phân chia quyền lực. Nội dung của hai phương thức căn bản này chính là việc sắp xếp, cấu trúc các thể chế quyền lực khác nhau cũng như thiết lập mối quan hệ giữa chúng trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong cơ cấu quyền lực nhà nước, quyền lập pháp là quyền làm ra luật, thể hiện ý chí quốc gia, ý chí nhân dân; quyền hành pháp là quyền tổ chức thi hành ý chí ấy trong cuộc sống; quyền tư pháp là để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm và giải quyết những tranh chấp về mặt pháp lý. Như vậy, trong bản tính của nó, quyền lực nhà nước luôn là một thể thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các bộ phận này của quyền lực nhà nước có quan hệ mật thiết với nhau và luôn bị ràng buộc với luật pháp. Trong Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi năm 2001), nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [49, Điều 2] là nguyên tắc cơ bản chi phối việc thiết kế vận hành của các thiết chế quyền lực cũng như những cải cách, đổi mới bộ máy nhà nước. Theo tinh thần của nguyên tắc này, quyền lực nhà nước được cấu trúc thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền lập pháp được giao cho Quốc hội, quyền hành pháp được trao cho Chính phủ và quyền tư pháp do các cơ quan tư pháp (mà chủ yếu là Tòa án và Viện kiểm sát) đảm nhiệm. Sự phân định quyền lực nhà nước thành các bộ phận khác nhau như vậy được thể hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, trước hết là nhằm mục đích phân công lao động quyền lực, chuyên môn hóa hoạt động thực thi quyền lực, từ đó làm tăng hiệu quà của mỗi nhánh quyền lực trong việc thực hiện những chức năng được giao, vừa khắc phục tình trạng quyền lực được tập trung quá mức vào
  • 35. 30 một cơ quan cụ thể, đồng thời hạn chế sự chồng chéo lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tiễn vận hành của mô hình quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay cho thấy, nếu chỉ có sự phân công, phối hợp quyền lực không thôi thì chưa đủ, mà để đảm bảo tính thống nhất của quyền lực cũng như hiệu lực, hiệu quả của nó trong thực tế, cần thiết phải thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực, mà cơ chế kiểm soát hiệu quả nhất chính là sự kiểm soát lẫn nhau của các thiết chế quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao trước đây chúng ta chỉ chấp nhận sự phân định quyền lực của lý thuyết phân quyền, thì trong Đại hội XI (năm 2011) vừa qua, Đảng ta đã thừa nhận sự cần thiết phải thiết lập cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là một bước chuyển lớn về nhận thức trong việc thừa nhận và vận dụng hạt nhân cốt lõi của lý thuyết phân quyền, nó vượt qua những rào cản định kiến chính trị để đi đến thừa nhận giá trị chung, phổ biến của nhân loại. Có thể thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay chưa thực sự hiệu quả. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), sự kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước chỉ thể hiện một chiều của cơ chế tập trung quyền lực, đó là việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp, tư pháp và không có sự kiểm soát lẫn nhau giữa hành pháp và tư pháp. Hơn nữa, trong lúc hiệu lực và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội còn thấp thì ngay bản thân Quốc hội lại chưa có cơ chế hữu hiệu để kiểm soát hoạt động của mình. Chính vì vậy, việc chuyển từ cơ chế kiểm soát quyền lực mang tính một chiều từ trên xuống của cơ chế tập trung quyền lực sang cơ chế kiểm soát mang tính “đối trọng” giữa các bộ phận khác nhau của quyền lực nhà nước là
  • 36. 31 một trong những đòi hỏi tất yếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, nhằm làm cho quyền lực nhà nước được kiểm soát một cách hiệu quả hơn. Nội dung của cơ chế kiểm soát này đòi hỏi việc xác định tập hợp các quyền và trách nhiệm do pháp luật quy định làm cơ sở để các nhánh quyền lực thực hiện kiểm soát lẫn nhau. Nó tạo lập mối quan hệ chính trị - pháp lý giữa các bộ phận quyền lực sao cho các bộ phận đó có thể độc lập thực thi nhiệm vụ bằng những thẩm quyền pháp lý của mình, đồng thời có thể ngăn chặn được sự lạm quyền của một bộ phận quyền lực nào trong hệ thống. Như vậy, tinh thần dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực đã được Đảng ra thừa nhận và trở thành quan điểm chỉ đạo trong thiết kế mô hình quyền lực giai đoạn sắp tới. Theo tinh thần đó, phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực có quan hệ chặt chẽ với nhau, phân công quyền lực là tiền đề cho kiểm soát quyền lực. Phân công để xác định rõ chức năng, thẩm quyền của mỗi bộ phận quyền lực. Nếu không có phân công rõ ràng, cụ thể thì các bộ phận quyền lực không thể kiểm soát nhau được; còn việc kiểm soát lân nhau giữa các bộ phận quyền lực nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng chức năng, thẩm quyền đã được Hiến pháp và pháp luật trao cho, đảm bảo sự thống nhất của quyền lực nhà nước. 1.2.2. Hiến pháp kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc bảo đảm cho nhân quyền không bị vi phạm Xét đến cùng hiến pháp có mục tiêu là bảo vệ quyền con người. Chỉ có trong chế độ chính trị của chủ nghĩa tư bản vấn đề quyền con người mới được đặt ra như là một yêu cầu cấp bách của đời sống xã hội. Các chế độ chính trị trước chế độ tư bản đều không tồn tại một văn bản quy định các chế độ chính trị cũng như không có bản tuyên bố nhân quyền. Các chế độ chính trị trước chủ nghĩa tư bản đều là các chế độ chuyên chế không có quyền con người và không có hiến pháp. Hay nói cách khác cuộc đấu tranh ấy chưa đủ những điều
  • 37. 32 kiện của sự chín muồi cho sự ra đời của cả bản văn hiến pháp lẫn bản tuyên ngôn nhân quyền. Nhà nước lúc đó chỉ gắn liền với chế độ quân chủ chuyên chế, người dân vẫn chỉ được phép gánh vác nghĩa vụ, mà không được hưởng quyền lợi, cũng như sự ràng buộc chính quyền trong việc phải bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cho con người, và tất nhiên lại càng không được tham gia vào các công việc nhà nước- không có tự do chính trị. Việc đảm bảo nhân quyền cần có cả bản hiến văn quy định chế độ chính trị, lề lối tổ chức hoạt động của chính quyền – nhà nước, có tác dụng kiểm soát quyền lực nhà nước và cần có cả bản tuyên ngôn nhân quyền. Hoặc chí ít trong nội dung của hiến pháp phải có quy định về nhân quyền. Hay nói một cách khác vừa phải có nhân quyền và vừa phải có hiến pháp quy định việc tổ chức chính quyền. Hai thứ này đều có mục tiêu chung bảo vệ nhân quyền, và cùng có hiệu lực tối cao trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia [17]. Vấn đề nhân quyền luôn luôn đi kèm và không thế thiếu được vấn đề bảo vệ nhân quyền. Một mặt phải chỉ ra, tức là ghi nhận cho rõ và đầy đủ tất cả các quyền con người có thể có, để con người cần phải biết mà có thể thụ hưởng và ngăn chặn ngay sự vi phạm chính những quy định quyền con người đã được ghi nhận ra từ bất kỳ chủ thể nào. Một mặt khác phải ngăn ngừa ngay từ trước sự có thể vi phạm đến quyền con người của một chủ thể quan trọng nhất đó là Nhà nước; một khi các quyền đó bị vi phạm cần phải có những biện pháp trừng trị những chủ thể vi phạm và cũng cần có những biện pháp khôi phục lại những quyền đó, đồng thời cũng nhấn mạnh nghĩa vụ, trách nhiệm phải bảo vệ nhân quyền từ phía Nhà nước. Hai mặt này gắn liền với nhau và cùng cần phải được ghi nhận bằng một bản văn có một hiệu lực pháp lý tối cao trong hệ thống pháp luật của quốc gia. Đó là Hiến pháp. Khác với các chủ thể khác trong xã hội, nhà nước do con người thành
  • 38. 33 lập ra được giao một nhiệm vụ quan trọng nhất là bảo vệ con người, đồng thời cũng lại được giao nhiệm vụ kết tội con người: Nên nhà nước cũng phải đứng ra bảo vệ con người trước khi bị kết tội. Vì trước khi kết được tội họ vẫn là một con người chưa có tội. Vì lẽ con người là quý giá nhất, nên không thể có lý rằng, “bắt nhầm còn hơn bỏ sót”, mà phải là, thà “bỏ lọt còn hơn bắt nhầm”. Bản thân trong nhà nước cùng một lúc phải thi hành đồng thời hai nhiệm vụ trái ngược nhau, vừa không bỏ lọt tội phạm để bảo vệ an ninh cho xã hội, đồng thời lại không thể bắt oan người vô tội. Cho nên việc bắt giam, việc xét xử, việc điều tra phải được tiến hành theo một trình tự tố tụng nhất định. Mục tiêu của trình tự này là bảo vệ bị can, bị cáo mà không phải làm cho những người thay mặt nhà nước tiến hành các thủ tục này một cách dễ dàng hơn, để có nguy cơ làm oan người vô tội. Quyền được công bằng trước pháp luật hay nói cách khác là được bảo vệ ngang nhau là trong những yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Cho dù giàu hay nghèo, thiểu số, tôn giáo hay là dân tộc đa số, liên minh chính trị hay là đối lập đều được pháp luật bảo vệ như nhau. Nhà nước dân chủ không đảm bảo rằng, mọi con người đều được cuộc sống xã hội đối xử một cách công bằng, vì vốn dĩ con người sinh ra đã hàm chứa một cách tự nhiên sự bất bình đẳng giữa họ. Nhưng cuộc sống đòi hỏi nhà nước phải giải quyết công bằng giữa mọi người. Một nhà nước dân chủ theo đúng nghĩa của từ này là nhà nước từ khi thành lập ra các cơ cấu cho đến khi quyết định các chủ trương, chính sách và pháp luật nhà nước phải tuân theo nguyên tắc đa số, nhưng phải tính đến quyền lợi của thiểu số; khi thi hành và nhất là khi bảo vệ thì lẽ đương nhiên lại phải tính đến quyền lợi của từng cá nhân, với mục đích ngăn ngừa sự bất bình đẳng, sự oan sai cho từng trường hợp cá nhân cụ thể. Vấn đề nhân quyền được quy định dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhân quyền có thể được quy định trong một văn bản riêng gọi là bản Tuyên
  • 39. 34 ngôn nhân quyền hoặc nhân quyền được quy định thành chương điều trong nội dung của Hiến pháp. Đôi khi nhân quyền nằm trong nội dung của bản phụ trương của hiến pháp, như 10 tu chính án của nước Mỹ. Tất cả tựu chung lại đều nhằm làm nổi bật nội dung cơ bản về nhân quyền đó là quy định những quyền thiết yếu nhát của con người: đó là quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc… Đó là những quyền tự do chính trị, quyền tự do cá nhân như: ngôn luận, tín ngưỡng, cư trú; quyền bất khả xâm phạm nơi cư trú, quyền bất khả xâm phạm thân thể,… Bảo đảm nhân quyền vừa là mục đích vừa là cách thức để kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền có mục tiêu đảm bảo quyền tự do của con người, đối lập với nhà nước bạo lực. Nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ đảm bảo tự do của con người. Pháp luật phải thể hiện là pháp luật của công lý, của lý trí và phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người. Nhà nước được xây dựng trên nền tảng của xã hội công dân. Một xã hội mà ở đó công dân là chủ thể, nhà nước có trách nhiệm phải phục tùng lợi ích của công dân mà không có điều ngược lại. Pháp luật phải đứng trên nhà nước và nhà nước phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Để bảo đảm cho tính chất này nhà nước pháp quyền phải nêu cao vị trí vai trò của tòa án. Tính độc lập của tòa án được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Chỉ có tòa án mới có chức năng phán xét các tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được thành lập từ đa số nhưng lại phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của những người yếu, của thiểu số, cá nhân [17]. Một nhà nước tốt phải có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của thiểu số. Vì vậy một bản Hiến pháp tốt không thể không tính đến quyền lợi của thiểu số. Đó cũng là một trong những yêu cầu nhân bản của một bản Hiến văn. Hiến pháp Việt Nam thể hiện ở việc thành lập ra các cơ cấu Hội đồng dân tộc trong Quốc hội, hay là Ủy ban các dân tộc và miền núi của Chính phủ…
  • 40. 35 Nhân quyền trong một trường hợp cụ thể, không thể nào là khác hơn như là việc bảo vệ quyền lợi của các cá nhân và của những nhóm người thiểu số trước sự lấn át của đa số. Những quy định thể hiện nguyên tắc này trong hiến pháp sẽ góp phần tạo ra một hàng rào không thể vượt qua được của bất kể chính sách nào chỉ dựa trên ý chí của đa số, mà không tính đến quyền lợi của thiểu số. Ví dụ như quyền hoãn bỏ phiếu thông qua một quyết định mà họ không đồng ý của thiểu số, hoặc quyền được bảo lưu của thiểu số… Không như một số nhà nước tư bản điển hình, các nước xã hội chủ nghĩa không có một bản tuyên ngôn nhân quyền riêng. Trong những nội dung cơ bản của Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa không có những quy định về nhân quyền hay đảm bảo về nhân quyền mà được thay bằng những quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa đều nhất quán khẳng định: “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là vì con người, vì hạnh phúc nhân dân, Vì vậy, quyền con người, quyền công dân là cái thuộc về bản chát của nhà nước kiểu mới, là ngọn cờ đích thực của chủ nghĩa xã hội” [22]. Như vậy, quyền con người trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa về nguyên tắc càng phải được đảm bảo tốt hơn. Nhưng rất tiếc rằng vì nhiều lý do khác nhau về mặt chủ quan và cả mặt khách quan, vấn đề nhân quyền không được các nhà nước xã hội chủ nghĩa quan tâm một cách thích đáng. Điều đó được thể hiện ở chỗ, không một nhà nước nào trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước kia có một bản tuyên ngôn nhân quyền riêng, và trong các văn bản hiến pháp của mình vấn đề nhân quyền cũng rất hiếm khi được nhắc tới một cách đậm nét xứng đáng với vị trí của nó. Nội dung chính của nhân quyền, quyền con người được hiến pháp và pháp luật các nước xã hội chủ nghĩa thể hiện thành quyền công dân. Một trong những nguyên nhân của vấn đề như đã nêu ở phần trên, là trong cả một thời gian dài chúng ta
  • 41. 36 đã ngộ nhận rằng, nhân quyền chỉ là một vấn đề thuần túy của chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến, mà không thuộc phạm trù của chủ nghĩa xã hội cần phải giải quyết. Thứ đến là việc hình thành nên chế độ xã hội chủ nghĩa với một loạt các nước thường gắn với công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi chế độ ngoại xâm. Trong cuộc đấu tranh này vấn đề nhân quyền – quyền con người được gắn liền cuộc giải phóng dân tộc và vấn đề chủ quyền công dân. Vì lẽ đó, nhiều người cho rằng ở các nước xã hội chủ nghĩa trước kia và hiện nay không có quy định về vấn đề nhân quyền cũng là một vấn đề không hoàn toàn đúng.
  • 42. 37 Chương 2 KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2013 2.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1946 Các quy định của Hiến pháp năm 1946 đã có những yếu tố nhất định thể hiện cơ chế phân công quyền lực thể hiện rõ vai trò kiểm soát quyền lực Nhà nước của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 là bản hiến văn ghi nhận thành quả Cách mạng tháng 8 năm 1945 của toàn thể nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chủ tịch. Nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử cách mạng của mình nên nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Chính từ cội nguồn sâu xa ấy, Hiến pháp ghi nhận: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [49]. Quy phạm Hiến pháp này một mặt đã khẳng định nguồn gốc của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực, mặt khác khẳng định sự thống nhất của quyền lực nhà nước – quyền lực nhân dân. Sự ghi nhận này của Hiến pháp 1946 về quyền lực nhân dân là mốc lịch sử quan trọng về cách tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam, chấm dứt thời kỳ dài trong lịch sử đất nước: “Quyền lực tập trung trong tay nhà vua, vua là con trời, vua là tất cả”, chuyển sang thời kỳ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Thuật ngữ “quyền bính” trong bối cảnh điều này của Hiến pháp được hiểu với hai nghĩa của nó: quyền bính là quyền lực, quyền bính là quyền tự quyết của nhân dân về vận mệnh, số phận của mình, còn thuật ngữ “nhân dân” được hiểu một cách đầy đủ nhất của từ này, bao gồm tất cả mọi công dân, không phân biệt
  • 43. 38 dân tộc, giới tính, giai cấp, tầng lớp, tôn giáo. Quan điểm Hiến pháp này là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng đời sống nhà nước và đời sống xã hội “xây nền độc lập trên nền nhân dân” với đầy đủ nhất của từ “nhân dân”. Với logic “mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân” nên trong thành phần Quốc hội đầu tiên của nước ta có đầy đủ mọi thành phần giai cấp, tầng lớp, đảng phái chính trị. Chính quan điểm này đã tạo nên sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Như vậy, ngay từ đây đã chính thức hình thành, xác lập một quan điểm mới về quyền lực nhân dân trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam. Về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 1946 không chọn nguyên mẫu cách tổ chức quyền lực theo mô hình của bất kỳ nhà nước nào, mà có cách tiếp cận sáng tạo, toàn diện cả về khía cạnh chính tri, xã hội và khía cạnh kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Từ quan điểm “tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân Việt Nam” nên cơ quan đại diện của nhân dân được khẳng định là cơ quan có quyền cao nhất. Hiến pháp quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” [49, Điều 22]. Chỉ với quy định này đã thấy Hiến pháp năm 1946 đi theo hướng đề cao vị thế của Nghị viện với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, trong tương quan với các nhánh quyền lực hành pháp và tư pháp tính trội thuộc về Nghị viện. Nhưng nếu chỉ dừng ở đây, có thể nhầm là Hiến pháp năm 1946 đi theo chế độ đại nghị - chế độ tính trội thuộc về cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Với vị thế là cơ quan có quyền cao nhất nên Nghị viện nhân dân lập ra Chính phủ bao gồm: Chủ tịch nước và nội các, Nội các gồm Thủ tướng, có thể có Phó thủ tướng … Thủ tướng là người đứng đầu Nội các được bầu từ số các nghị viên. Theo logic này thì chính phủ, chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện nhân dân nhưng Hiến pháp không đi theo hướng đó
  • 44. 39 mà đi theo hướng hỗn hợp giữa chế độ đại nghị và chế độ Tổng thống với cơ chế ưu thế thuộc về Chủ tịch nước. Điều này thể hiện tại Điều 50: “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc” [49, Điều 50]. Hiến pháp năm 1946 đã áp dụng những nguyên lý cơ bản của thuyết phân quyền ở khía cạnh kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Ngày nay trong nhiều ấn phẩm khoa học nước ngoài và cả trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới đều khẳng định nguyên tắc “phân quyền” hay “phân lập các quyền” lập pháp, hành pháp, tư pháp và đều coi đó là nguyên tắc căn bản của nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1946 tuy không trực tiếp ghi nhận nguyên tắc này, nhưng tư tưởng này đã thể hiện rất rõ nét trong nhiều quy định. Ví dụ: Điều 22 nêu rõ: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa”. Điều 43 quy định: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa”. Theo Điều 63: “Cơ quan tư pháp của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp” [49]. Như vậy, trong cơ cấu quyền lực gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mỗi nhánh quyền lực do một loại thiết chế nhà nước thực hiện. Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện nhân dân; quyền hành pháp thuộc Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về các tòa án. Từ những quy định này, có thể rút ra hai nhận định quan trong: Thứ nhất, Hiến pháp bảo đảm tính độc lập của quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thứ hai, sự khẳng định có tính nguyên tắc là các cơ quan: Nghị viện, Chính phủ và Tòa án đều là những cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước nắm một bộ phận quyền lực nhà nước. Chính những quy định này đã thể hiện sự phân công lao động quyền lực giữa các cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước khá rạch ròi.