Download luận án tóm tắt ngành quản lí giáo dục với đề tài: Những tương quan trong năng lực sư phạm của giảng viên các trường kinh tế tỉnh Thái Nguyên, cho các bạn tham khảo
Tương quan trong năng lực sư phạm của giảng viên kinh tế, HAY
1. ĐẠI HỌC TỔNG HỢP NAM LUZON ĐẠIHỌCTHÁINGUYÊN
Cộng hòa Philippin Cộng hòa XHCN Việt Nam
NCS: NGUYỄN THỊ MINH THU
NHỮNG TƯƠNG QUAN TRONG NĂNG LỰC SƯ
PHẠM CỦA GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG KINH TẾ
TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN, 2014
2. 2
Chương trình được thực hiện tại:
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Teresita V. De La Cruz
Phản biện 1:..............................................................................
Phản biện 2:..............................................................................
Phản biện 3:..............................................................................
Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án cấp đại học
họp tại:......................................................................................
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm luận án tại:
- Thư viện quốc gia
- Trung tâm học liệu, Đại học Thái Nguyên
- Thư viện Trung tâm Đào tạo và Phát triển Quốc tế
- Thư viện trường đại học tổng hợp Southern Luzon, Philippin.
3. 24
vào các khóa đào tạo, hội thảo, và đạt trung bình về kết quả đánh giá
giảng viên.
5.3.2. Giảng viên tự cảm thấy mình khéo léo và hiểu biết
trong việc chuẩn bị và thực hiện các bài giảng, quản lý lớp học, và
đánh giá sinh viên.
5.3.3. Tuổi, hộ tịch, thâm niên giảng dạy và kết quả đánh giá
giảng viên ảnh hưởng chủ yếu đến năng lực sư phạm của giảng viên
trong khi trình độ học vấn chỉ quyết định ở mức độ ít đến kỹ năng
quản lý lớp học của giảng viên.
5.3.4. Chương trình phát triển năng lực để nâng cao năng lực
sư phạm của giảng viên đã sẵn sàng để thực hiện bước đầu.
5.3.5. Chương trình phát triển năng lực được khen ngợi để
nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên.
5.4. Khuyến nghị
Các nhà quản lý giáo dục cũng có thể sử dụng phương pháp,
công cụ và bảng câu hỏi để tiến hành đánh giá năng lực sư phạm của
giảng viên. Chương trình phát triển năng lực có thể được tăng cường
hơn nữa để phù hợp với nhu cầu của giảng viên. Chương trình phát
triển năng lực có thể được thực hiện bởi các trường cao đẳng đã tham
gia khảo sát. Chương trình phát triển năng lực có thể được áp dụng
bởi các trường cao đẳng khác có cùng yêu cầu về nghiệp vụ sư phạm.
1
Chương I
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Năng lực sư phạm đã được coi như là một tập hợp các hành
vi tiềm năng cho phép thể hiện năng lực hiệu quả của một hoạt động,
hoặc là tiêu chuẩn nghiệp vụ tối thiểu, thường theo quy định của
pháp luật, trong đó các nhà chuyên môn cần đạt được. Vì vậy, việc
đầu tiên được đưa vào xem xét là các nguồn lực được sử dụng trong
quá trình giáo dục ban đầu và là cơ sở cho sự phát triển năng lực.
Cách tiếp cận này liên quan đến năng lực sư phạm như "khả năng của
một cá nhân để phối hợp của các nguồn lực hữu hình và vô hình để
đạt được hiệu quả trong giáo dục" (Madhavaram, 2010).
Nói chung năng lực sư phạm bao gồm chuẩn bị cho việc giảng
dạy, trình bày bài giảng, quản lý lớp học, và đánh giá sinh viên.
Shrestha (2008) khẳng định rằng các giáo viên có năng lực không
những cần làm chủ nội dung mà còn phải có năng lực sư phạm.
Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003) trích dẫn rằng phương pháp sư phạm là
nghệ thuật giảng dạy đem lại hiệu quả trong giảng dạy-học tập.
Phương pháp sư phạm tốt thúc đẩy thành tích của sinh viên và xây
dựng sự tự tin của giảng viên trong giảng dạy. Nó góp phần nâng cao
chất lượng học tập và giảng dạy.
Các giáo viên cần phải giỏi kiến thức chuyên môn có nghĩa
là giáo viên phải có kiến thức sâu sắc về môn học mà họ giảng dạy,
luôn luôn cập nhật và bổ sung kiến thức mới hay cải tiến và nâng cao
kiến thức của họ. Theo Srutirupa (2012), giáo viên phải phát triển
cũng như nâng cao năng lực sư phạm để quyết định chất lượng giảng
dạy và kỹ năng nghề nghiệp của họ. Năng lực sư phạm là rất quan
4. 2
trọng trong việc quyết định hiệu quả của quá trình lao động sáng tạo
của nghề dạy học. Nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên được
xem là một giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực (Ryegard, Orisson, Apelgren, và Eriksson, 2010).
1.1. Bối cảnh của nghiên cứu
Hầu hết giảng viên trong các trường cao đẳng Kinh tế đều tốt
nghiệp từ các trường đại học Kinh tế. Ở Việt Nam, các trường đại
học và cao đẳng không bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên
(trừ các trường đại học và cao đẳng sư phạm). Trước khi trở thành
giảng viên, họ tham gia vào khoá học chuẩn hóa năng lực sư phạm,
nhưng thời gian không đủ để họ nâng cao năng lực sư phạm của
mình.
Do đó, giảng viên có một số hạn chế về phát triển năng lực
sư phạm của họ. Một số giảng viên không quan tâm đến đổi mới
phương pháp giảng dạy và họ vẫn theo phương pháp “thầy đọc trò
ghi” Giảng viên đôi khi chỉ chú trọng đến những kiến thức giảng dạy
cho học sinh mà không hướng dẫn phương pháp để học sinh tự học
và tự nghiên cứu. Khả năng lập kế hoạch cho bài giảng hàng ngày
của họ vẫn cần cải thiện để thúc đẩy sự sáng tạo và tính chủ động của
sinh viên. Thêm vào đó là những khó khăn trong nghệ thuật đặt câu
hỏi, không có khả năng giao tiếp tốt với sinh viên, xử lý vấn đề kỷ
luật. Khả năng ứng dụng máy tính và công nghệ thông tin của giảng
viên vẫn cần tăng cường.
Đánh giá các hoạt động trong lớp học và thành tích cá nhân
của sinh viên cũng là một thách thức đối với giảng viên. Họ chú ý
đến phương pháp đánh giá truyền thống nhiều hơn là khám phá năng
23
chuẩn bị cho việc giảng dạy có giá trị r của 0,007 (α = 0,935) , trình
bày bài học với giá trị r của - 0,101 (α = 0,241) và đánh giá sinh viên
với giá trị r = - 0,072 (α = 0,402) không có mối quan hệ có ý nghĩa
với trình độ học vấn của người trả lời ; Thâm niên giảng dạy có mối
tương quan cao với sự chuẩn bị cho việc giảng dạy có giá trị r của
0,796 (α = 000) , trình bày bài học và đánh giá sinh viên với 0,674 (α
= 000), và quản lý lớp học với giá trị r của 0,576 (α = 000) ; Hội thảo
và tập huấn đã tham dự không có tương quan đáng kể với sự chuẩn bị
cho việc giảng dạy có giá trị r của - 0,049 (α = 0,569 , quản lý lớp
học với giá trị r của - 0,063 (α = 0,468) , trình bày bài học có giá trị r
của 0,029 (α = 0,735) và đánh giá sinh viên với giá trị r của - 0,043
(α = 0,622); Kết quả đánh giá giảng viên có tương quan thấp với sự
chuẩn bị cho việc giảng dạy với giá trị r của 0,401 (α = 000) , quản lý
lớp học với giá trị r của 0,325 (α = 000) , trình bày bài học có giá trị r
của 0,393 (α = 000) và đánh giá sinh viên với giá trị r của 0,348 (α =
000).
5.2.4. Chương trình phát triển năng lực để nâng cao năng lực
sư phạm của giảng viên đã được đề xuất.
5.2.5. Chương trình phát triển năng lực được chấp nhận cao
theo các thông số sau: Nội dung với 3,33 AWM; Chiến lược với 3,36
AWM; và kinh phí cho chương trình với 3,26 AWM.
5.3. Kết luận
Dựa trên những phát hiện nói trên, các kết luận sau đây đã
được rút ra:
5.3.1. Đa số các giáo viên là nữ, kết hôn, tương đối trẻ, mới
tham gia giảng dạy, có bằng cử nhân và có số lần đáng kể tham gia
5. 22
trở lên, 9 hoặc 6,62% từ 22 đến 28 năm, và 8 hoặc 5,88% từ 15-21
năm; Trình độ học vấn trong đó 58 hoặc 42,65 % có bằng cử nhân,
57 hoặc 41,91 % có bằng thạc sĩ, 15 hoặc 11,03 % cao học, và 6 hoặc
4,41 % nghiên cứu sinh; Hội thảo / khóa đào tạo đã tham dự trong đó
69 hoặc 50,74 tham dự 7-9 lần, 34 hoặc 25% từ 4 đến 6 lần, 27 hoặc
19,85% từ 1 đến 3 lần, và chỉ có 6 hoặc 4.41 % tham dự hội thảo và
tập huấn trên 10 lần. Kết quả đánh giá giảng viên trong đó 85 hoặc
63% rơi vào mức đánh giá trung bình , sau đó là 19 hoặc 14% những
người được đánh giá cao, 18 hoặc 13% với đánh giá thấp, trong khi
số còn lại 14 hoặc 10% được đánh giá rất thấp.
5.2.2. Các giảng viên có năng lực sư phạm theo các lĩnh vực
sau: Chuẩn bị cho việc giảng dạy được đánh giá 2,88 AWM; Quản lý
lớp học được đánh giá 2,70 AWM; Trình bày bài học với 2,83
AWM; và đánh giá của học sinh với 2,81 AWM.
5.2.3. Mối quan hệ tồn tại giữa hồ sơ của giảng viên và năng
lực sư phạm của họ như sau: Tuổi có mối tương quan cao với α =
001 với sự chuẩn bị cho việc giảng dạy (0,786) , đánh giá sinh viên
(0,762) , trình bày bài học (0,743) và quản lý lớp học (0,669) ; Giới
tính không có tương quan với sự chuẩn bị cho việc giảng dạy có giá
trị r của 0,006 (α = 0,943), quản lý lớp học với r = - 0,004 (α = 964),
trình bày bài học với r = 0,149 (α = 084), đánh giá sinh viên (CRAS)
với r = 0,033 (α = 0,702) ; Hộ tịch có tương quan thấp với sự chuẩn
bị cho việc giảng dạy có giá trị r của 0,274 (α = 001) , quản lý lớp
học với r = 0,327 (α = 000) , trình bày bài học với r = 0,211 (α = 014)
và đánh giá sinh viên với r = 0,312 (α = 000); Trình độ học vấn
tương quan duy nhất với quản lý lớp học nhưng sự tương quan đáng
kể với giá trị r của -0,169 tại α = 0,049 trong khi năng lực còn lại như
3
lực cá nhân của sinh viên trong việc tham gia vào các hoạt động
khác. Trong khi đó, yêu cầu của đổi mới kiểm tra đánh giá là phải áp
dụng đa dạng các hình thức đánh giá.
Nhận thức được các vấn đề trên, nhà nghiên cứu mong muốn
xác định được những tương quan về năng lực sư phạm của giảng
viên trong các trường cao đẳng Kinh tế tỉnh Thái Nguyên để đề xuất
chương trình phát triển năng lực nhằm nâng cao năng lực sư phạm
cho giảng viên và đáp ứng các yêu cầu của giáo dục quốc gia nói
chung và giáo dục cao đẳng nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu những tương quan về năng
lực sư phạm trong các trường Cao đẳng Kinh tế là cơ sở để đề xuất
các chương trình phát triển năng lực cho giảng viên tại tỉnh Thái
Nguyên năm học 2013-2014.
Cụ thể, nhằm mục đích:
1. Xác định hồ sơ cá nhân của các giảng viên về:
1.1. Giới tính.
1.2. Hộ tịch.
1.3. Tuổi.
1.4. Thâm niên giảng dạy.
1.5. Trình độ học vấn.
1.6. Hội thảo / tập huấn tham dự.
1.7. Kết quả đánh giá giảng viên.
2. Tìm hiểu năng lực sư phạm của giảng viên về:
2.1. Chuẩn bị cho giảng dạy.
2.2. Quản lý lớp học.
6. 4
2.3. Trình bày bài giảng.
2.4. Đánh giá sinh viên.
3. Xác định có một mối quan hệ đáng kể giữa các thông tin cá nhân
của giảng viên và năng lực sư phạm của họ hay không.
4. Xây dựng chương trình phát triển năng lực để bồi dưỡng năng lực
sư phạm của giảng viên.
5. Tìm hiểu mức độ chấp nhận của chương trình phát triển năng lực
như:
5.1. Nội dung.
5.2. Chiến lược.
5.3. Kinh tế.
1.3. Tầm quan trọng của nghiên cứu
Luận án đề xuất một hệ thống câu hỏi để đánh giá năng lực
sư phạm của giảng viên và một chương trình phát triển năng lực để
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giảng viên ở các trường cao đẳng
Kinh tế tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu này sẽ có lợi cho các giảng
viên, sinhviên, các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu trong tương lai.
1.4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào năng lực sư phạm của giảng
viên trong các trường cao đẳng Kinh tế tỉnh Thái Nguyên năm học
2013-2014 với sự tham gia của 136 giảng viên. Thời gian nghiên cứu
bắt đầu từ tháng 08 năm 2013 đến tháng 02 năm 2014.
1.5. Định nghĩa các thuật ngữ
Nhằm làm rõ và hiểu tốt hơn về nghiên cứu, các thuật ngữ dưới đây
được định nghĩa: tuổi, đánh giá sinh viên, hộ tịch, quản lý lớp học, trình độ học
vấn,chươngtrìnhpháttriểnnănglực,giớitính,thâmniêngiảngdạy,trìnhbàybài
21
dễ dàng được tạo điều kiện và cuối cùng đem lại một số kết quả khả
quan.
Chương V
TÓM TẮT, KẾT QUẢ, KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Chương này trình bày tóm tắt các phát hiện, kết luận và
khuyến nghị dựa trên kết quả của nghiên cứu.
5.1. Tóm tắt
Nghiên cứu này sử dụng bảng câu hỏi khảo sát như một công
cụ thu thập dữ liệu chính và sử dụng phương pháp tương quan mô tả
của nghiên cứu để xác định mối quan hệ đáng kể giữa hồ sơ cá nhân
của người trả lời và năng lực sư phạm của họ. Kết quả của cuộc điều
tra trên hồ sơ nhân khẩu học của giáo viên đã được trình bày thông
qua tần số và tỷ lệ phần trăm; năng lực sư phạm của người trả lời
được xử lý bằng cách sử dụng bình quân gia quyền; và các mối quan
hệ của hai biến thông qua Pearson r. Các kết quả của phân tích dữ
liệu được sử dụng làm cơ sở cho đề xuất chương trình phát triển năng
lực.
5.2. Những phát hiện
5.2.1. Hồ sơ cá nhân của các giảng viên được thể hiện trong
các thông số sau: Giới tính với 111 phụ nữ (81,62 % ) so với 25 nam
giới (18,38 %); Hộ tịch với 106 hoặc 77,94 % đã kết hôn và 30 hoặc
22,06% độc thân; Trong đó 85 hoặc 62,5% trong độ tuổi 21 đến 30,
12 hoặc 8,82% ở độ tuổi 41 đến 50, và 6 hoặc 4,42% ở độ tuổi 51 trở
lên tuổi; Thâm niên giảng dạy: 62 hoặc 45,59 % từ 1 đến 7 năm, 47
hoặc 34,56 % trong vòng 8 đến 14 năm, 10 hoặc 7,35% từ 29 năm
7. 20
sinh viên làm trung tâm, giải quyết các vấn đề về đặc điểm, nhu cầu
và sở thích của sinh viên.
Đánh giá: Sử dụng danh mục đánh giá để đo lường kết quả đầu ra
của sinh viên.
4.5. Sự chấp nhận của chương trình phát triển năng lực
được đề xuất
Chương trình phát triển năng lực được chấp nhận cao với
đánh giá là 3,33 về nội dung. Nó có thể được suy ra từ bảng mà
người được hỏi chấp nhận rằng các chương trình phát triển năng lực
có hoạt động hiệu quả và có ý nghĩa nhằm tăng cường năng lực sư
phạm của giảng viên. Giả thuyết như vậy được ủng hộ bởi các trích
dẫn trong Evergreen State College Handbook (2009).
Chiến lược của chương trình phát triển năng lực được chấp
nhận cao với bình quân gia quyền là 3,36. Các số liệu trên đó cho
thấy người trả lời chấp nhận rằng chương trình bao gồm sắp xếp có
tổ chức và có hệ thống các sự kiện có thể đạt được các mục tiêu và
mục tiêu mong muốn. Như trích dẫn trong Marywood University
Faculty Development Program (2012), phát triển năng lực là một
khái niệm rộng mô tả bất kỳ các hoạt động khác nhau được thực hiện
bởi các giảng viên để làm giàu cá nhân và nghề nghiệp của họ.
Vấn đề kinh phí cho chương trình phát triển năng lực được
chấp nhận cao với bình quân gia quyền là 3,26. Điều này cho thấy
người trả lời đồng ý rằng chương trình được đề xuất có thể cho phép
họ sử dụng năng lực sư phạm của họ một cách có hiệu quả mà không
cần tốn quá nhiều tiền của nhà trường hoặc bất cứ nhà tài trợ nào cho
chương trình. Hơn nữa, kết quả cũng chỉ ra rằng chương trình có thể
5
giảng, năng lực sư phạm, chuẩn bị cho việc giảng dạy, hội thảo / tập huấn tham
dự,kếtquảđánhgiágiảngviên.
Chương II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Chương này trình bày các tài liệu có liên quan đến nghiên
cứu như: năng lực sư phạm, chuẩn bị cho giảng dạy, quản lý lớp học,
trình bày bài giảng và đánh giá sinh viên.
Các tài liệu sau tăng cường những tuyên bố về sự cần thiết
của việc nghiên cứu khả năng sư phạm của giáo viên . Năng lực sư
phạm đề cập đến việc sử dụng các nguồn lực hữu hình và vô hình của
giảng viên (Madhavaram & Laverie, 2010) bằng cách áp dụng thái
độ , kiến thức và kỹ năng nhằm thúc đẩy việc học tập của sinh viên
Ryegard, Orisson, Apelgren & Eriksson, 2010) và thực hiện vai trò
cụ thể của nghề dạy học (Gliga, 2002; Giertz năm 2003; Diaconu &
Jinga, 2004) có liên quan đến phát triển cá nhân và nghề nghiệp của
mình (Ryegård, 2008). Năng lực sư phạm xuất hiện trong quá trình
giảng dạy (Nguyễn Đức Trí, 2001) khi giảng viên tổ chức các lớp
học, đảm bảo rằng các hoạt động học tập phù hợp với mục tiêu, hoạt
động thao tác giảng dạy và giám sát các sinh viên tốt trong các lớp
học (Daul & Kauchak, 2000, Nguyễn Hữu Dũng, 2005, Trần Bá
Hoàng, 2008, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2003, Nguyễn Minh Hạc, 2001).
Trong bối cảnh của nghiên cứu này, năng lực sư phạm để chuẩn bị
cho việc giảng dạy bao gồm: mô tả được các mục tiêu (Idrus, 2013),
thiết kế và tổ chức các hoạt động (Suciu & Mata, 2011); quản lý lớp
học mà là một yếu tố quyết định trong việc cho thấy hiệu quả giảng
dạy (Harslett và cộng sự, 2000; Idrus, 2013) với các hiểu biết có liên
8. 6
quan về các chỉ tiêu , giá trị và truyền thống (Ireland, 2013) ; trình
bày bài giảng thông qua việc cung cấp thêm sự mô tả chi tiết về
phương pháp giảng dạy (Tạp chí Quốc tế Nhân văn và Khoa học Xã
hội, 2011; Harold, 2000; Beran & Violato, 2006); và đánh giá sinh
viên cũng là một thành phần quan trọng của giảng dạy có hiệu quả
(Tạp chí Quốc tế Nhân văn và Khoa học Xã hội, 2011; Idrus, 2013;
Ireland, 2013).
Sơ đồ nghiên cứu
Biến độc lập Biến phụ thuộc
Thông tin về giảng viên
1. Tuổi
2. Giới tính
3. Hộ tịch
4. Trình độ học vấn
5. Thâm niên giảng dạy
6. Hội thảo/ tập huấn đã tham
dự
7. Kết quả đánh giá giảng viên
Năng lực sư phạm của
giảng viên
1. Chuẩn bị cho giảng dạy
2. Quản lý lớp học
3. Trình bày bài giảng
4. Đánh giá sinh viên
Chương trình phát triển năng lực
19
Bảng 3.7. Mối tương quan giữa kết quả đánh giá giảng viên và
năng lực sư phạm của họ.
Bảng 3.7 trình bày một mối quan hệ đáng kể giữa kết quả
đánh giá của người trả lời và năng lực sư phạm của họ.
Bảng này cho thấy mối tương quan giữa kết quả đánh giá giảng viên
và chuẩn bị cho việc giảng dạy có được một giá trị r của 0,401 (α =
000), quản lý lớp học với giá trị r của 0,325 (α = 000), trình bày bài
giảng có giá trị r của 0,393 (α = 000) và đánh giá sinh viên với giá trị
r của 0,348 (α = 000). Các dữ liệu hàm ý rằng kết quả đánh giá giảng
viên ảnh hưởng đến năng lực sư phạm của giáo viên. Kết quả được
ủng hộ bởi Fajar (2008).
4.4. Chương trình phát triển năng lực để bồi dưỡng năng
lực sư phạm.
Chuẩn bị cho giảng dạy: Lập kế hoạch để nghiên cứu độc lập, làm
việc nhóm để mang lại sự đa dạng trong giảng dạy.
Quản lý lớp học: Xây dựng mối quan hệ thân thiện với các sinh viên
Trình bày bài học: Sử dụng công nghệ giảng dạy đa dạng có hiệu
quả. Thể hiện kiến thức vững vàng về những kỹ thuật giảng dạy lấy
N r Sig. Giải thích
Chuẩn bị cho giảng dạy 136 0,401 000 Có quan hệ
Quản lý lớp học 136 0,325 000 Có quan hệ
Trình bày bài giảng 136 0,393 000 Có quan hệ
Đánh giá sinh viên 136 0,348 000 Có quan hệ
9. 18
dạy có giá trị r của 0,796 (α = 000), trình bày bài giảng và đánh giá
sinh viên với 0,674 (α = 000), và quản lý lớp học với giá trị r của
0,576 (α = 000). Các dữ liệu cho thấy rằng thâm niên giảng dạy càng
cao thì năng lực sư phạm của họ càng tốt hơn. Kết quả này đã được
ủng hộ bởi những phát hiện của Xuehui An, et al. (2010).
Bảng 3.6. Mối tương quan giữa số lần tham dự hội thảo/ tập
huấn của giảng viên và năng lực sư phạm của họ.
Kết quả được ủng hộ bởi giá trị tương quan thu được để
chuẩn bị cho việc giảng dạy có giá trị r của - 0,049 (α = 0,569), quản
lý lớp học với giá trị r của - 0,063 (α = 0,468), trình bày bài giảng có
giá trị r của 0,029 (α = 0,735) và đánh giá sinh viên với giá trị r của -
0,043 (α = 0,622). Điều này có nghĩa rằng số lượng các khóa đào tạo
và hội thảo tham dự của các giảng viên không ảnh hưởng đến hiệu
quả sự thể hiện năng lực sư phạm. Trái với kết quả, Mei Li (2011)
thúc đẩy việc tham gia vào các cuộc hội thảo và các khóa đào tạo. Cô
cho biết thêm rằng hội thảo là một trong những phương tiện quan
trọng nhất để tạo điều kiện giảng dạy và nâng cao năng lực của học
sinh.
N r Sig. Giải thích
Chuẩn bị cho giảng dạy 136 -0,049 0,569 Không quan hệ
Quản lý lớp học 136 -0,063 0,468 Không quan hệ
Trình bày bài giảng 136 0,029 0,735 Không quan hệ
Đánh giá sinh viên 136 -0,043 0,622 Không quan hệ
7
Chương III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này đề cập đến phạm vi nghiên cứu, phương pháp
lấy mẫu điều tra, thu thập thông tin và thống kê xử lý số liệu điều tra
sử dụng để phân tích các kết quả của nghiên cứu.
3.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành trong năm trường cao đẳng
Kinh tế tỉnh Thái Nguyên: cao đẳng Công nghiệp TN, cao đẳng công
nghiệp Việt – Đức, cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật, cao đẳng Kinh tế -
Tài chính TN, cao đẳng Thương mại và du lịch.
3.2. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp tương quan mô tả của nghiên cứu đã được sử
dụng trong nghiên cứu này để phân tích các biến điều tra. Như được
chỉ ra bởi Sevilla, et al. (2004), nó được thiết kế để giúp xác định
mức độ mà các biến số khác nhau có liên quan đến nhau trong tổng
thể.
3.3. Tổng thể và mẫu
Trong số 206 giảng viên, 136 giảng viên đã được lựa chọn để
trả lời bảng câu hỏi bằng cách sử dụng công thức của Slovin. Để xác
định số người được hỏi cho mỗi trường cao đẳng, công thức phân bổ
theo tỷ lệ đã được sử dụng.
3.4. Công cụ nghiên cứu
Bảng câu hỏi là công cụ chính trong thu thập dữ liệu. Các
câu hỏi được chia thành hai phần. Phần đầu tiên được thiết kế để
10. 8
khảo sát hồ sơ cá nhân của giảng viên. Phần thứ hai bao gồm năng
lực sư phạm cho giảng viên.
3.5. Xử lý số liệu
Tần số và tỷ lệ phần trăm được sử dụng để mô tả hồ sơ cá
nhân của giảng viên. Bình quân gia quyền được sử dụng để mô tả
năng lực sư phạm của giáo viên và sự chấp nhận của đề xuất chương
trình phát triển năng lực. Thang điểm sau đây đã được sử dụng để
diễn giải năng lực sư phạm và khả năng chấp nhận của chương trình
phát triển năng lực.
3,25 – 4,00 Có năng lực cao/ Chấp nhận ở mức độ cao
2,50 – 3,24 Có năng lực/ Chấp nhận
1,75 – 2,49 Ít có năng lực/ Khá được chấp nhận
1,00 – 1,74 Không có năng lực/ Không được chấp nhận
Kiểm định Pearson r đã được sử dụng để xác định các mối
quan hệ quan trọng giữa hồ sơ cá nhân của giảng viên và năng lực sư
phạm của họ.
17
Bảng 3.4. Mối tương quan giữa trình độ học vấn của giảng viên
và năng lực sư phạm của họ.
Bảng 3.4 hiển thị các giá trị tương quan của trình độ học vấn
của giảng viên- người trả lời và năng lực sư phạm của họ. Như có thể
thấy trong bảng, năng lực duy nhất là tương quan với trình độ học
vấn là quản lý lớp học.
Bảng 3.5. Mối tương quan giữa thâm niên giảng dạy của giảng
viên và năng lực sư phạm của họ.
Bảng 3.5 cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa giữa thâm niên
giảng dạy của giảng viên và năng lực sư phạm của họ. Đặc biệt, thâm
niên giảng dạy có mối tương quan cao với sự chuẩn bị cho việc giảng
N r Sig. Giải thích
Chuẩn bị cho giảng dạy 136 0,007 0,935 Không quan hệ
Quản lý lớp học 136 -0,169 0,049 Có mối quan hệ
Trình bày bài giảng 136 -0,101 0,241 Không quan hệ
Đánh giá sinh viên 136 -0,072 0,402 Không quan hệ
N r Sig. Giải thích
Chuẩn bị cho giảng dạy 136 0,796 000 Có quan hệ
Quản lý lớp học 136 0,576 000 Có quan hệ
Trình bày bài giảng 136 0,674 000 Có quan hệ
Đánh giá sinh viên 136 0,674 000 Có quan hệ
11. 16
Bảng 3.2 thể hiện rằng không có mối quan hệ quan trọng
giữa giới tính của giáo viên và năng lực sư phạm của họ. Các dữ liệu
bao hàm rằng giới tính của giáo viên không nhất thiết phải cản trở
năng lực sư phạm.
Kết quả như vậy được hỗ trợ bởi các giả định được trích dẫn
trong http://www.neda.gov.ph/hgdg.pdf (2012).
Bảng 3.3. Mối tương quan giữa hộ tịch của giáo viên và năng lực
sư phạm của họ.
Bảng 3.3 bộc lộ một mối quan hệ đáng kể giữa hộ tịch của
người trả lời và năng lực sư phạm của họ. Kết quả cho thấy rằng tình
trạng hôn nhân của giảng viên ảnh hưởng đáng kể đến việc họ biểu
hiện năng lực sư phạm như thế nào. Có lẽ là những người đã lập gia
đình ít có khả năng thực hiện tốt hơn các kỹ năng giảng dạy của mình
do nghĩa vụ gia đình và những người độc thân có nhiều cơ hội nâng
cao hơn nữa năng lực của mình thông qua nâng cao học vấn và đào
tạo. Ngược lại, các giảng viên đã lập gia đình có thể có khả năng có
nhiều cảm hứng để thực hiện tốt hơn trong nghề nghiệp so với những
người độc thân. Kết quả được ủng hộ bởi Hellriegel và Slocum
(2004).
N r Sig. Giải thích
Chuẩn bị cho giảng dạy 136 0,274 0,001 Có quan hệ
Quản lý lớp học 136 0,327 000 Có quan hệ
Trình bày bài giảng 136 0,211 0,014 Có quan hệ
Đánh giá sinh viên 136 0,312 000 Có quan hệ
9
Chương IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Hồ sơ của giảng viên
Bảng 1.1. Bảng phân phối tần số và tỷ lệ phần trăm của người trả
lời về giới tính.
Người trả lời Tần số Tỷ lệ phần trăm
Nam 25 18,38
Nữ 111 81,62
Tổng 136 100
Số liệu cho thấy rằng lực lượng giảng dạy chủ yếu là phụ nữ.
Kết quả như vậy được hỗ trợ bởi các giả định của Ormond (2001)
như được trích dẫn bởi Lalican (2010) rằng phụ nữ có đủ kiên nhẫn
hơn nam giới, đặc biệt là đối với giới trẻ.
Bảng 1.2. Bảng phân phối tần số và tỷ lệ phần trăm của người trả
lời về hộ tịch.
Người trả lời Tần số Tỷ lệ phần trăm
Độc thân 30 22,06
Kết hôn 106 77,94
Tổng 136 100
Số liệu có hàm ý rằng hầu hết những người được hỏi đã có
cuộc sống hôn nhân song hành với nghề nghiệp của họ. Shank (2008)
trong Lalican (2010) có một giả thuyết song song với kết quả thể
12. 10
hiện trong bảng: nếu một người tham vọng là trở thành một giáo
viên, anh / cô ta sẽ trở nên độc thân mãi mãi vì bản chất công việc
của mình. Cô / anh ta không có đủ thời gian để hòa nhập với / bạn bè
của mình và gặp gỡ những người khác.
Bảng 1.3. Bảng phân phối tần số và tỷ lệ phần trăm của người trả
lời về tuổi.
Tuổi Tần số Tỷ lệ phần trăm
21 đến 30 85 62,5
31 đến 40 33 24,26
41 đến 50 12 8,82
51 trở lên 6 4,42
Tổng 136 100
Mặc dù tuổi trẻ là rất quan trọng trong bất kỳ lĩnh vực nghề
nghiệp, mà trong bối cảnh của nghiên cứu là giảng dạy, Dessler
(2003) trong Lalican (2010) vẫn thừa nhận rằng thành tích sáng tạo
và trí tuệ không suy giảm với tuổi và vắng mặt không có lý do chính
đáng giảm xuống khi tuổi tăng. Số liệu cho thấy hầu hết những người
được hỏi là người mới vào nghề.
Phân tích các số liệu thống kê ở trang bên, các nhà nghiên
cứu suy ra rằng các giảng viên là người mới trong nghề nghiệp. Tuy
nhiên, sự tham gia của họ được coi là cần thiết trong nghiên cứu này
vì chúng cũng có khả năng chứng minh năng lực sư phạm của họ.
15
sinh viên (0,762), trình bày bài giảng (0,743) và quản lý lớp học
(0,669).
Bảng 3.1. Mối tương quan giữa tuổi của giảng viên và năng lực
sư phạm của họ.
Điều này có nghĩa rằng khi giáo viên càng lớn tuổi trong
nghề, họ càng có thể phát triển năng lực sư phạm. Thông qua kinh
nghiệm mà họ có được các kỹ năng giảng dạy cần thiết.
Những năng lực giảng dạy có thể được nâng cao theo độ tuổi của
giảng viên được trình bày chi tiết bởi Dauland & Kauchak (2000).
Bảng 3.2. Mối tương quan giữa giới tính của giảng viên và năng
lực sư phạm của họ.
N r Sig. Giải thích
Chuẩn bị cho giảng dạy 136 0,786 000 Có quan hệ
Quản lý lớp học 136 0,669 000 Có quan hệ
Trình bày bài giảng 136 0,743 000 Có quan hệ
Đánh giá sinh viên 136 0,762 000 Có quan hệ
N r Sig. Giải thích
Chuẩn bị cho giảng dạy 136 0,006 0,943 Không quan hệ
Quản lý lớp học 136 -0,004 0,964 Không quan hệ
Trình bày bài giảng 136 0,149 0,084 Không quan hệ
Đánh giá sinh viên 136 0,033 0,702 Không quan hệ
13. 14
xây dựng một môi trường học tập thuận lợi về vật chất nhưng lại
thiếu việc thiết lập môi trường xã hội hài hòa. Song song với kết quả
này, Shaw (2005) phát biểu rằng việc tạo ra một môi trường an toàn
đóng một vai trò quan trọng trong việc học. Môi trường an toàn
không chỉ bao gồm các yếu tố thể chất mà còn phải bao gồm các yếu
tố tâm lý có thể ảnh hưởng đến quá trình học tập.
Số liệu bộc lộ rằng bình quân gia quyền của năng lực sư
phạm của giảng viên về trình bày bài giảng là 2,83 và được đánh giá
là có năng lực. Mặt khác, họ ít có năng lực trong việc sử dụng công
nghệ giảng dạy đa dạng có hiệu quả (2,48) và thể hiện kiến thức
vững vàng về các kỹ thuật dạy học thân thiện và lấy học sinh làm
trung tâm, để giải quyết các nhu cầu, lợi ích và đặc điểm (2,42) của
sinh viên. Các dữ liệu cho thấy rằng các giảng viên vẫn cần phải phát
triển năng lực của họ trong việc sử dụng công nghệ giảng dạy trong
việc hỗ trợ trình bày bài giảng của họ cũng như sử dụng các chiến
lược hướng tới kinh nghiệm và năng khiếu của sinh viên.
Bình quân gia quyền của năng lực sư phạm của giảng viên
liên quan đến việc đánh giá sinh viên là 2,81 và được đánh giá là có
năng lực, ngoại trừ việc sử dụng danh mục đánh giá để đo lường kết
quả đầu ra của sinh viên (2,38; kém năng lực).
4.3. Mối tương quan giữa hồ sơ nhân khẩu của giảng viên
và năng lực sư phạm của họ.
Bảng 3.1 cho thấy rằng có một mối quan hệ có ý nghĩa giữa
tuổi của người trả lời và năng lực sư phạm của họ.
Đặc biệt, có mối tương quan cao giữa tuổi của giảng viên và năng lực
sư phạm của họ về việc chuẩn bị cho giảng dạy (0,786), đánh giá của
11
Bảng 1.4. Bảng phân phối tần số và tỷ lệ phần trăm của người trả
lời về thâm niên giảng dạy.
Năm Tần số Tỷ lệ phần trăm
1 đến 7 năm 62 45,59
8 đến 14 năm 47 34,56
15 đến 21 năm 8 5,88
22 đến 28 năm 9 6,62
29 năm trở lên 10 7,35
Tổng 136 100
Kết quả này được ủng hộ bởi Wijaya, et al. (2002), người
thừa nhận rằng giảng viên (liên quan đến số năm mà họ phục vụ
trong các trường học) là những người rất có ảnh hưởng trong quá
trình dạy và học.
Bảng 1.5. Bảng phân phối tần số và tỷ lệ phần trăm của người trả
lời về trình độ học vấn.
Trình độ Tần số Tỷ lệ phần trăm
Cử nhân 58 42,65
Cao học 15 11,03
Thạc sỹ 57 41,91
Nghiên cứu sinh 6 4,41
Tổng 136 100
14. 12
Số liệu cho thấy hầu hết những người được hỏi chỉ đạt được
yêu cầu tối thiểu đối với trình độ học vấn.
Bảng 1.6. Bảng phân phối tần số và tỷ lệ phần trăm của người trả
lời về các cuộc hội thảo/ tập huấn đã tham dự.
Hội thảo/ tập huấn đã
tham dự.
Tần số Tỷ lệ phần trăm
1- 3 lần 27 19,85
4- 6 lần 34 25
7- 9 lần 69 50,74
10 lần trở lên 6 4,41
Total 136 100
Số liệu chỉ ra rằng đa số người được hỏi ít tham dự hội thảo
và các khóa đào tạo. Điều này xuất phát từ thực tế là hầu hết các
giảng viên- người được hỏi vẫn còn trẻ, với số ít năm phục vụ trong
trường học và là người mới vào nghề. Như Chandler (2003) đã đề
cập, các cuộc hội thảo cũng như các khóa đào tạo cho giảng viên
nâng cao kỹ năng giảng dạy của mình đặc biệt là về "xu hướng mới
hiện nay”.
Số liệu trong bảng 1.7 nói lên rằng hầu hết những người
được hỏi là nằm giữa những giảng viên xuất sắc và những người cần
cải thiện. Dữ liệu này có thể được hỗ trợ bởi các kết quả của các biến
hồ sơ cá nhân khác như tuổi tác vì đa số người được hỏi vẫn còn trẻ
và là người mới trong nghề dạy học. Ngoài ra, các khóa tập huấn và
hội thảo tham dự của những người trả lời vẫn chưa đủ.
13
Bảng 1.7. Bảng phân phối tần số và tỷ lệ phần trăm của người trả
lời về kết quả đánh giá giảng viên.
Kết quả đánh giá giảng
viên
Tần số Tỷ lệ phần trăm
Cao 19 14
Trung bình 85 63
Thấp 18 13
Rất thấp 14 10
Total 136 100
4.2. Năng lực sư phạm của giảng viên
Giá trị bình quân gia quyền của năng lực sư phạm của giảng
viên liên quan đến chuẩn bị cho giảng dạy với các ý kiến là 2,88 và
được đánh giá là có năng lực. Tuy nhiên, họ ít có năng lực trong việc
sử dụng các kỹ thuật giảng dạy thích hợp để đạt được các mục tiêu
chương trình (2,49) và lập kế hoạch để nghiên cứu độc lập, tổ / nhóm
làm việc để mang lại sự đa dạng trong việc giảng dạy (2,45). Song
song với kết quả trình bày trong bảng trên, Calderon (2001) nói rằng
việc sử dụng các tài liệu giảng dạy giảm công sức và tăng kết quả
học tập.
Nghiên cứu tiết lộ rằng bình quân gia quyền của năng lực sư
phạm của giảng viên liên quan đến quản lý lớp học là 2,70 và được
đánh giá là có năng lực. Mặt khác, họ ít có năng lực trong việc phát
triển mối quan hệ thân thiện với các sinh viên (2,42).
Các dữ liệu cho thấy rằng giảng viên có năng lực sư phạm trong việc