Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk, cho các bạn làm luận văn tham khảo
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
Đề tài: Giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, HAY
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TỐNG THỊ TRÀ MY
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CON NGƢỜI CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TỐNG THỊ TRÀ MY
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CON NGƢỜI CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
3. i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thầy
PGS.TS. Huỳnh Văn Thới. Các kết quả và số liệu đảm bảo tính khách quan, trung
thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Tống Thị Trà My
4. ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa sau Đại học, các thầy, cô
giáo Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình, chu đáo giảng dạy và truyền đạt
kiến thức; tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành luận văn. Đặc biệt, xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Huỳnh Văn Thới, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn
em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các giảng viên và các em học sinh,
sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ trong suốt
quá trình khảo sát. Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, tất cả các bạn bè và đồng
nghiệp, những người luôn động viên, khích lệ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Đắk Lắk, tháng 03 năm 2017
Tác giả luận văn
Tống Thị Trà My
5. iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan...................................................................................................... i
Lời cảm ơn .......................................................................................................ii
Mục lục ............................................................................................................iii
Danh mục các bảng .......................................................................................... v
Danh mục các biểu đồ ..................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CON NGƢỜI CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƢỜNG CAO
ĐẲNG NGHỀ ................................................................................................ 10
1.1. Khái quát giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên
trường cao đẳng nghề...................................................................................... 10
1.2. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh,
sinh viên trường cao đẳng nghề ...................................................................... 29
1.3. Các yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật về quyền con người cho học
sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề.............................................................. 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CON NGƢỜI CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
NGHỀ ĐẮK LẮK HIỆN NAY .................................................................... 41
2.1. Tổng quan về Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk....................................... 41
2.2. Tình hình giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên
Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk..................................................................... 42
2.3. Đánh giá chung ........................................................................................ 72
6. iv
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƢỜI CHO HỌC SINH, SINH
VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ ĐẮK LẮK HIỆN NAY................ 80
3.1. Phương hướng chung .............................................................................. 80
3.2. Một số giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật về quyền con người cho
học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk...................................... 84
K T LUẬN VÀ KI N NGHỊ ..................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
PHỤ LỤC..................................................................................................... 108
Phụ lục 1: PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho Học sinh, sinh
viên)..........................................................................................................108
Phụ lục 2: PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho cán bộ, giáo
viên)........................................................................................................114
Phụ lục 3: BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA.............................. 119
7. v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình tới quá trình giáo dục pháp luật
về quyền con người......................................................................................... 43
Bảng 2.2. Nhận thức của học sinh, sinh viên về mục đích của công tác giáo
dục pháp luật về quyền con người .................................................................. 48
Bảng 2.3. Nhận thức của học sinh, sinh viên về vị trí, vai trò của công tác giáo
dục pháp luật về quyền con người .................................................................. 49
Bảng 2.4: Nhận thức của học sinh, sinh viên về một số văn bản pháp luật về
quyền con người.............................................................................................. 52
Bảng 2.5. Chương trình môn học dành cho hệ cao đẳng nghề 2014 .............. 54
Bảng 2.6. Chương trình môn học pháp luật dành cho hệ trung cấp nghề năm
2014................................................................................................................. 55
Bảng 2.7: Hiệu quả của hình thức tích hợp lồng ghép giáo dục pháp luật về
quyền con người.............................................................................................. 61
Bảng 2.8: Số liệu học sinh, sinh viên vi phạm kỷ luật năm học 2015-2016 của
Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk..................................................................... 67
8. vi
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới quá trình giáo dục pháp
luật về quyền con người.................................................................................. 43
Biểu đồ 2.2: Sự kết hợp các lực lượng giáo dục trong quá trình giáo dục pháp
luật về quyền con người.................................................................................. 46
Biểu đồ 2.3: Nhu cầu hiểu biết của học sinh, sinh viên đối với một số ngành
luật................................................................................................................... 51
Biểu đồ 2.4: Đánh giá của học sinh, sinh viên về mức độ triển khai các nội
dung giáo dục pháp luật về quyền con người ................................................. 57
Biểu đồ 2.5: Đánh giá của giáo viên về mức độ triển khai các nội dung giáo
dục pháp luật về quyền con người .................................................................. 59
Biểu đồ 2.6: Các phương pháp giáo dục pháp luật về quyền con người ........ 62
Biểu đồ 2.7: Hình thức giáo dục pháp luật về quyền con người..................... 64
Biểu đồ 2.8: Nhận thức của học sinh, sinh viên về các hành vi vi phạm kỷ
luật................................................................................................................... 65
Biểu đồ 2.9: Các hành vi vi phạm kỷ luật của học sinh, sinh viên................. 70
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong những năm qua, công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo
dục pháp luật về quyền con người nói riêng đã và đang khẳng định một vị trí,
vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt trong điều kiện nước ta
đang xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa. Quyền
con người đã trở thành một vấn đề toàn cầu, mối quan tâm lớn của cộng đồng
quốc tế và như Đảng ta đã khẳng định, là nguyện vọng chung của nhân loại,
thành quả đấu tranh của loài người qua nhiều thế hệ. Thành tựu mà Việt Nam
đạt được trong việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người là rất
lớn. Nhưng một bộ phận người dân, trong đó có học sinh, sinh viên, chưa
nhận thức rõ quyền con người là gì và những thành tựu về nhân quyền mà
nước ta đã đạt được. Giáo dục chính trị cho học sinh, sinh viên là một nội
dung quan trọng trong giáo dục. Muốn trở thành con người tốt cho xã hội, góp
phần vào mục tiêu chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì học sinh, sinh viên
cần được trang bị một hệ thống lý luận chính trị đúng đắn, phù hợp. Một trong
những nhóm kiến thức cần thiết là vấn đề về quyền con người. Chính vì vậy,
công tác giáo dục pháp luật về quyền con người cần được nghiên cứu một
cách đầy đủ, nghiêm túc.
Giáo dục pháp luật về quyền con người trong nhà trường, đặc biệt trong
các trường cao đẳng nghề góp phần đào tạo nhân lực, hình thành một cách
vững chắc những thế hệ công nhân đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại
và tương lai. Tuy nhiên, công tác giáo dục pháp luật về quyền con người của
ngành vẫn còn không ít hạn chế, chưa thực sự có hiệu quả. Xung quanh vấn
đề quyền con người, hiện nay vấn đề xúc phạm danh dự, nhân phẩm, làm
nhục người khác được báo chí, các phương tiện truyền thông đề cập rất nhiều,
hay vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí bị hiểu sai, các phần tử xấu lợi dụng
10. 2
kích động,... Học sinh, sinh viên nếu không có quan điểm, nhận thức tốt, tư
tưởng chính trị vững vàng thì dễ bị lôi kéo vào những vấn đề trên. Công tác
giáo dục pháp luật về quyền con người trong nhà trường luôn được quan tâm
nghiên cứu dưới nhiều cấp độ khác nhau, tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề
tài nghiên cứu khoa học nào về giáo dục pháp luật về quyền con người cho
học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đây là
lần đầu tiên vấn đề này chọn nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sỹ. Nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả xin được chọn: “Giáo dục pháp
luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk
Lắk” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
2.1. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục pháp luật
về quyền con người nói chung và giáo dục pháp luật về quyền con người
cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề nói riêng
Quyền con người là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của
nền văn minh nhân loại. Lịch sử loài người cho thấy, tri thức về quyền con
người có ý nghĩa quan tọng cho sự phát triển và tiến bộ của các xã hội cũng
như là tiền đề cho sự phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của mỗi cá
nhân. Ở phạm vi rộng hơn, tri thức về quyền con người là tiền đề cho hòa
bình và thịnh vượng của toàn nhân loại.
Ở Việt Nam các quyền cơ bản của con người cũng đã được khẳng định
trong Hiến pháp và nhiều văn bản luật và dưới luật khác. Quyền con người và
luật quốc tế về quyền con người từ lâu đã là một chuyên ngành nghiên cứu
riêng ở nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên, mới chỉ chính thức trở thành chủ
đề nghiên cứu ở Việt Nam trong khoảng hơn hai thập kỷ gần đây. Giáo dục
pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật về quyền con người đã có nhiều
công trình nghiên cứu như:
11. 3
* Công trình đã viết thành sách:
- Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đường và
Dương Thanh Mai, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995 đề cập tới: bản
chất giáo dục pháp luật; quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục tư
tưởng, chính trị, đạo đức mục đích và vai trò của giáo dục pháp luật, nội dung,
hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật; Sống và làm việc theo pháp luật.
- Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội của
GS.TS Võ Khánh Vinh, NXB Khoa học xã hội, 2009 đã tập hợp các nghiên
cứu lý luận: quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về quyền con người;
vấn đề chủ quyền quốc gia và nhân quyền, vấn đề an ninh con người; toàn cầu
hóa với đảm bảo quyền con người ở nước ta; trình bày các nghiên cứu về
quyền con người dựa trên cách tiếp cận khác nhau của khoa học xã hội: từ
phương diện triết học, chính trị, đạo đức, dân chủ, môi trường và tiếp cận
khác nhau của khoa học nhân văn: văn hóa, dân tộc học, tôn giáo tín ngưỡng,
vấn đề giới.
- Quan niệm của Nho giáo về Con người, về giáo dục và đào tạo con
người của Nguyễn Thị Tuyết Mai, NXB Chính trị quốc gia, 2009, giới thiệu
những nét khái quát nhất trong quan niệm của Nho giáo về vấn đề con người,
giáo dục và đào tạo con người. Hoàn cảnh lịch sử và sự xuất hiện các học
thuyết về xã hội và con người ngoài Nho giáo. Trong quan niệm của Nho giáo
về con người, tác giả không chỉ dừng lại ở việc trình bày trên cơ sở Triết học
và Giá trị học những mặt tích cực về con người, về mục đích giáo dục của
Nho giáo; nhiệm vụ của người Thày; nguyên tắc, nội dung và phương pháp
giáo dục của Nho giáo,... mà tác giả cũng chỉ ra những mặt tiêu cực của Nho
giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người. Trên cơ sở đánh giá một
cách khoa học về các quan niệm của Nho giáo, tác giả chỉ ra vai trò và ý
nghĩa trong quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con
12. 4
người, cơ sở để đề xuất quan điểm về nhân sinh, giá trị nhân sinh và xây dựng
nhân cách sống lý tưởng. Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày quan điểm của
cá nhân về sự ảnh hưởng của Nho giáo tới con người, tới vấn đề giáo dục và
đào tạo con người ở Việt Nam trong lịch sử và hiện tại về sự nhìn nhận và
đánh giá con người.
- Tư tưởng của V.I. Lênin về quyền con người và giá trị thực tiễn ở
Việt Nam của Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải, NXB Chính trị quốc
gia, 2010 đã tập trung phân tích và làm rõ lý luận và quan điểm của V.I.
Lênin, một nhà lý luận và tư tưởng lỗi lạc của giai cấp công nhân và những
người cộng sản trên toàn thế giới, về một số quyền con người nổi bất - dân
chủ, quyền dân tộc tự quyết, quyền chính trị và quyền tham gia, những giá trị
thực tiễn của những tư tưởng này ở Việt Nam hiện nay.
- Giáo dục Quyền con người những vấn đề lý luận và thực tiễn do
GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 2010; Cuốn sách
gồm nhiều tham luận của học giả trong nước tập trung vào một số vấn đề: làm
sáng t những vấn đề lý luận về giáo dục quyền con người; đánh giá khái quát
thực trạng giáo dục quyền con người ở Việt Nam; Thử tìm hiểu kinh nghiệm
giáo dục quyền con người ở một số nước trên thế giới; Kiến nghị về quyền
giáo dục con người ở Việt Nam.
- Đánh giá các điều kiện đảm bảo cho giáo dục quyền con người ở Việt
Nam hiện nay của tác giả Trương Thị Thu Hà, NXB Khoa học xã hội, 2011.
- Viện Nghiên cứu Con người: một số kết quả nghiên cứu của
PGS.TSKH. Lương Đình Hải, PGS.TS. Mai Quỳnh Nam (Đồng chủ biên),
NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014. Từ các góc độ khác nhau nhưng cùng
hướng đến nghiên cứu con người theo chức năng, nhiệm vụ và các hướng
nghiên cứu của Viện, kết quả nghiên cứu của các cán bộ đã và đang công tác
13. 5
tại Viện Nghiên cứu Con người đã công bố trong 15 năm được chọn đăng
trong cuốn sách.
- H i đáp về quyền con người GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, GS.TS.
Phạm Hồng Thái, PGS.TS. Vũ Công Giao, TS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ
biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015 cuốn sách dưới dạng H i – Đáp,
với những thông tin ngắn gọn, xúc tích được chia thành các mục, bao gồm cả
những vấn đề lý luận, pháp lý về nhân quyền ở tầm quốc tế và Việt Nam
những quy định mới trong chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của
công dân trong Hiến pháp 2013.
+ Các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp bộ:
Tìm kiếm mô hình giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc
ít người, Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ
Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính
trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương
trình quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, Đề tài khoa
học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 2004...
+ Các luận án, luận văn:
Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án Phó
tiến sĩ Luật học của tác giả Dương Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật
trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không
chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả
Đinh Xuân Thảo, 1996; Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp
luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật
học của tác giả Đặng Ngọc Hoàng, Hà Nội, 2000; Giáo dục quyền con người,
quyền công dân ở nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc
sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Hữu Trí, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
14. 6
Minh, Hà Nội 2001; Giáo dục quyền con người ở nước ta hiện nay – Thực
trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Ngọc
Hưng, Hà Nội, 2011; Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học
ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ Luật học
của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, Hà Nội, 2013; Kết hợp giáo dục pháp luật,
giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay, Luận
văn thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Hoài Thu, Hà Nội, 2013; Quyền
con người và giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc
sỹ Luật học của tác giả Thế Ngọc Mai, Hà Nội, 2014 và một số luận văn thạc
sĩ luật học, luận văn cử nhân của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở khác.
2.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu đề tài và các vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu
- Về lý luận, các nghiên cứu góp phần hình thành cấu trúc lý luận cho
việc phân tích và đánh giá hiệu quả của giáo dục pháp luật về quyền con
người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề như khái niệm, mục đích,
chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương tiện, hiệu quả.
- Về thực tiễn, các nghiên cứu đã gắn kết giáo dục pháp luật về quyền
con người với xây dựng, hoàn thiện pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật;
nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý; đưa ra các vấn đề lý luận chung
về giáo dục pháp luật về quyền con người vào giải quyết các vấn đề cụ thể,
gắn với địa bàn, khu vực, nhóm đối tượng cụ thể.
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về giáo
dục pháp luật cho sinh viên. Mỗi đề tài nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu
khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu cơ bản về giáo dục
15. 7
pháp luật về quyền con người cho sinh viên trường cao đẳng nghề. Luận văn
là chuyên khảo nghiên cứu có hệ thống và tương đối hoàn thiện về giáo dục
pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề.
2.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong Luận văn
- Mô hình lý luận về giáo dục pháp luật về quyền con người cho học
sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề như khái niệm, vai trò, đặc điểm (mục
tiêu, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức,…).
- Phân tích, đánh giá sự tác động của các nhân tố khách quan, chủ quan
đến công tác giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên
Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk và thực trạng thời gian qua (những kết quả
đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân).
- Xây dựng và hoàn thiện giáo dục pháp luật về quyền con người cho
học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Mục đích của Luận văn là nghiên cứu toàn diện, có hệ
thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật về quyền con
người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk từ đó đề xuất
xây dựng và hoàn thiện chương trình.
- Nhiệm vụ: Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài giáo
dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Đắk Lắk; chỉ ra những kết quả đã đạt được và dự kiến vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu.
Nghiên cứu, làm sáng t cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật về quyền
con người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk, bao gồm:
Khái niệm, vai trò, đặc trưng và các yếu tố ảnh hưởng.
Nghiên cứu, làm sáng t cơ sở thực tiễn giáo dục pháp luật về quyền
con người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk hiện nay
16. 8
bám sát các đặc trưng của giáo dục pháp luật về quyền con người và điều kiện
thực tiễn của Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk, nhất là sự tác động của các
nhân tố khách quan và chủ quan.
Dựa trên các vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả xác định cơ sở và xây
dựng, hoàn thiện các giải pháp đổi mới giáo dục pháp luật về quyền con
người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên
Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong Luận văn, phạm vi học sinh, sinh viên
tập trung vào hai nhóm chính đó là nhóm học sinh, sinh viên hệ trung cấp
nghề, sinh viên hệ cao đẳng nghề; khái niệm pháp luật được hiểu đồng nhất
với hệ thống pháp luật thực định.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người; lý
luận giáo dục pháp luật về quyền con người; chủ trương, quan điểm của
Đảng, Nhà nước về giáo dục pháp luật về quyền con người; lý luận về điều
chỉnh pháp luật và điều chỉnh xã hội, về dân chủ và thực hành dân chủ, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục hoàn thiện pháp luật gắn với tổ
chức thực thi pháp luật, phát huy nhân tố con người; bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Phương pháp luận được sử dụng trong Luận văn là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Mác – Lênin được vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Nam và điều kiện đặc thù của Trường Cao đẳng nghề Đắk Lắk.
17. 9
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: logic - lịch sử để nghiên cứu chương 1, 2 và 3; hệ thống - cấu
trúc, quy nạp, diễn dịch để nghiên cứu chương 2, 3; phân tích tổng hợp tại tất
cả các chương; khái quát hóa trừu tượng hóa tại chương 2, 3; luật học so sánh
tại chương 1 và 2, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích thực tiễn và các
phương pháp của xã hội học pháp luật được sử dụng tại chương 1, 2 và 3.
Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại cũng được lồng
ghép trong quá trình nghiên cứu luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình khoa học đầu tiên trình bày tương đối toàn
diện, có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật về quyền
con người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề. Luận văn góp phần
bổ sung vào hệ thống lý luận về giáo dục pháp luật về quyền con người nói
chung, cho nhóm đối tượng, địa bàn đặc thù nói riêng. Đây là tài liệu có ý
nghĩa tham khảo về phương diện lý luận và thực tiễn cho quá trình xây dựng,
hoàn thiện chính sách, pháp luật và tổ chức, triển khai thực hiện công tác giáo
dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Đắk Lắk nói riêng và các trường cao đẳng nghề nói chung.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu lý luận
và thực tiễn về giáo dục pháp luật về quyền con người; giáo dục pháp luật về
quyền con người đối với các địa bàn, đối tượng đặc thù. Luận văn là tài liệu
tham khảo trong quá trình giảng dạy môn học Pháp luật; giáo dục pháp luật,
cơ sở nghiên cứu; trong các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ phổ
biến giáo dục pháp luật về quyền con người.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 03 chương, được chia thành 08 tiết.
18. 10
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON
NGƢỜI CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.1. Khái quát giáo dục pháp luật về quyền con ngƣời cho học sinh,
sinh viên trƣờng cao đẳng nghề
1.1.1.Quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Trước hết cần hiểu rõ thuật ngữ human rights (tiếng anh) và quyền con
người theo tiếng thuần Việt hay nhân quyền theo tiếng Hán - Việt đều có
nghĩa tương đồng. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì “nhân quyền chính là
quyền con người” [46, tr.1239].
Ngày nay, khoa học pháp luật phát triển đã cho chúng ta nhiều căn cứ
để hiểu khái niệm quyền con người đầy đủ hơn trong sự vận động biện chứng
của lịch sử, song có thể hiểu, khái niệm quyền con người được thiết lập bởi
hai yếu tố cơ bản: Trước hết, quyền con người được hiểu là những đặc quyền
vốn có, tự nhiên của con người và chỉ con người mới có. Đó là những khả
năng hành động một cách có ý thức, né tránh, từ chối hoặc yêu cầu giành lấy
những cái gì đó, nhất là khả năng tự bảo vệ. Nhưng, bản thân quyền vốn có,
tự nhiên chưa phải đã là quyền. Để đạt tới cái gọi là quyền, cần có yếu tố thứ
hai thiết định, đó là quy chế pháp lý, các đặc quyền (quyền tự nhiên) của cá
nhân con người khi trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật, được pháp
luật chấp nhận, tổ chức, bắt buộc hoặc ngăn cấm thì mới trở thành các quyền
con người, do đó có thể nói, không có pháp luật thì không có quyền. Quyền
con người có được là nhờ sự tiếp cận, thâm nhập của hai yếu tố đó và đạt đến
sự thống nhất giữa cái khách quan và chủ quan của quyền của quyền con
người được ghi nhận trong hiến pháp, pháp luật của mỗi quốc gia và các công
ước quốc tế về nhân quyền.
19. 11
Một trong những khái niệm được coi là phổ biến về Quyền con người
là khái niệm được đưa ra bởi Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc: “Quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự b mặc mà làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”[58, tr.1].
Một định nghĩa khác cũng khá phổ biến, là: “Quyền con người là
những sự được phép mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không
phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh
ra, đơn giản chỉ vì họ là con người [27, tr.37].
Dù không nêu rõ khái niệm quyền con người, nhưng trong Tuyên ngôn
Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp năm 1789 cũng đã nêu lên nhận thức chung về quyền con người. Theo
đó, “Những chân lý sau đây đã được chúng tôi công nhận như những sự thật
hiển nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng; tạo hóa đã cho họ các
quyền không thể thay thế được; trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” [53, tr.96].
Trong Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác giả
định nghĩa quyền con người là: “Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các th a thuận
pháp lý quốc tế” [25, tr.38].
Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực như đạo đức, chính trị, pháp lý,... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định
nghĩa về quyền con người theo những góc độ khác nhau. Mỗi định nghĩa tiếp
cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định. Tính
phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người tuỳ thuộc vào sự nhìn
nhận chủ quan của mỗi cá nhân. Trên cơ sở tiếp thu điểm hợp lý của một số
định nghĩa về quyền con người, tác giả cho rằng: quyền con người là quyền
20. 12
của tất cả mọi người; đó là những nhu cầu xuất phát từ nhân phẩm vốn có
của con người dưới các hình thức chuẩn mực khách quan, được xã hội thừa
nhận và bảo đảm bằng các quy định pháp luật.
1.1.1.2.Đặc điểm của quyền con người
- Thứ nhất, quyền con người từ góc độ đạo đức – tôn giáo
Quyền con người bắt nguồn từ các quan niệm về chuẩn mực đạo đức,
các đối xử giữa người với người trong xã hội. Các giá trị đạo đức có thể tìm
thấy trong học thuyết của các tôn giáo. Các ý tưởng về quyền con người trở
thành những quy phạm đạo đức – tôn giáo, đề cao và cổ vũ tình yêu thương
đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm. Có thể nói quá trình
phát triển của quyền con người luôn phản ánh và mang nặng dấu ấn của các
giá trị và quy tắc đạo đức, tôn giáo.
- Thứ hai, quyền con người từ góc độ lịch sử - xã hội
Nhìn từ góc độ lịch sử - xã hội, quyền con người bắt nguồn từ các quan
hệ xã hội, là kết quả và phụ thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội loài người tồn tại những quan niệm khác
nhau về các quyền, tự do và nghĩa vụ, cũng như những quy phạm và cơ chế
khác nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó.
Theo đó, quyền con người ngày càng mở rộng, từ ý niệm, tư tưởng đến các
quy tắc, quy phạm và cơ chế; từ cấp độ cộng đồng đến cấp độ quốc gia, khu
vực và quốc tế. Vì thế, quyền con người luôn mang những dấu ấn về chính trị,
kinh tế, văn hoá của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của xã hội loài người.
- Thứ ba, quyền con người từ góc độ triết học
Sự hình thành và phát triển của quyền con người phản ánh quy luật
phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao và phản ánh quy luật tiến hoá
trong nhận thức, hành động của con người về khái niệm sơ khai nhất về tự do,
công bằng, bình đẳng. Những tư tưởng triết học về quyền con người là nền
21. 13
tảng pháp lý cho việc pháp điển hóa các quyền con người vào pháp luật quốc
gia và quốc tế, cũng như việc bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế.
- Thứ tư, quyền con người từ góc độ chính trị
Quyền con người là vấn đề ảnh hưởng, chi phối quan hệ chính trị cả
trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Quyền con người trở thành một trong các
chủ đề trung tâm trong các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia.
- Thứ năm, quyền con người từ góc độ pháp lý
Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được bảo
đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó nghĩa
vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc xử sự chung, có
hiệu lực bắt buộc và thống nhất với tất cả các chủ thể trong xã hội. Chính vì
vậy, quyền con người gắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù
pháp lý.
1.1.2.Giáo dục pháp luật về quyền con người
1.1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật về quyền con người
Là một vấn đề nhận được sự quan tâm hàng đầu của các cơ quan, tổ
chức trong phạm vi quốc tế, khu vực và các quốc gia nên thuật ngữ “Giáo dục
pháp luật về quyền con người” đã trở thành một thuật ngữ xuất hiện thường
xuyên trong các văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế,
các tổ chức khu vực (Liên minh Châu Âu, Tổ chức các nước Châu Mỹ, Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á...), bộ giáo dục của các quốc gia từ đó tạo
thành cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về quyền con người đồng thời qua đó đưa ra một định nghĩa chung nhất
được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Theo đó, định nghĩa giáo dục quyền con
người một cách chung nhất được đưa ra trong Tuyên bố về Thập kỷ giáo dục
quyền con người (TKGDQCN) là:
22. 14
Đào tạo, phổ biến và thông tin nhằm xây dựng một nền văn hóa phổ
biến về quyền con người thông qua việc truyền đạt các kiến thức,
các kỹ năng và tạo nên thái độ nhằm vào:
- Tăng cường sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do
cơ bản;
- Phát triển toàn diện cá nhân con người và ý thức tôn trọng con
người;
- Thúc đẩy sự hiểu biết, tôn trọng, bình đẳng giới và sự đoàn kết
giữa các quốc gia, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia,
dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ;
- Khả năng hoạt động một cách có hiệu quả của tất cả mọi người
trong một xã hội tự do;
- Đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp quốc để giữ gìn hòa bình”
[25, tr.6].
Theo cách định nghĩa trên, giáo dục quyền con người không chỉ đơn
thuần cung cấp các kiến thức cơ bản cho con người về quyền của mình và cơ
chế để bảo vệ quyền mà còn nhằm tới mục đích truyền đạt các kỹ năng quan
trọng để con người không chỉ hiểu biết mà còn có hành động tích cực để thực
hiện các quyền của mình, tôn trọng quyền của người khác, thúc đẩy và bảo vệ
các quyền con người nói chung cho mọi thành viên trong gia đình nhân loại.
Việc giáo dục pháp luật về quyền con người được thực hiện ở các cấp
độ khác nhau, với nhiều hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú, tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, và chịu sự tác động của nhiều
nhân tố. Sự khác biệt về điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội dẫn đến
mỗi quốc gia có cách tiếp cận, phạm vi, mức độ, phương pháp và hình thức
giáo dục pháp luật về quyền con người khác nhau.
23. 15
Thuật ngữ giáo dục pháp luật về quyền con người cũng được đề cập
nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà lý luận và sử dụng nhiều
trong thựctiễn hoạt động của các nhà hoạt động nhân quyền. Điển hình là định
nghĩa giáo dục quyền con người của bà Nancy Flowers trong cuốn sách mang
tên “Hướng dẫn giáo dục nhân quyền” xuất bản tại đại học Minnesota năm
2000, theo đó giáo dục quyền con người “là tất cả những hiểu biết nhằm phát
triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị của nhân quyền”[59, tr.7]. Trong định
nghĩa trên, bà Nancy muốn nhấn mạnh vào việc giáo dục quyền con người
nhằm đem lại sự phát triển toàn diện của con người trong sự hiểu biết về nhân
quyền, cách thức thực hiện quyền của mình và hướng đến những giá trị nhân
bản của con người. Hoặc một cách đơn giản hơn theo như định nghĩa giáo dục
quyền con người của ông Shulamith Koenig - người sáng lập Thập kỷ giáo
dục nhân quyền toàn dân đó là “để mọi người biết về nhân quyền và đưa ra
đòi h i về nhân quyền” [60, tr.20]. Theo ông giáo dục nhân quyền là nhằm
đưa đến những hiểu biết về vấn đề nhân quyền cho mọi người để từ đó họ biết
mình có quyền gì, hiểu những quyền đó và có những đòi h i quyền của mình
phải được thực thi. Như vậy, khái niệm giáo dục pháp luật về quyền con
người có nhiều định nghĩa khác nhau xuất phát từ các văn kiện pháp lý quốc
tế, quốc gia, khu vực hay từ các nghiên cứu, lý luận và cả từ hoạt động thực
tiễn trong lĩnh vực giáo dục pháp luật về quyền con người, nhưng tựu chung
lại tác giả có thể khái quát một định nghĩa chung nhất về nội hàm của khái
niệm này như sau: Giáo dục pháp luật về quyền con người là hoạt động có
tính định hướng, có tổ chức, có chủ thể của giáo dục tác động lên đối tượng
giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật về quyền con người; biết tự
mình bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác phù hợp với
các yêu cầu, các chuẩn mực pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và tương
lai tiến bộ của nhân loại về quyền con người.
24. 16
1.1.2.2. Tầm quan trọng của giáo dục pháp luật về quyền con người
Hiểu biết pháp luật về quyền con người là nền tảng cơ bản để bảo vệ và
thúc đẩy hiệu quả quyền con người trên thực tế. Giáo dục pháp luật về quyền
con người là sự học h i để phát triển hiểu biết, phát triển kỹ năng và giá trị
của quyền con người. Giáo dục pháp luật về quyền con người chính là một
quyền cơ bản nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (UDHR), và cũng
là một trách nhiệm của xã hội và chính phủ.
Giáo dục pháp luật về quyền con người giúp mọi người cảm thấy tầm
quan trọng của quyền con người, tiếp thu giá trị quyền con người và đưa
chúng vào cuộc sống. Giáo dục pháp luật về quyền con người cũng cho ta một
ý thức trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người khác, và trao
quyền cho họ, thông qua kỹ năng học được, để có hành động thích hợp. Một
kết quả quan trọng của giáo dục pháp luật về quyền con người là sự trao
quyền, một quá trình mà qua đó người dân và cộng đồng tăng cường kiểm
soát cuộc sống của chính họ và các quyết định có ảnh hưởng đến họ. Nó
khuyến khích mọi người làm việc cùng nhau để mang lại công lý và phẩm giá
cho tất cả. Đây là một trong những cách tốt nhất để bảo đảm an sinh xã hội,
hòa bình và phát triển cho một nhà nước. Vì vậy, giáo dục pháp luật về quyền
con người cũng giống như y tế dự phòng, trong đó yêu cầu các quốc gia có
biện pháp chủ động để “giữ gìn sức kh e”.
Theo định nghĩa, giáo dục pháp luật về quyền con người bao hàm rất
nhiều nội dung, với nhiều nhóm đối tác, nhiều bối cảnh và hoàn cảnh, nhiều
sự giải thích và hiểu biết cũng như nhiều chương trình riêng biệt, tùy thuộc
nhu cầu của mỗi quốc gia. Quyền đi đôi với trách nhiệm - với chính mình, gia
đình, bạn bè, và xa hơn nữa là với những người họ chưa quen biết và sẽ
không bao giờ gặp. Như vậy, vai trò của giáo dục nhằm bảo vệ các quyền và
xác định trách nhiệm chính là tăng cường hiểu biết về thế giới mà chúng ta
25. 17
đang sống và những người mà chúng ta cùng chia sẻ thế giới đó. Chúng ta
đang sống trong thế giới hiện đại nơi mà con người được phát triển trong tất
cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện vẫn còn rất nhiều sự khác biệt giữa các quốc
gia. Trong thế giới rộng lớn đó, rất nhiều vấn đề cụ thể có thể được giải quyết
thông qua giáo dục pháp luật về quyền con người.
Việt Nam gia nhập Liên Hợp quốc và tham gia hầu hết các công ước
quốc tế của Liên Hợp quốc về nhân quyền; điều đó cũng đòi h i Việt Nam
tuân thủ các nghĩa vụ nêu trong các công ước trên, bao gồm cả nghĩa vụ giáo
dục và phổ biến các quyền con người. Việt Nam đã khẳng định việc thúc đẩy
và bảo vệ quyền con người là một yếu tố rất quan trọng cho việc phát triển
bền vững, “luôn đặt con người ở vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con
người là động lực và mục tiêu của quá trình phát triển đất nước”.
Trên thực tế các quyền con người đã được giảng dạy thông qua nhiều
môn học, ở nhiều cấp học tại Việt Nam. Tuy vậy, việc giáo dục quyền con
người vẫn còn nhiều hạn chế, đôi khi mang tính hình thức, chưa thực sự cung
cấp đầy đủ những thông tin cần thiết để người dân có thể tự đề kháng với
những thông tin không chính xác đang ngày càng phổ biến trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, giáo dục pháp luật về quyền con người là
một yêu cầu bức thiết.
1.1.3. Giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên
trường cao đẳng nghề
1.1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh,
sinh viên trường cao đẳng nghề
Hiện nay, có quan niệm đồng nhất giáo dục pháp luật về quyền con
người với các hoạt động giảng dạy pháp luật về quyền con người được thực
hiện trong Nhà trường. Hiểu như vậy về giáo dục pháp luật về quyền con
người là chưa đủ theo nghĩa hẹp. Giảng dạy pháp luật về quyền con người
26. 18
trong trường học được thực hiện đối với một nhóm đối tượng nhất định trong
xã hội với những điều kiện nhất định về chương trình, nội dung, đội ngũ giáo
viên, phương tiện, phương pháp giảng dạy… Giảng dạy pháp luật về quyền
con người là một trong các hình thức giáo dục pháp luật về quyền con người
cơ bản ở nước ta hiện nay. Giáo dục pháp luật về quyền con người trong Nhà
trường là nhiệm vụ giáo dục và phát triển giá trị ở người học do Nhà trường
tiến hành dựa vào các hoạt động giáo dục trong môn học và ngoài môn học,
nhằm mục tiêu giáo dục toàn diện (đạo đức, lối sống, văn hóa, ý thức công
dân…) trong đó trọng tâm là giáo dục ý thức con người, công dân.
Giáo dục pháp luật về quyền con người bao hàm các hoạt động Giáo
dục trong dạy học môn Pháp luật, trong các hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật theo chương trình của Bộ, ngành, Chính phủ và các hoạt
động khác của học sinh, sinh viên trong và ngoài Nhà trường dưới nhiều hình
thức khác nhau:
- Giáo dục pháp luật về quyền con người qua môn học Pháp luật.
- Giáo dục pháp luật về quyền con người qua các hoạt động giáo dục
của các môn học khác.
- Giáo dục pháp luật về quyền con người qua các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về quyền con người trong Nhà trường và cộng
đồng.
- Giáo dục pháp luật về quyền con người qua các phong trào chủ điểm,
chào cờ đầu tuần, họp giao ban,….và các hoạt động của Đoàn thanh niên Nhà
trường.
Như vậy, Giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh
viên trường cao đẳng nghề là hoạt động có tính định hướng, có tổ chức của
Nhà trường, gia đình và cả xã hội tác động lên học sinh, sinh viên nhằm hình
thành ở họ tri thức pháp luật về quyền con người; biết tự mình bảo vệ quyền
27. 19
của mình và tôn trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu, các
chuẩn mực pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và tương lai tiến bộ của nhân
loại về quyền con người.
1.1.3.2. Mục đích, vai trò của giáo dục pháp luật về quyền con người
cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề
- Mục đích giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh
viên trường cao đẳng nghề
Giáo dục pháp luật về quyền con người được coi là hạt nhân của giáo
dục chính trị, đạo đức, xã hội và văn hóa, gắn liền với sự phát triển của văn
minh loài người, các nhóm khác nhau trong xã hội, trang bị tri thức, sự hiểu
biết các quyền mang tính bảo vệ (quyền khiếu nại, quyền tố cáo, quyền khởi
kiện…) tạo thành nền tảng của thể chế nhà nước pháp quyền, giáo dục ý thức
tôn trọng quyền của người khác, nhất là tôn trọng các quyền của những nhóm
người yếu thế trong xã hội, đồng thời cung cấp cơ sở cho việc giải quyết xung
đột và thúc đẩy trật tự xã hội.
Giáo dục quyền pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên
trường cao đẳng nghề có nhiều mục đích khác nhau, nhưng có thể tóm lược
gồm ba mục đích tương tự cơ bản sau:
+ Cung cấp đầy đủ, đúng đắn những tri thức pháp luật về quyền con
người, trên bình diện quốc gia, quốc tế; trong mối quan hệ giữa dân tộc và
nhân loại, và những xu hướng phát triển của tri thức nhân loại về vấn đề này
trong tương lai trên cơ sở đòi h i của các đối tượng giáo dục khác nhau, phù
hợp với các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
+ Hình thành tình cảm, lòng tin vào các quy định của pháp luật quốc tế,
quốc gia về quyền con người.
+ Xây dựng sự vững chắc của các thói quen, ứng xử theo yêu
cầu, nội dung đòi h i của quyền con người.
28. 20
- Vai trò của giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh
viên trường cao đẳng nghề
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là nơi đào tạo ra những nguồn nhân lực
cho xã hội, đó là những nhân lực sẽ tham gia vào nhiều vị trí trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong hoạt động của họ ít nhiều có liên quan hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề quyền con người, có thể có những đóng
góp tích cực thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền hoặc những hành động tiêu cực
xâm phạm quyền và lợi ích của người dân, do đó, cần thiết phải thúc đẩy hoạt
động giáo dục nhân quyền trong các trường cao đẳng nghề để tạo tiền đề hiểu
biết nhân quyền, tôn trọng nhân quyền cho học sinh, sinh viên. Có thể đưa ra
một vài dẫn chứng cụ thể như sau:
+ Sinh viên các trường thuộc chuyên ngành khoa học xã hội là
những người đã, đang và sẽ trực tiếp tham gia hoạch định, chỉ đạo
thực hiện, giám sát thực hiện chính sách và pháp luật trong nhiều
lĩnh vực trong đó có lĩnh vực liên quan đến vấn đề quyền con
người. Mỗi chính sách của họ đưa ra liên quan đến cuộc sống của
hàng triệu người dân, có thể đem đến cho người dân cơ hội được
hưởng thụ các quyền con người nhưng cũng có thể xâm phạm đến
những quyền cơ bản mà người dân đáng được hưởng. Chính vì vậy,
họ cần phải được giáo dục về nhân quyền một cách nghiêm túc, bài
bản để ý thức rõ được quyền và nghĩa vụ của một công dân, phạm
vi trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mình để một mặt không vi
phạm các quyền con người của người dân, một mặt có những hành
động tích cực nhằm thúc đẩy việc tôn trọng và đảm bảo thực hiện
các quyền con người của công chúng. [33, tr20]
+ Ở các trường đào tạo khối ngành kinh tế cung cấp nguồn nhân lực
cho hoạt động kinh tế của đất nước, sinh viên tốt nghiệp các trường này có thể
29. 21
là các chủ doanh nghiệp, là các nhà kinh tế tham gia hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế quốc gia...ở các vị trí đó, mặc dù các hoạt động của họ
không trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người dân nhưng những
tác động của nó ít nhiều có liên quan đến vấn đề nhân quyền. Cụ thể, nếu một
doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề phát triển con người thì đó cũng là một
động lực quan trọng cho hoạt động thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền của quốc
gia, một chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia hay từ cấp địa phương nếu
lấy quyền lợi của người dân là trọng tâm thì các quyền của con người sẽ được
đảm bảo...Do đó vấn đề giáo dục pháp luật về quyền con người cũng cần
được đưa vào nội dung chương trình đào tạo tại các trường này để tạo những
ý niệm cơ bản và thổi vào họ lòng nhiệt huyết đối với hoạt động thúc đẩy và
bảo vệ nhân quyền trên toàn thế giới.
+ Đối với các trường thuộc khối ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật đối tượng đào tạo là những công nhân, kỹ sư, nhà nghiên cứu khoa học
làm việc trong các lĩnh vực về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, công
việc của họ nhìn bề ngoài chỉ đơn thuần nhằm phục vụ và đáp ứng những yêu
cầu về khoa học và kỹ thuật, tuy nhiên nếu các phát minh khoa học không
nhằm mục đích phục vụ con người, nhằm đưa đến cuộc sống ngày càng tốt
đẹp hơn cho cuộc sống con người thì đó chỉ là những phát minh không có giá
trị. Thế giới đã có những phát minh khoa học, kỹ thuật như bom nguyên tử,
vũ khí hạt nhân,vũ khí sinh học...khi các thế lực phi nhân đạo sử dụng đã hủy
hoại cuộc sống của hàng triệu người dân, để lại những hậu quả đau lòng cho
các thế hệ sau không gì bù đắp được. Đó là những phát minh không vì mục
đích phục vụ con người. Chính vì vậy, trong hoạt động nghiên cứu khoa học
tự nhiên, khoa học kỹ thuật cũng cần hướng tới mục tiêu vì sự phát triển bền
vững của con người, lấy con người làm trung tâm. Do đó, hoạt đông giáo dục
30. 22
nhân quyền trong khối các trường chuyên ngành khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật là cần thiết vì sự phát triển bền vững của con người.
Như lời phát biểu của GS.TS Nguyễn Đăng Dung “...việc giáo dục
nhân quyền là cần thiết cho tất cả các đối tượng trong cộng đồng...Tôi tin
tưởng rằng giáo dục nhân quyền, rất phù hợp với truyền thống nhân đạo của
dân tộc, sẽ phát triển nhanh chóng và đem lại hiệu quả thiết thực cho xã hội
nếu được chúng ta quan tâm đúng mức” [46, tr7]. Thật vậy để có một đất
nước Việt Nam phát triển toàn diện và hướng đến sự phát triển bền vững của
con người thì ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nói riêng và hệ thống giáo dục
ở Việt Nam nói chung - cái nôi đào tạo thế hệ tri thức trẻ nắm giữ tương lai
của đất nước, vấn đề nhân quyền cần phải được đưa vào giảng dạy để thế hệ
trẻ Việt Nam có trách nhiệm trong việc xây dựng một cuộc sống tốt đẹp
hướng đến con người, vì con người và xây dựng một quốc gia giàu mạnh theo
như thông điệp của cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Anna đã đưa ra
nhân ngày nhân quyền thế giới ngày 10 tháng 12 năm 2000: “Con người càng
biết nhiều về các quyền của chính mình thì càng tôn trọng các quyền của
những người khác, và như vậy càng có cơ hội chung sống hòa bình. Chỉ khi
nào người dân được giáo dục về quyền con người thì lúc đó chúng ta mới có
thể hy vọng ngăn chặn những hành vi vi phạm quyền con người cũng như
ngăn chặn xung đột” [21, tr.5].
1.1.3.3. Nguyên tắc giáo dục pháp luật về quyền con người cho học
sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề
Đối với học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề do đặc điểm riêng
biệt do vậy, việc xác định và thực hiện đúng các nguyên tắc giáo dục pháp
luật quyền con người lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Nguyên tắc học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề được xây dựng
căn cứ vào những quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về
31. 23
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo nước nhà, xây dựng cho
học sinh, sinh viên có năng lực lĩnh hội và thực hành kiến thức khoa học, đạo
đức và pháp luật. Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động giáo dục pháp luật
về quyền con người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề:
- Nguyên tắc bảo đảm sự phù hợp giữa mục tiêu giáo dục pháp luật về
quyền con người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề với mục tiêu
giáo dục toàn diện trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên trường
cao đẳng nghề là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục đạo đức các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách
con người Việt Nam của giáo dục nghề nghiệp. giáo dục pháp luật về quyền
con người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề đặt trọng tâm vào
việc hình thành kỹ năng vận dụng kiến thức quyền con người vào từng trường
hợp cụ thể, từ đó giúp học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề chủ động
trong việc tự học, sử dụng kiến thức quyền con người.
Nội dung giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh
viên trường cao đẳng nghề là một nội dung - thành tố của giáo dục nghề
nghiệp, được kết cấu lồng ghép trong nhiều nội dung của chương trình giáo
dục nghề nghiệp. Sự gắn kết chặt chẽ giữa phương pháp giáo dục nghề nghiệp
và phương pháp giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh
viên trường cao đẳng nghề, nghĩa là phương pháp giảng dạy quyền con người
cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề được sử dụng phổ biến là
phương pháp thuyết giảng. Hoạt động giáo dục pháp luật về quyền con người
cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề góp phần quan trọng vào việc
hình thành mục tiêu phát triển nhân cách cho học sinh, sinh viên trường cao
đẳng nghề.
32. 24
- Giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên trường
cao đẳng nghề được tiến hành thường xuyên và có hệ thống
Giáo dục quyền con người nói chung, giáo dục pháp luật về quyền con
người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề nói riêng là một chỉnh thể
thống nhất, có sự gắn bó chặt chẽ giữa giáo dục quyền (những việc được làm
và được tôn trọng) với giáo dục nghĩa vụ (những việc phải làm, phải tuân thủ
vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng hoặc lợi ích của người khác) với giáo dục
trách nhiệm quyền con người. Trách nhiệm đối với quyền con người không
chỉ bao hàm trách nhiệm pháp lý mà còn cả trách nhiệm đạo đức trong quan
hệ gia đình, dòng họ, làng xóm, bạn bè; trách nhiệm cộng đồng, xã hội.
Để cho quá trình nhận thức về quyền con người đòi h i việc giáo dục
quyền con người phải được tiến hành song song với quá trình giáo dục nghề
nghiệp, là quá trình phát triển liên tục của quá trình nhận thức, phù hợp với
đặc điểm nhận thức, tâm lý học sinh, sinh viên. Từ việc mở rộng các quan hệ
xã hội, môi trường sống và các yếu tố tác động đến nhận thức và thực hành về
quyền con người của học sinh, sinh viên cũng phát triển theo.
- Giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên trường
cao đẳng nghề phải bảo đảm tính linh hoạt, gắn kết giữa giáo dục lý luận với
giáo dục thực tiễn.
Trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp, việc trang bị kiến thức được coi
trọng hơn việc trang bị, giáo dục kỹ năng sống, cách hành xử, lối suy nghĩ
dựa trên quyền con người. Nội dung giáo dục quyền con người cho học sinh,
sinh viên trường cao đẳng nghề cần đảm bảo tính thiết thực, liên quan đến
cuộc sống hàng ngày của các em, các em đều có thể trải nghiệm thực tế.
Bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa giáo dục quyền con người chính thức
do các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện với giáo dục quyền con người do
các tổ chức đại diện của học sinh phổ thông như Đoàn Thanh niên Cộng sản
33. 25
Hồ Chí Minh,… là một trong những nội dung quan trọng giúp cho việc gắn
kết việc bảo vệ quyền con người với thực tiễn và phù hợp với đặc điểm tâm lý
lứa tuổi. Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho học sinh,
sinh viên vào hoạt động giáo dục quyền con người rất đa dạng như tham vấn
về nội dung giáo dục quyền con người, hỗ trợ hoạt động giáo dục quyền con
người chính thức trên lớp học.
- Bảo đảm sự tham gia chủ động của học sinh, sinh viên trường cao
đẳng nghề vào hoạt động giáo dục pháp luật về quyền con người.
Với tư cách là đối tượng được giáo dục pháp luật về quyền con người,
hoạt động giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên
trường cao đẳng nghề phải tạo được môi trường có tính tranh luận để học
sinh, sinh viên có thể tự do phát biểu quan điểm, chính kiến của mình về các
vấn đề liên quan đến quyền con người. Tạo lập môi trường cho học sinh, sinh
viên được chủ động trong hoạt động giáo dục quyền con người đòi h i các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp phải xây dựng được môi trường giáo dục vì con
người, tôn trọng con người và cho con người. Học sinh, sinh viên trường cao
đẳng nghề phải được tôn trọng trong môi trường giáo dục nghề nghiệp. Sự
tham gia chủ động của học sinh, sinh viên vào hoạt động giáo dục quyền con
người được thể hiện qua nhiều phương thức như: Chủ động xây dựng tình
huống; tham gia thuyết trình về quyền con người; tham gia giải quyết các bài
tập tình huống dưới sự hướng dẫn của giáo viên, cán bộ làm công tác thực
tiễn.
Bảo đảm sự tham gia chủ động của học sinh, sinh viên vào hoạt động
giáo dục quyền con người cần được tiến hành song song với qua trình đổi mới
hoạt động giáo dục nghề nghiệp, coi học sinh, sinh viên là trung tâm của mọi
hoạt động giáo dục, coi trọng việc gây dựng, rèn luyện kỹ năng sống dựa trên
cơ sở quyền con người. Khi được tham gia chủ động vào hoạt động giáo dục
34. 26
quyền con người, học sinh, sinh viên có điều kiện thực hành các lý thuyết
quyền con người, vận dụng pháp luật quyền con người vào việc gây dựng,
duy trì quan hệ xã hội hòa bình, khả năng chung sống, hòa nhập vào các môi
trường văn hóa khác nhau.
1.1.3.4. Chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật về quyền con người cho
học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề
- Chủ thể giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh
viên trường cao đẳng nghề
Chủ thể giáo dục pháp luật về quyền con người là tất cả những người
theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia hoặc góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật về quyền con người.
Chủ thể giáo dục pháp luật về quyền con người trong các trường cao
đẳng nghề là toàn bộ những lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục pháp
luật như giáo viên giảng dạy pháp luật, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên giảng
dạy bộ môn khác phòng đào tạo, phòng Công tác Học sinh sinh viên, phòng tổ
chức, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, lực lượng bảo vệ....Cụ thể:
Giảng viên giảng dạy pháp luật: Đây là những chủ thể chủ yếu của
công tác giáo dục pháp luật về quyền con người trong các trường cao đẳng
nghề. Họ có trình độ chuyên môn pháp lý vững vàng, có ý thức pháp luật đầy
đủ, có tâm huyết với công tác giáo dục pháp luật.Các lực lượng giáo dục pháp
luật về quyền con người khác: Trong các trường cao đẳng nghề, tùy theo cơ
cấu, tổ chức từng trường thì phòng công tác học sinh, sinh viên, Ban quản lý
ký túc xá hoặc phòng Đào tạo cũng đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức
các hoạt động giáo dục pháp luật về quyền con người, đôn đốc, kiểm tra, giám
sát việc học tập, lao động, việc thực hiện nội quy trường học. Mỗi nhà trường
đều có nội quy, quy chế đào tạo riêng góp phần giáo dục về đạo đức, lối sống
và thi hành kỷ luật với mỗi học sinh, sinh viên. Bộ phận quản lý nội trú, Đoàn
35. 27
thanh niên, các Phòng, Khoa, giáo viên bộ môn khác, giáo viên chủ nhiệm và
những người làm công tác giáo dục có tác động sâu sắc đối với việc giáo dục
pháp luật về quyền con người thông qua hoạt động ngoài giờ, thông qua các
bài giảng và tác phong lối sống của chính những chủ thể đó.
- Đối tượng giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh
viên trường cao đẳng nghề
Đối tượng giáo dục pháp luật về quyền con người trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp là học sinh, sinh viên. Khi tốt nghiệp, học sinh, sinh viên trở
thành những người lao động có tri thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
theo nghềở trình độ được đào tạo. Trong quá trình giáo dục, học sinh, sinh
viên chịu sự tác động có tổ chức định hướng, vì thế sự hiểu biết về trình độ,
đặc điểm tâm, sinh lý, nghề nghiệp của người được giáo dục là yêu cầu hàng
đầu. Đồng thời người giáo dục có trách nhiệm phải nắm vững tri thức pháp
luật, biết cách giáo dục, phải là tấm gương mẫu mực về sự tôn trọng và chấp
hành pháp luật. Ưu điểm của học sinh, sinh viên là tầng lớp xã hội tiến bộ,
được tiếp thu có hệ thống tri thức tinh túy của nhân loại nói chung và của dân
tộc, đất nước nói riêng.
Họ là những người có khả năng sáng tạo, tính tích cực nhạy bén, năng
động trong học tập, nghiên cứu, ứng dụng cũng như trong các quan hệ xã hội.
học sinh, sinh viên có khả năng và mong muốn trở thành lao động trí óc do đó
luôn tò mò, ham hiểu biết, chịu khó học h i, thích cái mới và thường có quyết
tâm cao để thể hiện các ý định của mình.
Tuy nhiên, học sinh, sinh viên cũng có những hạn chế nhất định như
nông nổi, bồng bột, dễ bị kích động, khó kiềm chế, đôi khi tự cao, tự mãn
hoặc tự ti, tự phụ, thích tự do phóng khoáng hay đua đòi...
Ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên chưa đầy đủ toàn diện, sâu sắc
như một số nhóm xã hội khác. Học sinh, sinh viên là tầng lớp xã hội trẻ tuổi
36. 28
đang trong quá trình học tập và rèn luyện, họ chưa có điều kiện và khả năng
để có những tư tưởng, quan niệm, quan điểm về các hiện tượng pháp luật
trong đời sống xã hội một cách đầy đủ, hệ thống, sâu sắc như là đội ngũ cán
bộ trong bộ máy nhà nước, đội ngũ nghiên cứu khoa học pháp lý. Sự hiểu biết
pháp luật về quyền con người của học sinh, sinh viên mới đang từng bước
được hình thành, bồi đắp và làm sâu sắc thêm qua quá trình học tập và sinh
hoạt dưới sự tác động ảnh hưởng của gia đình, nhà trường và xã hội. Hiện
nay, trong nhà trường học sinh, sinh viên chưa được giáo dục đào tạo pháp
luật về quyền con người một cách chuyên sâu, có hệ thống họ chưa được
tham gia vào nhiều hoạt động quyền con người thực tiễn, chưa có kinh
nghiệm thực tiễn... vì thế, ý thức pháp luật về quyền con người của học sinh,
sinh viên còn thấp, sự hiểu biết pháp luật về quyền con người còn thiếu chính
xác và hệ thống, chưa đủ để bước vào cuộc sống, chưa ý thức được đầy đủ
trách nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện quyền con
người, chưa thấy hết được vai trò của quyền con người đối với đời sống xã
hội nói chung, từng công dân nói riêng, chưa có thói quen xử sự và đối chiếu
những quy định của pháp luật.
Ý thức pháp luật về quyền con người của học sinh, sinh viên dễ biến
động, dễ chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp của môi trường và ý thức pháp
luật của những người xung quanh. Trước hết, có thể nói pháp luật về quyền
con người của học sinh, sinh viên phụ thuộc rất lớn vào trình độ nhận thức và
ý thức tự giác chấp hành của bố mẹ, những người thân trong gia đình, cũng
như dư luận xã hội. Mặt khác, do khả năng bản thân và phát triển quan hệ xã
hội của học sinh, sinh viên ngày càng lớn phù hợp với việc học tập, sinh hoạt
của họ, cho nên cùng với ảnh hưởng của gia đình, lớp người này đồng thời
chịu sự tác động của xã hội, nhà trường, tổ chức đoàn, hội, nhóm bạn
bè...trong những môi trường này, nếu trình độ am hiểu pháp luật về quyền con
37. 29
người càng cao, ý thức chấp hành tuân thủ pháp luật về quyền con người càng
nghiêm thì sẽ giúp cho học sinh, sinh viên hiểu biết pháp luật về quyền con
người đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và càng hướng cho họ đi vào đúng quỹ đạo
cuộc sống theo yêu cầu pháp luật, tránh được sự sa ngã, sai lầm một cách
thiếu tự giác của học sinh, sinh viên.
Vì thế, việc pháp luật về quyền con người để nâng cao ý thức pháp luật
về quyền con người của học sinh, sinh viên, không chỉ quan tâm tậptrung cho
mỗi đối tượng này mà phải đồng thời tác động đến những người thường
xuyên giao tiếp với học sinh, sinh viên bằng các chương trình với nội dung,
hình thức, phương pháp, phương tiện thích hợp và đồng bộ.
1.2. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật về quyền con ngƣời cho
học sinh, sinh viên trƣờng cao đẳng nghề
1.2.1. Nội dung giáo dục pháp luật về quyền con người cho học sinh,
sinh viên trường cao đẳng nghề
Không có một nội dung cụ thể hay chung cho chương trình giáo dục
pháp luật về quyền con người của tất cả các quốc gia, khu vực tuy vậy Liên
Hợp Quốc cũng cố gắng đưa ra quy định về nội dung giáo dục về quyền con
người chung nhất để các chương trình giáo dục về quyền con người của các
quốc gia, khu vực, của các tổ chức theo đó triển khai phù hợp với đặc điểm
của mình. Theo đó, Nghị quyết của Liên Hợp quốc tuyên bố về Thập kỷ giáo
dục nhân quyền (1995-2004) quy định: “Giáo dục nhân quyền nên bao hàm
các quy định về thông tin hơn và nên tạo ra một quá trình toàn diện lâu dài
cho tất cả mọi người ở các cấp độ trong sự phát triển và trong tất cả các giai
tầng xã hội nghiên cứu tôn trọng nhân phẩm của người khác và cách thức và
phương pháp bảo đảm sự tôn trọng trong tất cả mọi xã hội” [24, tr.2]. Các
chương trình giáp dục nhân quyền khi tiến hành cũng có thể tham khảo Tuyên
bố của Liên Hợp quốc năm 1993 trong Hội nghị thế giới về nhân quyền về nội
38. 30
hàm của giáo dục nhân quyền rằng: “giáo dục nhân quyền nên bao gồm về
hòa bình, dân chủ, phát triển và công bằng xã hội cũng như luật nhân đạo... và
nhà nước pháp quyền” [22, tr.79-80]. Như vậy nội dung của chương trình
giáo dục pháp luật về quyền con người nói chung mang nghĩa rộng, bao gồm
các hoạt động nghiên cứu về các giá trị của quyền con người, các kiến thức,
kỹ năng thực hành quyền con người, các hoạt động tuyên truyền phổ biến
pháp luật về quyền con người đến mọi cá nhân trong xã hội nhằm đạt được
mục tiêu của quyền con người. Trước hết cần tập trung vào các quy định về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định
trong Hiến pháp 2013 và được cụ thể hóa trong các luật, bộ luật trên các lĩnh
vực như trong Luật tiếp công dân 2013, Luật Việc làm 2013, Luật Đất đai
2013...và các văn bản dưới luật khác. Nội dung của giáo dục quyền con người
là tổng thể những hiểu biết cần thiết để mỗi cá nhân có thể nhận thức và đủ
khả năng bảo vệ, thúc đẩy những giá trị quyền của mình. Nội dung giáo dục
pháp luật về quyền con người cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề
có thể khái quát ở những điểm sau:
- Các thông tin về quyền con người, bao gồm pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia (các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân);
- Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về quyền con người;
- Lịch sử hình thành và phát triển quyền con người;
- Các thông tin về thực hiện quyền con người;
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, hình thức, nội dung, phương
pháp, kinh nghiệp tổ chức giáo dục quyền con người;
- Các thông tin về hệ thống, các cơ quan thực hiện giáo dục quyền con
người…
39. 31
1.2.2. Hình thức giáo dục pháp luật về quyền con người cho học
sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề
Có rất nhiều hình thức giáo dục pháp luật về quyền con người khác
nhau như: Trực tiếp truyền đạt nội dung pháp luật cho người nghe (tuyên
truyền miệng), sử dụng báo chí và hệ thống truyền thanh cơ sở, biên soạn và
phát hành các loại tài liệu pháp luật về quyền con người truyền đạt nội dung
pháp luật thông qua các phương pháp sư phạm (giáo dục pháp luật trong nhà
trường); tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật về quyền con người; tổ
chức các câu lạc bộ pháp luật, xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp
luật về quyền con người; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý; hòa giải cơ
sở; thông qua các hình thức văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là các loại hình sinh
hoạt văn hóa truyền thống. Những phương pháp được đánh giá là có hiệu quả
nhất là giảng dạy theo dự án được cố định trong các mục đích mang tính cảm
xúc và kết nối với hành động. Phương pháp giáo dục theo hướng để mở và có
thể được thảo luận mà không bị trừng phạt nhưng cũng có thể có sự gặp gỡ
hai phía giữa hiệu trưởng, các thầy, cô, học sinh và phụ huynh. Như vậy,
trong số các phương pháp trên, phương pháp giáo dục theo dự án ngày/dự án
tuần, cùng hành động, giảng dạy định hướng hành động, thảo luận, làm việc
với các chuyên gia bên ngoài, thảo luận lớp, chơi đóng vai, mô ph ng được
nhiều người áp dụng. Cùng với sự trợ giúp của các trích đoạn phim và phiếu
ph ng vấn, giờ giảng sẽ được phân tích và đánh giá với cường độ cao. Ngoài
ra, hiệu quả giảng dạy cũng tăng lên trong các trường hợp người giảng áp
dụng các phương pháp khuyến khích sự tích cực và cộng tác của người học.
Một yêu cầu cần thiết đối với sự khảo cứu quyền con người là đòi h i
niềm tin riêng. Thông qua các nỗ lực đạt được bởi một không khí giáo dục tốt,
các trường thực hiện dự án giáo dục của UNESCO mong muốn đạt được các
điều kiện cơ bản đối với khả năng hiểu biết về quyền con người. Điều này đòi
40. 32
h i các quyền và nghĩa vụ của các học sinh, sinh viên cần được tôn trọng.
Một trong những giá trị đối với giáo dục quyền con người là: ấn tượng cơ bản
mang tính tích cực đối với các vấn đề của quyền con người phải thuyết phục
được người học mà ở đó người ta để cho người học có thể thu lượm được
những hiểu biết và kinh nghiệm cùng với chủ đề quyền con người. Có lẽ
thuận lợi nhất là khuyến khích sự độc lập của họ. Vì vậy, cần lựa chọn
phương pháp giáo dục quyền con người luôn tùy thuộc vào mục đích, nội
dung giáo dục và phù hợp với từng đối tượng nhất định.
1.3. Các yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật về quyền con người
cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng nghề
Giáo dục pháp luật về quyền con người với tư cách là một trong những
biện pháp đi đầu, tạo lập tiền đề cho quá trình tổ chức thực thi chính sách,
pháp luật chịu sự tác động nhất định của các nhân tố khách quan và chủ quan.
Do vậy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật về
quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thể tách rời việc nhận diện
những nhân tố tác động đó ở cả khía cạnh tích cực và không tích cực để có
phương châm, giải pháp phù hợp.
1.3.1.Giá trị truyền thống
Trong truyền thống của người Việt có không ít những yếu tố thể hiện
tính nhân văn sâu sắc và đặc thù, rất thuận lợi cho việc giáo dục tình cảm
nhân đạo, công bằng, hướng thiện - những nhân tố giá trị liên quan mật thiết
với giáo dục pháp luật về quyền con người. Từ những truyền thuyết, cổ tích
như Thánh Gióng, Chuyện Trầu Cau, Tấm Cám… đến những câu tục ngữ
“Thương người như thể thương thân”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn”, “Lá lành đùm lá rách”,… đều mang đậm
dấu ấn chữ “Nhân”, chữ “Đạo” ở đời. Do vậy, giáo dục pháp luật về quyền
41. 33
con người trong bầu sữa truyền thống nhân ái, nhân văn đó của dân tộc là một
thuận lợi vô cùng lớn mà nếu chúng ta không biết khai thác, tận dụng sẽ vừa
thiệt thòi và vừa có lỗi với truyền thống.
Tuy nhiên, cũng trong truyền thống đó không khó để nhận ra những
nhân tố không thuận lợi, thậm chí là cản trở giáo dục pháp luật về quyền con
người. Trước hết, trong cuộc sống, người Việt thường nặng ân tình khi bị đặt
trong tình trạng phải lựa chọn giữa tình với lý (một trăm cái lý không bằng
một tý cái tình). Thói quen đó có thể gây trở ngại cho tình cảm, hành vi công
bằng của con người trong một hoàn cảnh đòi h i họ cần có sự tỉnh táo và dứt
khoát về lý trí. Hơn thế nữa, thói quen trọng tình hơn trọng lý đó trong nhiều
trường hợp, còn là nguyên nhân của hiện tượng không coi trọng vai trò của
pháp luật trong xử thế ở đời nói chung cũng như trong việc sử dụng pháp luật
để bảo vệ các quyền của bản thân, của người khác. Hàng ngàn năm dưới các
triều đại phong kiến, những nền cai trị hà khắc, bất bình đẳng, đã hình thành
tâm trạng, thái độ bi quan của con người trước pháp luật, họ không tin vào
hoạt động xét xử của tòa án trong việc bảo vệ con người và các quyền của họ.
Những thành ngữ “con kiến mà kiện củ khoai”, “vô phúc đáo tụng đình”,
“chờ được vạ thì má đã sưng”; hiện tượng “tự xử” ngoài luật trong cuộc sống
cũng từ đó mà ra. Nhưng điều quan trọng hơn là thái độ tâm lý đó có thể sản
sinh ra thói quen không coi trọng hoạt động xét xử trong đời sống xã hội;
muốn duy trì thái quá cách ứng xử theo kiểu “dĩ hòa vi quý”, “một câu nhịn,
chín câu lành”… mà không phải trong trường hợp nào cũng đều có lợi cho
việc bảo vệ quyền con người. Ngày nay, tâm lý truyền thống đó rất không có
lợi cho việc ủng hộ và đề cao sự độc lập của tư pháp trong cơ chế quyền lực
của nước ta theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
năm 1948 đã khẳng định: “Quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp
42. 34
quyền, nếu con người không bị bắt buộc phải nổi dậy chống lại sự độc tài và
áp bức như là phương sách cuối cùng” [20, tr.243].
Mặt khác, từ khi khai thiên lập địa, người Việt vốn sinh trưởng trong
nền văn hóa trồng trọt lúa nước vốn có những đặc điểm rất khác. Một trong
những đặc điểm đó là lối sống cộng đồng (đề cao cộng đồng, dựa vào sự trợ
giúp của cộng đồng…) đã dần dần làm cho cái “tôi” lặn vào trong cái “chúng
tôi”, “chúng ta” và theo đó, ý thức về cá nhân cũng như quyền của họ cũng
dần mờ nhạt, thụ động rất nhiều so với quyền của cộng đồng. Theo đó, ý thức
và sự nỗ lực của cá nhân trong việc đấu tranh để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình cũng không được ưu tiên so với của cộng đồng, chìm vào
cộng đồng với triết lý theo kiểu “dại bầy hơn khôn độc”. Trong điều kiện vẫn
còn chịu tác động của tâm thức đó, việc giáo dục pháp luật về quyền con
người không thể tránh kh i những hiệu ứng không tích cực mà chúng ta cần
nhận biết để có cách làm phù hợp. Giáo dục pháp luật về quyền con người cần
tính đến những hiệu ứng không tích cực từ các yếu tố tâm lý, văn hóa truyền
thống này để có được những luận giải hợp lý về thực trạng cũng như những
giải pháp khả thi về đảm bảo quyền con người ở nước ta trong truyền thống
và hiện tại.
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Với một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước truyền thống, cái nghèo
trong đời sống của người Việt vắt từ đời này sang đời khác, như những lời
than: “Gánh cực mà đổ lên non, còng lưng mà chạy cực còn đuổi theo”; “Đi
cày ba vụ không đủ ba ngày Tết”; “Anh thương em lao khổ, tận cổ chí kim”…
Trong điều kiện sống đó, con người chỉ biết cam chịu, than thân trách phận,
cốt sao có được miếng ăn, tấm áo, chỗ ở là tốt rồi, sao có thể nghĩ nhiều hơn
về các quyền của mình. Có chăng, họ cũng chỉ ý thức và hành động theo một
thói quen cố hữu là quyền của cá nhân phải hòa vào quyền cộng đồng, phải đi
43. 35
sau và thậm chí, hy sinh cho quyền lợi của cộng đồng. Những điều như thế,
không biết tự bao giờ, dần dần trở thành thói quen tâm lý và hành động, thành
văn hóa tư duy và ứng xử của người Việt. Và rồi, không thể không thừa nhận
rằng, tâm lý và thói quen đó đã ảnh hưởng nhất định đến ý thức về quyền của
từng cá nhân và nhu cầu bảo vệ các quyền đó trong mối tương quan với quyền
của cộng đồng.
Ngày nay, đất nước ta đã có những bước tiến rất quan trọng về phát
triển kinh tế - xã hội trong điều kiện một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mặt bằng đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội được
nâng lên rõ rệt so với trước đây, tạo những tiền đề rất căn bản để từng cá
nhân, nhóm xã hội và cộng đồng bắt đầu có ý thức hơn về các quyền và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của họ. Vì thế, không có gì khó hiểu khi người Việt
ngày càng quan tâm nhiều hơn tới nhu cầu về tự do, dân chủ, quyền con người
trong tiến trình đổi mới đất nước. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã đem đến cho con người
những điều kiện vô cùng thuận lợi để tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin trong
nước và trên thế giới về những vấn đề mà người dân quan tâm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả cơ bản do công cuộc đổi mới
đem lại, vẫn còn nhiều vấn đề không nh đặt ra trong việc nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Công tác giảm nghèo vẫn còn gặp nhiều
trở ngại là giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo vẫn diễn ra ở một số
vùng, cơ chế chính sách còn một số nội dung chồng chéo, trùng lắp và khó
thực hiện. Bên cạnh đó, việc thực hiện nhiều chính sách xã hội trong các lĩnh
vực có liên quan đến đảm bảo quyền con người đang bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập và rất bất lợi cho việc giáo dục pháp luật về quyền con người không
chỉ trong nước mà còn với bên ngoài. Rõ ràng là với thực tế đó, giáo dục pháp
luật về quyền con người ở nước ta trong bối cảnh hiện nay cần tính đến những
44. 36
nội dung, hình thức và phương pháp thích hợp với từng đối tượng, nhất là với
những tầng lớp dân cư có điều kiện sống còn thấp. Mặt khác, hoạt động giáo
dục pháp luật về quyền con người không thể không chỉ ra một định
hướng/giải pháp cực kỳ quan trọng là phải tiếp tục cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân để đảm bảo các quyền con người theo nguyên lý
“có thực mới vực được đạo”.
1.3.3. Hệ thống chính sách, pháp luật
Cùng với việc ban hành Hiến pháp năm 2013, hệ thống chính sách và
pháp luật về quyền con người đã có một bước phát triển rất đáng kể so với
trước đây và với các quốc gia trên thế giới. Có thể nhận thấy trong toàn bộ hệ
thống chính sách, pháp luật về quyền con người trong thời kỳ đổi mới đều
xuất phát và đảm bảo theo nguyên tắc: con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự nghiệp đổi mới. Theo đó, trong hầu hết các chính sách về phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước, của từng địa phương đều cố gắng giải quyết
hài hòa các quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể, Nhà nước theo hướng ưu
tiên đảm bảo các quyền con người đã được thể chế hóa thành pháp luật. Đến
nay, các quyền con người càng được hoàn thiện dần dần phù hợp với nhu cầu
thực tế của công cuộc đổi mới và với hệ thống pháp luật quốc tế về nhân
quyền. Gần đây, khi Việt Nam tham gia phê chuẩn thêm một số điều ước
quốc tế về quyền con người, nhất là khi trở thành thành viên của Hội đồng
Nhân quyền của Liên hợp quốc (UNHCR) vào năm 2013 thì rất nhiều chính
sách, pháp luật trong nước được điều chỉnh theo định hướng đó. Nhờ vậy,
thực tiễn đảm bảo quyền con người đã có những tiến bộ rất đáng kể so với
thời kỳ trước. Trong các đạo luật liên quan trực tiếp đến bảo đảm quyền con
người được ban hành từ năm 2009 đến nay, có thể kể đến các luật quy định cụ
thể về trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm lợi ích của công dân như
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (năm 2009), Luật Người cao tuổi
45. 37
(2010), Luật Người khuyết tật (2010), Luật Nuôi con nuôi (2010), Luật Thi
hành án (2010)... Một số luật bảo vệ quyền khiếu nại và tố cáo của công dân
đã ra đời như Luật Khiếu nại (2011), Luật Tố cáo (2011), Luật Phổ biến, giáo
dục pháp luật (2012). Nhiều đạo luật được ban hành, sửa đổi nhằm bảo đảm
quyền tự do và bất khả xâm phạm của công dân như Luật Phòng, chống mua
bán người (2011), Luật Xử lý các vi phạm hành chính (2012). Gần đây, các
quyền con người càng được quan tâm thể hiện tiến bộ hơn trong Bộ luật Dân
sự, Bộ luật Hình sự; các dự luật mới như Luật Tiếp cận thông tin; Luật về
Hội; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, còn không ít
những vấn đề bất cập, hạn chế cần được nhìn nhận thấu đáo để có phương
hướng, giải pháp khắc phục kịp thời. Trước hết, là sự chưa đồng bộ trong hệ
thống chính sách, pháp luật về đảm bảo các quyền con người. Thực tế cho
thấy, có không ít các chính sách trong các lĩnh vực khác nhau, thậm chí trong
cùng một lĩnh vực (chính sách xã hội chẳng hạn) còn chồng chéo, mâu thuẫn
khi điều chỉnh cùng một vấn đề có liên quan đến quyền con người. Bên cạnh
đó, vẫn còn những khoảng trống trong việc quy định chính thức các quyền
con người cơ bản thành quyền công dân (quyền lập hội, quyền được trưng cầu
ý dân, quyền phúc quyết…). Mặt khác, vì nhiều lý do khác nhau, việc chuyển
hóa các chính sách hiện có thành các quy định cụ thể của pháp luật còn khá
chậm (Luật về Hội, Luật Biểu tình…). Đồng thời, không thể không kể đến
những hạn chế của chúng ta trong quá trình nội luật hóa những điều ước quốc
tế có liên quan đến quyền con người trong thời gian qua, đặc biệt là trong các
lĩnh vực: kinh tế, thương mại, môi trường... Những hạn chế trên đã và đang
thật sự trở thành những thách thức không nh với Việt Nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế và khu vực, nhất là từ khi chúng ta gia nhập Tổ chức
Thương mại quốc tế (WTO) và trong tiến trình chuẩn bị gia nhập Hiệp định