Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang)
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Hƣơng
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG
NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN
THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI............................................................. 9
1.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .................................. 9
1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự....................... 9
1.1.2. Phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.......................11
1.2. Khái niệm, đặc điểm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội.................................20
1.2.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
thân người phạm tội...........................................................................20
1.2.2. Đặc điểm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội..................................................................24
1.2.3. Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc
về nhân thân người phạm tội.............................................................30
1.3. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
ngƣời phạm tội trong luật hình sự một số nƣớc trên thế giới............34
1.3.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự Liên bang Nga..........................................................34
5. 1.3.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự Nhật Bản ..................................................................36
1.3.3. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.......................36
Chƣơng 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI
Ở HÀ GIANG ..................................................................................38
2.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân
thân ngƣời phạm tội trong luật hình sự Việt Nam.......................38
2.1.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội trong luật hình sự từ 1945 đến trước 1999 ..............38
2.1.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội trong Bộ luật hình sự 1999 ......................................41
2.2. Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội ở Hà Giang.....................56
2.2.1. Tình hình áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
thuộc về nhân thân người phạm tội ở Hà Giang ...............................56
2.2.2. Nguyên nhân hạn chế của tình hình áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội ở
Hà Giang............................................................................................66
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TÌNH TIẾT TĂNG
NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN
THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI...................................................... 71
3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật..............................................71
3.1.1. Đòi hỏi phát triển của nền kinh tế thị trường ....................................71
6. 3.1.2. Những hạn chế của Bộ luật hình sự 1999, trong đó có hạn chế
trong việc qui định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự ....................................................................................72
3.2. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân
thân ngƣời phạm tội........................................................................74
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội ...........................74
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội..................75
KẾT LUẬN....................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................87
7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TTTN: Tình tiết tăng nặng
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
8. DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Kết quả xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm và số bị cáo áp
dụng tình tiết tăng nặng TNHS của TAND hai cấp tỉnh
Hà Giang 58
Bảng 2.2. Cơ cấu của việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS 59
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tình tiết tăng nặng TNHS là một trong những căn cứ để Tòa án cân
nhắc khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nên nó có ý nghĩa quan
trọng trong các Bộ luật hình sự. Ở Việt Nam, các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự đã được qui định khá lâu trong lịch sử, đặc biệt là sau khi đất
nước giành độc lập (từ năm 1945) trong một số các văn bản pháp lý hình sự
đơn hành, như: Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/3/1946 của Chính Phủ quy định về
mặt tội danh và hình phạt; Sắc lệnh số 25/SL ngày 25/02/1946 quy định việc
trừng trị đối với hành vi phá hủy công sản... . Bộ luật hình sự năm 1985 (Bộ
luật hình sự đầu tiên của nhà nước ta) qui định các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự như là những chế định độc lập trong pháp luật hình sự một
cách chi tiết và khá hoàn thiện. Trên cơ sở thực tiễn thi hành, trong lần pháp
điển thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 1999 tiếp tục quy định các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự với một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực
tiễn xử lý tội phạm. Qui định về tình tiết tăng nặng TNHS của BLHS 1999 đã
tạo ra cơ sở pháp lý đề Tòa án cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt cho
phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội trong từng trường hợp cụ thể, đồng
thời những tình tiết tăng nặng TNHS còn góp phần phân hóa TNHS, cá thể
hóa hình phạt trong quá trình xử lý tội phạm. Cùng với các qui định khác về
căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết tăng nặng TNHS còn thể hiện chính
sách hình sự trừng trị nghiêm khắc đối với người phạm tội ngoan cố, chủ
mưu, cầm đầu, quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng, tái phạm… đồng thời
khoan hồng, nhân đạo đối với người phạm tội lần đầu, thật thà khai báo, ăn
năn hối cải, lập công chuộc tội… của nhà nước ta góp phần tích cực vào công
cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
10. 2
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của Tòa án bên cạnh những kết quả đạt
được còn để xảy ra tình trạng quyết định hình phạt chưa tương xứng với tính
chất, mức độ của tội phạm, làm cho hình phạt không đạt được mục đích khi
áp dụng, làm giảm hiệu lực thi hành bản án, ảnh hưởng đến tính công bằng
của pháp luật và làm giảm lòng tin của người dân vào sự công minh của Tòa
án cũng như hệ thống tư pháp XHCN. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân,
trước hết, là do những qui định của BLHS về tình tiết tăng nặng TNHS chưa
thật sự phù hợp với thực tế tội phạm xảy ra, chưa đảm bảo tính nhất quán về
mặt logic pháp lý, chưa chặt chẽ về mặt lập pháp dẫn đến khó khăn trong áp
dụng. Mặt khác, trình độ, năng lực, phẩm chất và bản lĩnh của thẩm phán còn
có hạn chế nhất định và các yếu tố khác đã ảnh hưởng đến việc áp dụng các
tình tiết tăng nặng TNHS đối với các trường hợp cụ thể khi quyết định hình
phạt. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt
khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc nhân thân người phạm tội và vấn đề áp
dụng trong thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy
định của chế định này, cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những
quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người
phạm tội có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng. Do đó, việc
nghiên cứu vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội đối với việc quyết định hình phạt đối với người
phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận - thực tiễn và pháp lý trong
quá trình áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự, đồng thời thể
hiện rõ nội dung phương châm “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng
trị kết hợp với giáo dục” trong chính sách hình sự của Nhà nước ta, cũng như
bảo đảm thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể
hóa hình phạt đối với người phạm tội. Đây chính là lý do luận chứng cho việc
11. 3
tôi quyết định lựa chọn đề tài “Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân
thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn tại địa
bàn tỉnh Hà Giang)” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 48
Bộ luật hình sự năm 1999 đã được đề cập, phân tích trong các công trình
nghiên cứu, một số giáo trình và sách tham khảo, luận văn như:
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học Quốc
Gia, Hà nội -1997;
2. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học Quốc
Gia, Hà nội -2001, 2003, 2007, Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên
(tái bản lần thứ 3),
3. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 2003.
Tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên,
4. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do
PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên. Đại học Huế. NXB Giáo dục, Hà nội, 2005,
5. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - Đinh Văn
Quế- Sách tham khảo (2000), NXB Chính trị Quốc gia,
6. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999- Phần chung. NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, 2000 của ThS. Đinh Văn Quế...
Hoặc được đề cập trong một số bài viết khác trên các tạp chí chuyên
ngành như: 1) Trịnh Tiến Việt- “Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong BLHS 1999 và một số kiến nghị”- Tạp chí Tòa án nhân
dân số 13 tháng 7/2004; 2) Phạm Hồng Hải - “Một vài ý kiến về chế định tái
phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của Bộ luật hình sự 1999” - Tạp chí
Tòa án nhân dân số 4/2001; 3) Nguyên Hồng - “Những bất cập trong mốt số
điều khoản của BLHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung” - Tạp chí Nghiên cứu
12. 4
lập pháp số 91, tháng 01/2007; 4) Trịnh Tiến Việt – “Bàn về các tình tiết tăng
nặng trong việc cá thể hóa TNHS và hình phạt” - Tạp chí Kiểm sát số 4/2003;
5) Dương Tuyết Miên – “Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS theo BLHS
1999” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 01/2003...
Đặc biệt đáng chú ý trong lĩnh vực này có một số công trình nghiên cứu
đó là: Luận văn Thạc sỹ luật học của Bùi Văn Lam về “Các tình tiết tăng nặng
TNHS trong Luật hình sự Việt Nam”, bảo vệ năm 2002 của Trường Đại học
Luật, Hà Nội; luận văn Thạc sỹ của Phan Hồng Thúy về “Các tình tiết tang
nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, bảo vệ năm 2010 của Khoa Luật – Đại học Quốc gia, Hà Nội. Hai
Tác giả đều nghiên cứu các tình tiết tăng nặng TNHS trong đó đề cập đến một số
tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái
phạm nguy hiểm... tuy nhiên kết quả nghiên cứu đã trên 5 đến 14 năm, các vấn
đề tác giả đề cập đã được pháp điển hóa hoặc không mang tính thời sự.
Đối với luận văn này, tác giả sẽ đi sâu phân tích các quy định của pháp
luật, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội
tại các điểm b, c, g, m, o theo Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Đồng thời,
tác giả sẽ tập trung nghiên cứu những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp
dụng tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích của luận văn từ việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn
đề về mặt lý luận, các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng
nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự về tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân
người phạm tội, tác giả mong muốn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội
trong thực tiễn thi hành pháp luật hình sự Việt Nam.
13. 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích, phạm vi nghiên cứu nêu trong luận văn này, tác giả tập
trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
- Phân tích và xây dựng khái niệm khoa học của tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, tình tiết định tội, tình tiết định khung;
nghiên cứu và phân tích đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội và so sánh nó
với các tình tiết định tội, định khung hình phạt.
- Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy định về các tình tiết
tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
- Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong Bộ luật hình sự hiện
hành (năm 1999), và thực tiễn áp dụng. Từ đó phân tích một số tồn tại xung
quanh việc quy định và áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân
thân người phạm tội.
- Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội, những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện
phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta, đáp ứng nhiệm vụ yêu cầu
của Cải cách tư pháp, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 cần được nhà làm
luật nước ta ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành cũng như
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
thuộc về nhân thân người phạm tội trong thực tiễn thi hành pháp luật hình sự.
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các tình tiết tăng nặng trách
14. 6
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hà Giang những năm gần đây.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những chế
định phức tạp, có nhiều nội dung liên quan đến các chế định khác trong Bộ
luật hình sự như: Hình phạt, trách nhiệm hình sự, Miễn trách nhiệm hình sự,
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm, án treo. v.v... Trên cơ sở đối tượng nghiên
cứu trên, Luận văn có phạm vi nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề xung
quanh các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người
phạm tội, cụ thể là:
1) Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thuộc nhân thân người phạm tội.
2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trong Bộ luật hình sự hiện
hành (năm 1999). Đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
4) Luận chứng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội.
Ngoài ra Luận văn cũng tham khảo các quy định trong pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới về các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân
người phạm tội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê nin về Nhà nước và pháp luật,
15. 7
về tội phạm học, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nguyên tắc xử lý tội
phạm và chính sách hình sự trong luật Hình sự Việt Nam, về cải cách tư pháp
được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X, IX và các Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là cơ sở phương
pháp luận để nhận thức các ảnh hưởng của các điều kiện lịch sử đến các quy
định của pháp luật hình sự về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhờ đó
người nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù và giá trị kế thừa trong các quy
định về tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội. Qua đó
hình dung sự biến đổi biện chứng của các quy định này trong lịch sử lập pháp
hình sự của nước ta cũng như trang bị cách tiếp cận biện chứng trong thực
tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch
sử và thống kê, tổng hợp cũng như các thành tựu của khoa học Luật hình sự,
khoa học Luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật. v.v. trong các công trình
của các nhà khoa học, luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các số liệu trong các báo
cáo của hệ thống Tòa án nhân dân, của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hà
Giang và một số vụ án hình sự cụ thể tại địa phương, trong nước.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới của Luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của các tình tiết
tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội, nội dung và điều kiện áp dụng
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở xem xét những quy định
16. 8
của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
các quy phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng
trong thực tiễn.
Điểm mới của Luận văn là tác giả đã thực hiện nghiên cứu đề tài thực
tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Đặc biệt, để kết hợp giữa trừng trị
nghiêm khắc người phạm tội với việc nhân đạo hóa trong chính sách hình sự
của Nhà nước ta, đồng thời để phù hợp với thực tiễn xét xử đáp ứng yêu cầu
Cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước và quy định của Hiến pháp năm 2013,
tác giả luận văn đề xuất, kiến nghị giải pháp, biện pháp nâng cao chất lượng
áp dụng pháp luật, đặc biệt đối với việc vận dụng, áp dụng các tình tiết tăng
nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho
cán bộ làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng, các cán bộ
nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học viên cao học, sinh viên thuộc chuyên
ngành tư pháp hình sự.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn thạc sỹ luật học này bao gồm:
Phần mở đầu;
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
17. 9
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ THUỘC VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI
1.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Theo Điều 45 BLHS về căn cứ quyết định hình phạt: “Khi quyết định
hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Như vậy,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa hết sức quan trọng khi
quyết định hình phạt.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, qua nghiên cứu cho thấy nó là
khái niệm dùng để chỉ những tình tiết làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm hoặc tình tiết làm tăng tính nguy hiểm của nhân thân người phạm
tội, do đó người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn. Những tình
tiết đó mang tính khách quan được các nhà làm luật nhận thức và quy định
trong BLHS để đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật hình
sự. Trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ đạt được mục đích trừng trị, giáo dục,
cải tạo người phạm tội khi chúng được Tòa án tuyên hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác tương xứng tới tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm và người phạm tội.
Tình tiết tăng nặng TNHS là tình tiết làm cho TNHS đối với người
phạm tội trong từng trường hợp phạm tội cụ thể cao hơn, thể hiện ở ba mức
độ khác nhau: Tội danh nặng hơn; Khung hình phạt cao hơn; Mức hình phạt
nặng hơn. Tội danh nặng hơn được hiểu là tội danh dạng đặc biệt của tội danh
cơ bản chung, tức là cấu thành tội phạm của tội danh nặng hơn là một dạng
18. 10
đặc biệt của cấu thành tội phạm cơ bản mà không có tình tiết này thì hành vi
đã cấu thành tội phạm cơ bản. Do đó một tội phạm thỏa mãn cấu thành tội
phạm nặng hơn thì coi như mặc nhiên nó đủ yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản
(nhẹ hơn). Hay nói cách khác, cấu thành tội phạm thuộc tội danh nặng hơn
chính là tội phạm tăng nặng định tội. Việc quy định thành các tội như vậy là
vì nhà làm luật cho rằng giữa các trường hợp đó có sự khác nhau về tính chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. “Như vậy, để hành vi cấu thành tội danh
riêng nặng hơn, hành vi đó bao gồm các yếu tố cấu thành tội phạm chung, tức
là nếu không có tình tiết tăng nặng định tội hành vi cũng đã cấu thành một tội
phạm và người phạm tội phải chịu TNHS. Tình tiết tăng nặng chỉ làm cho
TNHS nặng hơn theo một tội có chế tài nặng hơn mà thôi” [23, tr.15].
Mức hình phạt cao hơn ở đây là mức hình phạt cao hơn của một loại
hình phạt hoặc loại hình phạt nặng hơn trong một khung hình phạt của một tội
phạm cụ thể. Khung hình phạt cao hơn ở đây là khung hình phạt cao hơn
trong cùng tội quy định ở một điều luật. Tùy từng trường hợp mà nhà làm luật
quy định khung hình phạt cao hơn trước hoặc sau trong điều luật. Nhưng chỉ
những tội quy định cấu thành tội phạm cơ bản có khung hình phạt thấp nhất
thì mới có khung hình phạt nặng hơn, mỗi tội có thể có một hoặc nhiều khung
hình phạt tăng nặng. Ví dụ: Ở tội Giết người (Điều 93), khung hình phạt cao
hơn thuộc khoản 1, khung hình phạt cơ bản thuộc khoản 2; tại các tội Hiếp
dâm (Điều 111), Trộm cắp tài sản (Điều 138) thì khung hình phạt cao hơn
thuộc khoản 2 và khung hình phạt cơ bản thuộc khoản 1 của điều luật.
Để đảm bảo yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự tương ứng với các
mức tăng nặng TNHS dựa trên mức độ làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội
của từng tình tiết đối với từng tội phạm nhiều hay ít. Vì thế, để tương ứng với
ba mức độ tăng nặng TNHS trên, BLHS quy định ba loại tình tiết tăng nặng
TNHS đó là: Tình tiết tăng nặng định tội; tình tiết tăng nặng định khung; tình
tiết tăng nặng chung.
19. 11
Từ những phân tích trên, chúng tôi nhất trí với tác giả Bùi Văn Lam đã
đưa ra khái niệm về tình tiết tăng nặng TNHS:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết thuộc yếu
tố chủ quan hoặc khách quan của tội phạm hay tình tiết thuộc nhân
thân người phạm tội, mà khi có tình tiết đó, tính nguy hiểm cho xã
hội của người phạm tội hoặc tội phạm tăng lên và do đó TNHS tăng
lên, thể hiện ở việc tội phạm bị xử lý theo tội danh nặng hơn, khung
hình phạt nặng hơn hoặc mức hình phạt cao hơn [19].
1.1.2. Phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1.1.2.1. Phân loại căn cứ vào tính chất của tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
Các tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện việc làm tăng tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm, song do các tình tiết đó đều là biểu hiện sự nguy
hiểm hơn các yếu tố cấu thành tội phạm, của nhân thân người phạm tội nên
giữa các tình tiết đó có sự khác nhau về tính chất. Căn cứ theo tiêu chí này có
thể chia các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thành 3 nhóm sau: nhóm
các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm; nhóm các
tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố khách quan của tội phạm; nhóm các
tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội.
Cách phân loại này sẽ giúp chúng ta một phần trong việc đánh giá đúng
ý nghĩa của từng tình tiết tăng nặng đối với từng loại tội phạm, đưa ra phạm vi
áp dụng của từng loại tình tiết tăng nặng. Cũng vì vậy, chỉ cần phân loại các
tình tiết tăng nặng ở Điều 48 BLHS mà không phân loại các tình tiết tăng
nặng đã quy định là tình tiết định tội hay tình tiết định khung bởi vì đó là
những tình tiết tăng nặng đã được quy định trong từng tội cụ thể, chỉ có giá trị
định tội, định khung hình phạt.
20. 12
Nhóm tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm:
Là những tình tiết phản ánh quá trình hoạt động, diễn biến tâm lý bên
trong của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội (mặt chủ quan của tội phạm),
đồng thời làm cho hành vi phạm tội cũng trở nên nguy hiểm hơn so với các
trường hợp thông thường khác mà không có những tình tiết này. Các tình tiết
tăng nặng thuộc yếu tố chủ quan gồm:
- Phạm tội vì động cơ đê hèn;
- Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
Nhóm tình tiết tăng nặng TNHS thuộc yếu tố khách quan của tội phạm:
là những tình tiết thuộc về dấu hiệu bên ngoài của tội phạm (mặt khách quan
của tội phạm) mà trong vụ án nếu có các tình tình tiết này thì hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm trở nên nguy hiểm hơn so
với các trường hợp thông thường khác mà không có các tình tiết này. Những
tình tiết này phản ánh tính chất hành vi, công cụ, phương tiện, thủ đoạn, đối
tượng phạm tội, hậu quả của tội phạm. Đó là các tình tiết:
- Phạm tội có tổ chức;
- Phạm tội có tính chất côn đồ;
- Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình
trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất,
tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
- Xâm phạm tài sản của Nhà nước;
- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch
bệnh hoặc những khó khăn dịch bệnh khác của xã hội để phạm tội;
- Xúi giục người chưa thành niên phạm tội.
Nhóm các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội: là
những tình tiết phản ánh đặc điểm thuộc về con người phạm tội thể hiện tính
21. 13
nguy hiểm ít hay nhiều của người phạm tội. Xét đến đặc điểm nhân thân
không trái với nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật song lại
rất cần thiết bởi Tòa án thực hiện xét xử đối với một tội phạm cụ thể và cũng
là con người cụ thể. Hình phạt chỉ có thể đảm bảo hợp tình, hợp lý, công bằng
cũng như chỉ có thể phát huy đầy đủ tác dụng của nó khi nó được xem xét
toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội với tính chất,
mức độ nguy hiểm của bản thân người phạm tội.
Rõ ràng có những đặc điểm nhân thân người phạm tội liên quan hữu cơ
với việc thực hiện tội phạm, nói lên mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi
cũng như của người phạm tội, làm sáng tỏ mặt khách quan và chủ quan của
tội phạm, khả năng tiếp thu, giáo dục, cải tạo của họ... Các tình tiết tăng nặng
thuộc nhóm này bao gồm:
- Phạm tội có tính chuyên nghiệp;
- Phạm tội nhiều lần, tái phạm; tái phạm nguy hiểm;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn phương tiện
có khả năng gây hại cho nhiều người;
- Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
1.1.2.2. Phân loại căn cứ vào ý nghĩa pháp lý của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự
Do tính đa dạng, phức tạp của tội phạm nên để cá thể hóa trách nhiệm
hình sự được triệt để, các nhà làm luật trước hết phải chia tội phạm thành các
nhóm tội, các tội phạm khác nhau, trong mỗi tội có khung hình phạt khác
nhau (có một số tội có khung hình phạt duy nhất). Trong mỗi khung hình phạt
của một tội thì mức độ nguy hiểm cho xã hội biểu hiện cũng khác nhau. Do
đó nhà làm luật phải quy định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS chung
để áp dụng cho các loại tội phạm trong một khung hình phạt nhất định. Các
tội phạm khác nhau có thể khác nhau về chủ thể, khách thể, đối tượng tác
22. 14
động, về khách quan, hành vi, hậu quả về chủ thể, hình thức, tính chất mức độ
lỗi. Vì vậy, mức độ ảnh hưởng của mỗi tình tiết tăng nặng TNHS đối với các
loại tội khác nhau, các tội khác nhau cũng nhiều, ít khác nhau. Có những tình
tiết làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nhưng cũng có
tình tiết chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đó
chính là ý nghĩa pháp lý của tình tiết tăng nặng TNHS.
Căn cứ vào tiêu chí này, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được
phân chia thành 3 loại:
- Tình tiết tăng nặng TNHS định khung,
- Tình tiết tăng nặng TNHS thuộc cấu thành tội phạm nặng hơn,
- Tình tiết tăng nặng TNHS chung (được quy định tại Điều 48 BLSH).
* Tình tiết tăng nặng định khung.
Tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là tình tiết làm tăng mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm một cách đáng kể. Do đó trách nhiệm hình
sự, hình phạt đối với trường hợp tội phạm có tình tiết đó cao hơn, TNHS cao
hơn đó thể hiện ở chế tài được quy định ở khung cao hơn đối với chế tài ở
khung hình phạt cơ bản.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là liên tục không tách rời. Tuy
nhiên, để đảm bảo thuận lợi cho các thể hóa TNHS, tránh tùy tiện trong áp
dụng pháp luật thì hình phạt được chia thành từng khung nhất định. Khoảng
cách giữa mức độ cao nhất và mức độ thấp nhất của hình phạt của một tội
càng lớn thì sẽ có nhiều khung hình phạt trong một tội (nhiều cấu thành tội
phạm tăng nặng). Tương ứng như vậy, tình tiết tăng nặng nào biểu hiện tính
nguy hiểm cho xã hội lớn hơn đáng kể so với tình tiết khác thì sẽ ở khung
hình phạt cao hơn.
Nhìn chung, chỉ có tình tiết tăng nặng thuộc hậu quả vật chất của tội
phạm và các tình tiết khác thuộc mặt khách quan của tội phạm có tính định
23. 15
lượng là phản ánh phạm vi rộng nhất mức độ ảnh hưởng của nó đến tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Do đó tình tiết này có mặt ở hầu hết
khung hình phạt tăng nặng. Còn các tình tiết tăng nặng định khung khác chỉ
có mặt ở một khung nhất định. Có những tình tiết tăng nặng định khung
được dùng phổ biến ở nhiều nhóm tội, nhiều tội như: “phạm tội có tổ chức”,
“phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”,
“phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng”... Có những tình tiết chỉ áp dụng cho một nhóm tội như: nhiều người
phạm tội đối với một người, làm nạn nhân có thai... trong các tội phạm tình
dục. Có những tình tiết chỉ áp dụng cho một tội riêng biệt như “hành hung
để tẩu thoát” ở tội Trộm cắp tài sản.
* Tình tiết tăng nặng định tội
Tình tiết tăng nặng định tội là tình tiết làm thay đổi tính chất nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm theo hướng tăng lên, tức là tình tiết đó làm
tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Vì vậy, tội phạm phải bị xử
lý về tội nặng hơn.
Cần lưu ý rằng đây là tình tiết tăng nặng TNHS định tội chứ không phải
là tình tiết định tội, tuy nó đều đóng vai trò là một yếu tố trong cấu thành tội
phạm nhưng đây là yếu tố thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng định tội. Nếu
là tình tiết định tội thì khi không có tình tiết đó, hành vi không cấu thành tội
phạm. Còn đối với các tình tiết tăng nặng định tội thì khi không có tình tiết đó
(giả định luật không quy định đó là tình tiết tăng nặng) thì hành vi cũng đã
cấu thành một tội phạm khác nhẹ hơn. Tình tiết đó chỉ đóng vai trò tăng thêm
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội đã có sẵn)
mà sự tăng thêm đó làm cho tội phạm thay đổi về tính chất.
Trong Luật hình sự Việt Nam, có những tình tiết tăng nặng TNHS đóng
vai trò định tội trong các cấu thành tội phạm cơ bản như: tình tiết người bị hại
24. 16
là trẻ em trong tội Hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS), tội cưỡng bức trẻ em
(Điều 114 BLHS). Đây là tình tiết tăng nặng thuộc đối tượng tác động của tội
phạm. Rõ ràng nếu luật không quy định phạm tội đối với trẻ em là tình tiết
tặng nặng thì người có hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm người khác cũng đã
phạm vào tội hiếp dâm, cưỡng dâm.
Do đó những năm gần đây, tình trạng xâm phạm tình dục trẻ em ngày
càng gia tăng và hậu quả là đặc biệt nghiêm trọng trên nhiều mặt, bởi lẽ: trẻ
em là đối tượng bảo vệ đặc biệt của Nhà nước và xã hội, các nhà làm luật cho
rằng hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm trẻ em có tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn nhiều so với những trường hợp hiếp dâm, cưỡng dâm những người
trưởng thành. Vì vậy, để góp phần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này
đạt hiệu quả, Luật hình sự nước ta đã quy định hiếp dâm, cưỡng dâm đối với
trẻ em thành từng tội riêng (trước đây phạm tội đối với trẻ em chỉ là tình tiết
tăng nặng định khung trong tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm).
Khi nghiên cứu tình tiết tăng nặng này cần phân biệt với tình tiết người
bị hại là trẻ em trong một số tội như: tội Giao cấu với trẻ em (Điều 115
BLHS), tội Dâm ô với trẻ em (Điều 116 BLHS) là những tình tiết định tội và
tình tiết trẻ em chưa đủ 13 tuổi là tình tiết tăng nặng định khung trong tội
Hiếp dâm trẻ em. Nói phạm tội đối với trẻ em là tình tiết định tội trong tội
Giao cấu với trẻ em, dâm ô đối với trẻ em bởi vì nếu không có tình tiết đó thì
hành vi không cấu thành tội phạm.
Tình tiết vi phạm quy tắc hành chính hoặc quy tắc nghề nghiệp trong
tội Vô ý làm chết người (Điều 99 BLHS) và tội Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính (Điều 109 BLHS). Cơ sở để quy định các tội danh này
nặng hơn tội Vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS) và tội Vô ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (Điều 108 BLHS) là quy tắc
25. 17
nghề nghiệp và quy tắc hành chính đã được “luật hóa”, rõ ràng hơn mọi người
có nghĩa vụ tuân thủ, làm theo những quy trình nhất định. Do đó, tính chất nó
khác với quy tắc xã hội. Vì vậy, trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính thì mức độ lỗi cao hơn. Tuy nhiên do
cả hai trường hợp đó đều có lỗi vô ý nên nếu không quy định thành một tội
riêng ở Điều 99 thì cả hai trường hợp đều bị xử lý ở tội Vô ý làm chết người.
Ngoài ra, trong BLHS còn có một số tình tiết tương tự như tình tiết
tăng nặng định tội: như tình tiết nhằm chống chính quyền nhân dân ở tội
khủng bố (Điều 84 BLHS), tình tiết tài sản là công trình, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia trong tội Phá hủy các công trình, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 BLHS). Đây là những tình tiết thuộc
những tội có dấu hiệu giống và nặng hơn các tội Giết người, Cố ý gây thương
tích và Huỷ hoại tài sản. Tuy nhiên theo chúng tôi, do những tội trên không
xâm phạm cùng nhóm khách thể nên không thể coi những tình tiết đó là tình
tiết tăng nặng định tội.
* Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung là những tình tiết thuộc
yếu tố chủ quan, yếu tố khách quan và nhân thân người phạm tội làm cho tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên ở mức độ nhất định so với trường
hợp không có tình tiết đó, có tác dụng tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong một khung hình phạt cụ thể của một tội phạm cụ thể. Ý
nghĩa pháp lý của những tình tiết này là nhằm đảm bảo cá thể hóa hình phạt
được chính xác, triệt để. Mức độ ảnh hưởng của các tình tiết tăng nặng chung
đến tính nguy hiểm cho xã hội và do đó đến mức độ tăng nặng TNHS thấp
hơn tình tiết tăng nặng định tội và tình tiết tăng nặng định khung.
Cách phân loại trên giúp ta định hướng trong việc nghiên cưứ các tình
tiết tăng nặng TNHS, xây dựng các tội phạm, các cấu thành tăng nặng phù
26. 18
hợp. Bên cạnh đó, trên cơ sở pháp lý của từng loại tình tiết tăng nặng giúp
người áp dụng định tội, định khung, cá thể hóa hình phạt được xác định.
Cả 3 loại tình tiết tăng nặng trên đều có đặc điểm chung thể hiện bản
chất pháp lý, ý nghĩa cụ thể:
Thứ nhất, tình tiết tăng nặng TNHS làm thay đổi mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm (làm thay đổi tính chất hoặc mức độ nguy hiểm của
tội phạm theo hướng nghiêm khắc hơn) hoặc người phạm tội. Có những tình
tiết đối với tội này thì làm thay đổi tính chất nhưng đối với tội khác thì làm
thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đây là tình tiết chung
được áp dụng cho nhiều loại tội phạm, cho dù đó là tình tiết tăng nặng định
tội hay tình tiết tăng nặng định khung. Ví dụ: Tình tiết phạm tội đối với trẻ
em, nếu ở tội “Hiếm dâm” thì đây là tình tiết tăng nặng định tội ở tội Hiếp
dâm trẻ em (Điều 112), Cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), Giao cấu với trẻ em
(Điều 115); nếu ở tội Cố ý gây thương tích (Điều 104), Bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản (Điều 134) Tội chứa chấp, sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều
198), tội Môi giới mại dâm (Điều 255) thì nó là tình tiết tăng nặng định khung
và nó là tình tiết tăng nặng chung ở một số tội khác.
Thứ hai, các tình tiết tăng nặng TNHS chỉ được quy định trong Bộ luật
hình sự chứ không thể trong các văn bản pháp lý khác. Trong quá trình đấu
tranh phòng, chống tội phạm, các nhà làm luật xác định những tình tiết nào
làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được coi là tình tiết tăng
nặng TNHS và ghi nhận trong pháp luật hình sự thực định (Bộ luật hình sự
năm 1999). Khi xét xử, chỉ những tình tiết tăng nặng được quy định trong Bộ
luật hình sự mới là tình tiết tăng nặng TNHS. Đây là đặc điểm cơ bản của tình
tiết tăng nặng TNHS và điều này trái ngược với việc áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ TNHS vì “Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các tình
tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong bản án” (Khoản 2 Điều
46 BLHS) [27, tr.38]. Đặc điểm này thể hiện nguyên tắc bình đẳng, nhân đạo,
27. 19
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của pháp luật nói chung và pháp
luật hình sự nói riêng.
Thứ ba, Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc tội nào, vụ án
nào thì áp dụng cho tội ấy và vụ án ấy; tình tiết thuộc về nhân thân của người
phạm tội nào thì áp dụng cho người phạm tội ấy. Đặc điểm này đảm bảo
quyền, lợi ích của bị can, bị cáo. Khi truy tố, xét xử vụ án, người tiến hành tố
tụng chỉ được áp dụng những tình tiết liên quan trực tiếp đến vụ án, ảnh
hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của một tội phạm cụ thể.
Thứ tư, Các tình tiết tăng nặng TNHS mang tính khách quan phản ánh
tình hình xã hội, tính chất tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong từng giai đoạn. Do đó từ góc độ lập pháp, tình tiết tăng nặng
TNHS với vai trò đảm bảo xử lý nghiêm minh tội phạm cũng được nhà làm
luật điều chỉnh, bổ sung phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị xã hội và
ngược lại, có những tình tiết phải loại bỏ khỏi Bộ luật hình sự nếu những tình
tiết đó áp dụng không còn phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, Tình tiết tăng nặng TNHS có tác động giới hạn. Người phạm
tội dù có nhiều tình tiết tăng nặng chung hoặc tăng nặng định khung thì cũng
chỉ bị xử phạt trong phạm vi khung hình phạt đó. Điều này trái ngược với việc
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS:
Khi có ít nhất từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 46 Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng
phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong
trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình
phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể
quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc
chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn [27, tr.62] hoặc
miễn TNHS, hoặc miễn hình phạt.
28. 20
1.2. Khái niệm, đặc điểm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội
1.2.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc
về thân người phạm tội
a. Trách nhiệm hình sự là một trong những chế định cơ bản, quan trọng
nhất của luật hình sự, theo đó, TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội,
thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu trách
nhiệm trước Nhà nước. Vậy người phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý
như thế nào đều liên quan đến việc phạm tội và thể hiện thông qua việc xác
định nội dung của trách nhiệm hình sự. Theo PGS. TS Kiều Đình Thụ viết
“Bản chất của trách nhiệm hình sự là sự lên án của Nhà nước đối với người
có lỗi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy
định là tội phạm, là sự phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm” [10, tr.166].
Với ý nghĩa là sự phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm, trách nhiệm hình
sự phải là những tác động cưỡng chế hình sự đặt ra nhằm bảo vệ và duy trì
trật tự xã hội. Do vậy, các tác động cưỡng chế hình sự thuộc nội dung của
trách nhiệm hình sự phải là những tác động bất lợi về pháp lý đối với người
phạm tội nhằm làm rõ nội dung của trách nhiệm hình sự. Bằng bản án kết tội,
Nhà nước chính thức lên án đối với người đã có hành vi phạm tội và trên cơ
sở đó có thái độ phản ứng của mình thông qua việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế hình sự như áp dụng hình phạt hay các biện pháp tư pháp, án tích
là những tác động cưỡng chế hình sự đều được nhìn nhận là thuộc nội dung
của trách nhiệm hình sự.
Như vậy, trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là
hậu quả việc phạm tội, bao gồm việc Tòa án kết án về một tội phạm có thể
phải chịu hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích.
Cơ sở để để một người phải chịu TNHS, theo qui định của BLHS “chỉ
29. 21
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định thì mới phải chịu
trách nhiệm hình sự”. Theo qui định này thì cơ sở của TNHS là hành vi của
người thực hiện trái pháp luật mà luật hình sự quy định là tội phạm. Nói cách
cách khác đó là hành vi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm với đầy đủ
các dấu hiệu luật định về khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể
của tội phạm.
Khoa học pháp lý đưa ra các khái niệm “cấu thành tội phạm cơ bản
(cấu thành định tội)”, “cấu thành định khung tăng nặng”, “cấu thành định
khung giảm nhẹ” và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Trong đó, cấu
thành cơ bản qui định những dấu hiệu định tội, phản ánh đặc điểm, tính chất
của tội phạm; cấu thành định khung tăng nặng và cấu thành định khung giảm
nhẹ qui định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ định khung phản ánh tính chất,
mức độ của từng trường hợp phạm tội cụ thể làm cơ sở cho việc xác định mức
độ TNHS, xác định hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với người phạm
tội. Trên cơ sở tiếp cận này, luật Hình sự Việt Nam từ trước tới nay (Bộ luật
Hình sự 1985, Bộ luật hình sự 1999 đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLHS
2015) đều qui định theo hướng: ngoài cấu thành cơ bản còn có các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ định khung và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm sự. Mỗi loại tình tiết có vị trí, ý nghĩa khác nhau trong việc xác định
tính chất, mức độ TNHS. Tội phạm là một hiện tượng có tính đa dạng thể hiện
không chỉ ở các loại tội phạm mà còn ở chỗ tội phạm được thực hiện bởi
những con người cụ thể, khác nhau với những tình tiết, diễn biến không giống
nhau. Điều này dẫn đến tính chất, mức độ nguy hiểm của mỗi loại tội phạm và
mỗi người phạm tội có sự khác biệt. Do đó, để có căn cứ xác định mức độ
nguy hiểm của tội phạm một cách chính xác và triệt để đáp ứng yêu cầu của
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và các thể hóa hình phạt, Điều 45
Luật Hình sự năm 1999 đã quy định rõ một trong những căn cứ Tòa án phải
30. 22
cân nhắc khi quyết định hình phạt là nhân thân người phạm tô ̣i, các tình tiết
tăng nặng (và giảm nhẹ) trách nhiệm hình sự. Bộ luật hình sự năm 1999 qui
định các tình tiết làm tăng nặng TNHS, trong đó có các tình tiết tăng nặng
thuộc về nhân thân người phạm tội.
b. Nhân thân người phạm tội là khái niệm mà nhiều khoa học pháp đề
cập, trong đó có khoa học pháp lý hình sự. Để làm rõ khái niệm “Nhân thân
người phạm tội”, hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh rằng, cần phải
nghiên cứu toàn diện về nhân thân con người với tư cách là thành viên của xã
hội và con người chỉ trở thành người phạm tội do quá trình phát triển đạo đức
bất lợi đối với họ. Khi nghiên cứu cần phải làm rõ cái vốn có của nhân thân
người phạm tội không phải là các đặc điểm phạm tội bẩm sinh, mà là các đặc
điểm về mặt xã hội, được thể hiện qua xử sự chống lại xã hội. Nhân thân bao
gồm nhiều mặt, thể hiện những đặc điểm, đặc tính xã hội khác nhau, thể hiện
tính cá biệt và tính không lặp lại của mỗi người cụ thể. Người phạm tội, cho
dù thực hiện bất kỳ một tội phạm nào thì cũng là một con người. Con người
sinh ra không phải để trở thành người phạm tội, nhưng con người có khả năng
trở thành người phạm tội nếu trong quá trình trưởng thành của con người gặp
phải những điều kiện không thuận lợi khi hình thành nhân cách và người đó
rơi vào hoàn cảnh, tình huống nhất định. Vì vậy hành vi phạm tội của con
người không phải là hành vi tất yếu phải xảy ra với con người đó.
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học khác nhau như: Tội phạm học, Xã hội học, Khoa học hình sự, Khoa
học tố tụng hình sự… Nhân thân là phạm trù xã hội phức tạp được nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của từng
ngành khoa học cụ thể: 1) Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học:
nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tình hình tội phạm; nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những biện
31. 23
pháp phòng ngừa tội phạm nhằm từng bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi
tội phạm trong đời sống xã hội. Nói cách khác, Tội phạm học là ngành
khoa học chuyên nghiên cứu về tội phạm có nhiệm vụ phát hiện quy luật
của tội phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh, tồn tại và vận động của
tội phạm; do vậy, nghiên cứu về “nhân thân người phạm tội trong Tội
phạm học cũng không nằm ngoài mục đích đó. Trên khía cạnh Tội phạm
học, Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc tính, các dấu hiệu thể
hiện bản chất xã hội, tính cá biệt, không lặp lại của con người mà trong
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và dưới sự tác động của chính
những điều kiện, hoàn cảnh đó động cơ phạm tội nảy sinh [15, tr.99]; 2)
Dưới học độ khoa học luật hình sự, nhân thân người phạm tô ̣i được nghiên
cứu với tính chất là căn cứ để quyết định hình phạt.
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm mang tính chất
xã hội của người phạm tội mà những đặc điểm này có ảnh hưởng đối với việc
cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt hoặc tha miễn trách nhiệm hình
sự hay hình phạt. Nhân thân người phạm tội không phải là một yếu tố cấu
thành tội phạm, nhưng những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự và khả năng giáo dục, cải
tạo đối với những người phạm tội.
Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội là một trong những căn
cứ xác định tính chất, mức độ nguy hiểm, nguyên nhân, động cơ, mục đích,
điều kiện của việc thực hiện tội phạm tội phạm; giúp cho tòa án đánh giá được
khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội để quyết định hình phạt phù
hợp. Trên cơ sở đó, Tòa án thực hiện được nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và
bảo đảm nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Xét
nhân thân người phạm tội là xét tổng hợp những quan hệ giữa người ấy với xã
hội, tập thể, gia đình, với người khác và xét đến những đặc điểm bản thân.
32. 24
Nhân thân người phạm tội là một khái niệm rộng, đa dạng, nhưng khi cân
nhắc nhân thân người phạm tội để quyết định hình phạt thì không được trừu
tượng hóa và tách rời khỏi tội phạm do người đó thực hiện, bởi hình phạt chỉ
áp dụng cho hành vi phạm tội đã được thực hiện chứ không phải cho nhân
thân của người phạm tội. Xem xét nhân thân người phạm tội khi quyết định
hình phạt không có nghĩa là xem xét nhân thân nói chung mà chỉ xem xét
những đặc điểm nhất định liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội cũng như
liên quan đến mục đích của hình phạt.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm sau: “Các tình tiết
tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội là những tình tiết phản ánh
những đặc điểm, đặc tính xã hội khác nhau của một con người cụ thể với tư
cách là chủ thể của tội phạm làm ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội,
làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội do đó làm tăng mức độ phải chịu
trách nhiệm hình sự của họ”.
1.2.2. Đặc điểm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội
Các dấu hiệu nhân thân người phạm tội thuộc về tình tiết tăng nặng
TNHS có các đặc điểm sau:
a) Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân ngƣời phạm
tội là tình tiết là tình tiết phán ánh những đặc điểm, đặc tính xã hội khác
nhau của một con ngƣời cụ thể
Thứ nhất: Người phạm tội là một con người cụ thể.
Người phạm tội dù có phạm tội nghiêm trọng đến đâu thì cũng là một
con người cho nên người phạm tội trước tiên phải mang đặc điểm của một
con người. Mác - Lênin cho rằng: “Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã
hội. Con người được tự nhiên sinh ra cho nên trước tiên mang các đặc tính
của sinh vật. Cái sinh học trong con người qui định sự hình thành những hiện
tượng và quá trình tâm lý trong con người” [6, tr.255].
33. 25
Mỗi con người – một nhân thân, mặc dù các nhân thân có ý nghĩa và
giá trị khác nhau: Một số là tích cực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, số khác
lại cản trở xã hội, số thứ ba giữ lập trường thụ động; nhưng cải tạo thành giá
trị đích thực của nhân thân không phải là nguồn gốc xuất thân từ địa vị xã hội,
của của cải, trình độ hiểu biết…. của con người, mà là ở lập trường xã hội,
tính tích cực xã hội và những đóng góp của nó vào sự tiến bộ chung của xã
hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nhân thân con người là một
phạm trù xã hội- lịch sử. Nó là sản phẩm của một thời đại nhất định được quy
định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội. C.Mác viết:
“Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội” [20, tr.257]
Nhân thân con người là tổng thể các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản
chất của con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Đó là các đặc điểm,
dấu hiệu sinh học, nhân khẩu học, các đặc điểm về xã hội học, đạo đức – tâm
lý. Để biết và hiểu được nhân thân người phạm tội thì những người có thẩm
quyền điều tra, xét xử một con người phải quan tâm đến giá trị xã hội và các
phương diện hiện thực của người đó như xã hội, những người xung quanh, gia
đình, lao động, nghĩa vụ công dân…. Nội dung của các mối quan hệ đó đặc
trưng cho định hướng của nhân thân. Đối với nhân thân, quan trọng hơn cả là
có được các mối quan hệ sâu sắc, ổn định vì xuất phát từ đó mà hình thành
nên quan điểm, lý tưởng, lập trường, quan điểm đạo đức của con người. Cách
xử sự của con người trong xã hội – cái mà nhân thân thể hiện ra bên ngoài
cũng gắn liền với lĩnh vực trí tuệ, cảm xúc và ý chí của nhân thân.
Bản chất xã hội của tâm lý nhân thân biểu hiện ở chỗ nó không bị quy
về các đặc thù tâm lý cá nhân của con người mà là sự thống nhất giữa cái
chung, cái đặc thù và cái riêng trong sự phát triển và hình thành của nó. Với
34. 26
nghĩa đó thì nhân thân kế thừa và phản ánh kinh nghiệm xã hội của mọi thế hệ
trước, tiếp xúc ở một chừng mực nào đó với các thành tựu văn hóa, lao động
sáng tạo, ứng xử xã hội mang tính nhân loại chung của các dân tộc khác nhau
và đồng thời nắm bắt lấy chúng. Ngoài ra nhân thân bao giờ cũng thể hiện
trong mình các đặc điểm của một chế độ xã hội nhất định trong ý thức giai
cấp, trong thể giới quan chung và lý tưởng chính trị của nó,… Cuối cùng,
nhân thân con người là sự thể hiện các đặc điểm cá nhân không lặp lại, trong
quá trình phản ánh con đường sinh sống cá thể, sự tồn tại cá nhân của nó – tồn
tại được quy định bởi một nội dung cụ thể của các mối quan hệ gia đình, sản
xuất, sinh hoạt,… Đó là môi trường vi mô mà trong đó, con người sống, hoạt
động hình thành với tư cách là một nhân thân.
Thứ hai, Nhân thân con người là khởi nguồn cho nhân thân người
phạm tội
Nhân thân con người gắn chặt với xã hội, đặc tính sinh học, đạo đức -
tinh thần; văn hóa - lịch sử. Nghiên cứu nhân thân con người là cơ sở, căn cứ
pháp lý để nắm bắt được cấu trúc cần thiết trong con người của người phạm
tội, nhằm xác định các đặc điểm, dấu hiệu, quan hệ nào đặc trung cho con
người vi phạm pháp luật đã cấu thành nên nhân thân người phạm tội. Các đặc
điểm, dấu hiệu này quy định và thể hiện mối nguy hiểm xã hội của nhân thân
người phạm tội. Nhân thân người phạm tội là một hệ thống các đặc điểm, dấu
hiệu mà trong tổng thể của mình đặc trưng cho chính cá nhân con người đã
thực hiện hành vi phạm tội này hay hành vi phạm tội khác, đặc trưng cho các
phương diện và biểu hiện khác nhau của sự tồn tại trong xã hội và thực tiễn
sinh hoạt của con người phạm tội đó. Và các đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng này
trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến hành vi chống lại xã hội của con
người đó, đến việc thực hiện tội phạm hoặc là cho phép hiểu được các nguyên
nhân dẫn đến việc phạm tội của người đó. Hệ thống các đặc điểm, dấu hiệu
đặc trưng đó có thể chia làm 3 nhóm:
35. 27
Nhóm 1: Các dấu hiệu, biểu hiện nhân khẩu học – xã hội trong các lĩnh
vực đời sống khác nhau, bao gồm: tuổi tác, trình độ học vấn, địa vị xã hội,
nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, thành phần xuất thân trong xã hội và một số
dấu hiệu khác (đời sống vật chất, điều kiện gia đình, nhà ở…);
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu pháp lý – hình sự: Là các dấu hiệu về tính
chất của hành vi phạm tội, về mục đích và động cơ phạm tội, phạm tội một
mình hay có tổ chức, phạm tội lần đầu hay tái phạm… Các dấu hiệu này là
tiêu chí quan trọng để phán xét về nhân thân người phạm tội, về mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội. Nhưng cũng sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu tuyệt
đối hóa ý nghĩa của tội phạm trong việc đánh giá nhân thân người phạm tội,
xây dựng sự đánh giá đó chỉ dựa trên các dấu hiệu về tội phạm. Pháp luật đòi
hỏi phải xem xét nhân thân người phạm tội đã thực hiện, đánh giá các tình tiết
tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 46, 48 Bộ luật hình sự
1999). Tội phạm với động cơ và các dấu hiệu khác nhau của nó có thể phù
hợp với các phẩm chất đạo đức ổn định của nhân thân người phạm tội, phù
hợp với mục đích, định hướng giá trị của nó,… nhưng cũng có thể không phù
hợp, mà đối với nhân thân phù hợp lại là những biểu hiện một cách ngẫu
nhiên, không đặc trung, được ấn định bởi hoàn cảnh bột phát đặc biệt, từ đó
xác định trách nhiệm một các thích đáng đối với từng con người phạm tội cụ
thể. Đối với nhân thân người phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội thể hiện
các đặc điểm, xác định của nhân thân trong một hoàn cảnh cụ thể, trong đó tội
phạm được chuẩn bị và thực hiện. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng bên cạnh
các động cơ ổn định và bền vững, còn có động cơ do diễn biến ngẫu nhiên của
tình hình mà xuất hiện. Động cơ có thể là mâu thuẫn và không nhất quán,
chẳng hạn động cơ có thể là một trạng thái nhất thời, không bền vững, gắn
liền với phản ứng trước một hoàn cảnh sinh hoạt cụ thể.
Nhóm 3: Nhóm các đặc điểm đạo đức – tâm lý: Các đặc điểm đạo đức
36. 28
– tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong việc đánh giá nhân thân người phạm tội,
lột tả bản chất, nội dung bên trong, mô tả thế giới nội tâm của tội phạm và
người phạm tội. Đối với nhân thân người phạm tội, các đặc điểm chủ yếu như
nhu cầu, sở thích, hứng thú, ước muốn, nguyện vọng… đối với những hoạt
động của họ nói chung được cụ thể hóa trong sự thay đổi biến dạng đặc trưng
cho những dạng người phạm tội đó.
Đặc trưng của nhân thân người phạm tội là một tập hợp các dấu hiệu,
đặc điểm tạo thành một thể thống nhất không tách rời, giữa chúng có sự phụ
thuộc, có mối quan hệ nhất định, bổ sung, hỗ trợ liên hoàn cho nhau. Các điều
kiện đời sống cụ thể của mỗi cá nhân – nhân khẩu học – xã hội ở một chừng
mực nào đó đã xác định địa vị của chính cá nhân đó trong lĩnh vực đời sống
xã hội khác nhau, và cũng với địa vị đó là các nhân tố mang tính quyết định
trong việc hình thành và phát triển các phẩm chất, đạo đức của nhân thân. Sự
tác động qua lại giữa các mặt của nhân thân thể hiện khá rõ trong nhiều
trường hợp phạm tội. Con người trở thành tội phạm là do ảnh hưởng của các
điều kiện và tác động không tốt từ bên ngoài (mà người đó tự tạo ra hoặc tìm
thấy nhờ các đặc điểm đạo đức, tâm lý của mình); các điều kiện và tác động
không tốt này được con người tiếp nhận và phản ánh trong nhận thức của họ
một cách phù hợp với quan niệm đạo đức, đặc điểm trí tuệ, cảm xúc và ý chí
vốn có của người đó.
Thứ ba, Nhân thân người phạm tội là nhân thân của người có lỗi trong
việc thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự nghiêm
cấm và trừng trị.
Thực chất, Nhân thân người phạm tội là sự cụ thể hóa nhân thân con
người một cách quá mức thông qua những hành vi và gây nguy hiểm cho xã
hội nhằm đạt được mục đích cá nhân – thỏa mãn yếu tố về tuổi tác, thực hiện
sở thích, nâng cao trí tuệ, thực hiện thói quen, sĩ diện, đạt được địa vị xã hội,
đáp ứng nhu cầu cuộc sống,… trong một hoàn cảnh xã hội nhất định.
37. 29
Mỗi con người luôn tồn tại hai mặt tích cực và mặt tiêu cực của bản
chất xã hội, mặt tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, mặt tiêu cực đẩy
lùi, ngăn chặn, chống đối lại sự phát triển xã hội. Nhân thân người phạm tội là
sự thể hiện mặt tiêu cực của con người bên trong người phạm tội thông qua
lăng kính của người đó nhìn nhận về xã hội theo khuynh hướng tiêu cực.
b) Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội
làm tăng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Tính nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội thường
được hình thành trước thời điểm thực hiện tội phạm. Việc xuất hiện dần tính
nguy hiểm được thể hiện qua hành vi vi phạm. Những hành vi đó được thực
hiện nhiều lần thì tính nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người đó tăng
dần tạo tiền đề khuynh hướng chống đối xã hội có khả năng thực hiện tội
phạm [38, tr.161].
Khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phải
xem xét hành vi đó trong mối quan hệ của tổng thể các tình tiết sau đây: Tính
chất của khách thể là các quan hệ xã hội bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại;
tính chất của hành vi khách quan, bao gồm cả tính chất của phương pháp thủ
đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội; mức độ thiệt hại gây ra hoặc bị đe dọa
gây ra cho quan hệ xã hội bị xâm hại; tính chất và mức độ lỗi; mục đích và
động cơ phạm tội; nhân thân người phạm tội; hoàn cảnh chính trị xã hội cụ
thể nơi có hành vi phạm tội xảy ra.
c) Đƣợc quy định bởi Bộ luật hình sự
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung cũng như tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc nhân thân người phạm tội nhất thiết phải
được nhà làm luật ghi nhận, quy định trong Bộ luật hình sự thì mới được coi
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tòa án không được căn cứ vào bất
kỳ văn bản pháp lý khác (trừ Bộ luật hình sự) hoặc tự cân nhắc, xem xét các
tình tiết khác làm tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.
38. 30
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 14 tình tiết tăng nặng TNHS quy
định tại khoản 1 Điều 48 BLHS. Như đã phân tích ở trên, phân loại căn cứ
vào tính chất của tình tiết tăng nặng TNHS và đối chiếu với các tình tiết tăng
nặng TNHS tại khoản 1 Điều 48 BLHS ta xác định được các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội bao gồm:
- Phạm tội có tính chuyên nghiệp;
- Phạm tội nhiều lần, tái phạm; tái phạm nguy hiểm;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn phương tiện
có khả năng gây hại cho nhiều người;
- Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
1.2.3. Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc
về nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là vấn đề phức tạp, nghiên cứu nhân thân
người phạm tội nhằm giải quyết vấn đề tội phạm trong xã hội là trách nhiệm
của nhiều ngành khoa học; tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân
người phạm tội mang ý nghĩa làm làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm cũng như khả năng cải tạo của người phạm tội chính vì vậy nó có ý
nghĩa chính trị-xã hội, pháp lý và khoa học thực tiễn quan trọng:
Thứ nhất: Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người
phạm tội là phương diện phân hóa trách nhiệm hình sự vì có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử muốn giải quyết đúng đắn vấn đề trách
nhiệm hình sự của người phạm tội phải nghiên cứu đầy đủ về nhân thân người
phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, việc nghiên cứu tình tiết
tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc định
tội, định khung hình phạt cũng như áp dụng hình phạt; giúp Tòa án đánh giá
đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Các tình tiết tăng
39. 31
nặng TNHS là cơ sở pháp lý cần thiết cho việc vận dụng chính sách nghiêm
trị của nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội. Điều đó thể hiện rõ vai
trò phân hóa trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội.
Thứ hai: Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm
tội đóng vai trò là phương tiện để cá thể hóa TNHS.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội phát sinh từ sự tác động qua lại giữa
các điều kiện bên ngoài vào điều kiện bên trong (điều kiện khách quan và
điều kiện chủ quan). Đối với mỗi loại tội phạm đều có khung hình phạt riêng
mà khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa khá rộng. Khi quyết định hình
phạt cần phải cân nhắc đến các căn cứ để quyết định hình phạt một cách công
minh nhất. Các tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội với vai
trò là một căn cứ đó được sử dụng như một phương tiện để cá thể hóa TNHS.
Nghiên cứu các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm
tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nguyên nhân của tội phạm.
Nguyên nhân thực hiện tội phạm cụ thể là khuynh hướng thể hiện tính chất
chống đối xã hội của con người cụ thể, mà trước hết là động cơ xử sự của con
người đó trong sự tác động qua lại với môi trường và hoàn cảnh cụ thể, thuận
lợi cho việc thực hiện tội phạm.
Nhiệm vụ nghiên cứu nhân thân người phạm tội là nhiệm vụ chung của
nhiều ngành khoa học. Đối với pháp luật hình sự Việt Nam, vấn đề nghiên
cứu nhân thân người phạm tội lại càng có ý nghĩa quan trọng, vì trọng tâm
của khoa học luật hình sự Việt Nam là cá thể hoá trách nhiệm hình sự. Chỉ có
thể xác định được mức độ trách nhiệm hình sự, từ đó tìm ra những biện pháp
pháp lý, những con đường hay nhất để trừng trị và giáo dục người phạm tội
khi xác định được đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng cho nhân thân người phạm
tội, mức độ cũng như ý thức, động cơ chủ yếu về cách xử sự của họ trước và
sau khi phạm tội.
40. 32
Vấn đề nhân thân là vấn đề quan trọng vì Nhà nước ta giáo dục từng
con người cụ thể, truy cứu trách nhiệm hình sự từng con người cụ thể. Luật
hình sự Việt Nam có các quy định về yếu tố nhân thân người phạm tội khi
quyết định hình phạt (các Điều 45, 60 và 69 BLHS).
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, khi quyết định hình phạt Toà án bao giờ
cũng coi các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội là một
trong những căn cứ để quyết định loại và mức hình phạt đối với bị cáo. Việc
cân nhắc nó một cách đầy đủ, cụ thể tức là chỉ ra các đặc điểm cụ thể đặc
trưng cho mặt tốt, mặt tích cực, lẫn mặt xấu, mặt tiêu cực của người phạm tội
có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, cũng như liên quan đến mục đích
tội phạm và hình phạt. Các đặc điểm cụ thể đó là các đặc điểm có ảnh hưởng
đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các đặc điểm phản
ánh khả năng giáo dục, cải tạo của họ và các đặc điểm phản ánh hoàn cảnh
đặc biệt của họ. Việc cân nhắc nhân thân một cách đầy đủ sẽ là căn cứ thuyết
phục để Toà án quyết định hình phạt này hay hình phạt khác, đảm bảo hình
phạt đó tuyên có tính thực tế, phù hợp các nguyên tắc của luật hình sự cũng
như đáp ứng được mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội.
Tính nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội phụ thuộc
trực tiếp vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực
hiện và ngược lại, nhưng đồng thời cũng không đồng nhất với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện. Những người phạm
tội trong thực tế có những đặc điểm rất khác nhau về mọi mặt, có những đặc
điểm được thể hiện trong tội phạm đã thực hiện, nhưng có những đặc điểm
không được thể hiện trong đó. Việc xem xét và làm sáng tỏ những đặc điểm
về nhân thân người phạm tội giúp ta hiểu được quá khứ, hiện tại và khả năng
cải tạo, giáo dục của người phạm tội trong tương lai, đồng thời qua đó xác
định được nguyên nhân, điều kiện của việc thực hiện tội phạm cũng như mức
41. 33
độ lỗi của bị cáo... [44, tr.21]. Tất cả những điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với
việc cá thể hoá hình phạt.
Thứ ba, trong luật hình sự, nhân thân người phạm tội nói chung và các
tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội nói riêng có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ. Và là một trong
các điều kiện cần thiết để đạt được mục đích của hình phạt.
Khi xem xét các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người
phạm tội là xem xét tổng thể mối quan hệ giữa người đó với xã hội, tập thể,
gia đình, với người khác và xét đến những đặc điểm của bản thân người
phạm tội. Vì vậy, khi cân nhắc nhân thân người phạm tội để quyết định hình
phạt thì không được trừu tượng hóa và tách rời chúng khỏi tội phạm đã thực
hiện và cũng không chỉ xuất phát từ tội phạm đã thực hiện bởi hình phạt
luôn là hình phạt cho hành vi phạm tội đã thực hiện chứ không phải cho nhân
thân người phạm tội.
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
cải tạo, giáo dục họ vì vậy khi giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự phải đảm
bảo xem xét toàn diện, đầy đủ và công minh vụ án, có như vậy mới đem lại sự
công bằng, nghiêm minh và thể hiện sự nghiêm trị của pháp luật đối với người
phạm tội, đó chính là mục đích to lớn của hình phạt và cũng là ý nghĩa quan
trọng của các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội.
Những đặc điểm nhân thân người phạm tội với tính cách là tình tiết
tăng nặng TNHS được nghiên cứu, cân nhắc, đánh giá dưới hai khía cạnh:
Khía cạnh pháp luật hình sự và khía cạnh tội phạm học. Nghiên cứu, cân
nhắc, đánh giá nhân thân ở khía cạnh pháp luật hình sự là nhằm làm sáng tỏ
những tình tiết có ý nghĩa trực tiếp đối với việc quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm tội. Tức là, Toà án nghiên cứu, cân nhắc, đánh giá nhân thân
người phạm tội dưới khía cạnh pháp luật hình sự để giải quyết đúng đắn vấn
42. 34
đề TNHS đối với họ. Như vậy, để có căn cứ cho việc quyết định hình phạt
đúng pháp luật, công bằng, hợp lý, tương xứng với tội phạm mà người phạm
tội đã thực hiện, tạo điều kiện cho việc đạt được mục đích của hình phạt thì khi
quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc nhân thân người phạm tội, các tình
tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội giúp Tòa án đánh giá chính
xác mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như có ý nghĩa
quan trọng trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội và hoạt động phòng
ngừa tội phạm.
Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân còn có ý
nghĩa xã hội đó là việc đảm bảo thực hiện công bằng xã hội và thực hiện chính
sách “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng” của pháp luật hình sự Việt Nam.
1.3. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân
thân ngƣời phạm tội trong luật hình sự một số nƣớc trên thế giới
1.3.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự Liên bang Nga
BLHS Liên bang Nga có hiệu lực từ ngày 01/3/1996 bao gồm 12
chương, 352 Điều. Điều 63 BLHS Liên bang Nga quy định các tình tiết tăng
nặng hình phạt như sau:
1. Những tình tiết dưới đây là tình tiết tăng nặng:
a) Phạm tội nhiều lần, tái phạm;
b) Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng;
c) Phạm tội trong thành phần một nhóm người, một nhóm
người có dự mưu, có tổ chức hoặc trong một tổ chức phạm tội;
d) Giữ vai trò đặc biệt tích cực trong việc thực hiện tội phạm;
đ) Lôi kéo vào việc thực hiện tội phạm những người phạm tội
biết rõ bị bệnh tâm thần hoặc đang trong tình trạng say, cũng như
người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
43. 35
e) Phạm tội vì căm thù dân tộc, chủng tộc; tôn giáo hoặc trả thù
vì hành vi trái pháp luật của người khác; phạm tội một cách tàn bạo
cũng như vì mục đích che giấu hoặc làm giảm nhẹ tội phạm khác;
g) Phạm tội đối với người thi hành công vụ hoặc thi hành
nghĩa vụ xã hội cũng như đối với thân nhân của họ;
h) Phạm tội đối với phụ nữ mà biết rõ là đang có thai, trẻ em,
người trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc không người cứu
giúp, người bị lệ thuộc vào người phạm tội;
i) Phạm tội một cách tàn ác, có tính chất làm nhục hoặc gây
đau đớn cho người bị hại;
k) Phạm tội có sử dụng vũ khí, chất nổ hoặc cưỡng bức về
thân thể hoặc tinh thần;
l) Phạm tội trong điều kiện của tình hình đặc biệt, thiên tai
hoặc tai hoạ xã hội khác, cũng như trong lúc bạo loạn;
m) Phạm tội có lợi dụng tín nhiệm do vị trí công tác của
người phạm tội hoặc do hợp đồng.
2. Nếu tình tiết tăng nặng được quy định tại điều luật thuộc
phần riêng của Bộ luật này là dấu hiệu của một tội phạm, thì nó
không được coi là tình tiết tăng nặng nữa khi quyết định hình
phạt [40, Điều 63].
Như vậy có thể thấy BLHS Việt Nam và Bộ luật hình sự Liên bang
Nga có rất nhiều nét tương đồng quy định về tình tiết tăng nặng thuộc nhân
thân người phạm tội như phạm tội nhiều lần, tái phạm; giữ vai trò đặc biệt
tích cực trong việc thực hiện tội phạm; phạm tội một cách tàn ác, có tính chất
làm nhục hoặc cố ý gây đau đớn cho người bị hại; phạm tội có lợi dụng tín
nhiệm do vị trí công tác của người phạm tội hoặc do hợp đồng.
44. 36
1.3.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự Nhật Bản
Bộ luật Hình sự Nhật Bản hiện hành được sửa đổi bổ sung ngày
24/6/2011 gồm 40 chương, 264 Điều luật. Bộ luật Hình sự Nhật bản không quy
định riêng Điều luật về tình tiết tăng nặng nhưng tại “Chương X: Phạm tội nhiều
lần” có quy định về Tái phạm (Điều 56), Phạm tội nhiều lần trên 3 lần (Điều 59).
Điều 57 quy định “Khi tái phạm thì thời gian phạt tù dài gấp đôi mức
phạt tù đối với tội đó”; Điều 59 quy định “Khi xử người phạm tội trên 3 lần
thì sẽ xét xử theo quy định về tái phạm”.
Tại chương XIII: Phương pháp tăng nặng, giảm nhẹ, Điều 72 quy định:
Nếu cùng một lúc phải tăng nặng và giảm nhẹ hình phạt thì
xét theo thứ tự dưới đây:
1. Tăng nặng hình phạt khi tái phạm.
2. ...
3. Tăng nặng hình phạt khi tổng hợp hình phạt đối với người
phạm nhiều tội.
... [16, Điều 72].
Có thể thấy Bộ luật Hình sự Nhật Bản không có điều khoản riêng
biệt quy định liệt kê các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người
phạm tội nhưng có quy định chương riêng về phạm tội nhiều lần và phương
pháp tăng nặng.
1.3.3. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào gồm 17 chương, 162
điều luật, trong đó quy định các tình tiết sau là tình tiết tăng nặng:
- Tái phạm;
- Phạm tội có tổ chức;
- Phạm tội do trục lợi: phạm tội đối với người chưa thành niên, người
45. 37
già, người bị lệ thuộc về mặt vật chất hoặc người đang chịu sự giám hộ, quản
lý của người phạm tội, thúc dục và lôi kéo người chưa thành niên tham gia
vào hành vi phạm tội;
- Có những hành động tàn bạo đối với người bị hại, thực hiện tội phạm
bằng những phương pháp nguy hiểm, gây hậu quả nghiêm trọng;
- Phạm tội trong tình trạng say rượu hoặc do dùng chất ma túy.
Như vậy, so với Bộ luật hình sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Bộ luật hình sự của các nước Liên Bang Nga, Nhật Bản, Cộng
hòa DCND Lào có cùng quy định về tình tiết tăng nặng thuộc nhân thân
người phạm tội là Tái phạm, phạm tội nhiều lần. Cũng do đặc thù của mỗi
quốc gia, các điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm mà có những quy định về các tình tiết tăng nặng
khác nhau. Ở Việt Nam, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi sướng từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, mà trọng tâm là đổi mới về
kinh tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
đang dần được định hình, từng bước phát triển và đã đạt được những thành
tựu quan trọng. Kinh tế thị trường Việt Nam đã có những bước phát triển
quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nó đã
mang lại những lợi ích to lớn, nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải
quyết, trong đó có lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong mỗi giai
đoạn, Bộ luật hình sự cũng đã được sửa đổi, điều chính phù hợp nhằm đáp
ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện mới, góp phần
bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển đúng
hướng và bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Trên cơ sở đó, các quy định về tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự của Việt Nam cũng
được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với đặc thù phát triển kinh tế- xã hội và
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam.
46. 38
Chƣơng 2
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC
TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THUỘC VỀ
NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI Ở HÀ GIANG
2.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân
thân ngƣời phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
2.1.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân
thân người phạm tội trong luật hình sự từ 1945 đến trước 1999
2.1.1.1. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân
người phạm tội trong luật hình sự từ 1945 đến trước 1985
Ngay sau khi cách mạng Tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa đã đặc biệt quan tâm đến công tác pháp luật, trong đó có Luật
Hình sự nhằm góp phần bảo vệ trật tự trị an xã hội, bảo vệ chính quyền nhân
dân. Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm làm cơ
sở để truy tố, xét xử các loại tội phạm, trong đó có các quy định về tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc nhân thân người phạm tội như: Pháp
lệnh ngày 30/10/1967 trừng trị các tội phản cách mạng; Pháp lệnh ngày
21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân (do
Lệnh số 150/LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố); Bản tổng kết
và hướng dẫn số 09-NCPL ngày 08/01/1968 của Tòa án nhân dân tối cao về
đường lối xét xử tội cờ bạc; Bản tổng kết ngày 10/8/1970 của TAND tối cao về
thực tiễn xét xử loại tội giết người; Chỉ thị số 1025 ngày 15/6/1960 của Tòa án
nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội giết người vì mê tín... [30, tr.108-110].
Nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự và các bản tổng kết thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân tối cao trong giai đoạn này cho thấy hệ thống pháp luật