SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  125
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA TRONG XÉT XỬ
VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
NGUYỄNTHỊHỒNGNHUNGLUẬTHÌNHSỰVÀTỐTỤNGHÌNHSỰHÀNỘI-2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA TRONG XÉT XỬ
VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã ngành : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.TRẦN VĂN LUYỆN
HÀ NỘI, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................ 7
1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:..................................7
1.1.1. Khái niệm tranh tụng: .............................................................7
1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa:.........................................8
1.2. Vai trò tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:........................................8
1.3. Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:.................................11
1.3.1. Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa: .....................................11
1.3.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng: ....................14
1.3.3. Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án
hình sự: ...........................................................................................16
1.3.4. Nội dung hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử
vụ án hình sự:..................................................................................19
1.3.5. Phạm vi và các giai đoạn của quá trình tranh tụng:..............21
1.4. Tìm hiểu về tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ở một số quốc
gia trên thế giới..........................................................................................................28
1.4.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống
châu Âu lục địa: ..............................................................................28
1.4.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống
pháp luật Anh- Mỹ: .........................................................................31
1.4.3. Lịch sử phát triển tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam: ........33
Kết luận chƣơng 1 .........................................................................................48
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ HOẠT
ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở
TỈNH BẮC NINH..........................................................................................50
2.1. Tình hình xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008-2013:.........50
2.2. Thực trạng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc
Ninh giai đoạn 2008 – 2013:....................................................................................67
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét
xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh. ...........................................................................74
Kết luận chƣơng 2 .........................................................................................79
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH........................................................................81
3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ
án hình sự...................................................................................................................81
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ
án hình sự:..................................................................................................................83
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS hiện hành liên
quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự:.....................83
3.2.2. Nâng cao trình độ, kĩ năng điều khiển tranh tụng của Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân:...............................................................89
3.2.3. Mở rộng, nâng cao quyền bào chữa: .....................................95
3.2.4. Nâng cao chất lượng của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa:...........................................................................98
3.2.5. Xây dựng cơ sở vật chất, điều chỉnh chính sách tiền lương cho
Thẩm phán, Kiểm sát viên đảm bảo chất lượng tranh tụng: ............99
3.2.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người hiểu
và thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa: .........................101
Kết luận chƣơng 3 .......................................................................................103
KẾT LUẬN..................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
TAND Tòa án nhân dân
TNHS Trách nhiệm hình sự
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh ……………
Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu vụ án hình sự sơ thẩm của ngành Tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Ninh có luật sư tham gia từ năm 2008 đến 2013 …
105
106
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Trang
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2008-2013) ..............
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ vụ án hình sự sơ thẩm có luật sư tham gia (2008-2013).....
107
108
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm
trọng, diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các
cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp
phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy
nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử nói riêng còn
chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, còn
bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân. Trong khi
chất lượng tranh tụng hiện nay còn nhiều hạn chế như sự có mặt của người
bào chữa tại phiên tòa, quyền bào chữa của bị cáo chưa thực sự được đảm
bảo… Đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư và các cán
bộ tư pháp khác chưa được chuẩn bị đầy đủ về kỹ năng nghề nghiệp theo yêu
cầu cải cách tư pháp; kinh nghiệm thực tiễn về tranh tụng còn hạn chế nên
không tránh khỏi khó khăn, lúng túng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình theo quy định của pháp luật.
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị
ra đời trở thành định hướng chiến lược cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước
ta. Nghị quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ tư pháp, trong
đó tăng cường tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự được coi là vấn
đề trọng tâm của Nghị quyết. Theo đó, các quy định trong tố tụng hình sự
2
phải đảm bảo tính khách quan, phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của
Tòa án là hiện thân của công lý, công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp
bách được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp là làm thế nào để đạt được
những yêu cầu cải cách tư pháp liên quan đến vấn đề tranh tụng. Với vai trò
quan trọng như vậy, việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa luôn
luôn là một nhu cầu, một đòi hỏi cấp thiết khách quan.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, tình hình kinh
tế ở Bắc Ninh cũng có nhiều thay đổi. Là một tỉnh được tách ra từ tỉnh Hà Bắc
cũ, được tái lập theo nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 ngày
06/11/1996, với đặc điểm là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng Bắc bộ, có nhiều
làng nghề truyền thống, giao thông thuận lợi, Bắc Ninh thu hút được rất nhiều
nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư. Nhiều khu công nghiệp đã được xây dựng
và đi vào hoạt động như khu công nghiệp Tiên Sơn, khu công nghiệp Quế Võ,
khu công nghiệp Yên Phong… ngoài ra còn có các cụm công nghiệp vừa và
nhỏ và là nơi tập trung các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Tuy
nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế nói trên thì bên cạnh đó các loa ̣i
tội pha ̣m cũng c ó xu hướng ngày mô ̣t gia tăng , đây là vấn đề được sự quan
tâm của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Tỉnh uỷ, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều Nghị quyết và quyết
định yêu cầu các ban, ngành, các tổ chức xã hội đề ra và áp dụng nhiều biện
pháp cụ thể nhằm đấu tranh với các loại tội phạm trên đi ̣a bàn . Các cơ quan
bảo vệ pháp luật như Toà án, Viện kiểm sát, Công an là những cơ quan được
giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với các loại tội phạm. Trong đó Tòa án đóng
vai trò trung tâm trong toàn bộ quá trình tố tụng, thể hiện đầy đủ nhất bản chất
của hệ thống tư pháp của mỗi nhà nước, là giai đoạn quyết định tính đúng
đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và
3
lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Phiên tòa là nơi có sự tham gia đầy đủ
của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên tòa,
bằng thủ tục trực tiếp, công khai, qua nghe ý kiến tranh tụng của các bên tham
gia tố tụng, Tòa án (với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng quan trọng nhất)
tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết giải
quyết vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật.
Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu hoàn thiện cơ sở
lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa đóng vai trò quan trọng nhằm
hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nói chung và hiệu quả phiên
tòa xét xử vụ án hình sự nói riêng. Hơn nữa, hiện nay chưa có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề này đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trước
yêu cầu đó, nhằm đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt động tố tụng
hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội, góp phần làm sáng tỏ về
mặt lý luận và thực tiễn nên tác giả chọn đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn về
tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh" làm
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến
vấn đề tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự như:
Luận văn thạc sỹ luật học: “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử án hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn
Tiến Long, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
Luận văn thạc sỹ luật học “Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh
Hóa” của Mai Thị Nam, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, 2005.
4
Bài viết: “Bàn về một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tranh tụng
tại phiên tòa” của Nguyễn Mạnh Tiến, Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2005.
Bài viết “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” của
Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội số 7/2008;
Bài viết “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng
hình sự với chức năng xét xử của Tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp”
của Nguyễn Thương Tín, tạp chí nhà nước và pháp luật số 10/2008;
Bài viết “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo tinh thần cải
cách tư pháp một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Đức Mai, Tạp
chí tòa án nhân dân số 7/2007;
Bài viết “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng
hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 8/2008;
Bài viết “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng
hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Mai, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 12/2009;
Bài viết "Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh
Hào trong Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2003;
Bài viết "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" đăng trong
Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại Thắng.
Các bài viết đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, vấn đề tranh tụng trong
tố tụng hình sự nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất
định liên quan tranh tụng và còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh
vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ cơ sở lý luận,
quy định của Đảng, Nhà nước, pháp luật tố tụng hình sự và định hướng cải
5
cách tư pháp đặc biệt cải cách hoạt động xét xử; đồng thời đánh giá thực tiễn
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh, từ đó
chỉ ra những bất cập còn tồn tại của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử
vụ án hình sự để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa góp phần xây dựng phiên tòa hình sự thực sự công
bằng, dân chủ nhằm thực hiện quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét
xử vụ án hình sự.
+ Sơ lược về lịch sử các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về
tranh tụng tại phiên tòa.
+ Phân tích, đánh giá, so sánh các quy định về tranh tụng của pháp luật
một số nước trên thế giới.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét
xử vụ án hình sự ở Bắc Ninh giai đoạn 2008-2013.
+ Nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh trước yêu cầu cải cách tư pháp.
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu: Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố
tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án
nên trong phạm vi của một Luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết
hết mọi vấn đề mà chỉ tập trung nghiên cứu chính đến vấn đề điều khiển tranh
tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo thẩm quyền xét xử của Tòa án
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008 đến 2013.
6
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài:
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương
pháp lịch sử; phương pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến với những chuyên gia
đầu ngành, những người làm công tác thực tiễn lâu năm); phương pháp thống
kê xã hội học về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tranh tụng tại phiên tòa xét
xử vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng xét xử vụ án hình sự và hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
1.1.1. Khái niệm tranh tụng:
Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là
thành tựu của sự phát triển tư tưởng nền văn minh nhân loại. Tranh tụng là
nguyên tắc và cũng là cơ chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác
định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo công
bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Hiện nay,
trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng.
Theo từ điển Tiếng Việt, thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo
nhau” [55]. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ hai
từ “tranh luận” và “tố tụng” có nghĩa là “tranh luận trong tố tụng” [21]. Đó là
cuộc tranh luận giữa hai bên: “bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập trường
tương phản với nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử” [26].
Theo từ điển luật học năm 2006 của Viện khoa học pháp lý, Bộ tư pháp
thì khái niệm tranh tụng được hiểu như sau: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng
được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội)
có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ
các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm lợi ích của
phía bên đối lập” [58]. Còn tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có
nghĩa là đối kháng, đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa
hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội), mà giai đoạn
đương đầu tại Tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm. Tuy nhiên, không nên hiểu
một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa các bên tại phiên
tòa mà phải hiểu tranh tụng nó diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài,
8
được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là
việc bên buộc tội (công tố) cố gắng làm sao thuyết phục các quan tòa tin được
rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội cố gắng và phải sử dụng mọi
lý lẽ chứng cứ để bác bỏ lời buộc tội do bên Công tố đưa ra. Và điều đáng lưu
ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo phải bảo vệ thân
chủ bằng mọi giá.
Như vậy, xét về cách hiểu thông thường nhất, “Tranh tụng là việc từng
bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay
toàn bộ quan điểm của phía bên kia” [20].
1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa:
Theo từ điển luật học 2006, khái niệm tranh tụng tại phiên tòa được
hiểu như sau: “Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến
hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến,
luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia dưới sự
điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung tâm, trọng tài” [58].
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam năm
2003, những người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người
khác. Thời gian tranh luận không bị hạn chế. Nếu qua tranh luận mà xét thấy
cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX có thể quyết định trở lại việc xét hỏi
xong lại tiếp tục tranh luận.
Như vậy, tranh tụng tại phiên tòa bao giờ cũng gắn liền với hoạt động
tài phán của Tòa án. Tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xác định sự thật của vụ
án bằng cách điều tra công khai, chính thức về vụ án, nghe các bên tranh luận về
giải quyết vụ án từ góc độ nội dung cũng như pháp luật áp dụng để ra phán quyết.
1.2. Vai trò tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
Tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung có ý nghĩa rất
quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS), là vấn đề có tính thời sự
9
được xã hội quan tâm. Tranh tụng tại phiên tòa hình sự không chỉ là yêu cầu
của việc bảo đảm tính dân chủ, công bằng giữa những người tham gia tố tụng
với Viện kiểm sát (VKS), mà kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để Hội
đồng xét xử (HĐXX), Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án. Thực hiện các quy
định của BLTTHS năm 2003 và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới” trong đó xác định:
Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên
tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác.
Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán
quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết qủa tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng,
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những
bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời
hạn luật định.
Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật
sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa… [3].
Tranh tụng trong TTHS có một ý nghĩa rất đặc biệt, nó thể hiện rõ nét
trong giai đoạn xét xử tại tòa và là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể tham
gia vào tiến trình TTHS, thực hiện đầy đủ và đúng đắn các chức năng của
mình. Một số học giả còn cho rằng, tranh tụng chính là công cụ quan trọng
10
nhất để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, nguyên tắc tranh
tụng còn liên quan chặt chẽ đến các nguyên tắc khác của TTHS đặc biệt là các
nguyên tắc như suy đoán vô tội, quyền có người bào chữa của bị cáo và xác định
sự thật khách quan của vụ án…“Các nguyên tắc này tác động qua lại với nhau và
là điều kiện bảo đảm cho nhau cũng như toàn bộ tiến trình TTHS” [4].
Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, là giai
đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ
lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Do đó
tranh tụng tại phiên tòa có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định
trong giải quyết vụ án, điều đó thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện
thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án.
Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm
tra công khai tại phiên tòa. Việc chứng minh được các chủ thể có quyền, lợi
ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa) thực hiện một cách bình đẳng, dân
chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như tranh luận.
Thứ hai, phiên tòa đảm bảo sự tham gia của những người tham gia tố
tụng. Tại phiên tòa, quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố
tụng được quy định và được bảo đảm thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố
tụng trực tiếp, công khai. Tại phiên tòa khó có thể xảy ra các trường hợp vi
phạm pháp luật nghiêm trọng như bức cung, dùng nhục hình…
Thứ ba, phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng
đúng đắn pháp luật. Qua phân tích tranh luận đề nghị của các bên tham gia tố
tụng, Tòa án lựa chọn phương án áp dụng pháp luật chính xác nhất để giải
quyết vụ án.
Thứ tư, phiên tòa là nơi tốt nhất thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật. Thông qua các thủ tục tại phiên tòa, qua tranh luận và công bố bản
án, Tòa án giúp cho những người tham gia tố tụng cũng như những người
tham dự phiên tòa nâng cao hiểu biết pháp luật.
11
1.3. Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
1.3.1. Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa:
Các nhà nghiên cứu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới chứng minh
rằng tư tưởng về tranh tụng bắt nguồn từ ý tưởng của nhà triết học cổ đại nổi
tiếng người Hy Lạp Plato. Ông cho rằng “bằng cách nói chuyện (đối thoại) về
một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất
hiện và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật” [25]. Ý tưởng này của Plato được
các Luật gia Hy Lạp cổ đại phát triển và xây dựng thành là một trong những
nguyên tắc cơ bản của TTHS ở Nhà nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc
này được đưa vào áp dụng ở La Mã và các quốc gia cổ đại khác ở Châu Âu
với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” [18].
Trước đây, với quan niệm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng
của TTHS tư sản nên vấn đề này không được khoa học pháp lý quan tâm
nghiên cứu. Vì vậy, về mặt lý luận, tranh tụng không được thừa nhận và thuật
ngữ “tranh tụng” cũng chưa bao giờ được dùng trong các văn bản pháp luật
của nước ta. Những năm gần đây, tranh tụng đã được đề cập đến trong một số
bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Tranh tụng nói chung và tranh
tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng là một vấn đề mới mẻ đối với lĩnh vực tư
pháp ở nước ta. Trong quá trình xây dựng BLTTHS sửa đổi, đặc biệt là sau
khi có Nghị quyết số 08 thì vấn đề tranh tụng được đưa ra tranh luận sôi nổi.
Hiện nay, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau giữa
những người làm công tác thực tiễn và nghiên cứu khoa học về tranh tụng
trong TTHS ở chỗ xác định tranh tụng có phải là một nguyên tắc cơ bản của
TTHS Việt Nam không? Có thể phân các quan điểm này thành hai nhóm
chính sau đây:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng tố tụng tranh tụng là một kiểu tố
tụng hình được đặt ra nhằm giải quyết những tranh chấp, xung đột quan điểm
12
về thực tế của vụ án và về pháp luật giữa Công tố viên - Đại diện cho bên
buộc tội và Luật sư - Đại diện cho bên gỡ tội trong vụ án hình sự. Tố tụng
tranh tụng về thực chất là sự đối tụng giữa các bên đối lập theo quy định của
tố tụng mà Tòa án là người trọng tài, nghĩa vụ chứng minh được san sẻ cho tất
cả các bên (bên buộc tội và bên bào chữa). Về cơ bản, các quy định về thủ tục
tố tụng tại phiên tòa trong BLTTHS Việt Nam năm 2003 là phù hợp và trong
thực tiễn áp dụng không có gì vướng mắc lớn. Nghị quyết số 08-NQ/TW
nhấn mạnh đến vấn đề tranh tụng chỉ là nhằm khắc phục tình trạng ở một số
phiên tòa hiện nay đó là Kiểm sát viên quá thụ động, ỷ lại vào HĐXX nên
không tích cực tham gia xét hỏi cũng như tranh luận với người bào chữa, bị
cáo và những người tham gia tố tụng khác. Về phía HĐXX lại quá phụ thuộc
vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên không quan tâm xem xét
các chứng cứ, các yêu cầu và quan điểm bào chữa mà Luật sư và bị cáo đưa ra
tại phiên tòa. Vì vậy, vấn đề quan trọng là không phải là sửa đổi, bổ sung các
quy định của pháp luật về thủ tục tại phiên tòa mà chỉ cần chủ tọa phiên tòa
tăng thời gian để Luật sư và bị cáo được trình bày các ý kiến của mình tại
phiên tòa, không được ngắt lời hay hạn chế thời gian phát biểu của họ, bảo
đảm sự tranh luận dân chủ giữa Kiểm sát viên và những người tham gia tố
tụng khác là đủ. Nâng cao tính tranh tụng trong quá trình xét xử có nghĩa là
nâng cao hơn nữa hoạt động tranh luận tại phiên tòa. Vì vậy, không nên quy định
trong BLTTHS tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS.
Nhóm quan điểm thứ hai thì cho rằng: Tư pháp hình sự ở một số nước
dù được tổ chức theo mô hình tố tụng nào đi nữa (tố tụng xét hỏi hay tố tụng
tranh tụng), thì trong TTHS cũng đều tồn tại ba chức năng với ba nhóm chủ
thể: bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án. Do đó, “tranh tụng là nguyên tắc
quan trọng, nguyên tắc đặc trưng của hoạt động tư pháp và là đặc trưng nổi
bật nhất của tư pháp hình sự” [2].
, tùy thuộc vào sự thừa nhận và sự thể hiện
13
nội dung của nguyên tắc này (theo hướng mở rộng hay thu hẹp) trong các giai
đoạn tố tụng mà người ta phân biệt mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố
tụng xét hỏi. Còn tranh luận chỉ là một phần (một thủ tục) của phiên tòa hình
sự, mà trong đó các bên buộc tội và bên bào chữa đánh giá kết qủa xét hỏi
trên cơ sở phân tích và đánh giá pháp lý đối với hành vi phạm tội của bị cáo,
đề nghị HĐXX về các vấn đề cần giải quyết trong nội dung vụ án.
Tôi đồng tình với quan điểm cho rằng trong BLTTHS của Việt Nam
cần ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS để phân định rõ
chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử giữa các bên và Tòa án. Tranh luận
chỉ là sự thể hiện đậm nét nhất, tập trung nhất nội dung nguyên tắc tranh tụng,
khái niệm “tranh luận” có nội hàm hẹp hơn khái niệm “tranh tụng”. Việc ghi
nhận nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS không đồng nhất với việc xây
dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo mô hình tố tụng tranh tụng.
Với ý nghĩa là một nguyên tắc của TTHS, nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng hình sự đòi hỏi một số nội dung sau đây phải được thể hiện:
Một là, khẳng định sự tách bạch giữa các chức năng cơ bản của TTHS
(buộc tội, bào chữa và xét xử). Những chức năng này do các chủ thể khác
nhau thực hiện. Không thể có sự chồng lấn trong việc thực hiện các chức năng
tố tụng giữa các chủ thể, trong đó chức năng buộc tội thuộc về bên công tố,
chức năng gỡ tội thuộc về bên Luật sư và chức năng xét xử thuộc về Tòa án.
Hai là, bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong
việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép nhằm thực hiện đầy đủ
chức năng của mình ở các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử.
Ba là, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của người bị buộc tội trong
tất cả các giai đoạn tố tụng nhất là giai đoạn xét xử.
14
Bốn là, đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng,
kể từ khi cơ quan điều tra tiến hành điều tra hoặc có các hoạt động bắt, giam,
giữ người bị tình nghi.
Năm là, khẳng định nghĩa vụ của Tòa án tạo mọi điều kiện tốt nhất để
các bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, phải xem
xét vô tư, khách quan mọi chứng cứ và lý lẽ của bên buộc tội cũng như bên
bào chữa. Bản án của Tòa án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ
giữa các bên [24].
Nguyên tắc tranh tụng chính là điều kiện để bảo đảm việc xác định
đúng đắn sự thật khách quan của vụ án, hình thức tranh tụng giúp cho việc
kiểm tra tại phiên tòa từng chứng cứ, từng chi tiết của vụ án ở cả hai góc độ
buộc tội và gỡ tội. Nhờ đó Tòa án có thể nghiên cứu, đánh giá tất cả những gì
mà bên buộc tội khẳng định cũng như tất cả những gì mà bên gỡ tội phản bác.
Trên cơ sở đó xác định đúng người phạm tội để trừng trị đồng thời không làm
oan người vô tội, tạo tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Tuy nhiên
mức độ và phạm vi áp dụng nguyên tắc này trong pháp luật TTHS ở các nước
là khác nhau, phụ thuộc vào quan niệm, truyền thống lập pháp, tổ chức bộ
máy, năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp, đội ngũ Luật sư bào chữa và các điều
kiện cụ thể về kinh tế, xã hội, trình độ dân trí…
1.3.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng:
Hệ tố tụng tranh tụng được xây dựng và vận hành trên cơ sở áp dụng
triệt để nguyên tắc tranh tụng. Theo nguyên tắc này thì trong TTHS luôn tồn
tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Ba chức năng này
đan quyện qua lại với nhau và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án. Mỗi chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và
vận động của hai chức năng kia [35]. Thiếu một trong ba chức năng nêu trên,
tranh tụng trong TTHS sẽ không còn đầy đủ ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, các
15
chức năng này không xuất hiện đồng thời. So với chức năng xét xử, thì chức
năng buộc tội và chức năng bào chữa xuất hiện sớm hơn, song song tồn tại và
đối trọng với nhau trong suốt quá trình tố tụng. Khi một nguời bị bắt, bị áp
dụng biện pháp tạm giữ hoặc khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can thì
trong TTHS đồng thời xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa.
Chính từ thời điểm này mới xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên
bào chữa [19]. Tôi đồng tình với quan điểm này bởi lẽ lúc này đã xuất hiện
hai chức năng là chức năng buộc tội và chức năng bào chữa luôn đối lập nhau
và các chủ thể tham gia thực hiện hai chức năng này tạo thành hai bên đối
tụng: Bên buộc tội và bên bào chữa. Hai bên này đều có ý kiến, luận điểm
riêng, họ tranh luận để các bỏ một phần hay toàn bộ ý kiến của bên kia do vậy
tranh tụng được hình thành. Còn đến giai đoạn xét xử tại Tòa án, xuất hiện
một chức năng nữa là chức năng xét xử, chức năng này do chủ thể duy nhất là
Toà án thực hiện (thông qua HĐXX, Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn hay Hội
thẩm nhân dân). Ngoài ra, còn có các chủ thể khác được triệu tập tham gia
vào quá trình tranh tụng tại phiên toà. Các chủ thể này không có quyền lợi,
nghĩa vụ gì liên quan trong vụ án và cũng không tham gia vào việc thực hiện
chức năng buộc tội, bào chữa hay xét xử. Nhiệm vụ của họ là giúp cho Toà án
và các bên thực hiện chức năng của mình trong tranh tụng nhằm xác định sự
thật về vụ án. Như vậy, chúng ta có thể thấy giữa hai mô hình tố tụng có sự
khác nhau rất lớn về sự phân loại các chủ thể tham gia vào quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
Trong hệ tố tụng thẩm vấn các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS
được phân thành hai nhóm (không phụ thuộc vào chức năng tố tụng mà chủ
thể tham gia thực hiện):
16
Nhóm 1: Các chủ thể tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra,
Điều tra viên; Viện công tố hay Viện Kiểm sát, Công tố viên hay Kiểm sát
viên; Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hay Bồi thẩm đoàn.
Nhóm 2: Các chủ thể tham gia tố tụng bao gồm: Bị can, bị cáo, người
bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người giám định,
người phiên dịch, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…
Trong hệ tố tụng tranh tụng, do có sự phân định rõ ràng giữa các chức
năng cơ bản trong TTHS trên cơ sở nguyên tắc tranh tụng nên các chủ thể
tham gia vào quá trình TTHS được phân thành bốn nhóm (theo chức năng mà
họ tham gia thực hiện):
Nhóm 1: Bên buộc tội: bao gồm các chủ thể tham gia thực hiện chức
năng buộc tội: Cơ quan điều tra và Điều tra viên, Viện công tố hay Viện kiểm
sát, Công tố viên hay Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và
người đại diện hợp pháp (người bảo vệ quyền lợi) của họ.
Nhóm 2: Bên bào chữa: bao gồm các chủ thể thực hiện chức năng bào
chữa: Người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo, người bị kết án, nguời bào
chữa, bị đơn dân sự và người đại diện họp pháp (nguời bảo vệ quyền lợi) của
họ. Các chủ thể này tạo thành bên đối lập với bên buộc tội;
Nhóm 3: Toà án (thông qua HĐXX) là chủ thể duy nhất thực hiện chức
năng xét xử. Đây là chủ thể giữ vai trò trọng tài đứng giữa bên buộc tội và
bên bào chữa để phân xử.
Nhóm 4: Các chủ thể tham gia tố tụng khác gồm Thư ký phiên toà,
người làm chứng, giám định viên, người phiên dịch, đại diện các cơ quan,
đoàn thể hay tổ chức xã hội [31].
1.3.3. Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa chính là quá trình xác
định sự thật khách quan về vụ án. Bản chất này chi phối và định hướng mọi
17
hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia phiên tòa. Tại đây,
thông qua hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành
tố tụng cùng với sự tham gia của những người tham gia tố tụng HĐXX có
trách nhiệm điều khiển phiên tòa hướng tới xác định sự thật khách quan và ra phán
quyết để giải quyết vụ án. Bản chất đó được thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Tranh tụng tại phiên tòa là một cuộc điều tra công khai do các chủ thể
(Thẩm phán, Kiểm sát viên, người bào chữa,…) cùng tiến hành dưới sự điều
khiển của HĐXX (Chủ tọa phiên tòa). Tại đây các chứng cứ về vụ án được
các chủ thể của các bên và HĐXX kiểm tra, đánh giá công khai trên cơ sở các
quy định pháp luật.
- Hoạt động tranh tụng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nghiêm
ngặt, phức tạp về nội dung, thể hiện sự xung đột về lợi ích, về tâm lý giữa các
bên buộc tội và bên gỡ tội và bị hạn chế về mặt không gian và thời gian do
pháp luật tố tụng quy định tức là hoạt động này chỉ có thể thực hiện tại phiên
tòa và trong thời gian diễn ra phiên tòa và dưới sự điều khiển của Chủ tọa
phiên tòa.
- Mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách quan về vụ án
thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá công khai chứng cứ và giá trị chứng
minh của các chứng cứ về vụ án trên cơ sở các quy định pháp luật làm căn cứ
cho các nhận định, kết luận hoặc quyết định của HĐXX về các vấn đề cần
giải quyết trong vụ án theo quy định tại Điều 63 BLTTHS.
- Kết quả tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên về vụ án do HĐXX
quyết định khi nghị án và được thể hiện bằng phán quyết (bản án hoặc quyết
định) nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
Đây là văn bản pháp lý kết thúc quá trình tranh tụng ở giai đoạn xét xử giữa
các bên về vụ án.
18
- Phiên tòa sơ thẩm thể hiện bản chất của tranh tụng một cách đầy đủ,
tập trung và rõ nét nhất. Bởi vì, Tòa án cấp sơ thẩm có nhiệm vụ xét xử đối
với toàn bộ vụ án nên tại phiên tòa này mới có sự tham gia đầy đủ của tất cả
các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,…).
19
1.3.4. Nội dung hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án
hình sự:
Tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HĐXX cần điều khiển phiên tòa với
những nội dung chính sau:
- Thực hiện và điều khiển việc xét hỏi tại phiên tòa. Xét hỏi thực chất là
cuộc điều tra chính thức tại phiên tòa để xác định sự thật khách quan của vụ
án. Vì vậy, các bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển
của Chủ tọa phiên tòa. HĐXX chủ động hướng các bên đi vào trọng tâm vấn
đề, tập trung lắng nghe làm cơ sơ thực hiện thủ tục tiếp theo. Việc xét hỏi này
chỉ kết thúc khi Tòa án thấy rằng thông qua xét hỏi sự thật khách quan, đối
tượng chứng minh trong vụ án đã được xác định đầy đủ, các tình tiết liên quan
đến việc giải quyết đã được làm rõ.
- Tạo điều kiện để các bên đưa ra chứng cứ mới như: yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài liệu mới. Hồ sơ, chứng cứ
được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại
phiên tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành
tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc
thiếu khách quan. Đặc biệt đối với vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; cho nên đa số các trường hợp Cơ quan
điều tra, VKS chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu thập chứng
cứ gỡ tội; trong khi đó bên bào chữa (người bào chữa, bị cáo) không được
quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại
phiên tòa. Vì vậy, pháp luật tố tụng quy định các bên tham gia tố tụng có
quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, quyền đưa ra các chứng cứ
mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của Tòa án là đảm bảo để các bên thực hiện
quyền tố tụng này; tránh trường hợp sợ phiền phức, sợ phiên tòa đi chệch quỹ
đạo chuẩn bị nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở đầu phiên tòa.
20
- Điều khiển để các bên phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua
việc điều tra chính thức, công khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều
có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện
chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của
mình về sự thật khách quan của vụ án để giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra
phán quyết. Các đánh giá khác nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố
tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho Tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn, thận
trọng hơn khi đánh giá để ra phán quyết;
Mục đích chính của tố tụng thẩm vấn là tìm ra sự thật và
đạt được sự công bằng trong tố tụng (bao gồm các giai đoạn:
điều tra, truy tố và xét xử). Trong khi đó mục đích của hệ tố tụng
tranh tụng lại khác ở chỗ việc tìm ra sự thật chỉ bắt đầu từ giai
đoạn xét xử. Mọi thông tin thu thập được trong quá trình điều tra
đều chưa được xem xét cho đến khi được trình bày trước Toà.
Mỗi bên sẽ trình Toà "sự thật của phía mình” và Thẩm phán
cùng với bồi thẩm đoàn sẽ quyết định xem "sự thật” nào có tính
thuyết phục hơn... Hệ thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh thực tế,
còn hệ tranh tụng lại đánh giá cao khía cạnh pháp lý [6, tr.126].
- Điều khiển việc phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho
thấy rằng, do nhiều lý do khác nhau như kĩ thuật lập pháp chưa tốt, quy định
của pháp luật chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt
mà pháp luật được nhận thức rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Vì vậy,
nội dung của tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc
các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình
trong giải quyết vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: trong
phiên tòa hình sự, đại diện VKS đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ
cáo trạng, bảo vệ việc buộc tội; người bào chữa đề nghị áp dụng pháp luật
hình sự để gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) cho bị cáo…
21
- Hướng các bên đưa ra đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan
đến quyền và lợi ích liên quan. Mỗi bên tham gia tố tụng đều nhằm mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, nội dung không thể thiếu
trong tranh tụng là các bên đề xuất ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy
định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích đó. Tùy theo tư cách tố tụng của
mình mà phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý kiến của mỗi người tham gia
tố tụng cũng có khác nhau: đại diện VKS bảo vệ cáo trạng, người bào chữa, bị
cáo bảo vệ quan điểm không có tội hoặc giảm nhẹ TNHS, nguyên đơn dân sự
đòi hỏi việc bồi thường, bị đơn dân sự bác bỏ hoặc giảm mức bồi thường…
Như vậy, nội dung điều khiển tranh tụng tại phiên tòa thể hiện thông
qua việc Tòa án thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều
tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra
quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ
và đúng pháp luật để đưa ra phán xét cuối cùng.
1.3.5. Phạm vi và các giai đoạn của quá trình tranh tụng:
Trước hết, người điều khiển tranh tụng phải xác định phạm vi tranh
tụng, tức là xác định quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời
điểm nào và kết thúc vào khi nào? Bởi vì, có xác định chính xác phạm vi
tranh tụng thì mới có thể xác định đầy đủ và chính xác nội dung hoạt động
của các chủ thể khi tranh tụng tại phiên tòa. Về vấn đề này, hiện nay trong
khoa học TTHS ở nước ta còn có những quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng tranh tụng tại phiên tòa chỉ bao gồm phần
tranh luận tại phiên tòa khi cho rằng tranh luận theo tinh thần Nghị quyết
08/NQ-TW có thể hiểu là nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa, lấy kết
quả tranh luận tại phiên tòa để ra bản án, quyết định.
Quan điểm thứ hai cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt
đầu từ thời điểm Kiểm sát viên đọc cáo trạng và kết thúc sau khi tuyên án, tức
22
là bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Quan điểm thứ ba cho rằng tranh luận tại phiên tòa gắn liền với phiên
tòa và không chỉ bao gồm phần tranh luận mà được thực hiện trong suốt quá
trình xét xử, cuộc tranh tụng chỉ thực sự kết thúc khi Tòa tuyên án. Điều đó có
nghĩa là quá trình tranh tụng tại tòa được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên
tòa và bao gồm cả phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và
tuyên án. Tôi cho rằng quan điểm thứ nhất là quá thu hẹp phạm vi tranh tụng.
Nếu chỉ thu hẹp việc tranh tụng trong phần tranh luận thì không đạt được các
mục đích tranh tụng đặt ra. Để thực sự tham gia vào quá trình chứng minh,
các bên tham gia tranh tụng phải được phép đưa ra chứng cứ, thực hiện việc
xét hỏi, xem xét vật chứng, để đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện; chứng cứ phải
được thu thập, kiểm tra, đánh giá từ góc độ, cách nhìn nhận khác nhau của
bên buộc tội và bên bị cáo. Hơn nữa, theo TTHS của nhiều nước, nhất là các
nước theo truyền thống án lệ, phiên tòa không được phân chia rõ rệt thành
phần xét hỏi, phần tranh luận thì quan điểm cho rằng tranh tụng chỉ xảy ra
trong phần tranh luận là không chính xác. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi
tranh tụng trong phạm vi tranh luận tại phiên tòa thì chưa xác định được quá
trình tranh tụng về vụ án giữa các bên sẽ kết thúc ra sao. Để có căn cứ tranh
luận về vụ án, các chủ thể tham gia tranh tụng phải kiểm tra, xác minh các
chứng cứ, tài liệu về vụ án để từ đó lựa chọn được những chứng cứ hợp pháp,
có giá trị chứng minh làm căn cứ cho các lập luận của mình khi đề xuất với
HĐXX về hướng giải quyết các vấn đề về vụ án. Vì vậy tranh luận chỉ là một
thủ tục, một phần độc lập của phiên tòa, trong đó thể hiện tập trung và rõ nét
nhất nội dung tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng và chỉ là
một bộ phận cấu thành của cả quá trình tranh tụng. BLTTHS 2003 (từ Điều
217 đến Điều 221) ghi nhận thủ tục tranh luận với tư cách là một phần của
phiên tòa sơ thẩm, được tiến hành ngay sau phần xét hỏi. Theo quan điểm thứ
23
hai thì phạm vi tranh tụng được mở rộng hơn bao gồm phần xét hỏi, tranh
luận, nghị án và tuyên án. Tôi cho rằng cách hiểu mở rộng phạm vi tranh tụng
này có thể chấp nhận được, tuy nhiên chưa đầy đủ vì trong thực tiễn xét xử,
phần thủ tục phiên tòa được coi là giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng
[34].
Quan điểm thứ ba cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa bao gồm:
phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án theo
tôi là chính xác. Bởi vì, phần thủ tục phiên tòa được coi là giai đoạn chuẩn bị
của quá trình tranh tụng, chỉ sau khi HĐXX nghị án và tuyên án, thì kết quả
tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa về vụ án mới được xác định và khi đó
quá trình tranh tụng tại phiên tòa mới kết thúc. Do vậy, tranh tụng chỉ có thể tiến
hành tại phiên toà nên quá trình này bị giới hạn bởi chính phiên toà. Nó được bắt
đầu từ khi khai mạc phiên toà và kết thúc sau khi Toà án công bố phán quyết,
trong đó tranh luận của các bên tại phiên toà chỉ là giai đoạn thể hiện đậm nét
nhất, tập trung rõ nét nhất của quá trình tranh tụng giữa các bên về vụ án.
Từ phân tích trên, căn cứ vào nội dung hoạt động của các chủ thể có thể
phân quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự thành 4 giai đoạn sau:
- Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng;
- Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án;
- Giai đoạn tranh luận giữa các bên;
- Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng.
Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng:
Đây là giai đoạn mở đầu chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng. Nó được
bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa của chủ tọa phiên tòa và kết thúc
trước khi kiểm sát viên công bố cáo trạng. Trong thời hạn nghiên cứu, Thẩm
phán được phân công Chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, thấy vụ án
đủ điều kiện thì xây dựng kế hoạch xét xử, trao đổi với Kiểm sát viên về đề
24
cương thẩm vấn, thành phần những người cần triệu tập tham gia phiên tòa và
dự kiến các tình huống phát sinh.
Tại phần thủ tục, đây là tiền đề cho các giai đoạn sau nên thực hiện tốt
việc chuẩn bị thì chắc chắn chất lượng tranh tụng sẽ đạt mục đích, chất lượng
cao. Ở giai đoạn này, Chủ tọa phiên tòa tiến hành các thủ tục cần thiết trước
khi tiến hành tranh tụng như: kiểm tra sự có mặt, vắng mặt (lý do vắng mặt)
của những người được triệu tập tham gia vào quá trình chứng minh tại phiên
tòa. HĐXX xem xét và quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu,
đề nghị của các bên về hoãn phiên tòa, triệu tập thêm người làm chứng, bổ
sung chứng cứ mới…
Giai đoạn 2: Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án.
Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên công bố cáo
trạng và kết thúc trước khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Đây là giai
đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án do HĐXX tiến hành với sự
tham gia của Kiểm sát viên, Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và
những người tham gia tố tụng khác. Thông qua việc xét hỏi bị cáo, người bị
hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, công bố lời
khai của những người vắng mặt tại phiện tòa, công bố các kết luận giám định,
các tài liệu có liên quan và xem xét vật chứng, các thành viên của HĐXX,
Kiểm sát viên, Luật sư tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và giá trị chứng minh
của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án. Trên cơ sở đó, HĐXX xác định
có tội phạm xảy ra hay không, có đúng bị cáo là người thực hiện hành vi
phạm tội hay không, xem xét động cơ mục đích, nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, hậu quả của tội phạm… để ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với
diễn biến tại phiên tòa. Kết quả tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi là cơ sở cho
lập luận của các bên trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án trong phần
tranh luận.
Giai đoạn 3: Tranh luận giữa các bên:
Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa
25
các bên tại phiên tòa. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên
trình bày lời luận tội và kết thúc trước khi HĐXX vào phòng nghị án. Tranh
luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của mình về những vấn đề đã
được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy
định của pháp luật đề đề xuất hướng xử lý phù hợp. Trên cơ sở những quy
định của pháp luật, các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tiến hành
đánh giá chính thức công khai giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án
để đưa ra quan điểm, nhận định, kết luận của mình về vụ án; các bên thể hiện
rõ quan điểm của mình là chấp nhận hay bác bỏ các chứng cứ, quan điểm hay
kết luận của “bên kia” về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án. Nội
dung tranh tụng trọng tâm của các bên được thể hiện trong lời luận tội của
Kiểm sát viên, lời bào chữa của Luật sư (lời tự bào chữa của bị cáo), ý kiến
tranh luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại, cho người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc của chính bản thân họ và lời đối đáp qua lại
giữa các bên. Ở giai đoạn này, HĐXX không trực tiếp tham gia vào quá trình
tranh luận giữa các bên mà nhiệm vụ chủ yếu của HĐXX, cụ thể là của Thẩm
phán - Chủ toạ phiên tòa là điều khiển quá trình tranh tụng để hướng sự tranh
luận của các bên tập trung vào việc làm sáng tỏ quan điểm còn mâu thuẫn với
nhau và ghi nhận quan điểm, ý kiến của các bên tranh tụng về những vấn đề
cần giải quyết trong vụ án.
Giai đoạn 4: Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng:
Đây là giai đoạn có vai trò quyết định toàn bộ quá trình tranh tụng. Giai
đoạn này được bắt đầu từ thời điểm HĐXX nghị án và kết thúc sau khi tuyên
án. Nghị án và tuyên án là giai đoạn HĐXX đánh giá và công bố kết quả tranh
tụng. HĐXX thực hiện hoạt động này một cách độc lập tại phòng nghị án,
không có sự tham gia của bất cứ ai. Tại đây các thành viên của HĐXX thảo
luận về tính hợp pháp, tính liên quan và tính khách quan của các chứng cứ đã
26
được kiểm tra xác minh tại phiên tòa; xem xét các yêu cầu, đề nghị và quan
điểm của các bên về vụ án trên cơ sở các quy định của pháp luật. Sau khi thảo
luận, HĐXX tiến hành biểu quyết theo đa số về từng vấn đề cụ thể của vụ án.
HĐXX chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm, yêu cầu, đề nghị của các
bên buộc tội, bên bào chữa và quyết định về các vấn đề cụ thể cần giải quyết
trong vụ án như về tội danh, về điều, khoản, điểm của BLHS cần áp dụng
cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cần áp dụng với bị cáo;
mức hình phạt; mức bồi thường thiệt hại hoặc HĐXX tuyên bố bị cáo không
phạm tội… Việc đánh giá chính thức kết quả tranh tụng của các bên về vụ án
được HĐXX thể hiện bằng phán quyết ở dạng bản án hoặc quyết định. Bản án
hoặc quyết định của HĐXX là văn bản pháp lý ghi nhận kết quả tranh tụng
giữa các bên về vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Phán quyết này là nhân
danh Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, được Thẩm phán - Chủ tọa phiên
tòa tuyên đọc công khai kể cả trong những trường hợp xét xử kín. HĐXX chỉ
được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã thẩm tra tại phiên tòa và chỉ
những vấn đề đã được thẩm tra tại phiên tòa mới được dùng làm căn cứ để
nhận định, đánh giá, kết luận và quyết định.
Các giai đoạn của quá trình tranh tụng có mối liên hệ chặt chẽ và biện
chứng không thể tách rời. Mỗi giai đoạn này tuy có sự khác nhau về tính chất,
mức độ, nội dung và hình thức nhưng kết quả của giai đoạn trước là tiền đề
cho hoạt động của các chủ thể ở giai đoạn tranh tụng tiếp theo.
Tóm lại, tổng hợp từ những nội dung đã nêu và phân tích ở trên có thể
khẳng định rằng đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự
thể hiện qua một số nét chính sau:
Thứ nhất, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu. Tòa
án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, là sự tập trung nhất của hệ
thống tố tụng. “Các hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công
27
tố viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính – tư pháp không được
điều chỉnh bởi luật tố tụng hình sự” [12]. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến
hành tố tụng với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quy định của pháp luật TTHS. Vì
vậy, mọi điều tra của Luật sư và của cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều
cách khác nhau, với những phương pháp thu thập chứng cứ khác nhau, nhưng
đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét đánh giá của
HĐXX thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho vụ án,
khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của
Tòa án.
Thứ hai, trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình thành hai bên
với những lợi ích đối kháng rõ rệt đó là bên buộc tội và bên bị buộc tội. Tại
phiên tòa xét xử vụ án hình sự, VKS và Luật sư hoàn toàn bình đẳng nhau, họ
được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra
độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. VKS dưới
danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của Nhà nước đưa ra các quan
điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội cho bị cáo. Còn bên gỡ tội là bị
cáo và những Luật sư của bị cáo cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện
được luật pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất
vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề
của vụ án.
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài. Thẩm phán không
có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Tại phiên tòa,
Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ
mà các bên đưa ra, điều khiển việc tranh luận giữa các bên và đưa ra phán
quyết cuối cùng.
Thứ tư, hoạt động tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn
(Hội thẩm nhân dân): Do vai trò của Thẩm phán tại phiên tòa là người trọng
tài nên thông thường phải có Bồi thẩm đoàn (Hội thẩm nhân dân) tham gia tố
28
tụng. Đoàn bồi thẩm không tham gia vào quá trình tranh tụng nhưng họ cùng
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa điều khiên tranh tụng tại phiên tòa và có
quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó Thẩm phán sẽ
quyết định về vụ án. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang
với Hội thẩm.
1.4. Tìm hiểu về tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ở một
số quốc gia trên thế giới.
Mỗi hệ thống tố tụng lại có phương cách xác định sự thật khác nhau, cơ
sở pháp lý khác nhau, nên phạm vi, tính chất và mức độ tranh tụng cũng có
những điểm khác nhau. Căn cứ vào phương cách mà tố tụng được thực hiện,
cơ sở pháp lý cho việc thực hiện phương cách đó, người ta phân tố tụng tư
pháp, đặc biệt là tố tụng hình sự thành các hệ thống khác nhau: hệ thống tranh
tụng, hệ thống xét hỏi (hay thẩm vấn) và hệ thống pha trộn. Và trong mỗi hệ
thống đó, mức độ tranh tụng cũng khác nhau.
1.4.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống châu
Âu lục địa:
Hệ thống xét hỏi thường được sử dụng trong các nước theo hệ thống
luật châu Âu lục địa (Continental law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ
thống này là cố gắng xác định sự thật khách quan của vụ án để từ đó ra phán
quyết. Vì vậy, quá trình tố tụng được thực hiện bằng văn bản và bằng lời, bao
gồm cả giai đoạn điều tra và xét xử tại phiên tòa. Tòa án thực hiện việc chứng
minh vụ án trên cơ sở sử dụng kết quả đóng vai trò quyết định trong xác định
sự thật khách quan tại phiên tòa. Vì vậy thủ tục tố tụng tại phiên tòa đơn giản
hơn, ít khắt khe hơn về mặt hình thức: việc xét xử không nhất thiết phải có
mặt tất cả những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra
lại tại phiên tòa, gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận. Phán quyết của Tòa
án được đưa ra trên cơ sở niềm tin nội tâm của Tòa án về sự thật khách quan
29
của vụ án, chứ không phải là kết qủa của việc ai thuyết phục tòa án tốt hơn tại
phiên tòa …
Hiện nay các quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã tiếp
thu một phần các yếu tố của hệ thống pháp luật tranh tụng vào các thủ tục tố
tụng hình sự của mình, điển hình là cộng hòa Pháp. Ngày 15/6/2000 Pháp đã
ban hành "Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân” đã bổ sung
một số nội dung của tố tụng tranh tụng nhằm tăng cường vai trò, quyền hạn
của các bên tại phiên toà và đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng [6, tr33].
Trong pháp luật TTHS của Pháp thể hiện một số nội dung tranh tụng tại phiên
tòa sau:
- Trong quá trình tiến hành xét xử, Công tố viên hoặc Luật sư của các
bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho các nhân chứng và các bên tham gia tố
tụng mà không cần sự cho phép của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa.
- Các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu Chủ tọa phiên tòa triệu tập
những người làm chứng mới đến khai báo trước tòa một cách không hạn chế.
- Về hình thức xét hỏi tại phiên tòa đại hình cũng giống với Tòa án của
hệ thống tranh tụng. Tuy nhiên thay vì ba Thẩm phán ngồi xét xử như ở tòa
tiểu hình, tòa đại hình có một bồi thẩm đoàn gồm 9 thành viên được lựa chọn
một cách ngẫu nhiên từ danh sách cử tri, các thủ tục và hình thức cũng nhiều
hơn so với Tòa tiểu hình. Phiên tòa bắt đầu bằng việc Chánh tòa tiến hành thủ
tục nhận dạng bị cáo và giải thích tóm tắt các trình tự tố tụng và thủ tục tại
phiên tòa, tiếp đến theo thủ tục lựa chọn thành viên Bồi thẩm đoàn. Bị cáo có
quyền chọn 5 vị, công tố lựa chọn 4 vị. Sau khi Thư ký tòa đọc bản luận tội
thì từ thời điểm đó bắt đầu thẩm vấn bị cáo, các Bồi thẩm viên có quyền lựa
chọn và đặt ra các câu hỏi và thông thường quá trình đặt câu hỏi sẽ tăng dần
lên theo diễn biến của phiên tòa do các bên tham gia tố tụng đặt câu hỏi trực
tiếp không cần sự cho phép của Chánh tòa. Chánh tòa có thể bày tỏ quan điểm
30
của mình về mọi câu hỏi trừ vấn đề có tội hay không có tội. Các bồi thẩm thì
không bị ràng buộc bởi những quy định nghiêm ngặt như vậy và Chánh tòa có
toàn quyền tự quyết để tiến hành tất cả những bước cần thiết nhằm khám phá
sự thật, bao gồm cả việc cho gọi những nhân chứng không có trong danh sách
mà các bên tham gia tố tụng yêu cầu đến trước tòa để thẩm vấn.
Cũng như Pháp, Đức là nước điển hình của mô hình tố tụng thẩm vấn
nhưng trong thời gian gần đây, nhiều quy định liên quan đến tranh tụng đã
được ghi nhận trong BLTTHS Cộng hòa liên bang Đức. Điều 137 quy định bị
can, bị cáo có thể nhận sự giúp đỡ của Luật sư bào chữa tại bất cứ giai đoạn
nào của quá trình tố tụng, tối đa ba Luật sư bào chữa có thể được lựa chọn.
Điều 140, 141 còn quy định những trường hợp bắt buộc phải có Luật sư bào
chữa và việc chỉ định Luật sư bào chữa. Trong quá trình điều tra, nếu một
người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là bị bắt giữ thì theo Điều 115, anh ta
phải được mang tới chỗ Thẩm phán có thẩm quyền ngay lập tức, Thẩm phán
sẽ xem xét việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt và không muộn hơn ngày tiếp
theo. Tại phiên xét xử, cơ quan công tố, bị can và Luật sư có quyền tham gia,
được thông báo về thời gian, địa điểm xét xử. Các bên tham gia sẽ được phát
biểu ý kiến trong phiên xét xử. Điều 136 và 163a quy định tại thời điểm lấy
lời khai lần đầu tiên của bị cáo, thì bị cáo sẽ được thông báo về tội danh bị
khởi tố và các điều khoản luật hình sự áp dụng, có quyền trình bày ý kiến đối
với lời buộc tội hoặc không phát biểu bất cứ điều gì về lời buộc tội ngay trước
khi tiến hành kiểm tra, trao đổi với Luật sư bào chữa do anh ta lựa chọn. Tại
phiên tòa chính thức, sau khi nghe công tố viên trình bày bản cáo buộc, bị cáo
có thể lựa chọn việc trả lời cáo buộc hoặc không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào
về cáo buộc. Bị cáo cũng có quyền yêu cầu Tòa án mở rộng việc thu thập
chứng cứ. Sau khi tiến hành thu thập chứng cứ kết thúc, công tố viên và bị
cáo sẽ được tạo điều kiện để thể hiện quan điểm tranh luận của mình về yêu
31
cầu đã đưa ra. Công tố viên có quyền trả lời, bị cáo sẽ nói lời sau cùng. Cho
dù bị cáo có người bào chữa nói thay, bị cáo sẽ được hỏi về vấn đề có bổ sung
thêm hay không đối với việc bào chữa cho mình. (Điều 243, 244, 258) [8].
1.4.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống pháp
luật Anh- Mỹ:
Hệ thống tranh tụng thường được sử dụng trong các nước có hệ thống
luật án lệ (Common law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống này là
phán quyết trên cơ sở thỏa mãn với sự thật pháp lý mà các bên chứng minh tại
phiên tòa. Theo hệ thống này, hoạt động tư pháp thực chất được bó gọn trong
hoạt động xét xử tại phiên tòa với các quy định nghiêm ngặt (nhiều khi đến
mức máy móc) về thủ tục tố tụng. Tính tranh tụng trong xét xử vụ án được
thực hiện một cách triệt để, sự thật chỉ được xác lập tại phiên tòa. Tòa án
đóng vai trò là người trọng tài và qua phiên tòa xác định xem “sự thật” của ai
thuyết phục hơn để qua đó phán xét. Quyết định của Tòa án dường như được
thực hiện không phải trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án mà là trên cơ sở
sự thật được các bên chứng minh tại phiên tòa có tính thuyết phục cao hơn. Vì
vậy, Tòa án không xét hỏi, không tranh luận và cũng không gợi ý tranh luận,
mà chỉ là người trọng tài điều khiển phiên tòa, đóng vai trò thụ động trong
quá trình chứng minh, nhưng lại toàn quyền phán quyết về vụ án. Toàn bộ quá
trình tố tụng được thực hiện bằng miệng vì vậy, tại phiên tòa phải có mặt tất
cả những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng, các vật chứng
phải được các bên đưa ra xem xét tại phiên tòa.
Thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của Vương quốc Anh,
Hoa Kỳ áp dụng triệt để nguyên tắc tranh tụng đối kháng. Sau phần thủ tục
bắt đầu phiên tòa, phiên tòa chuyển ngay sang phần tranh tụng quyết liệt giữa
bên buộc tội (Công tố viên) và bên Luật sư bào chữa. Trách nhiệm chứng
minh tội phạm và người phạm tội hoàn toàn thuộc về Công tố viên và Luật sư
32
bào chữa. Công tố viên và Luật sư bào chữa có toàn quyền trong việc quyết
định mời nhân chứng, quyết định những chứng cứ được đưa ra phiên tòa phục
vụ cho hoạt động buộc tội hoặc gỡ tội. HĐXX đóng vai trò trọng tài trong lập,
ra phán quyết trên cơ sở chấp thuận những chứng cứ có căn cứ của các bên.
HĐXX hầu như không đặt câu hỏi với bị cáo và người làm chứng vì cho rằng
có thể ảnh hưởng đến tính vô tư, trung lập của Tòa án. Kết thúc thủ tục tranh
tụng, phiên tòa chuyển sang phần nghị án. Đối với những phiên tòa sơ thẩm
không có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn, Thẩm phán có toàn quyền trong
việc quyết định hình phạt đối với bị cáo. Đối với phiên tòa sơ thẩm có sự
tham gia của Bồi thẩm đoàn, Luật TTHS quy định Bồi thẩm đoàn có thẩm
quyền phán quyết hành vi của bị cáo là có tội hay không có tội, Thẩm phán có
quyền quyết định áp dụng hình phạt với bị cáo trong trường hợp phán quyết
của Bồi thẩm đoàn tuyên bị cáo có tội.
Tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trong tất cả các vụ án hình sự mà bị cáo
bị buộc tội có thể phải chịu mức hình phạt từ 6 tháng tù trở lên thì người đó
có quyền Hiến định là được xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Thêm vào đó, hầu hết
các cơ quan tư pháp bao gồm cả các Tòa án liên bang đều cho phép Thẩm
phán hoặc Công tố viên phủ quyết quyền khước từ xét xử có Bồi thẩm đoàn
của bị cáo, do đó, theo cách hiểu chung nhất, xét xử không có Bồi thẩm đoàn
chỉ xảy ra đối với những vụ án nghiêm trọng khi thủ tục đó được các bên
đồng ý.
Hệ thống pha trộn được thực hiện trên cơ sở kết hợp hai hệ thống tranh
tụng và xét hỏi. Nhìn từ góc độ mục đích tố tụng cũng như phương cách để
đạt được mục đích đó, thì mỗi hệ thống tranh tụng (tranh tụng hay xét hỏi)
đều có mặt tích cực và hạn chế nhất định. Hệ thống tố tụng pha trộn là sự kết
hợp giữa hai hệ thống tranh tụng trên. Tùy theo việc quốc gia thuộc vào hệ
33
thống tư pháp nào (án lệ hay lục địa) mà “dấu ấn” của hệ thống tố tụng trong
hệ thống tố tụng pha trộn nổi rõ hơn.
Nhật Bản là nước mà hệ thống tư pháp hình sự có ảnh hưởng bởi hai
truyền thống pháp luật (cụ thể là Đức và Hoa Kì). Trong TTHS, vấn đề tranh
tụng cũng được thể hiện qua một số điểm cụ thể như: áp dụng nguyên tắc suy
đoán vô tội trong TTHS; người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền im lặng
và có quyền có Luật sư bào chữa; việc ra lệnh tạm giam do Thẩm phán quyết
định. Khi nhận được đề nghị của Công tố viên, Thẩm phán phải nghiên cứu
các tài liệu có liên quan, xem xét chứng cứ và tiến hành thẩm vấn riêng người
bị tình nghi [57].
Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền
với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử
tư tưởng nhân loại. Qua nghiên cứu hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử
vụ án hình sự ở một số quốc gia cho thấy: Hiện nay, ở các nước dù theo mô
hình tố tụng nào thì trong đó cũng đều có yêu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố
tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án,
giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và
lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Tùy vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc
gia có những lựa chọn mô hình tố tụng riêng. Sự khác biệt giữa mô hình tố
tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn ở chỗ trong mô hình thẩm vấn,
Thẩm phán giữ vai trò tích cực trong toàn bộ quá trình xét xử kể từ hoạt động
thẩm vấn, điều tra công khai tại phiên tòa đối với các bên có liên quan và ra
phán quyết. Còn trong mô hình tranh tụng thì Công tố viên và Luật sư bào
chữa sẽ kiểm tra nhân chứng và thẩm vấn tất cả các bên, Thẩm phán đóng vai
trò thụ động hơn, làm trọng tài cho công tố viên và Luật sư tranh luận [2].
1.4.3. Lịch sử phát triển tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam:
34
Hệ thống tư pháp nước ta được tổ chức và hoạt động theo truyền thống
luật lục địa. Tố tụng nước ta được thực hiện theo hệ thống pha trộn thiên về
xét hỏi, tức yếu tố xét hỏi trong tố tụng nước ta rõ nét hơn. Việc nghiên cứu
bản chất của tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta phải được xem xét từ góc độ
tranh tụng trong tố tụng xét hỏi.
1.4.3.1. Từ giai đoạn 1945 đến năm 1960:
Giai đoạn này chúng ta vừa giành được độc lập và đang trong quá trình
hình thành, xây dựng bộ máy nhà nước của chế độ mới - Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Về các quy định liên quan đến tranh tụng trong thời kì này:
Về chức năng của các chủ thể tố tụng, tuy mới là giai đoạn đầu của quá
trình hình thành nền tư pháp của chế độ mới, song các quy định thời kỳ này
cũng đã từng bước xác định được vị trí của từng chủ thể tham gia vào quá
trình tố tụng, đặc biệt là sự phân định giữa chức năng của Công tố và Thẩm
phán. Điều 5 Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 (về việc thiết lập các Tòa án
quân sự) đã xác định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong TTHS
“ngồi xử có Chánh án và hai Hội thẩm… Đứng buộc tội là một Ủy viên quân
sự hay hai Ủy viên của Ban trinh sát. Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một
người khác bênh vực cho…” [60, tr.401]. Điều 2 Sắc lệnh số 7 ngày
15/01/1946 bổ khuyết Sắc lệnh ngày 13/9/1945 như sau: “Đứng buộc tội tùy
quyết định của Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ là một Ủy viên quân sự hay một Ủy
viên của Ban Tư pháp sẽ là một Ủy viên quân sự hay một ủy viên của Công tố
viện do ông Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ định” [60, tr.412]. Tính chất
trọng tài, độc lập của Tòa án, của Thẩm phán cũng được nhấn mạnh tại Điều
74 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm
phán “Tòa án Tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị Thẩm
phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can
thiệp vào việc tư pháp” [60, tr.427].
35
Theo Hiến pháp 1946, các chức năng của các chủ thể trong TTHS cũng
đã được quy định khá rõ. Điều 65 Hiến pháp 1946 quy định về sự tham gia
của phụ thẩm nhân dân và Điều 69 quy định về việc thẩm phán chỉ tuân theo
pháp luật khi xét xử. Điều 67 quy định các phiên tòa đều phải công khai, trừ
những trường hợp đặc biệt; người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc
mượn Luật sư bào chữa [45].
Vai trò bào chữa của Luật sư được đặc biệt nhấn mạnh trong nhiều văn
bản pháp luật. Điều 2 Sắc lệnh số 46-SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các
Đoàn Luật sư quy định các Luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Tòa án
hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự. Sắc lệnh số 69-SL ngày
18/6/1949 quy định rõ: “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các Tòa án
thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ Tòa án binh tại
mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bào chữa cho.
Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án
thừa nhận” (Điều 1), “Nếu bị can không có ai bênh vực, ông chánh án có thể
tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử một người ra bào chữa cho bị can”
(Điều 2), “Người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can
hay của thân nhân bị can. Người nào phạm vào điều này sẽ bị truy tố và trừng
phạt như tội lừa đảo” (Điều 3).
Về trình tự, thủ tục tranh tụng, do đây là giai đoạn hình thành hệ thống
tư pháp non trẻ của chế độ mới nên các quy định về tranh tụng (mặc dù chưa
rõ nét) mới chỉ tập trung ở việc quy định về quyền bào chữa của bị can bị cáo
quyền được tranh luận tại phiên tòa (tố tụng thời kì này được xây dựng trên
mô hình tố tụng xét hỏi nên tranh tụng chỉ biểu hiện trong giai đoạn xét xử).
Tại Điều 5 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức các Tòa án quân sự
quy định các hình thức mà bị cáo có thể lựa chọn để thực hiện quyền bào
chữa “Bị cáo có quyền tự bênh vực lấy hay nhờ Luật sư hoặc một người khác
36
bênh vực cho”. Điều thứ 44 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các
Tòa án và các ngạch Thẩm phán quy định “Trong việc đại hình, nếu trước
Tòa thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một
Luật sư để bào chữa cho hắn” [60, tr.424]. Điều 31 (về Tòa án đệ nhị cấp) và
Điều 41 (về Tòa án thượng thẩm) của Sắc lệnh này quy định “Sau khi nghe
các bị can, người làm chứng, cáo trạng của ông Biện lý (Chưởng lý), và sau
cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán ( Hội thẩm)
và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào trong nghị xử để quyết định về tất cả các
vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm
tội”. [60, tr.426,427].
Nghị định số 82-TP/NĐ ngày 25/02/1946 của Bộ Tư pháp đã quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các Cơ quan điều tra, truy tố, xét
xử trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong các giai đoạn
TTHS khác nhau, các quy định về trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa…, theo
đó bị cáo có quyền “tự bênh vực lấy hay nhờ Luật sư hoặc một người khác
bênh vực. Ông Chánh án theo lời yêu cầu của bị cáo có thể cử một người ra
bênh vực bị cáo” (Điều 8); nếu bị cáo “xin cử một người bênh vực thì ông
Chánh án sẽ ra mệnh lệnh cử” (Điều 11); Luật sư hay người bênh vực cho bị
cáo có quyền xem hồ sơ vụ án tại Phòng lục sự, có quyền “giao thiệp thẳng
với bị cáo bằng thư từ hay tới thăm” (Điều 12); bị cáo và những người bênh
vực có quyền yêu cầu Tòa án đặt câu hỏi để người bênh vực có quyền yêu cầu
Tòa án đặt câu hỏi để thẩm vấn những người làm chứng (Điều 16), tham gia vào
quá trình tranh tụng thông qua việc biện luận và nói lời sau cùng (Điều 19)…
Khi Hiến pháp 1946 ra đời, một số nguyên tắc cơ bản của TTHS nước
ta lúc bấy giờ cũng ghi nhận nhiều nguyên tắc thể hiện được tư tưởng tranh tụng
trong TTHS như nguyên tắc: tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp
luật (Điều 7); các phiên tòa án đều phải công khai, trừ trường hợp đặc biệt. Người
bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư (Điều 67)…
37
Tuy còn nhiều hạn chế (như các chức năng trong tố tung chưa phân
định rõ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; các quyền và nghĩa vụ của các chủ
thẻ tham gia tranh tụng và điều kiện bảo đảm khác chưa được xác định đầy
đủ…) nhưng các nguyên tắc và quy định nêu trên là cơ sở pháp lý để từng
bước phát triển và hoàn thiện chế định tranh tụng ở nước ta [56].
1.4.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988:
Thời kì này các quy định liên quan đến tranh tụng có sự phát triển lên
một bước rõ nét, cụ thể:
Điều 97 Hiến pháp năm 1959 cũng như Điều 1 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân (TAND) năm 1960 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự
là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” [38]. Các văn
bản này cũng đã ghi nhận một loạt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
TAND các cấp. Vai trò của Tòa án trong tranh tụng thể hiện ở chỗ việc xét xử
ở phiên tòa là giai đoạn mang tính quyết định của vụ án, giai đoạn quan trọng
nhất của toàn bộ thủ tục tố tụng… Khi xét xử các Thẩm phán phải chú ý đầy
đủ cả hai mặt: buộc tội và gỡ tội mà không được thiên về một bên nào… Tòa
án phải có trách nhiệm bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình, đặc biệt phải đảm bảo cho các bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của mình trước Tòa án.
Điều 7 Luật tổ chức TAND 1960 quy định: “Quyền bào chữa của bị
cáo được bảo đảm. Ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ Luật sư bào
chữa cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ người công dân được đoàn thể chấp
nhận bào chữa cho mình, Khi cần thiết, TAND chỉ định người bào chữa cho
bị cáo” [38]. Thông qua quy định này có thể nhận thấy pháp luật nước ta thời
kì này đã coi quyền bào chữa của bị cáo là một trong những quyền quan trọng
nhất của bị cáo trong TTHS, được thể hiện như quyền đối trọng với quyền
38
buộc tội của VKSND. Trong giai đoạn này các tổ chức Luật sư và chế định
bào chữa viên nhân dân đã được thiết lập để giúp đỡ bị can, bị cáo trong việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS. Pháp luật quy
đinh Tòa án phải cử người bào chữa cho bị cáo trong một số trường hợp như:
bị cáo là vị thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; bị cáo
có thể bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình; vụ án có tính chất quan trọng,
phức tạp…
Luật tổ chức TAND 1960 cũng quy định quyền của bị can, bị cáo được
tống đạt cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử; đề xuất chứng cứ và thỉnh
cầu, xin thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân; quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người bào chữa; quyền được nói lời cuối cùng; được kháng tố…
Người bào chữa có quyền được gặp riêng bị cáo tạm giam; được nghiên cứu
hồ sơ vụ án; đề xuất chứng cứ và thỉnh cầu; đề nghị thay đổi Thẩm phán hoặc
Hội thẩm nhân dân; tham gia thẩm vấn và trình bày lời bào chữa, kháng tố
theo sự ủy nhiệm của bị cáo…
Luật tổ chức VKSND 1960 quy định VKSND được thành lập thành
một hệ thống độc lập thay thế Viện công tố trước đây để thực hiện chức năng
buộc tội (truy tố và thực hành quyền công tố). Người bị hại, nguyên đơn dân
sự, người đại diện hợp pháp của họ… có quyền đưa ra các chứng cứ buộc tội,
các yêu cầu bồi thường thiệt hại, tranh luận tại phiên tòa…, kháng tố tăng
nặng hình phạt hoặc tăng mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo…[39].
Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND
năm 1981 về cơ bản vẫn ghi nhận lại các nguyên tắc của TTHS đã được
khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức
VKSND năm 1960.
Như vậy trong giai đoạn này, các quy định về tranh tụng trong TTHS
mặc dù còn được quy định tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau nhưng đã có
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT

Contenu connexe

Tendances

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

Tendances (20)

Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAYLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đìnhLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 ĐiểmLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
 

Similaire à Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT

Similaire à Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT (20)

Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAYĐịa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
 
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAYNguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
 
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đLuận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sựLuận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOTLuận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOTĐề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
 
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAYĐề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
 

Plus de Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Plus de Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Dernier

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 

Dernier (20)

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 

Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 NGUYỄNTHỊHỒNGNHUNGLUẬTHÌNHSỰVÀTỐTỤNGHÌNHSỰHÀNỘI-2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH BẮC NINH Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã ngành : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI, 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hồng Nhung
  • 4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................ 7 1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:..................................7 1.1.1. Khái niệm tranh tụng: .............................................................7 1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa:.........................................8 1.2. Vai trò tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:........................................8 1.3. Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:.................................11 1.3.1. Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa: .....................................11 1.3.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng: ....................14 1.3.3. Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự: ...........................................................................................16 1.3.4. Nội dung hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:..................................................................................19 1.3.5. Phạm vi và các giai đoạn của quá trình tranh tụng:..............21 1.4. Tìm hiểu về tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ở một số quốc gia trên thế giới..........................................................................................................28 1.4.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống châu Âu lục địa: ..............................................................................28
  • 5. 1.4.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống pháp luật Anh- Mỹ: .........................................................................31 1.4.3. Lịch sử phát triển tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam: ........33 Kết luận chƣơng 1 .........................................................................................48 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH BẮC NINH..........................................................................................50 2.1. Tình hình xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008-2013:.........50 2.2. Thực trạng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008 – 2013:....................................................................................67 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh. ...........................................................................74 Kết luận chƣơng 2 .........................................................................................79 CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH........................................................................81 3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự...................................................................................................................81 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:..................................................................................................................83 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS hiện hành liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự:.....................83 3.2.2. Nâng cao trình độ, kĩ năng điều khiển tranh tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:...............................................................89 3.2.3. Mở rộng, nâng cao quyền bào chữa: .....................................95
  • 6. 3.2.4. Nâng cao chất lượng của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa:...........................................................................98 3.2.5. Xây dựng cơ sở vật chất, điều chỉnh chính sách tiền lương cho Thẩm phán, Kiểm sát viên đảm bảo chất lượng tranh tụng: ............99 3.2.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người hiểu và thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa: .........................101 Kết luận chƣơng 3 .......................................................................................103 KẾT LUẬN..................................................................................................104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111
  • 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử TAND Tòa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh …………… Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu vụ án hình sự sơ thẩm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh có luật sư tham gia từ năm 2008 đến 2013 … 105 106
  • 9. DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ Trang Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2008-2013) .............. Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ vụ án hình sự sơ thẩm có luật sư tham gia (2008-2013)..... 107 108
  • 10. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: Những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử nói riêng còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, còn bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân. Trong khi chất lượng tranh tụng hiện nay còn nhiều hạn chế như sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa, quyền bào chữa của bị cáo chưa thực sự được đảm bảo… Đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư và các cán bộ tư pháp khác chưa được chuẩn bị đầy đủ về kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu cải cách tư pháp; kinh nghiệm thực tiễn về tranh tụng còn hạn chế nên không tránh khỏi khó khăn, lúng túng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị ra đời trở thành định hướng chiến lược cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ tư pháp, trong đó tăng cường tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự được coi là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết. Theo đó, các quy định trong tố tụng hình sự
  • 11. 2 phải đảm bảo tính khách quan, phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của công lý, công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp là làm thế nào để đạt được những yêu cầu cải cách tư pháp liên quan đến vấn đề tranh tụng. Với vai trò quan trọng như vậy, việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa luôn luôn là một nhu cầu, một đòi hỏi cấp thiết khách quan. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, tình hình kinh tế ở Bắc Ninh cũng có nhiều thay đổi. Là một tỉnh được tách ra từ tỉnh Hà Bắc cũ, được tái lập theo nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 ngày 06/11/1996, với đặc điểm là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng Bắc bộ, có nhiều làng nghề truyền thống, giao thông thuận lợi, Bắc Ninh thu hút được rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư. Nhiều khu công nghiệp đã được xây dựng và đi vào hoạt động như khu công nghiệp Tiên Sơn, khu công nghiệp Quế Võ, khu công nghiệp Yên Phong… ngoài ra còn có các cụm công nghiệp vừa và nhỏ và là nơi tập trung các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế nói trên thì bên cạnh đó các loa ̣i tội pha ̣m cũng c ó xu hướng ngày mô ̣t gia tăng , đây là vấn đề được sự quan tâm của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều Nghị quyết và quyết định yêu cầu các ban, ngành, các tổ chức xã hội đề ra và áp dụng nhiều biện pháp cụ thể nhằm đấu tranh với các loại tội phạm trên đi ̣a bàn . Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Toà án, Viện kiểm sát, Công an là những cơ quan được giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với các loại tội phạm. Trong đó Tòa án đóng vai trò trung tâm trong toàn bộ quá trình tố tụng, thể hiện đầy đủ nhất bản chất của hệ thống tư pháp của mỗi nhà nước, là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và
  • 12. 3 lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Phiên tòa là nơi có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục trực tiếp, công khai, qua nghe ý kiến tranh tụng của các bên tham gia tố tụng, Tòa án (với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng quan trọng nhất) tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết giải quyết vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật. Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa đóng vai trò quan trọng nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nói chung và hiệu quả phiên tòa xét xử vụ án hình sự nói riêng. Hơn nữa, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trước yêu cầu đó, nhằm đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt động tố tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội, góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn nên tác giả chọn đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự như: Luận văn thạc sỹ luật học: “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử án hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tiến Long, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2005. Luận văn thạc sỹ luật học “Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa” của Mai Thị Nam, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
  • 13. 4 Bài viết: “Bàn về một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tòa” của Nguyễn Mạnh Tiến, Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2005. Bài viết “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” của Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội số 7/2008; Bài viết “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp” của Nguyễn Thương Tín, tạp chí nhà nước và pháp luật số 10/2008; Bài viết “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Đức Mai, Tạp chí tòa án nhân dân số 7/2007; Bài viết “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2008; Bài viết “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Tòa án nhân dân số 12/2009; Bài viết "Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2003; Bài viết "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" đăng trong Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại Thắng. Các bài viết đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định liên quan tranh tụng và còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ cơ sở lý luận, quy định của Đảng, Nhà nước, pháp luật tố tụng hình sự và định hướng cải
  • 14. 5 cách tư pháp đặc biệt cải cách hoạt động xét xử; đồng thời đánh giá thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh, từ đó chỉ ra những bất cập còn tồn tại của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa góp phần xây dựng phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ nhằm thực hiện quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. - Nhiệm vụ: + Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự. + Sơ lược về lịch sử các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng tại phiên tòa. + Phân tích, đánh giá, so sánh các quy định về tranh tụng của pháp luật một số nước trên thế giới. + Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở Bắc Ninh giai đoạn 2008-2013. + Nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh trước yêu cầu cải cách tư pháp. - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự. - Phạm vi nghiên cứu: Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên trong phạm vi của một Luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ tập trung nghiên cứu chính đến vấn đề điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo thẩm quyền xét xử của Tòa án tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008 đến 2013.
  • 15. 6 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài: Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp. Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử; phương pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến với những chuyên gia đầu ngành, những người làm công tác thực tiễn lâu năm); phương pháp thống kê xã hội học về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa hình sự. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng xét xử vụ án hình sự và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
  • 16. 7 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự: 1.1.1. Khái niệm tranh tụng: Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng nền văn minh nhân loại. Tranh tụng là nguyên tắc và cũng là cơ chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Hiện nay, trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng. Theo từ điển Tiếng Việt, thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau” [55]. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố tụng” có nghĩa là “tranh luận trong tố tụng” [21]. Đó là cuộc tranh luận giữa hai bên: “bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập trường tương phản với nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử” [26]. Theo từ điển luật học năm 2006 của Viện khoa học pháp lý, Bộ tư pháp thì khái niệm tranh tụng được hiểu như sau: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm lợi ích của phía bên đối lập” [58]. Còn tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội), mà giai đoạn đương đầu tại Tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa các bên tại phiên tòa mà phải hiểu tranh tụng nó diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài,
  • 17. 8 được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng làm sao thuyết phục các quan tòa tin được rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội cố gắng và phải sử dụng mọi lý lẽ chứng cứ để bác bỏ lời buộc tội do bên Công tố đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo phải bảo vệ thân chủ bằng mọi giá. Như vậy, xét về cách hiểu thông thường nhất, “Tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia” [20]. 1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa: Theo từ điển luật học 2006, khái niệm tranh tụng tại phiên tòa được hiểu như sau: “Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung tâm, trọng tài” [58]. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam năm 2003, những người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Thời gian tranh luận không bị hạn chế. Nếu qua tranh luận mà xét thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX có thể quyết định trở lại việc xét hỏi xong lại tiếp tục tranh luận. Như vậy, tranh tụng tại phiên tòa bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xác định sự thật của vụ án bằng cách điều tra công khai, chính thức về vụ án, nghe các bên tranh luận về giải quyết vụ án từ góc độ nội dung cũng như pháp luật áp dụng để ra phán quyết. 1.2. Vai trò tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự: Tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS), là vấn đề có tính thời sự
  • 18. 9 được xã hội quan tâm. Tranh tụng tại phiên tòa hình sự không chỉ là yêu cầu của việc bảo đảm tính dân chủ, công bằng giữa những người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát (VKS), mà kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để Hội đồng xét xử (HĐXX), Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án. Thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2003 và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” trong đó xác định: Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết qủa tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa… [3]. Tranh tụng trong TTHS có một ý nghĩa rất đặc biệt, nó thể hiện rõ nét trong giai đoạn xét xử tại tòa và là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào tiến trình TTHS, thực hiện đầy đủ và đúng đắn các chức năng của mình. Một số học giả còn cho rằng, tranh tụng chính là công cụ quan trọng
  • 19. 10 nhất để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, nguyên tắc tranh tụng còn liên quan chặt chẽ đến các nguyên tắc khác của TTHS đặc biệt là các nguyên tắc như suy đoán vô tội, quyền có người bào chữa của bị cáo và xác định sự thật khách quan của vụ án…“Các nguyên tắc này tác động qua lại với nhau và là điều kiện bảo đảm cho nhau cũng như toàn bộ tiến trình TTHS” [4]. Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Do đó tranh tụng tại phiên tòa có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định trong giải quyết vụ án, điều đó thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra công khai tại phiên tòa. Việc chứng minh được các chủ thể có quyền, lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa) thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như tranh luận. Thứ hai, phiên tòa đảm bảo sự tham gia của những người tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng được quy định và được bảo đảm thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, công khai. Tại phiên tòa khó có thể xảy ra các trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng như bức cung, dùng nhục hình… Thứ ba, phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng đắn pháp luật. Qua phân tích tranh luận đề nghị của các bên tham gia tố tụng, Tòa án lựa chọn phương án áp dụng pháp luật chính xác nhất để giải quyết vụ án. Thứ tư, phiên tòa là nơi tốt nhất thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Thông qua các thủ tục tại phiên tòa, qua tranh luận và công bố bản án, Tòa án giúp cho những người tham gia tố tụng cũng như những người tham dự phiên tòa nâng cao hiểu biết pháp luật.
  • 20. 11 1.3. Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự: 1.3.1. Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa: Các nhà nghiên cứu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới chứng minh rằng tư tưởng về tranh tụng bắt nguồn từ ý tưởng của nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp Plato. Ông cho rằng “bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật” [25]. Ý tưởng này của Plato được các Luật gia Hy Lạp cổ đại phát triển và xây dựng thành là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS ở Nhà nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc này được đưa vào áp dụng ở La Mã và các quốc gia cổ đại khác ở Châu Âu với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” [18]. Trước đây, với quan niệm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của TTHS tư sản nên vấn đề này không được khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, về mặt lý luận, tranh tụng không được thừa nhận và thuật ngữ “tranh tụng” cũng chưa bao giờ được dùng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Những năm gần đây, tranh tụng đã được đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Tranh tụng nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng là một vấn đề mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở nước ta. Trong quá trình xây dựng BLTTHS sửa đổi, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết số 08 thì vấn đề tranh tụng được đưa ra tranh luận sôi nổi. Hiện nay, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau giữa những người làm công tác thực tiễn và nghiên cứu khoa học về tranh tụng trong TTHS ở chỗ xác định tranh tụng có phải là một nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam không? Có thể phân các quan điểm này thành hai nhóm chính sau đây: Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng tố tụng tranh tụng là một kiểu tố tụng hình được đặt ra nhằm giải quyết những tranh chấp, xung đột quan điểm
  • 21. 12 về thực tế của vụ án và về pháp luật giữa Công tố viên - Đại diện cho bên buộc tội và Luật sư - Đại diện cho bên gỡ tội trong vụ án hình sự. Tố tụng tranh tụng về thực chất là sự đối tụng giữa các bên đối lập theo quy định của tố tụng mà Tòa án là người trọng tài, nghĩa vụ chứng minh được san sẻ cho tất cả các bên (bên buộc tội và bên bào chữa). Về cơ bản, các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa trong BLTTHS Việt Nam năm 2003 là phù hợp và trong thực tiễn áp dụng không có gì vướng mắc lớn. Nghị quyết số 08-NQ/TW nhấn mạnh đến vấn đề tranh tụng chỉ là nhằm khắc phục tình trạng ở một số phiên tòa hiện nay đó là Kiểm sát viên quá thụ động, ỷ lại vào HĐXX nên không tích cực tham gia xét hỏi cũng như tranh luận với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Về phía HĐXX lại quá phụ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên không quan tâm xem xét các chứng cứ, các yêu cầu và quan điểm bào chữa mà Luật sư và bị cáo đưa ra tại phiên tòa. Vì vậy, vấn đề quan trọng là không phải là sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về thủ tục tại phiên tòa mà chỉ cần chủ tọa phiên tòa tăng thời gian để Luật sư và bị cáo được trình bày các ý kiến của mình tại phiên tòa, không được ngắt lời hay hạn chế thời gian phát biểu của họ, bảo đảm sự tranh luận dân chủ giữa Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác là đủ. Nâng cao tính tranh tụng trong quá trình xét xử có nghĩa là nâng cao hơn nữa hoạt động tranh luận tại phiên tòa. Vì vậy, không nên quy định trong BLTTHS tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS. Nhóm quan điểm thứ hai thì cho rằng: Tư pháp hình sự ở một số nước dù được tổ chức theo mô hình tố tụng nào đi nữa (tố tụng xét hỏi hay tố tụng tranh tụng), thì trong TTHS cũng đều tồn tại ba chức năng với ba nhóm chủ thể: bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án. Do đó, “tranh tụng là nguyên tắc quan trọng, nguyên tắc đặc trưng của hoạt động tư pháp và là đặc trưng nổi bật nhất của tư pháp hình sự” [2]. , tùy thuộc vào sự thừa nhận và sự thể hiện
  • 22. 13 nội dung của nguyên tắc này (theo hướng mở rộng hay thu hẹp) trong các giai đoạn tố tụng mà người ta phân biệt mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng xét hỏi. Còn tranh luận chỉ là một phần (một thủ tục) của phiên tòa hình sự, mà trong đó các bên buộc tội và bên bào chữa đánh giá kết qủa xét hỏi trên cơ sở phân tích và đánh giá pháp lý đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị HĐXX về các vấn đề cần giải quyết trong nội dung vụ án. Tôi đồng tình với quan điểm cho rằng trong BLTTHS của Việt Nam cần ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS để phân định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử giữa các bên và Tòa án. Tranh luận chỉ là sự thể hiện đậm nét nhất, tập trung nhất nội dung nguyên tắc tranh tụng, khái niệm “tranh luận” có nội hàm hẹp hơn khái niệm “tranh tụng”. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS không đồng nhất với việc xây dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo mô hình tố tụng tranh tụng. Với ý nghĩa là một nguyên tắc của TTHS, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự đòi hỏi một số nội dung sau đây phải được thể hiện: Một là, khẳng định sự tách bạch giữa các chức năng cơ bản của TTHS (buộc tội, bào chữa và xét xử). Những chức năng này do các chủ thể khác nhau thực hiện. Không thể có sự chồng lấn trong việc thực hiện các chức năng tố tụng giữa các chủ thể, trong đó chức năng buộc tội thuộc về bên công tố, chức năng gỡ tội thuộc về bên Luật sư và chức năng xét xử thuộc về Tòa án. Hai là, bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép nhằm thực hiện đầy đủ chức năng của mình ở các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử. Ba là, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của người bị buộc tội trong tất cả các giai đoạn tố tụng nhất là giai đoạn xét xử.
  • 23. 14 Bốn là, đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng, kể từ khi cơ quan điều tra tiến hành điều tra hoặc có các hoạt động bắt, giam, giữ người bị tình nghi. Năm là, khẳng định nghĩa vụ của Tòa án tạo mọi điều kiện tốt nhất để các bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, phải xem xét vô tư, khách quan mọi chứng cứ và lý lẽ của bên buộc tội cũng như bên bào chữa. Bản án của Tòa án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ giữa các bên [24]. Nguyên tắc tranh tụng chính là điều kiện để bảo đảm việc xác định đúng đắn sự thật khách quan của vụ án, hình thức tranh tụng giúp cho việc kiểm tra tại phiên tòa từng chứng cứ, từng chi tiết của vụ án ở cả hai góc độ buộc tội và gỡ tội. Nhờ đó Tòa án có thể nghiên cứu, đánh giá tất cả những gì mà bên buộc tội khẳng định cũng như tất cả những gì mà bên gỡ tội phản bác. Trên cơ sở đó xác định đúng người phạm tội để trừng trị đồng thời không làm oan người vô tội, tạo tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Tuy nhiên mức độ và phạm vi áp dụng nguyên tắc này trong pháp luật TTHS ở các nước là khác nhau, phụ thuộc vào quan niệm, truyền thống lập pháp, tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp, đội ngũ Luật sư bào chữa và các điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội, trình độ dân trí… 1.3.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng: Hệ tố tụng tranh tụng được xây dựng và vận hành trên cơ sở áp dụng triệt để nguyên tắc tranh tụng. Theo nguyên tắc này thì trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Ba chức năng này đan quyện qua lại với nhau và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án. Mỗi chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và vận động của hai chức năng kia [35]. Thiếu một trong ba chức năng nêu trên, tranh tụng trong TTHS sẽ không còn đầy đủ ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, các
  • 24. 15 chức năng này không xuất hiện đồng thời. So với chức năng xét xử, thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa xuất hiện sớm hơn, song song tồn tại và đối trọng với nhau trong suốt quá trình tố tụng. Khi một nguời bị bắt, bị áp dụng biện pháp tạm giữ hoặc khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can thì trong TTHS đồng thời xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Chính từ thời điểm này mới xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa [19]. Tôi đồng tình với quan điểm này bởi lẽ lúc này đã xuất hiện hai chức năng là chức năng buộc tội và chức năng bào chữa luôn đối lập nhau và các chủ thể tham gia thực hiện hai chức năng này tạo thành hai bên đối tụng: Bên buộc tội và bên bào chữa. Hai bên này đều có ý kiến, luận điểm riêng, họ tranh luận để các bỏ một phần hay toàn bộ ý kiến của bên kia do vậy tranh tụng được hình thành. Còn đến giai đoạn xét xử tại Tòa án, xuất hiện một chức năng nữa là chức năng xét xử, chức năng này do chủ thể duy nhất là Toà án thực hiện (thông qua HĐXX, Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn hay Hội thẩm nhân dân). Ngoài ra, còn có các chủ thể khác được triệu tập tham gia vào quá trình tranh tụng tại phiên toà. Các chủ thể này không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan trong vụ án và cũng không tham gia vào việc thực hiện chức năng buộc tội, bào chữa hay xét xử. Nhiệm vụ của họ là giúp cho Toà án và các bên thực hiện chức năng của mình trong tranh tụng nhằm xác định sự thật về vụ án. Như vậy, chúng ta có thể thấy giữa hai mô hình tố tụng có sự khác nhau rất lớn về sự phân loại các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong hệ tố tụng thẩm vấn các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS được phân thành hai nhóm (không phụ thuộc vào chức năng tố tụng mà chủ thể tham gia thực hiện):
  • 25. 16 Nhóm 1: Các chủ thể tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện công tố hay Viện Kiểm sát, Công tố viên hay Kiểm sát viên; Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hay Bồi thẩm đoàn. Nhóm 2: Các chủ thể tham gia tố tụng bao gồm: Bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người giám định, người phiên dịch, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… Trong hệ tố tụng tranh tụng, do có sự phân định rõ ràng giữa các chức năng cơ bản trong TTHS trên cơ sở nguyên tắc tranh tụng nên các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS được phân thành bốn nhóm (theo chức năng mà họ tham gia thực hiện): Nhóm 1: Bên buộc tội: bao gồm các chủ thể tham gia thực hiện chức năng buộc tội: Cơ quan điều tra và Điều tra viên, Viện công tố hay Viện kiểm sát, Công tố viên hay Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp (người bảo vệ quyền lợi) của họ. Nhóm 2: Bên bào chữa: bao gồm các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa: Người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo, người bị kết án, nguời bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện họp pháp (nguời bảo vệ quyền lợi) của họ. Các chủ thể này tạo thành bên đối lập với bên buộc tội; Nhóm 3: Toà án (thông qua HĐXX) là chủ thể duy nhất thực hiện chức năng xét xử. Đây là chủ thể giữ vai trò trọng tài đứng giữa bên buộc tội và bên bào chữa để phân xử. Nhóm 4: Các chủ thể tham gia tố tụng khác gồm Thư ký phiên toà, người làm chứng, giám định viên, người phiên dịch, đại diện các cơ quan, đoàn thể hay tổ chức xã hội [31]. 1.3.3. Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự: Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa chính là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án. Bản chất này chi phối và định hướng mọi
  • 26. 17 hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia phiên tòa. Tại đây, thông qua hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng cùng với sự tham gia của những người tham gia tố tụng HĐXX có trách nhiệm điều khiển phiên tòa hướng tới xác định sự thật khách quan và ra phán quyết để giải quyết vụ án. Bản chất đó được thể hiện ở một số điểm sau đây: - Tranh tụng tại phiên tòa là một cuộc điều tra công khai do các chủ thể (Thẩm phán, Kiểm sát viên, người bào chữa,…) cùng tiến hành dưới sự điều khiển của HĐXX (Chủ tọa phiên tòa). Tại đây các chứng cứ về vụ án được các chủ thể của các bên và HĐXX kiểm tra, đánh giá công khai trên cơ sở các quy định pháp luật. - Hoạt động tranh tụng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, phức tạp về nội dung, thể hiện sự xung đột về lợi ích, về tâm lý giữa các bên buộc tội và bên gỡ tội và bị hạn chế về mặt không gian và thời gian do pháp luật tố tụng quy định tức là hoạt động này chỉ có thể thực hiện tại phiên tòa và trong thời gian diễn ra phiên tòa và dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. - Mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách quan về vụ án thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá công khai chứng cứ và giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án trên cơ sở các quy định pháp luật làm căn cứ cho các nhận định, kết luận hoặc quyết định của HĐXX về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án theo quy định tại Điều 63 BLTTHS. - Kết quả tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên về vụ án do HĐXX quyết định khi nghị án và được thể hiện bằng phán quyết (bản án hoặc quyết định) nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Đây là văn bản pháp lý kết thúc quá trình tranh tụng ở giai đoạn xét xử giữa các bên về vụ án.
  • 27. 18 - Phiên tòa sơ thẩm thể hiện bản chất của tranh tụng một cách đầy đủ, tập trung và rõ nét nhất. Bởi vì, Tòa án cấp sơ thẩm có nhiệm vụ xét xử đối với toàn bộ vụ án nên tại phiên tòa này mới có sự tham gia đầy đủ của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và những người tham gia tố tụng khác (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,…).
  • 28. 19 1.3.4. Nội dung hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự: Tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HĐXX cần điều khiển phiên tòa với những nội dung chính sau: - Thực hiện và điều khiển việc xét hỏi tại phiên tòa. Xét hỏi thực chất là cuộc điều tra chính thức tại phiên tòa để xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, các bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. HĐXX chủ động hướng các bên đi vào trọng tâm vấn đề, tập trung lắng nghe làm cơ sơ thực hiện thủ tục tiếp theo. Việc xét hỏi này chỉ kết thúc khi Tòa án thấy rằng thông qua xét hỏi sự thật khách quan, đối tượng chứng minh trong vụ án đã được xác định đầy đủ, các tình tiết liên quan đến việc giải quyết đã được làm rõ. - Tạo điều kiện để các bên đưa ra chứng cứ mới như: yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài liệu mới. Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối với vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; cho nên đa số các trường hợp Cơ quan điều tra, VKS chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội; trong khi đó bên bào chữa (người bào chữa, bị cáo) không được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại phiên tòa. Vì vậy, pháp luật tố tụng quy định các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, quyền đưa ra các chứng cứ mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của Tòa án là đảm bảo để các bên thực hiện quyền tố tụng này; tránh trường hợp sợ phiền phức, sợ phiên tòa đi chệch quỹ đạo chuẩn bị nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở đầu phiên tòa.
  • 29. 20 - Điều khiển để các bên phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua việc điều tra chính thức, công khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật khách quan của vụ án để giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết. Các đánh giá khác nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho Tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán quyết; Mục đích chính của tố tụng thẩm vấn là tìm ra sự thật và đạt được sự công bằng trong tố tụng (bao gồm các giai đoạn: điều tra, truy tố và xét xử). Trong khi đó mục đích của hệ tố tụng tranh tụng lại khác ở chỗ việc tìm ra sự thật chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử. Mọi thông tin thu thập được trong quá trình điều tra đều chưa được xem xét cho đến khi được trình bày trước Toà. Mỗi bên sẽ trình Toà "sự thật của phía mình” và Thẩm phán cùng với bồi thẩm đoàn sẽ quyết định xem "sự thật” nào có tính thuyết phục hơn... Hệ thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh thực tế, còn hệ tranh tụng lại đánh giá cao khía cạnh pháp lý [6, tr.126]. - Điều khiển việc phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho thấy rằng, do nhiều lý do khác nhau như kĩ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà pháp luật được nhận thức rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Vì vậy, nội dung của tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: trong phiên tòa hình sự, đại diện VKS đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ việc buộc tội; người bào chữa đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) cho bị cáo…
  • 30. 21 - Hướng các bên đưa ra đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi ích liên quan. Mỗi bên tham gia tố tụng đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, nội dung không thể thiếu trong tranh tụng là các bên đề xuất ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích đó. Tùy theo tư cách tố tụng của mình mà phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý kiến của mỗi người tham gia tố tụng cũng có khác nhau: đại diện VKS bảo vệ cáo trạng, người bào chữa, bị cáo bảo vệ quan điểm không có tội hoặc giảm nhẹ TNHS, nguyên đơn dân sự đòi hỏi việc bồi thường, bị đơn dân sự bác bỏ hoặc giảm mức bồi thường… Như vậy, nội dung điều khiển tranh tụng tại phiên tòa thể hiện thông qua việc Tòa án thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật để đưa ra phán xét cuối cùng. 1.3.5. Phạm vi và các giai đoạn của quá trình tranh tụng: Trước hết, người điều khiển tranh tụng phải xác định phạm vi tranh tụng, tức là xác định quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời điểm nào và kết thúc vào khi nào? Bởi vì, có xác định chính xác phạm vi tranh tụng thì mới có thể xác định đầy đủ và chính xác nội dung hoạt động của các chủ thể khi tranh tụng tại phiên tòa. Về vấn đề này, hiện nay trong khoa học TTHS ở nước ta còn có những quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng tranh tụng tại phiên tòa chỉ bao gồm phần tranh luận tại phiên tòa khi cho rằng tranh luận theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW có thể hiểu là nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa, lấy kết quả tranh luận tại phiên tòa để ra bản án, quyết định. Quan điểm thứ hai cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên đọc cáo trạng và kết thúc sau khi tuyên án, tức
  • 31. 22 là bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Quan điểm thứ ba cho rằng tranh luận tại phiên tòa gắn liền với phiên tòa và không chỉ bao gồm phần tranh luận mà được thực hiện trong suốt quá trình xét xử, cuộc tranh tụng chỉ thực sự kết thúc khi Tòa tuyên án. Điều đó có nghĩa là quá trình tranh tụng tại tòa được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa và bao gồm cả phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Tôi cho rằng quan điểm thứ nhất là quá thu hẹp phạm vi tranh tụng. Nếu chỉ thu hẹp việc tranh tụng trong phần tranh luận thì không đạt được các mục đích tranh tụng đặt ra. Để thực sự tham gia vào quá trình chứng minh, các bên tham gia tranh tụng phải được phép đưa ra chứng cứ, thực hiện việc xét hỏi, xem xét vật chứng, để đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện; chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá từ góc độ, cách nhìn nhận khác nhau của bên buộc tội và bên bị cáo. Hơn nữa, theo TTHS của nhiều nước, nhất là các nước theo truyền thống án lệ, phiên tòa không được phân chia rõ rệt thành phần xét hỏi, phần tranh luận thì quan điểm cho rằng tranh tụng chỉ xảy ra trong phần tranh luận là không chính xác. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi tranh tụng trong phạm vi tranh luận tại phiên tòa thì chưa xác định được quá trình tranh tụng về vụ án giữa các bên sẽ kết thúc ra sao. Để có căn cứ tranh luận về vụ án, các chủ thể tham gia tranh tụng phải kiểm tra, xác minh các chứng cứ, tài liệu về vụ án để từ đó lựa chọn được những chứng cứ hợp pháp, có giá trị chứng minh làm căn cứ cho các lập luận của mình khi đề xuất với HĐXX về hướng giải quyết các vấn đề về vụ án. Vì vậy tranh luận chỉ là một thủ tục, một phần độc lập của phiên tòa, trong đó thể hiện tập trung và rõ nét nhất nội dung tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng và chỉ là một bộ phận cấu thành của cả quá trình tranh tụng. BLTTHS 2003 (từ Điều 217 đến Điều 221) ghi nhận thủ tục tranh luận với tư cách là một phần của phiên tòa sơ thẩm, được tiến hành ngay sau phần xét hỏi. Theo quan điểm thứ
  • 32. 23 hai thì phạm vi tranh tụng được mở rộng hơn bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Tôi cho rằng cách hiểu mở rộng phạm vi tranh tụng này có thể chấp nhận được, tuy nhiên chưa đầy đủ vì trong thực tiễn xét xử, phần thủ tục phiên tòa được coi là giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng [34]. Quan điểm thứ ba cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa bao gồm: phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án theo tôi là chính xác. Bởi vì, phần thủ tục phiên tòa được coi là giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng, chỉ sau khi HĐXX nghị án và tuyên án, thì kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa về vụ án mới được xác định và khi đó quá trình tranh tụng tại phiên tòa mới kết thúc. Do vậy, tranh tụng chỉ có thể tiến hành tại phiên toà nên quá trình này bị giới hạn bởi chính phiên toà. Nó được bắt đầu từ khi khai mạc phiên toà và kết thúc sau khi Toà án công bố phán quyết, trong đó tranh luận của các bên tại phiên toà chỉ là giai đoạn thể hiện đậm nét nhất, tập trung rõ nét nhất của quá trình tranh tụng giữa các bên về vụ án. Từ phân tích trên, căn cứ vào nội dung hoạt động của các chủ thể có thể phân quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự thành 4 giai đoạn sau: - Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng; - Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án; - Giai đoạn tranh luận giữa các bên; - Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng. Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng: Đây là giai đoạn mở đầu chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng. Nó được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa của chủ tọa phiên tòa và kết thúc trước khi kiểm sát viên công bố cáo trạng. Trong thời hạn nghiên cứu, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, thấy vụ án đủ điều kiện thì xây dựng kế hoạch xét xử, trao đổi với Kiểm sát viên về đề
  • 33. 24 cương thẩm vấn, thành phần những người cần triệu tập tham gia phiên tòa và dự kiến các tình huống phát sinh. Tại phần thủ tục, đây là tiền đề cho các giai đoạn sau nên thực hiện tốt việc chuẩn bị thì chắc chắn chất lượng tranh tụng sẽ đạt mục đích, chất lượng cao. Ở giai đoạn này, Chủ tọa phiên tòa tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi tiến hành tranh tụng như: kiểm tra sự có mặt, vắng mặt (lý do vắng mặt) của những người được triệu tập tham gia vào quá trình chứng minh tại phiên tòa. HĐXX xem xét và quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của các bên về hoãn phiên tòa, triệu tập thêm người làm chứng, bổ sung chứng cứ mới… Giai đoạn 2: Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên công bố cáo trạng và kết thúc trước khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Đây là giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án do HĐXX tiến hành với sự tham gia của Kiểm sát viên, Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Thông qua việc xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, công bố lời khai của những người vắng mặt tại phiện tòa, công bố các kết luận giám định, các tài liệu có liên quan và xem xét vật chứng, các thành viên của HĐXX, Kiểm sát viên, Luật sư tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và giá trị chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án. Trên cơ sở đó, HĐXX xác định có tội phạm xảy ra hay không, có đúng bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội hay không, xem xét động cơ mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, hậu quả của tội phạm… để ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với diễn biến tại phiên tòa. Kết quả tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi là cơ sở cho lập luận của các bên trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án trong phần tranh luận. Giai đoạn 3: Tranh luận giữa các bên: Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa
  • 34. 25 các bên tại phiên tòa. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và kết thúc trước khi HĐXX vào phòng nghị án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy định của pháp luật đề đề xuất hướng xử lý phù hợp. Trên cơ sở những quy định của pháp luật, các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tiến hành đánh giá chính thức công khai giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án để đưa ra quan điểm, nhận định, kết luận của mình về vụ án; các bên thể hiện rõ quan điểm của mình là chấp nhận hay bác bỏ các chứng cứ, quan điểm hay kết luận của “bên kia” về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án. Nội dung tranh tụng trọng tâm của các bên được thể hiện trong lời luận tội của Kiểm sát viên, lời bào chữa của Luật sư (lời tự bào chữa của bị cáo), ý kiến tranh luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại, cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc của chính bản thân họ và lời đối đáp qua lại giữa các bên. Ở giai đoạn này, HĐXX không trực tiếp tham gia vào quá trình tranh luận giữa các bên mà nhiệm vụ chủ yếu của HĐXX, cụ thể là của Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa là điều khiển quá trình tranh tụng để hướng sự tranh luận của các bên tập trung vào việc làm sáng tỏ quan điểm còn mâu thuẫn với nhau và ghi nhận quan điểm, ý kiến của các bên tranh tụng về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Giai đoạn 4: Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng: Đây là giai đoạn có vai trò quyết định toàn bộ quá trình tranh tụng. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm HĐXX nghị án và kết thúc sau khi tuyên án. Nghị án và tuyên án là giai đoạn HĐXX đánh giá và công bố kết quả tranh tụng. HĐXX thực hiện hoạt động này một cách độc lập tại phòng nghị án, không có sự tham gia của bất cứ ai. Tại đây các thành viên của HĐXX thảo luận về tính hợp pháp, tính liên quan và tính khách quan của các chứng cứ đã
  • 35. 26 được kiểm tra xác minh tại phiên tòa; xem xét các yêu cầu, đề nghị và quan điểm của các bên về vụ án trên cơ sở các quy định của pháp luật. Sau khi thảo luận, HĐXX tiến hành biểu quyết theo đa số về từng vấn đề cụ thể của vụ án. HĐXX chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm, yêu cầu, đề nghị của các bên buộc tội, bên bào chữa và quyết định về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án như về tội danh, về điều, khoản, điểm của BLHS cần áp dụng cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cần áp dụng với bị cáo; mức hình phạt; mức bồi thường thiệt hại hoặc HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội… Việc đánh giá chính thức kết quả tranh tụng của các bên về vụ án được HĐXX thể hiện bằng phán quyết ở dạng bản án hoặc quyết định. Bản án hoặc quyết định của HĐXX là văn bản pháp lý ghi nhận kết quả tranh tụng giữa các bên về vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Phán quyết này là nhân danh Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, được Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa tuyên đọc công khai kể cả trong những trường hợp xét xử kín. HĐXX chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã thẩm tra tại phiên tòa và chỉ những vấn đề đã được thẩm tra tại phiên tòa mới được dùng làm căn cứ để nhận định, đánh giá, kết luận và quyết định. Các giai đoạn của quá trình tranh tụng có mối liên hệ chặt chẽ và biện chứng không thể tách rời. Mỗi giai đoạn này tuy có sự khác nhau về tính chất, mức độ, nội dung và hình thức nhưng kết quả của giai đoạn trước là tiền đề cho hoạt động của các chủ thể ở giai đoạn tranh tụng tiếp theo. Tóm lại, tổng hợp từ những nội dung đã nêu và phân tích ở trên có thể khẳng định rằng đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự thể hiện qua một số nét chính sau: Thứ nhất, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu. Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, là sự tập trung nhất của hệ thống tố tụng. “Các hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công
  • 36. 27 tố viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính – tư pháp không được điều chỉnh bởi luật tố tụng hình sự” [12]. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quy định của pháp luật TTHS. Vì vậy, mọi điều tra của Luật sư và của cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều cách khác nhau, với những phương pháp thu thập chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét đánh giá của HĐXX thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Tòa án. Thứ hai, trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng rõ rệt đó là bên buộc tội và bên bị buộc tội. Tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, VKS và Luật sư hoàn toàn bình đẳng nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. VKS dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của Nhà nước đưa ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội cho bị cáo. Còn bên gỡ tội là bị cáo và những Luật sư của bị cáo cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề của vụ án. Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài. Thẩm phán không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ mà các bên đưa ra, điều khiển việc tranh luận giữa các bên và đưa ra phán quyết cuối cùng. Thứ tư, hoạt động tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn (Hội thẩm nhân dân): Do vai trò của Thẩm phán tại phiên tòa là người trọng tài nên thông thường phải có Bồi thẩm đoàn (Hội thẩm nhân dân) tham gia tố
  • 37. 28 tụng. Đoàn bồi thẩm không tham gia vào quá trình tranh tụng nhưng họ cùng Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa điều khiên tranh tụng tại phiên tòa và có quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó Thẩm phán sẽ quyết định về vụ án. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với Hội thẩm. 1.4. Tìm hiểu về tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ở một số quốc gia trên thế giới. Mỗi hệ thống tố tụng lại có phương cách xác định sự thật khác nhau, cơ sở pháp lý khác nhau, nên phạm vi, tính chất và mức độ tranh tụng cũng có những điểm khác nhau. Căn cứ vào phương cách mà tố tụng được thực hiện, cơ sở pháp lý cho việc thực hiện phương cách đó, người ta phân tố tụng tư pháp, đặc biệt là tố tụng hình sự thành các hệ thống khác nhau: hệ thống tranh tụng, hệ thống xét hỏi (hay thẩm vấn) và hệ thống pha trộn. Và trong mỗi hệ thống đó, mức độ tranh tụng cũng khác nhau. 1.4.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống châu Âu lục địa: Hệ thống xét hỏi thường được sử dụng trong các nước theo hệ thống luật châu Âu lục địa (Continental law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống này là cố gắng xác định sự thật khách quan của vụ án để từ đó ra phán quyết. Vì vậy, quá trình tố tụng được thực hiện bằng văn bản và bằng lời, bao gồm cả giai đoạn điều tra và xét xử tại phiên tòa. Tòa án thực hiện việc chứng minh vụ án trên cơ sở sử dụng kết quả đóng vai trò quyết định trong xác định sự thật khách quan tại phiên tòa. Vì vậy thủ tục tố tụng tại phiên tòa đơn giản hơn, ít khắt khe hơn về mặt hình thức: việc xét xử không nhất thiết phải có mặt tất cả những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra lại tại phiên tòa, gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận. Phán quyết của Tòa án được đưa ra trên cơ sở niềm tin nội tâm của Tòa án về sự thật khách quan
  • 38. 29 của vụ án, chứ không phải là kết qủa của việc ai thuyết phục tòa án tốt hơn tại phiên tòa … Hiện nay các quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã tiếp thu một phần các yếu tố của hệ thống pháp luật tranh tụng vào các thủ tục tố tụng hình sự của mình, điển hình là cộng hòa Pháp. Ngày 15/6/2000 Pháp đã ban hành "Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân” đã bổ sung một số nội dung của tố tụng tranh tụng nhằm tăng cường vai trò, quyền hạn của các bên tại phiên toà và đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng [6, tr33]. Trong pháp luật TTHS của Pháp thể hiện một số nội dung tranh tụng tại phiên tòa sau: - Trong quá trình tiến hành xét xử, Công tố viên hoặc Luật sư của các bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho các nhân chứng và các bên tham gia tố tụng mà không cần sự cho phép của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa. - Các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu Chủ tọa phiên tòa triệu tập những người làm chứng mới đến khai báo trước tòa một cách không hạn chế. - Về hình thức xét hỏi tại phiên tòa đại hình cũng giống với Tòa án của hệ thống tranh tụng. Tuy nhiên thay vì ba Thẩm phán ngồi xét xử như ở tòa tiểu hình, tòa đại hình có một bồi thẩm đoàn gồm 9 thành viên được lựa chọn một cách ngẫu nhiên từ danh sách cử tri, các thủ tục và hình thức cũng nhiều hơn so với Tòa tiểu hình. Phiên tòa bắt đầu bằng việc Chánh tòa tiến hành thủ tục nhận dạng bị cáo và giải thích tóm tắt các trình tự tố tụng và thủ tục tại phiên tòa, tiếp đến theo thủ tục lựa chọn thành viên Bồi thẩm đoàn. Bị cáo có quyền chọn 5 vị, công tố lựa chọn 4 vị. Sau khi Thư ký tòa đọc bản luận tội thì từ thời điểm đó bắt đầu thẩm vấn bị cáo, các Bồi thẩm viên có quyền lựa chọn và đặt ra các câu hỏi và thông thường quá trình đặt câu hỏi sẽ tăng dần lên theo diễn biến của phiên tòa do các bên tham gia tố tụng đặt câu hỏi trực tiếp không cần sự cho phép của Chánh tòa. Chánh tòa có thể bày tỏ quan điểm
  • 39. 30 của mình về mọi câu hỏi trừ vấn đề có tội hay không có tội. Các bồi thẩm thì không bị ràng buộc bởi những quy định nghiêm ngặt như vậy và Chánh tòa có toàn quyền tự quyết để tiến hành tất cả những bước cần thiết nhằm khám phá sự thật, bao gồm cả việc cho gọi những nhân chứng không có trong danh sách mà các bên tham gia tố tụng yêu cầu đến trước tòa để thẩm vấn. Cũng như Pháp, Đức là nước điển hình của mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng trong thời gian gần đây, nhiều quy định liên quan đến tranh tụng đã được ghi nhận trong BLTTHS Cộng hòa liên bang Đức. Điều 137 quy định bị can, bị cáo có thể nhận sự giúp đỡ của Luật sư bào chữa tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, tối đa ba Luật sư bào chữa có thể được lựa chọn. Điều 140, 141 còn quy định những trường hợp bắt buộc phải có Luật sư bào chữa và việc chỉ định Luật sư bào chữa. Trong quá trình điều tra, nếu một người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là bị bắt giữ thì theo Điều 115, anh ta phải được mang tới chỗ Thẩm phán có thẩm quyền ngay lập tức, Thẩm phán sẽ xem xét việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt và không muộn hơn ngày tiếp theo. Tại phiên xét xử, cơ quan công tố, bị can và Luật sư có quyền tham gia, được thông báo về thời gian, địa điểm xét xử. Các bên tham gia sẽ được phát biểu ý kiến trong phiên xét xử. Điều 136 và 163a quy định tại thời điểm lấy lời khai lần đầu tiên của bị cáo, thì bị cáo sẽ được thông báo về tội danh bị khởi tố và các điều khoản luật hình sự áp dụng, có quyền trình bày ý kiến đối với lời buộc tội hoặc không phát biểu bất cứ điều gì về lời buộc tội ngay trước khi tiến hành kiểm tra, trao đổi với Luật sư bào chữa do anh ta lựa chọn. Tại phiên tòa chính thức, sau khi nghe công tố viên trình bày bản cáo buộc, bị cáo có thể lựa chọn việc trả lời cáo buộc hoặc không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về cáo buộc. Bị cáo cũng có quyền yêu cầu Tòa án mở rộng việc thu thập chứng cứ. Sau khi tiến hành thu thập chứng cứ kết thúc, công tố viên và bị cáo sẽ được tạo điều kiện để thể hiện quan điểm tranh luận của mình về yêu
  • 40. 31 cầu đã đưa ra. Công tố viên có quyền trả lời, bị cáo sẽ nói lời sau cùng. Cho dù bị cáo có người bào chữa nói thay, bị cáo sẽ được hỏi về vấn đề có bổ sung thêm hay không đối với việc bào chữa cho mình. (Điều 243, 244, 258) [8]. 1.4.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống pháp luật Anh- Mỹ: Hệ thống tranh tụng thường được sử dụng trong các nước có hệ thống luật án lệ (Common law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống này là phán quyết trên cơ sở thỏa mãn với sự thật pháp lý mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Theo hệ thống này, hoạt động tư pháp thực chất được bó gọn trong hoạt động xét xử tại phiên tòa với các quy định nghiêm ngặt (nhiều khi đến mức máy móc) về thủ tục tố tụng. Tính tranh tụng trong xét xử vụ án được thực hiện một cách triệt để, sự thật chỉ được xác lập tại phiên tòa. Tòa án đóng vai trò là người trọng tài và qua phiên tòa xác định xem “sự thật” của ai thuyết phục hơn để qua đó phán xét. Quyết định của Tòa án dường như được thực hiện không phải trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án mà là trên cơ sở sự thật được các bên chứng minh tại phiên tòa có tính thuyết phục cao hơn. Vì vậy, Tòa án không xét hỏi, không tranh luận và cũng không gợi ý tranh luận, mà chỉ là người trọng tài điều khiển phiên tòa, đóng vai trò thụ động trong quá trình chứng minh, nhưng lại toàn quyền phán quyết về vụ án. Toàn bộ quá trình tố tụng được thực hiện bằng miệng vì vậy, tại phiên tòa phải có mặt tất cả những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng, các vật chứng phải được các bên đưa ra xem xét tại phiên tòa. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của Vương quốc Anh, Hoa Kỳ áp dụng triệt để nguyên tắc tranh tụng đối kháng. Sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phiên tòa chuyển ngay sang phần tranh tụng quyết liệt giữa bên buộc tội (Công tố viên) và bên Luật sư bào chữa. Trách nhiệm chứng minh tội phạm và người phạm tội hoàn toàn thuộc về Công tố viên và Luật sư
  • 41. 32 bào chữa. Công tố viên và Luật sư bào chữa có toàn quyền trong việc quyết định mời nhân chứng, quyết định những chứng cứ được đưa ra phiên tòa phục vụ cho hoạt động buộc tội hoặc gỡ tội. HĐXX đóng vai trò trọng tài trong lập, ra phán quyết trên cơ sở chấp thuận những chứng cứ có căn cứ của các bên. HĐXX hầu như không đặt câu hỏi với bị cáo và người làm chứng vì cho rằng có thể ảnh hưởng đến tính vô tư, trung lập của Tòa án. Kết thúc thủ tục tranh tụng, phiên tòa chuyển sang phần nghị án. Đối với những phiên tòa sơ thẩm không có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn, Thẩm phán có toàn quyền trong việc quyết định hình phạt đối với bị cáo. Đối với phiên tòa sơ thẩm có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn, Luật TTHS quy định Bồi thẩm đoàn có thẩm quyền phán quyết hành vi của bị cáo là có tội hay không có tội, Thẩm phán có quyền quyết định áp dụng hình phạt với bị cáo trong trường hợp phán quyết của Bồi thẩm đoàn tuyên bị cáo có tội. Tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trong tất cả các vụ án hình sự mà bị cáo bị buộc tội có thể phải chịu mức hình phạt từ 6 tháng tù trở lên thì người đó có quyền Hiến định là được xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Thêm vào đó, hầu hết các cơ quan tư pháp bao gồm cả các Tòa án liên bang đều cho phép Thẩm phán hoặc Công tố viên phủ quyết quyền khước từ xét xử có Bồi thẩm đoàn của bị cáo, do đó, theo cách hiểu chung nhất, xét xử không có Bồi thẩm đoàn chỉ xảy ra đối với những vụ án nghiêm trọng khi thủ tục đó được các bên đồng ý. Hệ thống pha trộn được thực hiện trên cơ sở kết hợp hai hệ thống tranh tụng và xét hỏi. Nhìn từ góc độ mục đích tố tụng cũng như phương cách để đạt được mục đích đó, thì mỗi hệ thống tranh tụng (tranh tụng hay xét hỏi) đều có mặt tích cực và hạn chế nhất định. Hệ thống tố tụng pha trộn là sự kết hợp giữa hai hệ thống tranh tụng trên. Tùy theo việc quốc gia thuộc vào hệ
  • 42. 33 thống tư pháp nào (án lệ hay lục địa) mà “dấu ấn” của hệ thống tố tụng trong hệ thống tố tụng pha trộn nổi rõ hơn. Nhật Bản là nước mà hệ thống tư pháp hình sự có ảnh hưởng bởi hai truyền thống pháp luật (cụ thể là Đức và Hoa Kì). Trong TTHS, vấn đề tranh tụng cũng được thể hiện qua một số điểm cụ thể như: áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS; người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền im lặng và có quyền có Luật sư bào chữa; việc ra lệnh tạm giam do Thẩm phán quyết định. Khi nhận được đề nghị của Công tố viên, Thẩm phán phải nghiên cứu các tài liệu có liên quan, xem xét chứng cứ và tiến hành thẩm vấn riêng người bị tình nghi [57]. Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Qua nghiên cứu hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở một số quốc gia cho thấy: Hiện nay, ở các nước dù theo mô hình tố tụng nào thì trong đó cũng đều có yêu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Tùy vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có những lựa chọn mô hình tố tụng riêng. Sự khác biệt giữa mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn ở chỗ trong mô hình thẩm vấn, Thẩm phán giữ vai trò tích cực trong toàn bộ quá trình xét xử kể từ hoạt động thẩm vấn, điều tra công khai tại phiên tòa đối với các bên có liên quan và ra phán quyết. Còn trong mô hình tranh tụng thì Công tố viên và Luật sư bào chữa sẽ kiểm tra nhân chứng và thẩm vấn tất cả các bên, Thẩm phán đóng vai trò thụ động hơn, làm trọng tài cho công tố viên và Luật sư tranh luận [2]. 1.4.3. Lịch sử phát triển tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam:
  • 43. 34 Hệ thống tư pháp nước ta được tổ chức và hoạt động theo truyền thống luật lục địa. Tố tụng nước ta được thực hiện theo hệ thống pha trộn thiên về xét hỏi, tức yếu tố xét hỏi trong tố tụng nước ta rõ nét hơn. Việc nghiên cứu bản chất của tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta phải được xem xét từ góc độ tranh tụng trong tố tụng xét hỏi. 1.4.3.1. Từ giai đoạn 1945 đến năm 1960: Giai đoạn này chúng ta vừa giành được độc lập và đang trong quá trình hình thành, xây dựng bộ máy nhà nước của chế độ mới - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Về các quy định liên quan đến tranh tụng trong thời kì này: Về chức năng của các chủ thể tố tụng, tuy mới là giai đoạn đầu của quá trình hình thành nền tư pháp của chế độ mới, song các quy định thời kỳ này cũng đã từng bước xác định được vị trí của từng chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng, đặc biệt là sự phân định giữa chức năng của Công tố và Thẩm phán. Điều 5 Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 (về việc thiết lập các Tòa án quân sự) đã xác định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong TTHS “ngồi xử có Chánh án và hai Hội thẩm… Đứng buộc tội là một Ủy viên quân sự hay hai Ủy viên của Ban trinh sát. Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho…” [60, tr.401]. Điều 2 Sắc lệnh số 7 ngày 15/01/1946 bổ khuyết Sắc lệnh ngày 13/9/1945 như sau: “Đứng buộc tội tùy quyết định của Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ là một Ủy viên quân sự hay một Ủy viên của Ban Tư pháp sẽ là một Ủy viên quân sự hay một ủy viên của Công tố viện do ông Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ định” [60, tr.412]. Tính chất trọng tài, độc lập của Tòa án, của Thẩm phán cũng được nhấn mạnh tại Điều 74 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán “Tòa án Tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp” [60, tr.427].
  • 44. 35 Theo Hiến pháp 1946, các chức năng của các chủ thể trong TTHS cũng đã được quy định khá rõ. Điều 65 Hiến pháp 1946 quy định về sự tham gia của phụ thẩm nhân dân và Điều 69 quy định về việc thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Điều 67 quy định các phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt; người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư bào chữa [45]. Vai trò bào chữa của Luật sư được đặc biệt nhấn mạnh trong nhiều văn bản pháp luật. Điều 2 Sắc lệnh số 46-SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các Đoàn Luật sư quy định các Luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự. Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 quy định rõ: “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bào chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận” (Điều 1), “Nếu bị can không có ai bênh vực, ông chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử một người ra bào chữa cho bị can” (Điều 2), “Người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can. Người nào phạm vào điều này sẽ bị truy tố và trừng phạt như tội lừa đảo” (Điều 3). Về trình tự, thủ tục tranh tụng, do đây là giai đoạn hình thành hệ thống tư pháp non trẻ của chế độ mới nên các quy định về tranh tụng (mặc dù chưa rõ nét) mới chỉ tập trung ở việc quy định về quyền bào chữa của bị can bị cáo quyền được tranh luận tại phiên tòa (tố tụng thời kì này được xây dựng trên mô hình tố tụng xét hỏi nên tranh tụng chỉ biểu hiện trong giai đoạn xét xử). Tại Điều 5 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức các Tòa án quân sự quy định các hình thức mà bị cáo có thể lựa chọn để thực hiện quyền bào chữa “Bị cáo có quyền tự bênh vực lấy hay nhờ Luật sư hoặc một người khác
  • 45. 36 bênh vực cho”. Điều thứ 44 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán quy định “Trong việc đại hình, nếu trước Tòa thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một Luật sư để bào chữa cho hắn” [60, tr.424]. Điều 31 (về Tòa án đệ nhị cấp) và Điều 41 (về Tòa án thượng thẩm) của Sắc lệnh này quy định “Sau khi nghe các bị can, người làm chứng, cáo trạng của ông Biện lý (Chưởng lý), và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán ( Hội thẩm) và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào trong nghị xử để quyết định về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội”. [60, tr.426,427]. Nghị định số 82-TP/NĐ ngày 25/02/1946 của Bộ Tư pháp đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong các giai đoạn TTHS khác nhau, các quy định về trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa…, theo đó bị cáo có quyền “tự bênh vực lấy hay nhờ Luật sư hoặc một người khác bênh vực. Ông Chánh án theo lời yêu cầu của bị cáo có thể cử một người ra bênh vực bị cáo” (Điều 8); nếu bị cáo “xin cử một người bênh vực thì ông Chánh án sẽ ra mệnh lệnh cử” (Điều 11); Luật sư hay người bênh vực cho bị cáo có quyền xem hồ sơ vụ án tại Phòng lục sự, có quyền “giao thiệp thẳng với bị cáo bằng thư từ hay tới thăm” (Điều 12); bị cáo và những người bênh vực có quyền yêu cầu Tòa án đặt câu hỏi để người bênh vực có quyền yêu cầu Tòa án đặt câu hỏi để thẩm vấn những người làm chứng (Điều 16), tham gia vào quá trình tranh tụng thông qua việc biện luận và nói lời sau cùng (Điều 19)… Khi Hiến pháp 1946 ra đời, một số nguyên tắc cơ bản của TTHS nước ta lúc bấy giờ cũng ghi nhận nhiều nguyên tắc thể hiện được tư tưởng tranh tụng trong TTHS như nguyên tắc: tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 7); các phiên tòa án đều phải công khai, trừ trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư (Điều 67)…
  • 46. 37 Tuy còn nhiều hạn chế (như các chức năng trong tố tung chưa phân định rõ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; các quyền và nghĩa vụ của các chủ thẻ tham gia tranh tụng và điều kiện bảo đảm khác chưa được xác định đầy đủ…) nhưng các nguyên tắc và quy định nêu trên là cơ sở pháp lý để từng bước phát triển và hoàn thiện chế định tranh tụng ở nước ta [56]. 1.4.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988: Thời kì này các quy định liên quan đến tranh tụng có sự phát triển lên một bước rõ nét, cụ thể: Điều 97 Hiến pháp năm 1959 cũng như Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 1960 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” [38]. Các văn bản này cũng đã ghi nhận một loạt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND các cấp. Vai trò của Tòa án trong tranh tụng thể hiện ở chỗ việc xét xử ở phiên tòa là giai đoạn mang tính quyết định của vụ án, giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ thủ tục tố tụng… Khi xét xử các Thẩm phán phải chú ý đầy đủ cả hai mặt: buộc tội và gỡ tội mà không được thiên về một bên nào… Tòa án phải có trách nhiệm bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đặc biệt phải đảm bảo cho các bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình trước Tòa án. Điều 7 Luật tổ chức TAND 1960 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ Luật sư bào chữa cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ người công dân được đoàn thể chấp nhận bào chữa cho mình, Khi cần thiết, TAND chỉ định người bào chữa cho bị cáo” [38]. Thông qua quy định này có thể nhận thấy pháp luật nước ta thời kì này đã coi quyền bào chữa của bị cáo là một trong những quyền quan trọng nhất của bị cáo trong TTHS, được thể hiện như quyền đối trọng với quyền
  • 47. 38 buộc tội của VKSND. Trong giai đoạn này các tổ chức Luật sư và chế định bào chữa viên nhân dân đã được thiết lập để giúp đỡ bị can, bị cáo trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS. Pháp luật quy đinh Tòa án phải cử người bào chữa cho bị cáo trong một số trường hợp như: bị cáo là vị thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; bị cáo có thể bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình; vụ án có tính chất quan trọng, phức tạp… Luật tổ chức TAND 1960 cũng quy định quyền của bị can, bị cáo được tống đạt cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử; đề xuất chứng cứ và thỉnh cầu, xin thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa; quyền được nói lời cuối cùng; được kháng tố… Người bào chữa có quyền được gặp riêng bị cáo tạm giam; được nghiên cứu hồ sơ vụ án; đề xuất chứng cứ và thỉnh cầu; đề nghị thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân; tham gia thẩm vấn và trình bày lời bào chữa, kháng tố theo sự ủy nhiệm của bị cáo… Luật tổ chức VKSND 1960 quy định VKSND được thành lập thành một hệ thống độc lập thay thế Viện công tố trước đây để thực hiện chức năng buộc tội (truy tố và thực hành quyền công tố). Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ… có quyền đưa ra các chứng cứ buộc tội, các yêu cầu bồi thường thiệt hại, tranh luận tại phiên tòa…, kháng tố tăng nặng hình phạt hoặc tăng mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo…[39]. Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 1981 về cơ bản vẫn ghi nhận lại các nguyên tắc của TTHS đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Như vậy trong giai đoạn này, các quy định về tranh tụng trong TTHS mặc dù còn được quy định tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau nhưng đã có