Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính, cho các bạn tham khảo
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong tố tụng hành chính, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CAO THỊ NGA
V¡N HãA PH¸P LUËT CñA THÈM PH¸N
TRONG LÜNH VùC Tè TôNG HµNH CHÝNH
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LS. NGUYỄN THANH BÌNH
HÀ NỘI - 2014
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Cao Thị Nga
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP
LUẬT CỦA THẨM PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH ................................................................................... 7
1.1. Các khái niệm liên quan về văn hóa pháp luật trong lĩnh vực
tố tụng hành chính.............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm Văn hóa và Văn hóa pháp luật ........................................... 7
1.1.2. Khái niệm văn hóa pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính.......14
1.2. Khái niệm văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực
tố tụng hành chính............................................................................17
1.2.1. Một số quan niệm...............................................................................17
1.2.2. Định nghĩa..........................................................................................19
1.3. Nội dung văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố
tụng hành chính................................................................................21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA THẨM
PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH ............28
2.1. Tình hình văn hóa pháp luật của thẩm phán trong quá trình
tiến hành tố tụng giải quyết các khiếu kiện hành chính...............28
2.2. Thực trạng các chuẩn mực văn hóa pháp luật của thẩm phán
theo quy định hiện hành của Luật tố tụng hành chính ................35
2.3. Thực trạng các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể về văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính.........49
4. 2.3.1. Thực trạng các giá trị văn hóa phi vật thể của thẩm phán về văn
hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính.......49
2.3.2. Thực trạng các giá trị văn hóa vật thể văn hóa pháp luật của
thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính ....................................55
2.3.3. Thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi
vật thể của văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng
hành chính...........................................................................................58
2.4. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán Tòa án ........63
2.4.1. Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.......................................63
2.4.2. Công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán và đào tạo, bồi dưỡng
Thẩm phán..........................................................................................66
2.4.3. Công tác quản lý Thẩm phán .............................................................67
2.4.4. Công tác thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.............................................................69
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT
HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA THẨM
PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH..................71
3.2. Phương hướng phát huy các giá trị của văn hóa pháp luật của
thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính ....................................73
3.2.1. Xây dựng môi trường văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh
tố tụng hành chính theo hướng lành mạnh, phong phú, đa dạng ..........78
3.2.2. Phát huy các di sản văn hóa truyền thống cách mạng của văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính..............80
3.2.3. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng .............................................81
3.2.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa pháp
luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính.......................82
3.3. Các giải pháp nâng cao các giá trị văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính .............................................83
KẾT LUẬN....................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................92
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTW: Ban Chấp hành Trung ương
ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam
HĐXX: Hội đồng xét xử
HVTP: Học viện tư pháp
TTHC: Tố tụng hành chính
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách và hoàn thiện nền tư pháp quốc gia trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta. Một nền tư pháp hiện đại, trong sạch, vững mạnh là
mục tiêu chiến lược mang tính tất yếu khách quan. Mục tiêu đó được đặt ra
luôn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của đất nước.
Chủ trương và mục tiêu trên đã được xác định ngày càng rõ nét kể từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đặc biệt được nhấn mạnh tại các
Nghị quyết 08/2002 và Nghị quyết 49/2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương ĐCSVN (Khóa X) và tiếp tục được khẳng định một cách đầy đủ
và toàn diện hơn tại Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa XI của Đảng ta.
Nền tư pháp quốc gia gồm nhiều nội dung, yếu tố cấu thành, song đáng
chú ý và tập trung nhất là các thành tố sau:
1. Hệ thống pháp luật;
2. Thiết chế và cơ chế về tổ chức, hoạt động tư pháp;
3. Văn hóa pháp luật, trong đó có văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính là
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần gắn với hoạt động của Thẩm phán
trong lĩnh vực tư pháp về TTHC; là sự phản ánh đời sống tinh thần, trình độ,
năng lực, tri thức, kiến thức, thẩm mỹ… của người Thẩm phán trong lĩnh vực
TTHC. Trong các lĩnh vực văn hóa pháp luật ở nước ta thì văn hóa pháp luật
trong lĩnh vực tố tụng hành chính chỉ mới được hình thành trong khoảng hơn
15 năm trở lại đây.
Bên cạnh những giá trị đích thực với các nấc thang chuẩn mực giá trị
ngày càng được củng cố và nâng cao thì văn hóa pháp luật của thẩm phán
7. 2
trong lĩnh vực tố tụng hành chính vẫn còn nhiều biểu hiện hạn chế và nhiều
thách thức lớn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu với quyết tâm cao của
Đảng, Nhà nước và nhân dân, đặc biệt là nhân tố con người trực tiếp tham gia
vào quá trình tố tụng hành chính.
Như trên đã khẳng định, Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh
vực TTHC là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần gắn với hoạt động
của Thẩm phán trong lĩnh vực tư pháp về TTHC; là sự phản ánh đời sống tinh
thần, trình độ, năng lực, tri thức, kiến thức, thẩm mỹ… của người Thẩm phán
trong lĩnh vực TTHC. Trong các quan hệ tố tụng này có 2 nhóm nhân tố quan
trọng có vai trò to lớn đến quá trình hình thành và xác định các chuẩn giá trị
văn hóa bao gồm:
1. Nhóm cơ quan và người tiến hành tố tụng (Tòa án, Viện Kiểm sát,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư kí tòa án...);
2. Nhóm các tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng (các đương sự, những
người tham gia tố tụng khác...).
Ngoài ra còn có các nhóm nhân tố khác như:
1. Nhóm vãn hoá của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan;
2. Nhóm vãn hoá của công chúng (gồm cả cá nhân, tổ chức) liên quan;
3. Nhóm văn hoá của các nhóm xã hội khác tạo thành dư luận xã hội về
vụ án và giải quyết vụ án hành chính.
Những hành vi ứng xử thiếu khách quan, minh bạch, không tôn trọng
pháp luật, thiếu dân chủ bình đẳng, võ đoán, tiêu cực ...đều được coi là các
biểu hiện khác nhau của hiện tượng kém văn hóa, là nguy cơ trực tiếp cản trở
quá trình hình thành các chuẩn văn hóa, cản trở quá trình cải cách và hoàn
thiện nền tư pháp trong sạch, vững mạnh. Kinh nghiệm thực tế đã chứng tỏ
rằng, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã
hội, xây dựng nhà nước pháp quyền phải đi đôi với quá trình hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN và nâng cao trình độ văn hóa
8. 3
pháp luật cho các cá nhân. Cả ba nhân tố đó phải được tăng cường đồng bộ,
phát triển hài hòa thì công cuộc cải cách bộ máy nhà nước mới hiệu quả, dân
chủ hóa đi vào cuộc sống một cách lành mạnh, nhà nước pháp quyền mới
từng bước được xây dựng và phát triển, hoàn thiện.
Trước yêu cầu rất cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự
tiến bộ xã hội, việc nghiên cứu và xây dựng nền văn hóa pháp luật nói chung
và văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính nói
riêng, đã và đang đặt ra hàng loạt nhiệm vụ hết sức cấp thiết nhằm xây dựng,
củng cố và hoàn thiện các chân giá trị văn hóa pháp luật kể cả trong lĩnh vực
tố tụng hành chính. Để đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ trên đòi hỏi có nhiều
hoạt động tích cực khác nhau, trong đó có hoạt động nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về tư pháp, văn hóa pháp luật, văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính...
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính” để thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Trên thế giới, việc nghiên cứu văn hóa pháp luật đã xuất hiện từ lâu
đời, được trình bày dưới nhiều hình thức công trình, tác phẩm khoa học khác
nhau; dưới nhiều góc độ cũng như phương pháp và cách thức tiếp cận khác
nhau và đều nằm chung trong kho tàng lý luận của loài người về văn hóa pháp
luật, văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính...
2.2. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tình hình nghiên cứu văn
hóa pháp luật ngày càng diễn ra sôi nổi dưới nhiều góc độ khác nhau. Các
công trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật được tiếp cận dưới nhiều phương
pháp và cách thức khác nhau tùy vào các yêu cầu và nội dung nghiên cứu cụ
thể. Hình thức, đề tài và cấp độ nghiên cứu cũng ngày càng đa dạng, phong
phú. Thông qua những Tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lập pháp, Luật
học, Dân chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp luật... các tác giả đã bày tỏ quan
9. 4
điểm cá nhân của mình xung quanh khái niệm, vai trò, và những biện pháp
nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật. Cụ thể như sau:
- Văn hóa pháp luật (Cấp bộ) - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp;
- Văn hóa pháp luật - Khoa Luật, Đại học quốc gia;
- Văn hóa và đạo đức thẩm phán - Khoa luật, Đại học quốc gia;
- Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính - sự bảo đảm công lý trong quan
hệ giữa nhà nước với công dân - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Bình, NXB Tư pháp;
- Tư pháp trong nhà nước pháp quyền – Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Đăng
Dung, NXB Đại học quốc gia...
Đề tài Văn hóa pháp luật cũng được nghiên cứu trong nhiều công trình
khác được công bố trên một số Tạp chí chuyên ngành luật, luận văn, luận án,
khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu.
3. Mục đích, đối tƣợng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn vấn đề văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành
chính. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng, củng cố và phát
huy các giá trị vật chất, tinh thần của văn hóa pháp luật của thẩm phán trong
lĩnh vực tố tụng hành chính ở nước ta.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các yếu tố, thành tố; các nội dung,
các quan hệ văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính...
3.3. Mục tiêu của đề tài
Thông qua việc hệ thống lý luận và phân tích thực tiễn văn hoá pháp
luật của thẩm phán trong tố tụng hành chính nhằm đưa ra giải pháp hình thành
và phát triển các giá trị văn hoá của thẩm phán trong tố tụng hành chính. Góp
phần cải cách, hoàn thiện nền tư pháp trong sạch vững mạnh, với nét văn hoá
tiên tiến, văn minh, đậm đà bản sắc dân tộc.
10. 5
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
Cập nhật và phân tích các tri thức (quan niệm, quan điểm, khái niệm, kết
luận...) về văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
Có thể nói đây là nội dung quan trọng nhất tập hợp hệ thống cơ sở lý luận, các
kiến thức học thuật về văn hóa pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính. Với
ý nghĩa như vậy, phần này sẽ tập hợp, phân tích làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng và đưa ra cho được khái niệm “Văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính”. Để có được khái niệm này,
luận văn phải đưa ra được các cơ sở lý luận, nguyên tắc xác định khái niệm,
các yếu tố thuộc nội hàm của khái niệm, các yếu tố cấu thành khái niệm. Sau
khi đã đưa ra được định nghĩa khái niệm, một vấn đề hết sức cần thiết trình
bày các đặc điểm riêng của khái niệm để từ các chuẩn riêng này giúp chúng ta
xác định ranh giới giữa văn hóa pháp luật với văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính, đồng thời tạo sự khác biệt giữa văn
hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính với văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong các lĩnh vực khác.
Đây chính là điểm mới và là nội dung chính có ý nghĩa lý luận của luận
văn. Nội dung này cũng được xem là một trong những nhiệm vụ chính mà
luận văn phải tập trung lý giải.
Thứ hai, sau khi đã có khái niệm, có căn cứ về mặt học thuật, luận văn
cần tập hợp và lý giải một cách có hệ thống các chuẩn giá trị của văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính. Các chuẩn này
vừa có ý nghĩa phổ quát vừa phản ánh nét đặc sắc của văn hóa dân tộc trong
lĩnh vực tố tụng hành chính Việt Nam.
Thứ ba, một nội dung quan trọng khác không thể thiếu đồng thời cũng
là một yêu cầu cơ bản của một luận văn Thạc sỹ là phải tập trung nghiên cứu
thực trạng, nghiên cứu mặt thực tiễn.
11. 6
Thứ tư, từ kết quả đạt được của các nội dung trên, một phạm vi nghiên
cứu cơ bản quan trong nữa của luận văn là phải nghiên cứu và trình bày cho
được những phương hướng và các giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện và
phát huy các chuẩn giá trị văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố
tụng hành chính ở nước ta.
4. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài là dựa trên các quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách của
Đảng về văn hóa, văn hóa pháp luật...; các tri thức khoa học có liên quan để
tiếp cận và nghiên cứu các nội dung văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính. Cơ sở thực tiễn là toàn bộ
các hoạt động tố tụng hành chính của thẩm phán và người tiến hành tố tụng
khác, các cá nhân, tổ chức tham gia tố tụng trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
Đề tài sẽ sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phương pháp phân tích tổng hợp;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp thống kê...
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố trí và trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính
Chương 2: Thực trạng văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực
tố tụng hành chính
Chương 3: Phương hướng và các biện pháp nhằm phát huy các giá trị
văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính
12. 7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT
CỦA THẨM PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Các khái niệm liên quan về văn hóa pháp luật trong lĩnh vực tố
tụng hình chính
1.1.1. Khái niệm Văn hóa và Văn hóa pháp luật
Con người là từ tự nhiên mà ra, không thể tách khỏi tự nhiên để tồn tại
và phát triển. Văn hóa trước hết là một sự thích nghi chủ động và có ý thức
của con người với tự nhiên, đồng thời lại là sự phát triển của sự thích nghi ấy.
Với tính cách là một sinh vật, con người có một bản chất thứ nhất, đó là bản
chất tự nhiên. Nhưng với tính cách là một sinh vật có ý thức và sống thành xã
hội thì con người lại có bản chất thứ hai, đó là bản chất văn hóa, vượt ra khỏi
bản chất tự nhiên, điều này đưa đến quan niệm coi văn hóa là tự nhiên thứ hai
được hình thành và phát triển trên cơ sở tự nhiên thứ nhất tự tại: Là văn hóa,
những gì không phải tự nhiên.
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau. Có nhiều định nghĩa về văn hóa đã được các học giả đề cập
và phân tích trong các công trình nghiên cứu của mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, từ năm 1942, đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự tinh tồn [12, tr.431, T.3].
13. 8
Cách định nghĩa văn hóa này là khá toàn diện, thể hiện được sự nguồn
gốc, chức năng của văn hóa, đồng thời cũng phản ánh tính kế thừa từ thế hệ này
sang thế hệ khác, thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác của văn hóa.
Theo định nghĩa của UNESCO thì:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động
mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn
ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng
bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên nó từng dân tộc tự khẳng
định bản sắc riêng của mình [23, tr.23].
Văn hóa pháp luật là thuật ngữ dùng để mô tả mối quan hệ gắn bó
khăng khít giữa các giá trị pháp luật và các giá trị về văn hóa, là tổng thể các
hoạt động hàm chứa các giá trị pháp luật được hình thành trên cơ sở trí thức
pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật và hành vi pháp lý thực tiễn.
Khái niệm Văn hóa pháp luật hay nền văn hóa pháp luật vẫn còn có
nhiều cách hiểu khác nhau. GS. TS Lê Minh Tâm cho rằng:
Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh
thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ
thống qui phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử,
những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lí, nguyên tắc, những
tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy
được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật [18, tr.18].
Theo quan điểm của TS Phạm Duy Nghĩa thì “văn hóa pháp luật là một
cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với
khoa học hành vi, cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính
nhân học của các cộng đồng và tộc người” [13, tr.1]. Một quan điểm khác của
GS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì:
14. 9
Văn hóa pháp luật là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần
thuộc hệ thống tác động của pháp luật được thể hiện trong ý chí và
hành vi của con người… Văn hóa pháp luật thể hiện ở trình độ cao
của sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức pháp luật của nhân dân;
thực trạng có chất lượng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật,
các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ quan
pháp luật, kiểm tra hiến pháp…; kết quả của hoạt động pháp luật dưới
dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như luật,
hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành pháp [15, tr.7].
Bản thân khái niệm văn hoá pháp luật có nhiều nghĩa, được thể hiện
ở: trình độ của tư duy pháp lý, trình độ cảm nhận, nhận thức về thực tiễn
pháp luật; mức độ tôn trọng pháp luật; trình độ tri thức pháp luật của nhân
dân; thực trạng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật có chất lượng;
các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù (như của các cơ quan pháp
luật, kiểm tra hiến pháp…); kết quả của hoạt động pháp luật dưới dạng sản
phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như: luật, hệ thống lập
pháp, thực tiễn tư pháp…
Một cách tiếp cận khác về văn hoá pháp luật, theo đó, văn hoá pháp
luật là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực
pháp luật, thể hiện trong việc xây dựng, khẳng định và giữ gìn những giá trị
pháp lý. Văn hoá pháp luật của cá nhân chính là trình độ ý thức pháp luật,
trình độ của cá nhân về sử dụng pháp luật trong các hoạt động thực tiễn của
mình. Văn hóa pháp luật của xã hội là toàn bộ lĩnh vực vật chất và tinh thần
của văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp lý trong các giai đoạn lịch sử. Văn hóa
pháp luật xã hội là trạng thái và đặc thù của ý thức pháp luật, hệ thống thông
tin pháp luật, trình độ phát triển của pháp luật, trật tự pháp luật và tình trạng
pháp chế trong xã hội. Đối với nhà nước và xã hội, có văn hoá pháp luật nghề
15. 10
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp – một bộ phận cấu thành của văn hoá pháp luật.
Các lĩnh vực của văn hoá pháp luật cũng rất đa dạng, bao gồm: văn hoá lập
pháp, văn hoá trong thực hiện pháp luật; văn hoá phổ biến, giáo dục pháp
luật; trong khoa học pháp lý và đào tạo luật vv…
Văn hoá pháp luật có các đặc điểm của văn hoá nói chung, các đặc
điểm riêng của mình và luôn có mối quan hệ mật thiết với các dạng văn hoá
khác. Mối tương quan và sự tác động giữa văn hoá pháp luật và các hình thái
văn hoá xã hội khác là điều dễ hiểu vì bản thân các quy phạm pháp luật luôn
nằm trong mối liên hệ với các loại quy tắc xã hội khác, các quan hệ pháp luật
cũng nằm trong hệ thống các quan hệ xã hội khác.
Từ các cách tiếp cận văn hóa pháp luật nêu trên, chúng ta có thể hiểu
trong cơ cấu của văn hoá pháp luật có các yếu tố văn hoá cơ bản sau: pháp
luật với tư cách là một hệ thống các quy phạm thể hiện ý chí nhà nước, mệnh
lệnh nhà nước; các quan hệ pháp luật; các thiết chế pháp luật (như hệ thống
các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội) đảm bảo sự kiểm soát pháp luật, sự
điều chỉnh và sự thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật; hành vi pháp luật. Hay
nói một cách ngắn gọn, các yếu tố cấu thành của văn hoá pháp luật bao gồm:
ý thức pháp luật; nền pháp luật; trình độ, kỹ năng, nghệ thuật sử dụng công cụ
pháp luật. Ba yếu tố này có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, làm
tiền đề, điều kiện cho nhau phát triển, sự lạc hậu, trì trệ của yếu tố này sẽ là
lực cản của yếu tố kia.
Như trên đã nêu, các bộ phận cấu thành của văn hoá pháp luật là ý thức
pháp luật, nền pháp luật, hành vi pháp luật và sử dụng pháp luật. Ý thức pháp
luật là những tư tưởng, quan điểm, nhận thức và tâm lý, tình cảm về pháp luật
của con người. Có thể nói:
Ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan
điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên
16. 11
các phương diện, tiêu chí cơ bản như: Về sự cần thiết (hay không
cần thiết), về vai trò, chức năng của pháp luật, về tính công bằng
hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của các qui
định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật
cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi
của các cá nhân, nhà nước, các tổ chức xã hội [16, tr. 430].
Hệ thống pháp luật được thể hiện với ý nghĩa là các sản phẩm vật
chất của ý thức pháp luật, bao gồm hệ thống pháp luật thành văn và không
thành văn cũng như hệ thống tổ chức và hoạt động của các thiết chế lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Hành vi, cách ứng xử theo pháp luật của mỗi cá
nhân trong đời sống hàng ngày cũng như trình độ vận dụng công cụ pháp
luật của Nhà nước trong quá trình quản lý xã hội là một kết quả tất yếu của
quá trình nhận thức, chắt lọc kiến thức pháp luật và là yếu tố không thể
thiếu được của văn hóa pháp luật.
Văn hoá pháp luật chỉ bao gồm bộ phận ý thức pháp luật phù hợp với
các nguyên tắc, các yêu cầu của pháp luật. Ý thức pháp luật có vị trí quan
trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và trong sự phát triển của nhà nước,
pháp luật và văn hóa xã hội. Không có một hoạt động nào của con người lại
có thể thực hiện ngoài ý thức con người, không có một quyết định văn bản
pháp luật nào, không có một quan hệ pháp lý nào có thể thực hiện ngoài tâm
lý pháp luật và tư tưởng pháp luật của con người. Ý thức pháp luật là bộ phận
cấu thành cơ bản của văn hoá pháp lý, song văn hoá pháp luật chỉ bao gồm bộ
phận ý thức pháp luật phù hợp đúng các yêu cầu của pháp luật. Văn hoá pháp
luật chính là một trạng thái tốt của ý thức pháp luật.
- Văn hoá pháp luật là sự thống nhất giữa những yếu tố hình thức và nội
dung trong xây dựng và thực hành pháp luật một cách có văn hoá và đạo đức
Trong thực tiễn, khi nói đến văn hoá pháp luật thường được hiểu, được
quy về những yếu tố mang tính hình thức trong các hoạt động pháp luật. Theo
17. 12
đó, nói đến văn hoá pháp luật là nói đến những yếu tố như cung cách giao
tiếp, hành xử, cách phát ngôn, cách thức ăn mặc, trang phục, cách thiết kế, bài
trí công sở vv…Quan niệm này đúng nhưng chưa toàn diện, bao quát hết
phạm trù văn hoá pháp luật. Đôi khi cũng theo góc độ hình thức đó, văn hoá
pháp luật lại được quan niệm chỉ ở vị thế như là những yếu tố bổ trợ –
“những phụ liệu - linh kiện” có tính chất phụ họa, trang điểm, đánh bóng cho
hoạt động pháp luật. Nếu quan niệm như vậy thì sẽ làm mất đi mối liên hệ
mật thiết giữa phạm trù hình thức và nội dung trong hoạt động pháp luật.
Trong khi đó, giữa cái nội dung và cái mà đôi khi chỉ cho là hình thức như
nêu trên lại là một thể thống nhất hữu cơ, phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau để
đạt được mục đích, ý nghĩa và chức năng của văn hoá pháp luật.
Chức năng của văn hoá pháp luật suy cho cùng là nhằm đạt tới những
hành vi hợp pháp trên cơ sở văn hoá đạo đức. Thực hành pháp luật phải trên
cơ sở đạo đức (đạo đức truyền thống dân tộc và đạo đức tiến bộ của nhân
loại). Liên hệ vào lĩnh vực văn hoá xét xử, một phiên toà có văn hoá chính là
một phiên toà tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật tố tụng và các
chuẩn mực văn hoá giao tiếp phù hợp bản sắc văn hoá dân tộc, văn hoá nhân
loại. Văn hoá pháp luật của những người tham gia hoạt động tư pháp được thể
hiện thông qua ý thức pháp luật của họ, ý thức và hành vi văn hoá, tôn trọng
và tuân thủ pháp luật, thái độ đúng mực trong việc tiếp nhận và thi hành các
quyết định của các cơ quan tư pháp. Thẩm phán, luật sư, công tố viên giữ vai
trò quan trọng, định hướng, được thể hiện ở ý thức pháp luật, trình độ chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp trong hoạt động tư pháp. Đối với luật sư, thái độ
ứng xử có văn hoá là một trong những điều kiện để hành nghề luật sư một
cách nghiêm túc, hiệu quả, đạt được sự tôn trọng, tín nhiệm của khách hàng.
Biểu hiện tập trung nhất của văn hóa xét xử, suy cho cùng, chính là xét xử
đúng pháp luật với sản phẩm là những quyết định thấu tình đạt lý.
18. 13
- Văn hoá pháp luật không phải là sự lắp ghép cơ học giữa yếu tố văn
hoá và yếu tố pháp luật.
Sở dĩ như vậy là vì, về bản chất, pháp luật là hiện tượng văn hoá, trong
văn hoá có chứa đựng pháp luật, một sản phẩm chắt lọc của văn hoá. Văn hoá
pháp luật là sự nhận thức sâu sắc pháp luật, sự vận dụng đúng đắn pháp luật.
Mọi sự bất chấp pháp luật, lạng lách pháp luật, bẻ cong pháp luật... đều là sự vận
dụng pháp luật không có văn hóa. Sự thật là những quyết định độc quyền, độc
đoán không tính toán tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp lâu bền, cái ích cũng là chưa
có văn hoá. Pháp luật, đạo đức chính là giá trị tiêu biểu nhất của văn hoá. Văn
hóa chín muồi tất yếu sẽ sản sinh ra pháp luật. Hoạt động xét xử, giải quyết các
tranh chấp đúng pháp luật và phù hợp lẽ công bằng, đạo đức xã hội, vì lợi ích
chính đáng của con người chính là những giá trị tiêu biểu của văn hoá.
Văn hóa pháp luật, cũng như các loại văn hoá khác, đều cần được đánh
giá, tất nhiên sự đánh giá này chỉ là tương đối. Các chủ thể khác nhau sẽ có
cách đánh giá khác nhau về các thành tựu của văn hóa pháp luật trong lĩnh
vực nhà nước và pháp luật. Lịch sử có chọn lọc và thừa nhận những tiêu chí
văn minh chung trong sự xác định trình độ văn hoá và trên cơ sở này thiết lập
khả năng để xác định và nâng cao văn hóa pháp luật. Đó là các tiêu chí:
- Sự hình thành nhận thức, tình cảm về pháp luật và pháp chế;
- Sự đạt được, lĩnh hội được tư duy pháp lý logic;
- Hoàn thiện, nâng cao trình độ của hoạt động chuyên nghiệp của các
cơ quan pháp luật (lập pháp, hành pháp, tư pháp);
- Tăng cường chất lượng và khối lượng về sự thực hiện pháp luật của
cư dân;
- Sự phân chia ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Hoạt động nghiên cứu các nguồn, các thành tựu của văn hoá pháp luật
và thực tiễn pháp luật;
Pháp luật ngoài việc được nhìn nhận là những định chế thì còn có xu
19. 14
hướng được nhìn dưới góc độ văn hóa nhằm vượt lên những bất đồng, khác
biệt, để hợp tác xây dựng nên những qui tắc ứng xử mới – những qui tắc có
khả năng đem lại lợi ích cho các bên tham gia và cho toàn xã hội.
Lâu nay pháp luật thường được nhìn nhận dưới góc độ là
những định chế có tính chất “quan phương” từ phía nhà nước hay
nói cách khác pháp luật được hiểu là tổng thể các qui tắc xử sự do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, ngày nay trong bối cảnh toàn
cầu hóa, tồn tại một xu hướng tiếp cận pháp luật khác – xu hướng
nhìn pháp dưới góc độ văn hóa, mục đích là nhằm vượt lên những
bất đồng, khác biệt, để hợp tác xây dựng nên những qui tắc ứng xử
mới –những qui tắc có khả năng đem lại lợi ích cho các bên tham
gia và cho toàn xã hội [20].
1.1.2. Khái niệm văn hóa pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính
Văn hóa nói chung, văn hóa trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
nói riêng là một phạm trù ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, là một
trong những quyền, tự do bắt nguồn từ phẩm giá của con người. Công ước
Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 đã xác định:
Theo tuyên ngôn thế giới về quyền con người thì chỉ có thể
đạt được lý tưởng về con người tự do không phải chịu sợ hãi và
thiếu thốn, nếu tạo được những điều kiện để mỗi người có thể
hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã
hội văn hoá của mình [11].
Với ý nghĩa như vậy, văn hóa vừa là một giá trị nhân văn cao quý, vừa
là một phạm trù nghiên cứu của khoa học xã hội nói chung, vừa là của khoa
học pháp lý nói riêng – trong đó có bộ phận (ngành) khoa học luật TTHC.
Việc nghiên cứu vấn đề văn hóa trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Ở châu Âu, cách đây hàng trăm
20. 15
năm đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật và văn
hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC. Chúng được nghiên cứu
dưới nhiều cấp độ khác nhau, hình thức biểu hiện khác nhau và với nhiều
phương pháp, cách thức tiếp cận vô cùng đa dạng và phong phú. Điều đáng
chú ý là hệ thống lý luận và tri thức này nhanh chóng được vận dụng, áp dụng
và làm cơ sở cho việc hình thành hệ văn hóa với các chuẩn giá trị mẫu mực
cho các đối tượng khác nhau trong các quan hệ TTHC. Cùng với các chuẩn
giá trị xã hội khác (đạo đức, quy tắc ứng xử, quy chế pháp lý…), các chuẩn
giá trị văn hóa trong TTHC đã tạo nên nền văn minh tư pháp mới của châu Âu
hiện đại, đồng thời có ảnh hưởng lan tỏa nhanh chóng trên phạm vi thế giới.
Ở Hoa Kỳ, ngay từ những thập niên giữa của Thế kỷ thứ XVIII trở đi, người
ta đã bàn nhiều về một nền văn minh tư pháp hiện đại, minh bạch, chuẩn xác,
năng động, hiệu quả, phục vụ tối đa cho lợi ích của con người nhất là yếu tố
con người tham gia trực tiếp vào quá trình tư pháp (xét xử của Tòa án). Nền
văn minh tư pháp đó có sự tham gia cấu thành đáng kể của văn hóa pháp luật
Hoa Kỳ, nền văn hóa pháp luật tranh tụng mẫu mực theo xu hướng bảo đảm
tối đa các quyền, tự do bắt nguồn từ phẩm giá của con người.
Ở Việt Nam, cùng với các giá trị văn hóa truyền thống, Đảng và Nhà
nước ta luôn đề cao và bảo đảm các quyền con người, đã có nhiều biện pháp
tích cực xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh của dân, do dân và
vì dân với nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong tổng thể nói chung về khái niệm văn hóa, có những sáng tạo
trong lịch sử tư pháp và diễn biến trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
thì được gọi là văn hóa trong quá trình giải quyết vụ án hành chính (hay còn
gọi là văn hóa TTHC, văn hóa pháp đình hành chính…)
Xét về nhân tố con người thì văn hóa pháp luật trong quá trình xét
xử hành chính liên quan đến các nhóm xã hội thuộc quan hệ TTHC. Mỗi
21. 16
nhóm như vậy có các chuẩn giá trị văn hóa của mình đồng thời có sự tác
động tương hỗ và hướng tới hình thành một loại (bộ phận) văn hóa cụ thể:
Văn hóa TTHC.
Như vậy, chỉ tính riêng nhân tố này thì văn hóa TTHC có những nhóm sau:
- Nhóm văn hóa của cơ quan và người tiến hành TTHC;
- Nhóm văn hóa của người tham gia TTHC;
- Nhóm văn hóa của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan;
- Nhóm văn hóa của công chúng (gồm cá nhân, tổ chức) liên quan;
- Nhóm văn hóa của các nhóm xã hội khác tạo thành dư luận xã hội về
vụ án và giải quyết vụ án hành chính.
Trong các nhóm trên, trong điều kiện một nền tư pháp xét hỏi của Việt
Nam, có một loại chủ thể của nhóm văn hóa của người tham gia tố tụng cần
có sự chú ý đặc biệt bởi tính chất đặc biệt của chủ thể này, đó là văn hóa của
người bị kiện trong vụ án hành chính.
Xét về thể loại, văn hóa pháp luật trong lĩnh vực TTHC cũng như các
bộ phận văn hóa khác. Đó là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong
quá trình xét xử hành chính. Văn hóa vật thể thông thường được biểu hiện
dưới dạng vật chất như trụ sở, phương tiện, thiết bị … của văn phòng, trụ
sở cơ quan; cấu trúc, kiến trúc và cách bài trí, sự phù hợp và tiện dụng của
chúng… Còn văn hóa phi vật thể thể hiện dưới các dạng như hệ thống văn
bản pháp luật TTHC (thuộc hệ chữ viết), các tác phẩm văn học nghệ thuật
về TTHC, các chuẩn mực ứng xử của các bên cũng như các biểu hiện về
truyền khẩu… thuộc phạm vi trên.
Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực TTHC Việt Nam mới bắt đầu nhen
nhóm và hình thành trong khoảng mười lăm năm trở lại đây. Các chuẩn giá trị
văn hóa như vậy rõ ràng là hết sức non trẻ, chưa đậm nét, chưa ảnh hưởng và
tác động tích cực đến ý thức con người, đến những bên tham gia vào quá trình
22. 17
giải quyết vụ án hành chính. Chính vì vậy, mọi hành vi ứng xử thiếu khách
quan, minh bạch, không tôn trọng pháp luật hoặc luật không khả thi, thiếu
bình đẳng dân chủ, võ đoán tiêu cực… trong quá trình này đều được coi là các
biểu hiện khác nhau của hiện tượng kém văn hóa, là nguy cơ trực tiếp cản trở
quá trình hình thành các chuẩn giá trị văn hóa, cản trở sự nghiệp cải cách và
hoàn thiện nền tư pháp quốc gia trong sạch, vững mạnh.
Từ những phân tích trên, tôi xin đưa khái niệm: Văn hóa pháp luật trong
lĩnh vực TTHC là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc hệ thống tác
động của pháp luật được thể hiện trong ý chí và hành vi của con người trong lĩnh
vực TTHC. Nó thể hiện ở trình độ cao của sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức
pháp luật của những người tiến hành TTHC và những người tham gia TTHC.
1.2. Khái niệm văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố
tụng hành chính
1.2.1. Một số quan niệm
Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC là một nội
dung cụ thể của văn hóa pháp luật và nói chung là của văn hóa. Do vậy,
văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC vừa mang những
giá trị chung của văn hóa vừa có những nội dung, yếu tố cấu thành, đặc
điểm riêng… của nó.
Về quan niệm, theo từ điển Việt Nam có một loạt các khái niệm văn
hóa được đưa ra:
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử; là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội; là những hoạt động
của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng
quát); là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát); là trình độ cao
23. 18
trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; là cụm từ để chỉ một
nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ
sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống nhau [7].
Trong thực tiễn có nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Có ý
kiến cho rằng văn hóa là cách ứng xử của con người; là các giá trị vật chất mà
con người xây dựng và tôn tạo nên hay văn hóa là những gì liên quan đến đời
sống của con người mang yếu tố hay có ý nghĩa về mặt tâm linh…
Tuy hình thức thể hiện của quan niệm văn hóa có khác nhau nhưng đều
có chung những nội dung nhất định. Nội dung của văn hóa là khá đa dạng và
phong phú gồm cả yếu tố không gian, thời gian (quá khứ, hiện tại và tương
lai), vật chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể, là thế giới quan hay năng lực,
phẩm chất (nhân sinh quan) của con người… và cũng vì có nội hàm phức tạp
như vậy nên khi nghiên cứu văn hóa cũng sẽ có nhiều cách tiếp cận khác
nhau, với góc nhìn, phương pháp và cách thức nghiên cứu khác nhau. Mọi nội
hàm của văn hóa luôn liên quan, gắn bó với đời sống, hoạt động của con
người trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
Văn hóa bắt nguồn từ hoạt động của con người, từ lao động, sản xuất,
chiến đấu… của con người và rồi trở lại phục vụ cho con người, tôn thêm vẻ
đẹp của con người và khi đạt đến một giá trị nhất định hay các chuẩn mực xác
định được thừa nhận chung nó thành văn hóa.
Với ý nghĩa như vậy, văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực
TTHC vừa là văn hóa cụ thể gắn với hoạt động của thẩm phán, vừa liên quan
đến văn hóa pháp luật trong lĩnh vực TTHC. Nó vừa mang nội dung văn hóa
nói chung vừa có những nét đặc thù của một loại văn hóa cụ thể, hay nói một
cách khác nội hàm của văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC
cũng như nội hàm của văn hóa nói chung nhưng mang bản sắc riêng của một
dạng văn hóa cụ thể.
24. 19
Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu vấn đề văn hóa pháp luật của
thẩm phán trong lĩnh vực TTHC ở nước ta là hết sức mới mẻ. Cho đến nay
hầu như chưa có bất kỳ một hoạt động nghiên cứu nào về văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC của bất kì cá nhân nhà khoa học hay tổ
chức nghiên cứu nào. Trong lúc đó, TTHC lại là một trong ba lĩnh vực tạo
nên nền tố tụng, nền tư pháp Việt Nam.
Như vậy, việc nghiên cứu văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh
vực TTHC ở nước ta hiện nay là rất cần thiết và phải thực hiện ngay. Đây là
một yêu cầu có tính khách quan và rất cấp thiết cho công cuộc cải cách nền tư
pháp nước nhà, có ý nghĩa cho sự tiến bộ và văn minh xã hội.
1.2.2. Định nghĩa
Từ những trình bày như vậy có thể nêu định nghĩa như sau: “Văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần gắn với hoạt động của Thẩm phán trong lĩnh vực TTHC; là
sự phản ánh đời sống tinh thần, trình độ, năng lực, tri thức, kiến thức, thẩm
mỹ… của người Thẩm phán trong lĩnh vực TTHC”.
Trước hết cũng như các loại văn hóa khác, văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực TTHC được hình thành và chịu sự tác động của điều kiện
sinh hoạt vật chất và môi trường xã hội, điều kiện hoạt động nghề nghiệp của
nó. Nói cách khác là do điều kiện kinh tế và bản chất, nội dung nền tư pháp
quốc gia tác động, chi phối trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển. Ở
mỗi thời đại, khu vực, quốc gia khác nhau thì văn hóa pháp luật nói chung,
văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC nói riêng là có sự khác
nhau. Hiện nay, đại đa số các nước trên thế giới đều áp dụng nền tư pháp
tranh tụng, do đó văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC ở
những nước này mang bản sắc của nền tư pháp tranh tụng, biết nghe lẽ phải,
biết xác định giá trị chân lý thuộc về phía nào trong các bên đối tụng, qua đó
25. 20
mà tôn trọng và bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ pháp luật (mà suy cho
cùng pháp luật đặt ra cũng chỉ vì công lý, bảo vệ công lý). Văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC của nền tư pháp tranh tụng chính là văn
hóa của vị trọng tài “cầm cân, nảy mực”, biết nhìn nhận chính xác, khách
quan các chuẩn mực, các nấc thang của “cán cân công lý” và không bao giờ
trở thành một bên, hoặc ít ra là nghiêng về một bên đối tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính. Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực
TTHC của nền tư pháp tranh tụng được đa số các nước trên thế giới nhìn nhận
là ưu việt nhất từ trước đến nay. Ở nước ta hiện nay, trong quá trình cải cách
tư pháp chúng ta cũng đang phấn đấu hướng tới một nền tư pháp tranh tụng.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Đảng cộng sản
Việt Nam vạch rõ “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa” [3], đây là hướng đi đúng đắn của nền tư pháp nước
nhà, vừa nhằm hướng tới xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh
vừa phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại, phù hợp với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, hòa nhập với cộng đồng thế giới của đất nước.
Nói như trên không có nghĩa là văn hóa pháp luật, văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC ở những nước có nền tư pháp xét hỏi là
không tốt, là kém cỏi. Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC
của nền tư pháp xét hỏi mang bản sắc riêng, có chuẩn mực và giá trị riêng của
nó. Từ xa xưa, dưới thời đại phong kiến Trung Quốc, bằng khát vọng hướng
tới một nền tư pháp cao đẹp, khát vọng về tự do và công lý, người ta đã tạo
dựng nên hình tượng Bao Công - một vị Thẩm phán lý tưởng là một biểu
tượng văn hóa pháp luật của thẩm phán mẫu mực để mọi người, mọi Thẩm
phán noi theo. Rõ ràng Bao Công là nét đẹp, là tựu trung văn hóa pháp luật
của thẩm phán của nền tư pháp xét hỏi điển hình. Trên thực tế đã có không ít
Thẩm phán đã làm theo được, đạt được một số chuẩn và giá trị nhất định của
hình tượng Bao Công.
26. 21
1.3. Nội dung văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố
tụng hành chính
Ở nước ta hiện nay, nền tư pháp được hình thành và phát triển qua các
thời kỳ khác nhau. Phù hợp với chế độ chính trị, truyền thống lịch sử và chính
quyền mới nên văn hóa pháp luật nói chung và văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực TTHC nói riêng mang bản chất của chế độ chính trị và
của chính quyền đó. Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong tư pháp nói
chung, văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC nói riêng dưới
chế độ mới ở nước ta được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và
phát triển của chế định Thẩm phán. Tuy nhiên, trong các loại văn hóa pháp
luật của thẩm phán thì văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC
được hình thành chậm hơn cả, nó chỉ được hình thành một cách rõ nét kể từ
khi hình thành tư pháp hành chính, TTHC, nó được đánh dấu bằng mốc son
quan trọng kể từ khi có sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính năm 1996.
Qua trình bày trên cho thấy, việc nghiên cứu nội dung văn hóa pháp
luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC bao gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất, văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC là tổ
hợp (hay tổng thể) các giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra, gắn
liền với hoạt động TTHC của người thẩm phán. Trong các chủ thể sáng tạo,
vai trò nổi bật nhất thuộc về đội ngũ thẩm phán, các sáng tạo về giá trị vật
chất và tinh thần được tồn tại dưới dạng vật thể và phi vật thể.
Về giá trị vật chất được sáng tạo ra của văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực TTHC – văn hóa vật thể - được tồn tại dưới nhiều hình
thức, loại khác nhau. Nhưng quan trọng nhất là các giá trị vật chất bảo đảm
cho hoạt động tiến hành tố tụng của Thẩm phán hành chính. Trên thế giới,
loại văn hóa vật thể này được tồn tại khá ấn tượng ở các dạng công trình kiến
trúc uy nghi, thâm nghiêm cả nội thất cũng như ngoại thất của trụ sở, công
đường, phòng xử… nơi làm việc của Thẩm phán. Ngày nay, dưới tác động
27. 22
của các thành tựu khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công nghệ thông tin…
các phương tiện, thiết bị hiện đại được trang bị, phục vụ cho hoạt động của
Thẩm phán hành chính và các giá trị vật chất bảo đảm khác ngày càng hoàn
chỉnh được coi là văn hóa vật thể hiện đại, là những bước phát triển của văn
hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC.
Về giá trị tinh thần được tồn tại dưới dạng văn hóa phi vật thể, như chữ
viết (văn bản), lời nói (ngôn ngữ nói), văn học – nghệ thuật, thơ, ca, nhạc,
họa… về (của) Thẩm phán trong lĩnh vực TTHC hay các chuẩn mực tư cách,
đạo đức, tác phong, thái độ, trách nhiệm, động cơ, mục đích… và đặc biệt là
giá trị thẩm mỹ (cái đẹp) của chính các hành vi và nhân cách của Thẩm phán.
Các giá trị văn hóa phi vật thể này được xã hội tạo ra hay do chính
Thẩm phán tạo ra. Chúng đạt đến một giá trị nhất định bắt nguồn từ quá khứ,
được hình thành, được tôn tạo trong cuộc sống, hoạt động của hiện tại, làm
nền tảng hay định hướng cho tương lai… Văn hóa phi vật thể có thể tồn tại
dưới dạng các hình mẫu, các chuẩn mực, các quy ước, các nấc thang giá trị về
trình độ, năng lực chuyên môn, về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm
hay nét đẹp, lịch sự trong ăn mặc, nói năng… của Thẩm phán trong quá trình
TTHC. Nói cách khác, văn hóa phi vật thể của con người nói chung và của
Thẩm phán nói riêng là nhân văn, là các giá trị tinh thần gắn liền với đời sống
và hoạt động tố tụng của Thẩm phán cả trong môi trường ngoại cảnh cũng
như trong phẩm chất và nhân cách của Thẩm phán.
Thứ hai, văn hóa pháp luật của thẩm phán bắt nguồn từ cuộc sống,
hoạt động tố tụng của thẩm phán, từ yêu cầu của môi trường tư pháp… và
trở lại phục vụ cho đời sống lao động của thẩm phán. Trong các loại hình
văn hóa pháp luật thì văn hóa trong lĩnh vực TTHC có một vị trí vai trò khá
đặc biệt. Tính chất đặc biệt của văn hóa pháp luật của thẩm phán hành chính
do tính chất, nội dung của loại hình tố tụng công, xét xử công quyền xác
định. Do vậy, về mặt tinh thần, ngoài các đặc điểm chung của văn hóa pháp
28. 23
luật, văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC còn mang thêm
một số nét riêng liên quan đến trình độ, phẩm chất, bản lĩnh cá nhân của
người Thẩm phán.
Hoạt động xét xử vụ án hành chính của Thẩm phán có đối tượng là các
hoạt động của chính quyền (quyết định hành chính, hành vi hành chính…) bị
khởi kiện, người bị kiện chính là cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà
nước. Ở nước ta, nội dung hoạt động này có ý nghĩa quyết định chi phối đến
các nội dung, các yếu tố cấu thành văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh
vực TTHC. Ý nghĩa chi phối này thể hiện ở chỗ, nếu Thẩm phán có năng lực,
trình độ, dũng cảm, có bản lĩnh, khách quan… thì việc xét xử sẽ đúng đắn, là
được coi là có văn hóa. Nếu vì thiếu kiến thức, tri thức, nể sợ, xu nịnh, vuốt
đuôi chính quyền mà bất chấp pháp luật, thiếu công minh, coi nhẹ số phận,
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác thì trở nên vô văn hóa.
Về trình độ, năng lực: Do đối tượng xét xử của Thẩm phán trong lĩnh
vực TTHC luôn luôn là quyết định, hành vi của công quyền, là cơ quan hay
cán bộ công chức của công quyền bị khởi kiện; đối tượng như vậy rõ ràng là
luôn có tính hệ thống, tính tổ chức cao với những hoạt động phức tạp, đa dạng
trên cơ sở một hệ thống pháp luật hành chính (cả nội dung và hình thức thủ
tục) cũng hết sức phức tạp với nhiều tầng nấc và phạm vi hiệu lực khác nhau.
Ngoài ra, hoạt động tác động của loại đối tượng này còn gắn với hàng loạt các
quy trình, công nghệ, kỹ thuật, chuyên môn… Do vậy, đòi hỏi Thẩm phán
hành chính phải có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.
Để đánh giá một quyết định hành chính, hành vi hành chính… của công
quyền – sản phẩm – kết quả hoạt động mang tính ư thức tổ chức cao là trái
hay không trái pháp luật đòi hỏi Thẩm phán phải vận dụng, áp dụng nhiều
loại kiến thức chuyên môn như:
Kiến thức về hệ thống tổ chức hành pháp, về chức năng, nhiệm vụ,
29. 24
quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ, công chức trong
các cơ quan đó.
Khả năng am hiểu, vận dụng, áp dụng hệ thống pháp luật hành chính
(cả nội dung và hình thức).
Trình độ, kiến thức khoa học quản lý nhà nước.
Kiến thức công nghệ thông tin, kỹ thuật về thiết bị tin học.
Kiến thức, nghiệp vụ về điều tra, thẩm định, công chứng, chứng thực…
Trình độ, năng lực của Thẩm phán được biểu hiện một cách rõ nét và
tập trung nhất, điển hình nhất ở hiệu quả, kết quả xét xử. Hay nói một cách
khác, một nội dung văn hóa quan trọng, nét đẹp ấn tượng, hấp dẫn nhất của
Thẩm phán hành chính được kết tinh ở hiệu quả xét xử vụ án. Đó chính là kết
quả của một quá trình nhận thức, vận dụng, áp dụng pháp luật, huy động mọi
khả năng chuyên môn để có những hành động đúng, để đạt được những kết
quả đúng, chuẩn xác.
Hiệu quả, kết quả hoạt động TTHC, hoạt động văn hóa pháp luật của
Thẩm phán được kết tinh ở các phán quyết (bản án, quyết định). Một bản án
hành chính – sản phẩm tố tụng – sản phẩm văn hóa (loại văn hóa phi vật thể)
được coi là đạt đến có giá trị văn hóa cao khi hội đủ các giá trị thành phần sau:
Một là bản án áp dụng đúng pháp luật. Để ra được phán quyết, Thẩm
phán phải nắm và hiểu sâu hệ thống pháp luật cả về pháp luật nội dung cũng
như pháp luật hình thức, mà đặc biệt là hệ thống pháp luật hành chính. Nắm
và hiểu sâu hệ thống pháp luật giúp Thẩm phán nghiên cứu, lựa chọn một
cách chính xác các văn bản pháp luật có hiệu lực để làm cơ sở pháp lý cho
việc làm sáng tỏ sự thật khách quan - một nội dung có ý nghĩa nhất định nào
đó cho việc xem xét và giải quyết vụ án. Giá trị văn hóa ở đây – áp dụng đúng
pháp luật – là hoàn toàn đối lập và loại bỏ việc áp dụng pháp luật một cách
tùy tiện, thiếu chính xác hoặc cố tình giải thích, nhận định một cách gượng
30. 25
ép, giả tạo. Thông qua “lăng kính chủ quan” của Thẩm phán để giải thích
thiên lệch, tạo cách nhìn méo mó về một sự vật, hiện tượng, một tài liệu
chứng cứ… để cố gán ghép vào một điều khoản pháp luật nào đó hoặc các
hoạt động tương tự là làm ảnh hưởng xấu đến chuẩn mực này và là một biểu
hiện phản văn hóa của Thẩm phán trong lĩnh vực TTHC.
Hai là bản án không vi phạm pháp luật tố tụng. Hoạt động tạo ra các
sản phẩm tố tụng nói chung và bản án hành chính nói riêng là kết quả của
hàng loạt các hoạt động tiến hành tố tụng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn… của Thẩm phán, của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng.
Đây cũng là một khía cạnh quan trọng thuộc văn hóa phi vật thể của thẩm
phán trong lĩnh vực TTHC. Một bản án, quyết định đúng tố tụng là thành quả
biểu hiện sự chuẩn mực của các hành vi tiến hành tố tụng. Do vậy, đòi hỏi
Thẩm phán phải có trình độ, năng lực trong hoạt động nghiên cứu xem xét và
áp dụng chính xác, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật TTHC. Một nội dung,
một hành vi tiến hành tố tụng thiếu chuẩn xác, vi phạm tố tụng vừa thể hiện
sự hạn chế trình độ, năng lực vừa là một biểu hiện kém văn hóa trong hoạt
động giải quyết vụ án hành chính của Thẩm phán.
Ba là bản án có nội dung, kết luận phải phù hợp với các tình tiết khách
quan. Đây là các tình tiết mà Thẩm phán lựa chọn, sắp xếp để dùng làm căn
cứ cho việc xem xét, giải quyết vụ án. Đây là loại hoạt động mà Thẩm phán
phải vận dụng nhiều kiến thức và kinh nghiệm hoặc đúc rút kinh nghiệm từ
đồng nghiệp, từ tổng kết hoạt động xét xử của ngành. Việc xác định và lựa
chọn đúng các tình tiết khách quan đúng đắn, chính xác để xem xét và giải
quyết vụ án, phản ánh đúng nội dung, bản chất của vụ án là một bảo đảm cơ
bản quan trọng cho chất lượng của bản án. Làm cho bản án thực sự là một sản
phẩm trí tuệ, một sản phẩm văn hóa của thẩm phán.
Ngoài ra, năng lực và trình độ của Thẩm phán còn được thể hiện trong
31. 26
nhiều hoạt động khác như: sắp xếp nghiên cứu hồ sơ, tập hợp và hệ thống tài
liệu chứng cứ, trao đổi và làm việc với các đương sự, kỹ năng điều khiển
phiên tòa… đều có thể góp phần tạo ra các giá trị văn hóa của thẩm phán
trong lĩnh vực TTHC.
Trong TTHC, mặc dù có nhiều hoạt động khác nhau nhưng hoạt
động có tính tập trung và tổng hợp nhất đó là hoạt động điều khiển phiên
tòa. Hoạt động điều khiển phiên tòa có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng
bởi tại phiên tòa là nơi bộc lộ mọi khả năng về trình độ, năng lực, về đạo
đức tác phong, về bản lĩnh và giá trị thẩm mỹ… của mọi nội dung hoạt
động TTHC của thẩm phán. Văn hóa phiên tòa hành chính được biểu hiện
ở cảnh quan, môi trường đến hoạt động của Thẩm phán, nhất là Thẩm phán
- Chủ tọa phiên tòa, những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
và cả những người tham dự phiên tòa…
Về cảnh quan môi trường và điều kiện bảo đảm tuy là yếu tố khách
quan, song các giá trị văn hóa vật thể này có sống động hay không lại phụ
thuộc vào sự tác động tích cực của Thẩm phán. Chẳng hạn Thẩm phán tác
động sao cho việc bố trí phòng xử phải đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, bàn ghế ngăn
nắp, biển chức danh của Hội đồng xét xử cũng như của những người tiến
hành tố tụng khác phải rõ nét ngay ngắn, các thiết bị âm thanh, ánh sáng phải
đảm bảo, trang phục áo quần, giầy dép của Thẩm phán phải trang nhã, lịch sự,
nghiêm chỉnh… Tất cả những biểu hiện trên đều phản ánh trình độ văn hóa
của công sở nói chung và văn hóa phòng xử án trong TTHC nói riêng.
Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là văn hóa điều khiển phiên tòa và tham gia
Hội đồng xét xử vụ án hành chính của Thẩm phán. Loại (nhóm) văn hóa này
được biểu hiện ở những hoạt động sau:
+ Cách đi đứng vào vị trí, chỗ ngồi trong Hội đồng xét xử của Thẩm phán;
+ Cách trình bày lời khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ
án ra xét xử;
32. 27
+ Cách thực hiện các hoạt động khác tại phần thủ tục phiên tòa (cách
yêu cầu và nghe thư ký báo cáo danh sách những người được triệu tập, phổ
biến quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, giới thiệu người tiến
hành tố tụng)…
+ Cách chuyển phần sang thủ tục hỏi;
+ Cách trình bày câu hỏi, văn hóa hỏi;
+ Văn hóa điều khiển phần tranh luận; phần nghị án, tuyên án;
+ Văn hóa đọc bản án…
Điều khiển phiên tòa là hoạt động thực tiễn của Thẩm phán, đây là loại
hoạt động tiến hành tố tụng theo chuẩn mực do pháp luật TTHC quy định.
Tuy nhiên, nét văn hóa của nhóm hoạt động này lại được hình thành theo
những phương pháp, cách thức riêng. Chúng có hình thức biểu hiện với các
nội dung được cấu thành từ các yếu tố cấu thành của văn hóa. Các hoạt động
điều khiển phiên tòa hành chính của Thẩm phán mang các giá trị văn hóa này
mới gọi là có văn hóa. Các giá trị này càng cao thì văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực TTHC càng cao.
33. 28
Chương 2
THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA THẨM PHÁN
TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
2.1. Tình hình văn hóa pháp luật của thẩm phán trong quá trình
tiến hành tố tụng giải quyết các khiếu kiện hành chính
Thực tiễn quá trình TTHC ở Việt Nam cho thấy, văn hóa của thẩm
phán được biểu hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án mà trước hết là việc
thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án hành chính là hoạt động tiến hành tố tụng đầu tiên
của Tòa án nhân dân, trong đó Thẩm phán căn cứ vào các quy định của pháp
luật chấp nhận đơn khởi kiện vụ án hành chính của đương sự vào sổ thụ lý.
Thụ lý vụ án hành chính là một hoạt động văn hóa có ý nghĩa mở đầu
và định hướng cho toàn bộ các hoạt động tiến hành tố tụng tiếp theo. Việc thụ
lý vụ án hành chính có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định trách
nhiệm xem xét giải quyết vụ án và các quan hệ tố tụng giữa Tòa án với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia quá trình giải quyết vụ án hành chính. Khi
xem xét đơn khởi kiện hay quyết định khởi tố vụ án hành chính, đòi hỏi Thấm
phán phải thận trọng và khẩn trương. Nếu không thận trọng thì có thể thiếu
chính xác, nhầm lẫn về vụ việc, thẩm quyền hoặc xác định không đầy đủ các
điều kiện khởi kiện, khởi tố… dẫn đến thụ lý sai vụ án. Nếu không khẩn
trương thì có thể ảnh hưởng đến thời hiệu, thời gian khởi kiện, dẫn đến làm
mất quyền khởi kiện của đương sự. Kiểm tra thẩm quyền giải quyết, nếu đúng
loại việc thì phải xác định thuộc thẩm quyền của Tòa án tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương hay quận, huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh. Kiểm tra xem
đã có thủ tục tố tụng chưa.
Việc thông báo nội dung đơn kiện không chỉ để cho “người bị kiện”
biết quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc
34. 29
thôi việc nào bị khởi kiện, mà còn xác định trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ làm căn cứ cho việc ra quyết định hành chính, thực hiện hành vi
hành chính...
Một loại hoạt động văn hóa tiếp theo, Thẩm phán tiến hành xác minh,
thu thập chứng cứ. Hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ trong vụ án hành
chính có vai trò vô cùng to lớn trong quá trình giải quyết vụ án hành chính,
đây là loại hoạt động chiếm một khối lượng công việc lớn nhất, nhiều thời
gian nhất so với các loại công việc khác của quá trình giải quyết vụ án hành
chính. Xác minh, thu thập chứng cứ trong vụ án hành chính là tổng thể các
hoạt động tố tụng của Tòa án nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án, qua đó xác
lập các căn cứ cần thiết, khách quan cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hành
chính. Thẩm phán cần chú ý phương pháp ứng xử khi thực hiện thủ tục lập
biên bản của từng hoạt động tố tụng; đồng thời xử lý các trường hợp trở ngại
như triệu tập mà đương sự không đến, người trình bày không chịu ký biên
bản, thỏa thuận không thành. Khi đối chất, chỉ đối chất những vấn đề còn mâu
thuẫn, những vấn đề nào người khởi kiện nêu ra hoặc yêu cầu mà người bị
kiện đã thừa nhận thì không cần đối chất nữa. Khi lặp biên bản đối chất hoặc
tạo điều kiện cho các bên thoả thuận, cần chú ý: Ghi lời trình bày của người
khởi kiện trước, sau đó ghi lời trình bày, đối đáp của người bị kiện về từng
vấn đề mà người khởi kiện nêu ra (trong thực tiễn giải quyết một số vụ án
hành chính có Tòa án quận, huyện đã lập biên bản đối chất và hòa giải, đối
chất cả những vấn đề mà họ đã thừa nhận với nhau) là không đúng, vì theo
TTHC không có thủ tục hòa giải như tố tụng dân sự.
Việc xác minh, xem xét tại chỗ giúp Thẩm phán nắm bắt sự việc một
cách cụ thể, để từ đó đánh giá chứng cứ một cách chuẩn xác. Khi cần xác
minh xem xét tại chỗ Thẩm phán cần báo trước ngày, giờ để các bên đương
sự cũng có mặt đi, mời đại điện chính quyền địa phương... Sau khi xem xét
thực tế, cần lập biên bản phản ánh cụ thể.
35. 30
Hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính lại càng đặc biệt cần
thiết đối với Thẩm phán được phân công xét xử, nhưng không được tiến
hành hoạt động điều tra, xác minh ngay từ đầu. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
hành chính có thể được tiến hành ở những thời điểm khác nhau và bao gồm
nhiều hoạt động phức tạp như đọc hồ sơ, phân loại, sắp xếp hồ sơ, so sánh
đối chiếu các tài liệu có trong hồ sơ với nhau và với các tình tiết khách quan
của vụ án. Việc đánh giá chứng cứ một cách toàn diện và đầy đủ thuộc thẩm
quyền của HĐXX, song trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán cần có
sự phân tích, đánh giá bước đầu nhằm có những nhận xét, kết luận nhất định,
tạo cơ sở cho HĐXX đánh giá chứng cứ được thuận lợi hơn. Với yêu cầu
này, việc nghiên cứu hồ sơ không thể tiến hành một cách qua loa, đại khái
được mà cần phải hết sức cẩn thận, kỹ lưỡng; phải rà soát kỹ để không bỏ
sót những nội dung, những chi tiết có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Khi
nghiên cứu hồ sơ, tuyệt đối không được để lẫn lộn, tránh tẩy xoá, sửa chữa
làm sai lệch hồ sơ vụ án. Việc nghiên cứu hồ sơ phải được tiến hành đúng
tiến độ, đảm bảo thời gian giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật,
tránh tình trạng dễ kéo dài, tồn đọng án.
Như vậy, nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính là một hoạt động văn hóa
tố tụng mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể và cần thiết, nhằm góp
phần nắm vững nội dung, tính chất diễn biến của vụ án, phát hiện nhưng
thiếu sót, sai lầm của các hoạt động tố tụng có liên quan, nhằm bổ sung,
hoàn thiện các tình tiết và hệ thống chứng cứ, đủ căn cứ và cơ sở cho việc
giải quyết vụ án.
Về thực tiễn văn hóa pháp luật của thẩm phán hành chính tại phiên tòa
sơ thẩm, đây là biểu hiện văn hóa đầy kịch tính và tập trung nhất trong hoạt
động tiến hành tố tụng vụ án hành chính của Thẩm phán. Tại phiên tòa sơ
thẩm, tòa án áp dụng mọi biện pháp do luật quy định để kiểm tra, đánh giá
36. 31
toàn bộ chứng cứ của vụ án, nhằm xác định tính hợp pháp của quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị
khiếu kiện; xác định có hay không có thiệt hại do quyết định hành chính, hành
vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật gây ra để
ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án.
Như vậy, việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính là thủ tục
bắt buộc trong trình tự TTHC để giải quyết vụ án. Sau phiên tòa sơ thẩm còn
những bước tiếp theo của TTHC như xét xử phúc thẩm, thi hành án.
Từ phân tích trên có thể hiểu rằng, phiên tòa hành chính sơ thẩm là một
khâu quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong đó Tòa án tiến hành xét xử
kiểm tra các chứng cứ của vụ án làm cơ sở cho việc ra bản án hoặc quyết định
giải quyết vụ án. Hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện thông qua nhiều
giai đoạn tố tụng kế tiếp nhau từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét
xử và kết thúc bằng việc tuyên một bản án. Trong các giai đoạn tố tụng thì
phiên tòa là giai đoạn thể hiện sự đặc trưng điển hình nhất của giai đoạn xét xử.
Các Thẩm phán dù đã làm quen và thành thạo trong việc điều khiển
các phiên tòa, nhưng việc điều khiển phiên tòa một cách "xuất sắc", nhất là
đối với những vụ án phức tạp không phải dễ dàng và không phải Thẩm phán
nào cũng thực hiện được. Đối với những phiên tòa hành chính là loại việc mới
lại có những điểm đặc thù riêng, vì vậy rất cần có thời gian vừa thực hành vừa
tổng kết rút kinh nghiệm để xây dựng một quy trình điều khiển phiên tòa
thích hợp, có hiệu quả.
Một phiên tòa nghiêm minh không chỉ căn cứ vào việc HĐXX tuyên
một bản án có đúng pháp luật hay không, mà còn đòi hỏi phiên tòa có được
một hình thức nghiêm trang thể hiện được nguyên tắc tuân thủ pháp luật và
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Việc điều khiển phiên tòa của Chủ
tọa phiên tòa phải đúng trình tự, rành mạch, chặt chẽ, ngắn gọn, không nặng
37. 32
nề phong thái "chỉ huy", truy xét như phiên tòa hình sự mà cần bình tĩnh
lắng nghe các bên đương sự xuất trình tài liệu, chứng minh và trình bày ý
kiến tranh luận thể hiện là vai trò trung gian, tạo điều kiện cho hai bên
đương sự thoả thuận và nếu thoả thuận không được thì HĐXX mới quyết
định theo pháp luật.
Vì sau khi xét xử sơ thẩm, vụ án còn có thể được xét xử theo trình tự
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, nên việc xét xử sơ thẩm còn là cơ sở
cho việc tiến hành các thủ tục này. Xét xử theo các thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm có được thuận lợi hay không cũng phụ thuộc một
phần quan trọng vào chất lượng của xét xử sơ thẩm vụ án. Phiên tòa sơ thẩm
vụ án hành chính thường được tiến hành công khai nên nhân dân có điều kiện
tham dự phiên tòa vừa chứng kiến vừa giám sát hoạt động xét xử của tòa án
bằng việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ
án có lý, có tình.
Khi kiểm tra việc xác định thẩm quyền xét xử, Thẩm phán cần phải đối
chiếu, làm rõ quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ
luật buộc thôi việc bị khiếu kiện có thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật
TTHC hay không, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa
án chuyển vụ án cho Tòa án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trên cơ sở xem xét nội dung của vụ án, Thẩm phán kiểm tra xem việc xác
định tư cách của những người tham gia tố tụng có đúng và đầy đủ không, nếu
việc xác định tư cách người tham gia tố tụng là sai thì phải xác định lại; nếu
bỏ xót người nào thì phải bổ sung vào thành phần người tham gia tố tụng để
đảm bảo quyền lợi cho họ.
Thẩm phán kiểm tra xem các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được đã đầy
đủ để làm rõ các vấn đề phải chứng minh chưa, nếu thấy còn thiếu những
chứng cứ quan trọng thì phải xác minh thu thập chứng cứ bổ sung. Tùy từng
38. 33
trường hợp, có thể yêu cầu các đương sự cung cấp chứng cứ hoặc tự mình xác
minh thêm. Khi kiểm tra các tài liệu, chứng cứ, Thẩm phán phải xem xét
những chứng cứ thu thập được có bảo đảm các thuộc tính vốn có của chứng
cứ hay không.
Đối chiếu với quy định của pháp luật, Thẩm phán phải xem xét
những vấn đề về thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến bước chuẩn bị xét
xử có gì sai sót không, nếu thấy vi phạm thủ tục tố tụng thì phải khắc phục,
sửa chữa ngay.
Trong kỹ năng thực hành phiên tòa sơ thẩm, phần xét hỏi là khó khăn
nhất đòi hỏi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và HĐXX phải có một phương
pháp làm việc khoa học, nhạy bén trong việc xử lý từng tình huống cụ thể để
đạt được mục đích là xác định được sự thật khách quan và những tình tiết liên
quan đến việc giải quyết vụ án được đúng pháp luật. Thái độ xét hỏi phải bình
tĩnh, khách quan, không được truy xét, áp đặt, chất vấn, bắt bẻ, câu hỏi phải
ngắn gọn theo hướng nêu yêu cầu để các bên đương sự trình bày, xuất trình
chứng cứ; tinh thần chung là phải "nghe nhiều hơn nói"; việc sử dụng các đại
từ nhân xưng phải phù hợp với vụ án hành chính; phải kịp thời cắt những ý
kiến trình bày của đương sự khi họ trả lời ra ngoài phạm vi xét hỏi hoặc ngoài
những yêu cầu làm rõ các tình tiết của vụ án.
Khi xét hỏi, HĐXX xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách
nghe ý kiến của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý
kiến này với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được.
Trong quá trình xét hỏi, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, tiếp
đến là các thành viên khác của HĐXX, sau đó đến Kiểm sát viên, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người tham gia tố tụng có
39. 34
quyền đề xuất với HĐXX hỏi thêm những vấn đề cần thiết liên quan đến vụ
án, HĐXX quyết định nội dung cần hỏi tại phiên tòa, nếu lời khai của những
người tham gia phiên tòa có mâu thuẫn nhau thì HĐXX phải xác định lời khai
nào là đúng sự thật.
Nội dung các câu hỏi cần tập trung vào làm rõ các tình tiết, tài liệu,
chứng cứ có ý nghĩa làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án như: Các điều kiện
khởi kiện, các cơ sở đánh giá tính hợp pháp của các đối tượng khởi kiện; các
thiệt hại vật chất, phi vật chất do quyết định hành chính, hành vi hành chính
hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc gây ra. Theo xu hướng cải cách tư
pháp, Thẩm phán chỉ nên hỏi những câu hỏi có tính định hướng hoặc các câu
hỏi về tố tụng, để dành nhiều thời gian cho các đương sự hỏi, nhất là luật sư
đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi cho các đương sự.
Tranh luận tại phiên tòa là một giai đoạn tố tụng đảm bảo quyền bình
đẳng trước pháp luật của những người tham gia tố tụng, vì vậy phải bình tĩnh
tạo điều kiện để các bên được tự do trình bày ý kiến của mình, chỉ được cắt ý
kiến của họ khi họ trình bày ra ngoài phạm vi vụ án, như có lời lẽ lăng mạ,
nói xấu nhau hoặc nói dài dòng theo kiểu "ôn nghèo kể khổ"...
Tranh tụng nói chung và tranh tụng trong xét xử hành chính nói riêng là
hoạt động tố tụng vô cùng quan trọng góp phần bảo đảm cho phán quyết của
Tòa án được khách quan, chính xác, đúng pháp luật, đúng đối tượng. Do có
tầm quan trọng như vậy, tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
chính trị Đảng cộng sản Việt Nam về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Đảng ta đã có chủ trương: “việc phán quyết của Tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” [3]. Với ý nghĩa
như trên, việc làm rõ vấn đề tranh tụng và các biện pháp bảo đảm tranh tụng
trong vụ án hành chính sẽ góp phần thống nhất về mặt nhận thức, tạo cơ sở lý
luận cùng với thực tế hoạt động tranh tụng để các cơ quan nhà nước có thẩm
40. 35
quyền tham khảo cho việc soạn thảo và ban hành các quy định về tranh tụng,
về các biện pháp bảo đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính. Việc tranh tụng tại phiên tòa hành chính được thể hiện một cách tập
trung tại phần tranh luận, để thực hiện tốt quá trình tranh tụng tại phiên tòa
hành chính theo hướng mở rộng tranh tụng và cải cách tư pháp, HĐXX trên cơ
sở quy định của pháp luật, phải xác định rõ chức năng điều khiển và xét xử để
có phán quyết xác đáng. Do vậy, vai trò của Tòa án, của HĐXX về tranh tụng
tại phiên tòa hành chính là vô cùng quan trọng.
Như vậy, vấn đề tranh tụng tại phiên tòa hành chính không chỉ có
mối quan hệ hữu cơ với các hoạt động tố tụng khác của các thành phần
tham gia TTHC, mà còn gắn bó hữu cơ với các hoạt động tiến hành tố tụng
của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nhất là tại phiên
tòa sơ thẩm.
2.2. Thực trạng các chuẩn mực văn hóa pháp luật của thẩm phán
theo quy định hiện hành của Luật tố tụng hành chính
Có thể nói biểu hiện tập trung nhất về văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực TTHC là tại phiên tòa sơ thẩm. Phiên tòa hành chính sơ thẩm
là một diễn đàn thể hiện rõ nét các giá trị văn hóa ứng xử của Thẩm phán, văn
hóa tiến hành tố tụng, các giá trị văn hóa này được thể hiện cả về thời gian,
không gian cũng như các hoạt động cụ thể của Thẩm phán. Thực tiễn Luật
TTHC hiện hành – một dạng cụ thể của văn hóa phi vật thể đã lần lượt xác
định hàng loạt chuẩn mực, khuôn mẫu cho các hành vi TTHC của Thẩm phán
như trình bày sau đây:
Trước hết, một Thẩm phán có văn hóa là phải bảo đảm phiên tòa sơ
thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết
định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường
hợp phải hoãn phiên tòa. Hành vi văn hóa của Thẩm phán trong phiên tòa sơ
41. 36
thẩm ngoài các chuẩn mực cụ thể mà pháp luật xác định cho cá nhân thì
thường thông qua HĐXX, trong đó Thẩm phán có vai trò, vị trí là chủ tọa bảo
đảm HÐXX phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và
nghe lời trình bày của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm
tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến
của Viện kiểm sát. Bản án chỉ được căn cứ vào việc hỏi, kết quả tranh luận và
các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa.
Việc giữ gìn trật tự, nội quy phiên tòa cũng là một biểu hiện của văn
hóa. Bảo đảm việc xét xử bằng lời nói và phải được tiến hành liên tục, trừ thời
gian nghỉ, các thành viên của HĐXX phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến
khi kết thúc phiên tòa. Trong trường hợp đặc biệt, việc xét xử có thể tạm
ngừng nhưng không quá 05 ngày làm việc, hết thời hạn tạm ngừng, việc xét
xử vụ án được tiếp tục.
Bảo đảm tuân thủ nội quy phiên tòa: Người dưới 16 tuổi không được
vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa;
mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi HĐXX vào phòng xử án,
phải tôn trọng HĐXX, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều khiển của Chủ
tọa phiên tòa; chỉ những người được HĐXX cho phép mới được hỏi, trả lời
hoặc phát biểu; người hỏi, trả lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường
hợp vì lý do sức khoẻ được Chủ tọa phiên tòa cho phép ngồi để hỏi, trả lời
hoặc phát biểu.
Bảo đảm đúng thành phần HĐXX, sự có mặt của thành viên HĐXX và
Thư ký tòa án. HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân
dân, trong trường hợp đặc biệt, HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và
ba Hội thẩm nhân dân. Phiên tòa chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên
42. 37
HĐXX và Thư ký Tòa án. Trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì những người này
được thay thế thành viên HĐXX vắng mặt để tham gia xét xử vụ án; trường
hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết để thay thế thành
viên HĐXX theo quy định tại của pháp luật thì phải hoãn phiên tòa; trường
hợp Thư ký Tòa án vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà
không có người thay thế thì phải hoãn phiên tòa.
Đảm bảo sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương
sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì HĐXX hoãn phiên
tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tòa án thông
báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự biết việc hoãn phiên tòa. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai,
đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất
khả kháng thì xử lý như sau:
a) Đối với người khởi kiện, người đại diện theo pháp luật mà
không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc
khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với
yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt. Người khởi kiện có quyền khởi kiện lại, nếu
thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
b) Đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không có yêu cầu độc lập mà không có người đại diện tham
gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
43. 38
c) Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là
từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án ra quyết định đình chỉ việc
giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường
hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với
yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
d) Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ [14, Điều 131, khoản 2]
Trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án vẫn tiến hành
xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:
- Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án
xét xử vắng mặt;
- Người khởi kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa;
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật (tại điểm b và điểm
d khoản 2 Điều 131 của Luật TTHC).
Bảo đảm sự có mặt của người làm chứng: Người làm chứng có nghĩa
vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án để làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án. Trường hợp người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có
lời khai trực tiếp với Tòa án hoặc gửi lời khai cho Tòa án thì Chủ tọa phiên
tòa công bố lời khai đó; trường hợp người làm chứng vắng mặt thì HĐXX
quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử; trường hợp người làm
chứng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của
họ gây trở ngại cho việc xét xử thì có thể bị dẫn giải đến phiên tòa theo quyết
định của HĐXX.
44. 39
Bảo đảm sự có mặt của người giám định: Người giám định có nghĩa vụ
tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án để làm rõ những vấn đề liên
quan đến việc giám định và kết luận giám định. Trường hợp người giám định
vắng mặt thì HĐXX quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Bảo đảm sự có mặt của người phiên dịch: Người phiên dịch có nghĩa
vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp người
phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế thì HĐXX quyết
định hoãn phiên tòa.
Xem xét việc hoãn phiên tòa:
Điều 136 của Luật TTHC quy định về các trường hợp phải hoãn phiên
tòa sơ thẩm:
a) Các trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 129,
khoản 1 Điều 130, khoản 1 Điều 131, khoản 2 Điều 135 của Luật
TTHC; b) Thành viên của HĐXX, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án,
người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay; c)
Người giám định bị thay đổi; d) Cần phải xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ bổ sung mà không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa.
Trường hợp hoãn phiên tòa được quy định tại khoản 2 Điều 133 và
khoản 2 Điều 134 của Luật TTHC [14].
Điều 201 của Luật TTHC quy định về các trường hợp hoãn phiên tòa
phúc thẩm:
Các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 3 và
khoản 4 Điều 193, khoản 1 Điều 194, khoản 1 Điều 195 của Luật này;
b) Thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án,
người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay; c)
Người giám định bị thay đổi; d) Cần phải xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ bổ sung mà không thể thực hiện được ngay tại phiên toà.