SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  85
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ BÍCH THÙY
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ BÍCH THÙY
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Tuấn
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả
Vũ Thị Bích Thùy
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠI DIỆN
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN………………………………….............. 9
1.1. Khái quát những lý luận cơ bản về pháp nhân..……...………….. 9
1.1.1. Khái niệm pháp nhân…………………………………….. 9
1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân………. 12
1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp
luật Việt Nam………………………………………….…. 13
1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp
nhân....................................................................................... 16
1.2. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam.............. 18
1.3. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại một số quốc gia... 22
1.3.1. Pháp luật của Thái Lan…………………………………… 22
1.3.2. Pháp luật của Pháp……………………………………… 23
1.3.3. Pháp luật của Nhật Bản…………………………………. 25
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1……………………………………………..... 28
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN Ở VIỆT NAM…………………………………………………. 29
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện theo pháp luật của
công ty cổ phần……………………………………..…………..
29
2.1.1. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn……………………... 29
2.1.2. Quy định về chức danh……………………………………. 32
2.1.3. Quy định về phạm vi thẩm quyền………………………….. 34
2.1.4. Quy định về trách nhiệm của đại diện theo pháp luật…….. 40
2.1.5. Các quy định về xác lập và thay đổi đại diện theo pháp
luật………………………………………………………..
42
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công
ty cổ phần……………………………………………………... 46
2.2.1. Thực trạng áp dụng quy định về xác lập, thay đổi đại diện 46
theo pháp luật……………………………………………..
2.2.2. Thực trạng áp dụng quy định về thẩm quyền của đại diện
theo pháp luật…………………………………………… 49
2.2.3. Thực trạng áp dụng quy định về đại diện công ty tham gia
góp vốn vào doanh nghiệp khác………………..…………. 51
2.2.4. Thực trạng áp dụng quy định về ủy quyền của đại diện theo
pháp luật………………………………………………….. 52
2.3. Những nguyên nhân dẫn đến bất cập về vấn đề đại diện theo
pháp luật của công ty cổ phần…………….…………………… 56
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2…………………………………………….... 60
Chƣơng 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM…………………………………. 61
3.1. Những cơ sở định hướng hoàn thiện……………..………….…… 61
3.1.1. Đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay……… 61
3.1.2. Những yêu cầu đặt ra cho quá trình hội nhập kinh tế hiện
nay…
62
3.1.3. Đòi hỏi của sự thực hiện đường lối của Đảng …………… 63
3.1.4. Đòi hỏi sự hoàn thiện chế định đại diện ………………… 64
3.2. Các giải pháp hoàn thiện ………………………………………. 65
3.2.1. Giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan……… 65
3.2.2. Giải pháp thi hành và áp dụng pháp luật………………. 72
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3………………………………………………. 74
KẾT LUẬN……………………………………………………………... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… 76
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay đang trên con đường phát triển
và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Các nhà hoạch định chính
sách đang dần gỡ bỏ các rào cản của quy định pháp luật, thủ tục hành
chính, thuế quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút cho các nhà
đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế. Trước những làn sóng đầu tư mạnh
mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài như hiện nay, thì các doanh nghiệp trong
nước mà chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải đối mặt với sự
cạnh tranh mang tính sống còn với các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới,
nhất là khi Việt Nam đang là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế
WTO và tham gia Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP. Nhiệm
vụ đặt ra là nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước và hoàn thiện hệ thống
pháp luật sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát triển
nền kinh tế hiện nay.
Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài thể nhân – con
người cụ thể còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể giống như
con người được gọi là pháp nhân. Các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ
thể chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên
cơ sở nhà nước tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân. Công
ty cổ phần là một loại hình pháp nhân, với những ưu điểm vượt trội về địa vị
pháp lý, mô hình tổ chức, chế độ vốn góp nên đã được nhiều nhà đầu tư ưu
tiên lựa chọn.
Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật doanh nghiệp năm
1999 đã góp phần hoàn thiện khung pháp lý các mô hình tổ chức và hoạt động
của công ty cổ phần và đồng thời, tiếp cận và tuân thủ các nguyên tắc quản trị
2
công ty đang được áp dụng trên thế giới đã phần nào đáp ứng được nhu cầu
đòi hỏi của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn tồn tại những chế định
chưa được quy định rõ ràng, thiếu nhất quán, mà nổi cộm nhất có lẽ là quy
định về người đại diện theo pháp luật. Từ những tồn tại của pháp luật dẫn đến
hệ quả là việc áp dụng pháp luật không đúng, không thống nhất, đồng thời
gây khó khăn cho chính các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến quyền tự do
kinh doanh.
Các vấn đề pháp lý liên quan đến người đại diện theo pháp luật trong
các loại hình công ty nói chung, trong công ty cổ phần nói riêng hiện nay
đang nảy sinh những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo giữa luật chung và luật
chuyên ngành. Như các vấn đề xác lập, thay đổi, chấm dứt tư cách người đại
diện theo pháp luật, phạm vi đại diện, sự phân định trách nhiệm của người đại
diện và của công ty đối với bên thứ ba, vấn đề đại diện đương nhiên, đại diện
ủy quyền.
Trong khi giới khoa học pháp lý vẫn còn đặt ra các câu hỏi tranh luận
trên nhiều diễn đàn về các vấn đề dường như cơ bản của chế định đại diện, thế
nhưng các nhà làm luật chưa có sự quan tâm thoả đáng và đặc biệt là thực tiễn
áp dụng pháp luật chưa có sự thống nhất, tuỳ thuộc theo nhận thức của những
người, cơ quan áp dụng pháp luật theo một cách khác nhau, ảnh hưởng đến
các quyền lợi hợp pháp của công dân.
Với mục đích tiếp cận chế định về người đại diện theo pháp luật của công
ty cổ phần trên cơ sở nền tảng lý luận và hoạt động áp dụng trong thực tiễn đời
sống để nêu ra những bất cập, tồn tại làm cơ sở cho các định hướng hoàn thiện
chế định quan trọng của pháp luật doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, tác
giả đã lựa chọn đề tài: “Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt
Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình với mong muốn góp phần
nhỏ bé vào hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp ở nước ta.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Khi nghiên cứu các vấn đề về pháp nhân, các công trình nghiên cứu đã
đưa ra các học thuyết, tư tưởng ngay từ khi nước ta còn là thuộc địa của thực
dân Pháp, mô hình pháp nhân đã được các thương gia người Pháp du nhập, và
áp dụng trong hoạt động của mình tại các thuộc địa. Tiêu biểu là các tác giả
như: Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản;
Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất
bản. Các nghiên cứu đã đưa ra các học thuyết pháp nhân, tìm ra các đặc tính
thuộc về bản chất của pháp nhân.
Gần đây, có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cương (2001), Pháp
nhân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích-
Nguyễn Đình Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí
Thức 2008; Lê Việt Anh (2008), Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 113, tháng 1/2008; TS Phạm Hồng Hải
(1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, tạp chí Luật
học số 6 năm 1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2009), vấn đề tội phạm có tổ
chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm
1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày tháng 03/2009. Các công
trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề cơ bản của pháp
nhân, và những bất cập trong các quy định liên quan đến pháp nhân và các
mô hình công ty của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, so sánh các quy
định của các nước và những định hướng hoàn thiện.
Các nghiên cứu về mô hình công ty cổ phần và chế định đại diện của
công ty cổ phần đã góp phần làm rõ những vấn đề pháp lý cơ bản, cơ cấu tổ
chức nội bộ và vấn đề liên quan đến người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần. Có thể kể đến các công trình như:
Tác giả Ngô Viễn Phú trong luận án tiến sĩ của mình với đề tài “So
sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
4
Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” đề cập đến người đại diện theo pháp
luật công ty và đưa ra quan điểm ai nên là người đại diện theo pháp luật trong
công ty cổ phần. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa làm sáng tỏ các vấn đề thuộc về
bản chất, những tồn tại trong pháp luật về chế định người đại diện theo pháp
luật trong công ty mà chỉ đề cập vấn đề người đại diện theo pháp luật là rất
quan trọng liên quan đến cán cân quyền lực trong công ty cổ phần.
Bên cạnh đó, đáng chú ý là luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn
Thắng “Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2005”. Với
đề tài này, tác giả đã làm rõ khái niệm, thẩm quyền và vai trò của người đại
diện theo pháp luật. Tuy nhiên, ở khía cạnh lý luận và thực tiễn, thì tác giả
chưa đi nghiên cứu sâu sắc một cách thỏa đáng.
Ngoài ra, gần đây xuất hiện một loạt bài báo viết về vấn đề đại diện theo
pháp luật của công ty. Tiêu biểu là các tác giả: Bùi Xuân Hải,"Học thuyết về đại
diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam ", Tạp chí Khoa học Pháp lý
2007, số 4 (41); TS. Ngô Huy Cương, Chế định đại diện theo quy định của pháp
luật Việt Nam – nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí nhà nước và pháp luật số
4/2009; Bài viết “Bình luận chế định pháp nhân và đại diện pháp nhân trong Bộ
luật dân sự năm 2005” của Luật sư Trương Thanh Đức; Lê Văn Thiệp, Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Số Tân
Xuân, 2012. Các công trình nghiên cứu này, phần nào đã làm rõ những vấn đề
cơ bản của chế định đại diện và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh
nghiệp trong các quy định về đại diện. Đồng thời các tác giả cũng đưa ra các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện.
Đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc,
mang tính hệ thống liên quan đến các quy định của pháp luật về đại diện theo
pháp luật của công ty cổ phần. Các tác giả trong bài nghiên cứu của mình có
đề cập đến vấn đề người đại diện theo pháp luật trong công ty nhưng chưa nêu
5
lên được những bất cập trong thực tế khi xác lập, thay đổi tư cách của người
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, thẩm quyền đại diện và xử lý các
giao dịch vượt thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật.
Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra
những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật về người đại
diện theo pháp luật của công ty cổ phần và định hướng, đưa ra giải pháp toàn
diện để hoàn thiện chế định này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Công ty cổ phần, với tư cách là một pháp nhân, theo đó căn cứ xác lập
và chấm dứt tư cách cũng như địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật
của Công ty cổ phần cũng được điều chỉnh bởi chế định pháp nhân. Luật
doanh nghiệp hiện hành chỉ đơn giản quy định một trong số ba chức danh
quản lý là đại diện theo pháp luật, đó là chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc
hoặc tổng gám đốc. Bởi vậy, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu mang tính
hạt nhân là đại diện theo pháp luật của pháp nhân, từ đó nghiên cứu sâu về đại
diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
Với đối tượng nghiên cứu đã định, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu
khái quát về pháp nhân là tổ chức kinh tế, lý giải cơ sở triết học về đại diện
theo pháp luật của pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách
đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp
luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần;
Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến vấn đề đại diện theo ủy quyền với
mục đích làm rõ thêm thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nước ta, dựa
trên những chủ trương, đường lối và chính sách xây dựng nền kinh tế xã hội
6
hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, luận văn đặt mục đích đó là
nghiên cứu những vấn đề lý luận về đại diện theo pháp luật của pháp nhân nói
chung và công ty cổ phần nói riêng; nêu toàn diện thực trạng áp dụng pháp
luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại Việt Nam và từ đó đưa
ra các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
vấn đề này.
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định
của pháp luật điều chỉnh về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và
công ty cổ phần, nhằm:
Làm rõ những vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân, từ đó đi sâu nghiên cứu các vấn đề về pháp luật và thực trạng pháp luật
về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay;
Đưa ra các cơ sở định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
Từ những mục đích trên, tác giả đưa ra các nhiệm vụ của luận văn
như sau:
- Làm rõ cơ sở triết học hình thành đại diện theo pháp luật của
pháp nhân;
- Xây dựng khái niệm đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
- Xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp
luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần;
- Phân tích làm rõ khiếm khuyết của pháp luật hiện hành và áp
dụng pháp luật hiện hành về việc xác định tư cách người đại diện
theo pháp luật của công ty cổ phần, qua đó kiến nghị giải pháp
hoàn thiện.
7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin; lý luận chung về nhà nước – pháp luật; các
quan điểm của Đảng và tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật.
Các phương pháp này kết hợp với nhau để giải quyết các vấn đề của đề
tài. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu sử
dụng: phân tích tài liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý
luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp của luật so sánh. Và
các phương pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học pháp lý: phân tích quy
phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật….
6. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn gồm có:
Về mặt lý luận:
- Luận văn đưa ra hệ thống các cơ sở lý luận về pháp nhân, những
luận điểm cơ sở triết học của vấn đề đại diện theo pháp luật của
pháp nhân.
- Luận văn đưa ra và phân tích các căn cứ để xác lập, thay đổi, và
chấm dứt với tư cách của người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần theo pháp luật Việt Nam.
- Luận văn cũng đề cập quy định về đại diện của công ty cổ phần
của một số nước, từ đó so sánh với những quy định hiện hành ở
Việt Nam.
Về tính thực tiễn: Luận văn đã nêu và phân tích làm rõ những khiếm
khuyết của pháp luật hiện hành và áp dụng pháp luật về việc xác định tư cách
người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Từ đó, nhận định những
nguyên nhân của các thực trạng làm tiền đề cho các định hướng hoàn thiện.
8
Về định hướng hoàn thiện: tác giả luận văn nêu lên cơ sở hình thành
các định hướng và giải pháp mang tính toàn diện nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo pháp luật của
công ty cổ phần
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về đại diện theo
pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
9
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về pháp nhân
1.1.1. Khái niệm pháp nhân
Khi nói về chủ thể của pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân – con người
cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân còn có các thực thể pháp lý khác có
tư cách chủ thể, đó chính là pháp nhân. Nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý có tư
cách chủ thể độc lập với thể nhân là một tất yếu đối với các hệ thống pháp luật
nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và của các nhà đầu tư. Bởi lẽ, các thực
thể pháp lý đó có thể do một tổ chức, cá nhân hoặc nhiều tổ chức, cá nhân tạo
lập, nhưng các hoạt động kinh doanh do các thực thể này thực hiện mang lại
hiệu quả cao mà thể nhân đơn lẻ khó có thể thực hiện được. Khi nghiên cứu về
pháp nhân, Giáo sư Jean Claude Ricci chỉ ra hai lợi ích cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được
đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả
thiết là không có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành
viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất
phức tạp.
- Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được
ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay
nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể nhân.
Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con
người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp
nhân không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó
[57, tr.105-106].
10
Harold Arthur Jonh Ford trong công trình “Principles of Company
Law” cũng nhấn mạnh rằng “Trong bất kỳ hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
nào cũng có nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý, có thể thụ hưởng các quyền
và chịu nghĩa vụ cơ bản giống như con người, thực thể đó được gọi là pháp
nhân” [65].
Về đặc tính và bản chất pháp lý của pháp nhân, cho đến này người ta
vẫn còn tranh luận, và luật pháp các quốc gia thường có sự khác biệt về tiêu
chí xác định pháp nhân. Tuy nhiên, tư cách pháp nhân của từng loại hình công
ty thường được pháp luật công ty xác định một cách trực tiếp mà không cần
phải có một thủ tục công nhận riêng. Maurice cozian và Alain Viandier đã ví
von pháp nhân như một cái vỏ ốc và công ty là con dã tràng sống trong đó.
Ở Việt Nam, nếu tính từ năm 1975, thuật ngữ pháp nhân được nhắc đến
lần đầu tiên trong Thông tư 525-HĐ ngày 23-6-1975 của Hội đồng trọng tài
kinh tế nhà nước hướng dẫn việc thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng
kinh tế quy định ban hành kèm theo Nghị định số 54-CP ngày 10-3-1975 của
Hội đồng Chính phủ quy định quy cách pháp nhân của các bên ký kết hợp
đồng kinh tế:
Các đơn vị, tổ chức, cơ quan tham gia giao kết hợp đồng kinh
tế. Đó là những đơn vị có đủ tư cách pháp nhân được nhà nước
thành lập hoặc thừa nhận, có tài sản riêng và có trách nhiệm độc lập
về tài sản đó, có tài khoản tại ngân hàng. các tổ chức xã hội có đủ tư
cách pháp nhân phải là những tổ chức được nhà nước công nhận và
cũng có tài khoản ở ngân hàng [27].
Năm 1990, Nghị định 17-HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ
trưởng quy định chi tiết pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định:
Pháp nhân là một tổ chức có đủ điều kiện sau đây: 1. Được
thành lập một cách hợp pháp; 2. Có tài sản riêng và chịu trách
11
nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó; 3. Có quyền quyết định
một cách độc lập về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; 4.
Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật [28].
Các điều kiện này đang được quy định trong bộ luật dân sự hiện hành.
Trong Luật công ty của Úc, tại điều 57A đưa ra định nghĩa pháp
nhân theo kiểu liệt kê các chủ thể được gọi là pháp nhân “Pháp nhân bao
gồm công ty, công ty sở hữu chủ...”; Tại mục 1.40.9 Luật mẫu về công ty
kinh doanh của Mỹ cũng đưa ra cách định nghĩa tương tự nhưng có bổ
sung một số tổ chức như Bang, Liên Bang và Chính phủ nước ngoài là
pháp nhân.
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN quy định:
Pháp nhân có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành
lập hoặc tổ chức một cách hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi
nhuận hoặc không vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu
nhà nước, bao gồm mọi công ty, tập đoàn, liên danh, liên doanh,
công ty một chủ hoặc hiệp hội [2, Điều 1].
Theo Hiệp định thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại:
Pháp nhân là một thực thể pháp lý bất kỳ được thiết lập hay
tổ chức một cách hợp pháp theo luật áp dụng, bất kể vì mục đích
lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dưới hình thức sở hữu tư nhân hay
Nhà nước, bao gồm mọi công ty, công ty tín thác, công ty hợp
danh, liên doanh, doanh nghiệp một chủ hay hiệp hội [12, chương
3 điều 11].
Như vậy, pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể pháp luật
độc lập, dùng để phân biệt với chủ thể là con người. Pháp nhân được tạo lập
bởi ý chí của một hoặc nhiều con người cụ thể.
12
1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân
Như chúng ta đã biết, triết học và phương pháp luận khoa học đã hỗ trợ
các khoa học khác giải quyết những vấn đề của chúng. Qua đó, triết học thúc
đẩy tiến bộ khoa học trong đó có khoa học pháp lý phát triển. Trong triết học
con người là trung tâm, do vậy, tự do của con người là hạt nhân, tạo ra nguồn
cảm hứng chủ yếu cho những phát minh. Triết học xã hội tham gia vào việc
giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế xã hội ... đóng góp đáng kể vào mọi
thành tựu của loài người. Pháp luật dân sự là một trong những thành tựu đáng
được nhắc đến, nó ghi nhận nguyên tắc tự do ý chí. Vũ Văn Mẫu cho rằng,
“về phương diện triết học, các lý thuyết tự do sở dĩ coi ý chí là căn bản của
các nghĩa vụ, là vì tin tưởng rằng khi các cá nhân được tự do thương thuyết
không vướng mắc một trở ngại nào thị sự quyết định của họ phản chiếu sự
công bằng” [32, tr. 84].
Về phương diện triết học, pháp nhân được hình thành trên cơ sở nguyên
tắc tự do ý chí. Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân được thụ hưởng
các quyền và gánh vác các nghĩa vụ. Tuy nhiên, nó có thể thực hiện các quyền
năng bằng cách nào khi nó là một thực thể pháp lý. Đây là vấn đề mấu chốt
luận giải về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Từ giữa thế kỷ 19, các án lệ của các nước theo truyền thống
thông luật đã khẳng định rằng, công ty chỉ có thể hành động thông
qua các giám đốc– tức những người quản lý công ty và hành động
của cá nhân cổ đông sẽ không ảnh hưởng gì, không ràng buộc trách
nhiệm của pháp nhân công ty – với tư cách là một thực thể pháp lý
độc lập [24].
Pháp nhân, dù được nhân cách hóa, không phải là con người cụ
thể và do đó, không thể tự mình xử sự…Suy cho cùng, pháp nhân
luôn phải được đại diện bởi con người cụ thể, từ khi thành lập cho
13
đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực
hành vi của pháp nhân thực ra là năng lực hành vi mà pháp nhân vay
mượn của những con người mà pháp nhân hóa thân vào [21, tr. 246].
Trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí, con người luôn đòi hỏi xã hội đáp
ứng những nhu cầu của mình về tự do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo
quyền con người. Vì thế, xuất pháp từ bản chất pháp lý của việc hình thành
pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng lập nhằm tạo ra một
thực thể cụ thể để đáp ứng hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu chung mà
các sáng lập viên xác định khi giao kết hợp đồng.
Sự ra đời của pháp nhân trên cơ sở học thuyết tự do ý chí và tự do lập
hội dựa trên nền tảng của tự do cá nhân, không ai có thể bị ép buộc làm hay
không làm một việc gì đó ngoài ý muốn của họ. Các cá nhân tự do lựa chọn
mô hình pháp nhân để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, và tự do
lựa chọn người đại diện theo pháp luật, trên cơ sở sự ủy thác của các chủ sở
hữu pháp nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của người quản lý pháp nhân
trong hoạt động nội bộ, các hoạt động kinh doanh. Người đại diện theo pháp
luật chịu sự điều chỉnh của quy định của pháp luật và các quy chế của pháp
nhân, trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, pháp nhân với tư cách là một thực thể pháp lý, được tạo nên
bởi ý chí của một hoặc nhiều người cụ thể và chỉ có thể thực hiện các quyền
và nghĩa vụ thông qua con người cụ thể.
1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp luật
Việt Nam
Có nhiều quan điểm cho rằng, quyết định thành lập hoặc giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh (chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) là căn cứ xác
lập tư cách người đại diện pháp luật của pháp nhân. Nếu chỉ xem xét từ thực
tiễn áp dụng thì quan điểm này có phần đúng. Bởi lẽ, một trong những nội
14
dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là: “Họ, tên, địa chỉ thường
trú, quốc tịch, số giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá
nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”
[42, Điều 25]. Quy định này có thể được hiểu là người có tên trong đăng ký
kinh doanh mới là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp liên quan đến người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân hiện nay thì không có sự thống nhất, có thể nói khách
quan hơn là tuỳ thuộc vào quyết định của toà án. Thực tế này có thể minh chứng
như sau: Có nhiều vụ án, trong đó đương sự là pháp nhân mà người đại diện của
pháp nhân đã bị bãi nhiệm, cách chức bằng quyết định của đại hội đồng cổ đông
hoặc hội đồng quản trị theo quy định tại điều lệ. Tuy nhiên, pháp nhân đó chưa
thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh thì
có toà án vẫn xác định người đại diện theo pháp luật là người có tên trong giấy
chứng nhân đăng ký kinh doanh. Thực tế này thường xảy ra đối với những vụ án
tranh chấp nội bộ công ty "yêu cầu huỷ nghị quyết của đại hội đồng cổ đông"
trong công ty cổ phần.
Thế nhưng, đối với trường hợp đương sự là pháp nhân, do người đại diện
theo pháp luật chết, mất năng lực hành vi, bị tạm giam..... thì toà án lại không sử
dụng đăng ký kinh doanh làm căn cứ xác định tư cách người đại diện theo pháp
luật. Ngoài ra, còn có trường hợp toà án áp dụng mang tính chủ quan khác. Cụ
thể, đối với những vụ án có đương sự là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, thì trong suốt
một thời gian dài toà án xác định người đại diện theo quyết định bổ nhiệm chủ
tịch hội đồng thành viên, trong khi đó người đại diện theo pháp luật có tên trong
đăng ký kinh doanh không được chấp nhận vì đã bị chuyển công tác. Như vậy,
thực tiễn xét xử thường không đưa ra căn cứ pháp lý để xác định người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân. Vậy, luật thực định quy định như thế nào về vấn
đề này.
15
Theo quy định tại Điều 91, 140 và 141 Bộ luật dân sự 2005:
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong
điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
Người đại diện theo pháp luật bao gồm: ... Người đứng đầu
pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền [44].
Đối với người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần được luật
Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành quy định tại Điều 116, theo
đó người đại diện theo pháp luật có thể là chủ tịch hội đồng quản trị hoặc
giám đốc/tổng giám đốc và phải được ghi trong điều lệ của công ty. Tuy
nhiên, bằng việc bỏ qua "Luật áp dụng luật" – Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật và với cơ chế thông thoáng thì vẫn còn những văn bản dưới
luật quy định trái luật mà vẫn được áp dụng. Cụ thể, Quyết định số
1087/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001 của thống đốc ngân hàng nhà nước tại
khoản 3, Điều 9 là: "Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp
luật của ngân hàng thương mại cổ phần và được ghi trong điều lệ ngân hàng
thương mại cổ phần".
Như vậy, ở giác độ luật thực định thì nhà làm luật chỉ quy định một
chức danh nào đó trong cơ cấu tổ chức quản lý của pháp nhân làm người đại
diện theo pháp luật. Cách quy định này là một trong những biểu hiện việc bảo
hộ quyền tự do kinh doanh, tôn trọng quyền tự định đoạt của thành viên pháp
nhân. Cụ thể, với cách quy định của luật thực định, thành viên pháp nhân có
toàn quyền quyết định bầu/bổ nhiệm một người cụ thể giữ chức danh mà pháp
luật quy định là người đại diện theo quy định của pháp nhân. Thông thường,
việc bầu được thể hiện bằng kết quả kiểm phiếu được xác định trong biên bản
kiểm phiếu; việc bổ nhiệm được thể hiện bằng hình thức ban hành quyết định.
16
Bằng việc làm rõ quy định của luật thực định, tác giả đi đến nhận định
rằng, việc xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, trước hết
phải căn cứ theo điều lệ của pháp nhân để biết người đại diện là người có
chức danh nào trong bộ máy quản lý; sau đó căn cứ văn bản của đại hội đồng
cổ đông hoặc hội đồng quản trị về việc bầu hoặc bổ nhiệm chức danh để xác
định người đại diện theo pháp luật. Đăng ký kinh doanh không phải là căn cứ
để xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp nhân
Công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập,
không phải là thể nhân, nên chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình thông qua người đại diện trong các giao dịch để xác lập và thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình. Người đại diện thay mặt, nhân danh pháp
nhân tham gia các quan hệ pháp luật, xác lập các giao dịch dân sự trong
quá trình hoạt động của pháp nhân. Pháp nhân được hưởng các quyền và
phải gánh vách các nghĩa vụ do người đại diện nhân danh mình xác lập với
bên thứ ba.
Tuy nhiên, người đại diện về nguyên tắc phải hành động trong phạm vi
đại diện, là giới hạn quyền và nghĩa vụ trong việc nhân danh pháp nhân xác
lập và thực hiện giao dịch với người thứ ba theo sự xác định của pháp luật
hoặc của người được đại diện.
Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện
theo uỷ quyền. Chính vì thế, năng lực pháp luật của pháp nhân khi tham gia
các quan hệ pháp luật thông qua năng lực của người đại diện. “Người đại diện
theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh
pháp nhân trong quan hệ dân sự” [44, điều 86].
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là việc người đại diện nhân danh
pháp nhân tham gia xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch với bên
thứ ba vì lợi ích của pháp nhân được quy định trong điều lệ và pháp luật.
17
Bộ luật dân sự 2005 quy định “Đại diện theo pháp luật là đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định” [44,
Điều 140]. Người đại diện theo pháp luật là đại diện đương nhiên của pháp
nhân, nhân danh pháp nhân tham gia các giao dịch trong phạm vi đại diện mà
pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định.
Phạm vi đại diện người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là “có
quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được
đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [44, Điều 144]. Theo
quy định này, thì việc xác định phạm vi đại diện của người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân căn cứ vào mục đích tham gia giao dịch mà người
đại diện. Có nghĩa là, giao dịch mà người đại diện theo pháp luật tham gia
phải nhằm đáp ứng lợi ích của pháp nhân, chứ không phải vì lợi ích cá
nhân người đại diện.
Những giao dịch mà người đại diện theo pháp luật xác lập nhằm tư
lợi đều bị pháp luật cấm, nếu người đại diện thực hiện những giao dịch đó,
phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các quyền và nghĩa vụ đã xác lập với
bên thứ ba, và chịu trách nhiệm với pháp nhân, trước pháp luật về hành vi
của mình.
Có quan điểm cho rằng phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo
pháp luật được quy định trong điều lệ hoặc trong quyết định bổ nhiệm hoặc
hợp đồng lao động hoặc quy chế nội bộ của công ty cổ phần đó. Luận giải của
quan điểm này là luật Doanh nghiệp, điều lệ.... có quy định những giao dịch
có giá trị đến mức nào đó thì phải có sự phê chuẩn của đại hội đồng cổ đông
hoặc hội đồng quản trị.... Tuy nhiên, còn có nhiều quan điểm khác nhau trong
quá trình áp dụng quy định này về sự giới hạn thẩm quyền của người đại diện
hay chỉ là các thủ tục mà người đại diện cần thực hiện trước khi tham gia xác
lập các giao dịch.
18
Đại diện theo uỷ quyền “là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền
giữa người đại diện và người được đại diện” [44, Điều 142]. Đại diện theo
ủy quyền của pháp nhân là việc người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân
danh pháp nhân.
Phạm vi đại diện của người đại diện theo ủy quyền được xác định trên
cơ sở nội dung văn bản ủy quyền của người đại diện theo pháp luật cho người
được ủy quyền. Trong văn bản ủy quyền, người được ủy quyền sẽ được làm
gì và không được làm gì để thực hiện công việc ủy quyền.
Kết quả hoạt động của những người đại diện của pháp nhân khi thực
hiện các hoạt động nhân danh pháp nhân: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm
dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện nhân danh pháp nhân” [44, điều 93]. Pháp nhân không thể chối bỏ
trách nhiệm của mình, khi người đại diện tham gia xác lập các giao dịch với
tư cách của pháp nhân và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của điều lệ
hoặc của pháp luật.
1.2. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người đứng đầu
doanh nghiệp, thay mặt doanh nghiệp thực hiện các giao dịch vì lợi ích của
doanh nghiệp, với đối tác, khác hàng và với cơ quan nhà nước, đại diện cho
công ty với tư cách là nguyên đơn, bị đơn trong vụ kiện, tranh chấp thương
mại... Hành động của người đại diện theo pháp luật chịu sự ràng buộc trong
phạm vi đại diện được giới hạn theo quy định của điều lệ công ty và các quy
định pháp luật.
Hiện nay, quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ
phần được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005; Nghị định số
102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều
của Luật Doanh nghiệp.
19
Về chức danh, điều kiện của người đại diện theo pháp luật:
Thứ nhất, Về chức danh của người đại diện theo pháp luật của công ty
cổ phần: người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần có thể là chủ tịch
hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc/giám đốc, chức danh cụ thể được quy
định trong điều lệ của công ty.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là tổng giám
đốc/giám đốc của công ty: Trường hợp điều lệ công ty không quy định
chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì giám đốc
hoặc tgổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Giám
đốc hoặc tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng
ngày của công ty; chịu sự giám sát của hội đồng quản trị và chịu trách
nhiệm trước hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ được giao.
Nếu chủ tịch hội đồng quản trị là ngƣời đại diện theo pháp luật của
công ty: Ngoài việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của theo chức danh của
mình, chủ tịch hội đồng quản trị còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
người đại diện theo pháp luật công ty.
Thứ hai, về điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của công
ty cổ phần: Theo pháp luật Việt Nam thì tiêu chuẩn và điều kiện trở thành chủ
tịch hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc cũng là điều kiện, tiêu
chuẩn của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và áp dụng theo
quy định tại Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty hoặc của hợp đồng lao
động ký với công ty. Các điều kiện đó có thể kể đến là:
Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm thành lập
và quản lý doanh nghiệp quy định của Luật Doanh nghiệp;
Cổ đông là cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc
cổ đông sở hữu ít hơn 5% tổng số cổ phần, người không phải là cổ đông thì
20
phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc
trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty.
Phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng mặt trên ba mươi ngày ở
Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại
điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo
pháp luật của công ty.
Ngoài ra giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty cổ phần không được
đồng thời làm giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, việc quy định vấn đề về tiêu chuẩn và điều kiện của những
người lãnh đạo quan trọng vốn là vấn đề nội bộ của doanh nghiệp và nhất
thiết phải dành doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc đưa ra các quy định
về tiêu chuẩn, điều kiện phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Về bầu, bổ nhiệm người đại diện theo pháp luật:
Tùy theo quy định tại điều lệ để xác định chức danh là đại điện theo pháp
luật của công ty. Theo đó ta cũng biết được thẩm quyền bầu hoặc bổ nhiệm
người đại diện theo pháp luật thuộc về hội đồng quản trị hoặc đại hội đồng cổ
đông, cụ thể:
Nếu người đại diện theo pháp luật là tổng giám đốc hoặc giám đốc thì
hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm
tổng giám đốc hoặc giám đốc.
Nếu người đại diện theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị. Thì việc
bầu được thực hiện theo quy định của điều lệ: Đại hội đồng cổ đông hoặc hội
đồng quản trị bầu chủ tịch hội đồng quản trị. Trường hợp hội đồng quản trị bầu
chủ tịch hội đồng quản trị thì chủ tịch được bầu trong số thành viên của mình.
Như vậy, việc bầu hoặc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, đồng thời là đại
diện theo pháp luật phải dựa trên quy định của điều lệ công ty. Đại hội đồng
21
cổ đông hoặc hội đồng quản trị tiến hành họp để ban hành nghị quyết (quyết
định) về việc bổ nhiệm hoặc bầu chức danh đại diện theo pháp luật. Bởi các
thông tin của người đại diện theo pháp luật được ghi trong giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh của công ty, vì thế công ty phải căn cứ vào nghị quyết đó
để đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Về thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần:
Về nguyên tắc người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi
giao dịch dân sự vì lợi ích của công ty, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Cơ sở để xác định phạm vi trong trường hợp này là “vì lợi ích của công
ty”, nếu giao dịch mà không vì lợi ích của công ty, hoặc vì lợi ích của chính
người đại diện hoặc của người khác thì người đại diện theo pháp luật đã vượt
quá thẩm quyền đại diện của mình, xâm hại đến lợi ích của công ty. Tuy
nhiên, việc xác định vì lợi ích của công ty đôi khi cũng không phải là chuyện
đơn giản.
Một khía cạnh xác định hành động của người đại diện theo pháp luật
có “vì lợi ích của công ty” hay không, Luật Doanh nghiệp quy định về các
giao dịch tư lợi mà người đại diện theo pháp luật có thể xác lập. Đó là những
hợp đồng, giao dịch phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị
chấp thuận: Một là, Hợp đồng, giao dịch mà người đại diện nhân danh công ty
giao kết với cổ đông trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và
những người có liên quan của cổ đông đó; Hai là, Hợp đồng, giao dịch mà
người đại diện nhân danh công ty giao kết thành viên Hội đồng quản trị, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty. Tùy theo giá trị của hợp đồng, giao dịch
mà thẩm quyền chấp thuận thuộc về đại hội đồng cổ đông hay hội đồng quản
trị theo quy định của điều lệ công ty.
Quy định trên nhằm hạn chế các giao dịch của người đại diện theo pháp
luật nhân danh công ty nhưng không vì lợi ích của công ty mà muốn lợi dụng
22
công ty để xác lập các giao dịch để tư lợi cho riêng mình. Bởi các thủ tục
chấp thuận của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị chỉ nhằm mục
đích bảo vệ các cổ đông – chủ sở hữu công ty trước những hoạt động của
người đại diện theo pháp luật có nguy cơ đe dọa đến lợi ích của họ.
1.3. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại một số quốc gia
1.3.1. Pháp luật của Thái Lan
Pháp luật Thái Lan quy định pháp nhân hoạt động không nhất thiết chỉ
thông qua một người đại diện, mà có thể nhiều người quản lý trong pháp nhân
đều có thẩm quyền đại diện cho pháp nhân tham gia các giao dịch nhân danh
pháp nhân đó. “Ý chí của một pháp nhân được bày tỏ thông qua những người
đại diện của pháp nhân đó” [6, Điều 80]. Theo quy định này, một pháp nhân
có thể có nhiều người đại diện, mỗi người đại diện phụ trách những hoạt động
nhất định của pháp nhân, và có quyền nhân danh pháp nhân trong hoạt động
của mình. Đồng thời pháp luật cũng gắn trách nhiệm của pháp nhân đối với các
hoạt động đó:
Một pháp nhân buộc phải bồi thường về bất cứ thiệt hại nào,
do người quản lý hoặc những người đại diện khác của pháp nhân
gây ra cho những người khác trong khi thi hành nhiệm vụ của mình,
đồng thời dành quyền khiếu nại những người gây ra thiệt hại đó [6,
Điều 76 Các quyển I-VI].
Ở Việt Nam, hiện nay chỉ có loại hình công ty hợp danh có quy định
này, theo đó các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau trong việc nhân
danh công ty thực hiện các giao dịch với bên thứ ba. Quy định này tạo cho các
doanh nghiệp chủ động trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, nhất
là những doanh nghiệp lớn.
Vấn đề quan trọng là gắn trách nhiệm của những người đại diện của
pháp nhân trong quá trình nhân danh pháp nhân thực hiện các giao dịch. Pháp
luật Thái Lan quy định trách nhiệm của người đại diện như sau:
23
Nếu thiệt hại gây ra cho những người khác là do một hành vi
không nằm trong phạm vi mục đích hoạt động của pháp nhân, thì
những thành viên hoặc những người quản lý tán thành hành vi đó,
những người quản lý và những người đại diện khác thực thi hành vi
đó phải liên đới chịu bồi thường [6, Điều 76 Các quyển I-VI].
Nếu pháp nhân chối bỏ trách nhiệm bằng cách thay đổi các văn bản nội
bộ của mình, trong trường hợp này, pháp luật Thái Lan đã quy định cụ thể:
“Bất cứ sự hạn chế hoặc sửa đổi nào về quyền hạn đại diện của những người
quản lý, không được thiết lập nhằm chống lại những người thứ ba có thiện
chí” [6, Điều 76 Các quyển I-VI].. Quy định này rất tiến bộ và có nhiều ưu
điểm, sẽ tránh những hành động của những người quản lý trong nội bộ công
ty đưa ra những quyết định như sửa đổi điều lệ, các văn bản nội bộ nhằm thay
đổi quyền hạn của người đại diện mục đích để gây bất lợi hoặc chối bỏ trách
nhiệm đối với bên thứ ba.
Bài học đối với các quy định trong pháp luật Việt Nam, cần quy định
trách nhiệm của pháp nhân trong trường hợp những người quản lý thực hiện
những hoạt động sửa đổi quyền hạn của người đại diện mang tính nội bộ,
nhưng lại ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba. Cụ thể theo
hướng “Bất cứ sự hạn chế hoặc sửa đổi nào về quyền hạn đại diện của những
người quản lý, không được thiết lập nhằm chống lại những người thứ ba có
thiện chí”.
1.3.2. Pháp luật công ty của Pháp
Pháp luật của Pháp đưa ra các điều kiện trở thành thành viên hội đồng
quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị và chức danh tổng giám đốc công ty:
Vấn đề kiêm nhiệm của thành viên hội đồng quản trị, theo pháp luật của
Pháp, thì một thể nhân không thể cùng một lúc tham gia vào trên tám hội đồng
quản trị của các công ty vô danh có trụ sở trên đất Pháp. Vấn đề này trong pháp
24
luật Việt Nam không có quy định. Lý giải cho vấn đề này, các nhà luật học của
Pháp cho rằng:
Ngay cả khi nhiệm vụ quản trị viên chỉ cần sự có mặt của ông
ta ở các cuộc họp 3 tháng một kỳ của hội đồng quản trị, nghĩa là
không cần sự có mặt thường xuyên ở trụ sở công ty, thì nhà lập
pháp cũng thấy rằng nếu tham gia quá 8 hội đồng quản trị, thì cũng
không thể làm việc một các nghiêm túc được [12, tr.19].
Thành viên của Hội đồng quản trị có bắt buộc phải là thể nhân hay
không ? Pháp luật Pháp có quy định:
Một pháp nhân cũng có thể làm quản trị viên như một thể
nhân: vậy là một công ty có thể được phép quản lý một công ty
khác với yêu cầu duy nhất bổ nhiệm mộ “đại diện thường trực” luôn
có mặt tại trụ sở của công ty. Đại diện này cũng phải có những điều
kiện như một quản trị viên là thể nhân [12, tr.19].
Tổng giám đốc theo luật năm 1966 là người được công ty ủy nhiệm.
Giúp đỡ chủ tịch và có nhiệm vụ thay mặt công ty với người ngoài. Đàm phán
các hợp đồng, thay mặt công ty ký các hợp đồng, là nguyên đơn trước tòa án,
khi cần còn là người giao dịch với cơ quan hành chính, thuế:
Đôi khi điều lệ hạn chế quyền hạn của chủ tịch kiêm tổng
giám đốc bằng các đòi hỏi phải có sự đồng ý trước hội đồng quản
trị, nếu giá trị hợp đồng ký vượt quá một mức nào đó. Nhưng giới
hạn này không có giá trị với người ngoài, người ngoài vẫn có
quyền đòi phải thi hành hợp đồng dù chưa có ý kiến của hội đồng
quản trị…Một chủ tịch – tổng giám đốc không thể đến mức khiến
cho ông ta trở thành một người thừa hành, làm lu mờ quyền hạn
riêng của ông ta ở cương vị điều hành chung [12, tr.19].
25
Trong pháp luật Việt Nam, Luật Doanh nghiệp quy định tại Điều 120
về các “Hợp đồng, giao dịch phải được đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng
quản trị chấp thuận”. Nếu người đại diện theo pháp luật của công ty thực
hiện các giao dịch thuộc Điều 120 mà không có sự chấp của đại hội đồng cổ
đông hoặc hội đồng quản trị thì giao dịch đó bị coi là vượt quá thẩm quyền và
có thể bị tuyên vô hiệu. Bên thứ ba không thể bắt công ty thực hiện nghĩa vụ
của mình, mà chỉ có thể yêu cầu người đại diện theo pháp luật chịu trách
nhiệm cá nhân mà thôi. Quy định trong pháp luật của Pháp nhằm đảm bảo
quyền lợi cho bên thứ ba, là bên được coi là yếu thế đối với các vấn đề nội bộ
của công ty.
Bài học cho các nhà làm luật Việt Nam là các quy định trong pháp luật
Việt Nam cần rõ ràng hơn về trách nhiệm của công ty trong các giao dịch đối với
bên thứ ba, là bên yếu thế trong quan hệ. Pháp luật Việt Nam quy định các
trường hợp công ty được coi là biết đến các giao dịch do người đại diện công ty
tham gia, từ đó xem xét trách nhiệm là của công ty hay của cá nhân người đại
diện. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận và xem xét quy định trong pháp luật Pháp
cho rằng, trong quá trình hoạt động các cơ quan như đại hội đồng cổ đông, hội
đồng quản trị buộc phải biết các hoạt động của người đại diện. Vì thế, trong mọi
trường hợp thì công ty vẫn phải thực hiện trách nhiệm đối với bên thứ ba khi
người đại diện tham gia xác lập.
1.3.3. Pháp luật của Nhật Bản
Luật Công ty Nhật Bản là sự kết hợp đặc biệt giữa truyền thống luật
dân sự của Đức (có một vài yếu tố của Pháp) với luật công ty của Mỹ và chịu
ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội, văn hóa Nhật Bản . Nền tảng pháp lý cho
các loại hình công ty ở Nhật Bản là Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại có từ
khá lâu đời và sau đó được sửa đổi bổ sung khá nhiều lần.
26
Với việc ban hành Luật Công ty mới trong tháng 6/2005 (Japanese
Company Act 2006-JCA 2006) là đỉnh cao của những nỗ lực gần đây của Nhật
Bản để tái cấu trúc lại và làm mới khuôn khổ hệ thống pháp luật công ty của
mình. Về nguyên tắc trong công ty cổ phần không cần thiết lập hội đồng quản
trị. Tuy nhiên, Luật công ty quy định có 3 loại công ty cổ phần phải thiết lập hội
đồng quản trị đó là công ty đại chúng, công ty có thiết lập Ban kiểm soát và công
ty có thiết lập các ủy ban. Trong công ty cổ phần có thiết lập Hội đồng quản trị
thì phải bầu một thành viên làm đại diện Hội đồng quản trị.
Trong trường hợp công ty có nhiều người điều hành, thì Hội đồng quản
trị sẽ xác định mối quan hệ giữa những người điều hành, xác định công việc và
nhiệm vụ của từng người trong thực hiện nghị quyết của Hội đồng quản trị.
Luật cũng quy định về giám đốc và ban giám đốc:
Giám đốc chịu trách nhiệm quản lý và điều hành kinh doanh
của một công ty cổ phần (Kabushiki Kaisha). Trong ban giám đốc,
ít nhất phải có một giám đốc đại diện cho công ty do các thành viên
trong ban giám đốc bầu ra. Thông thường Ban giám đốc đưa ra
quyết định về các vấn đề quan trọng và sẽ giám sát các giám đốc
phụ trách từng phân ban hay từng bộ phận cụ thể theo đúng với điều
lệ công ty cũng như các quy chế nội bộ khác [61, tr220-221].
Theo Luật công ty Nhật Bản, về nguyên tắc trong công ty cổ phần
không cần thiết lập hội đồng quản trị. Tuy nhiên, Luật công ty qui định có 3
loại công ty cổ phần phải thiết lập hội đồng quản trị đó là công ty đại chúng,
công ty có thiết lập ban kiểm soát và công ty có thiết lập các ủy ban (Điều 327
Khoản 1). Còn công ty có thiết lập ban kiểm soát là công ty cổ phần buộc
phải thiết lập ban kiểm soát là công ty đại chúng trừ công ty có thiết lập các
ủy ban (Điều 328 Khoản 1). Còn đối với những công ty cổ phần không cần
thiết phải thiết lập ban kiểm soát thì cũng có thể thỏa thuận thành lập ban
27
kiểm soát (Điều 326, Khoản 2). Trong công ty cổ phần có thiết lập hội đồng
quản trị thì phải bầu một thành viên làm đại diện hội đồng quản trị (Điều 362,
Khoản 3).
Trong công ty cổ phần có thiết lập các ủy ban thì có đại diện điều hành,
còn trong công ty cổ phần chỉ có một người điều hành thì người này trở thành
đại diện điều hành (Luật công ty Điều 420 Khoản 1). Trong trường hợp công
ty có nhiều người điều hành, thì hội đồng quản trị sẽ xác định mối quan hệ
giữa những người điều hành, xác định công việc và nhiệm vụ của từng người
trong thực hiện Nghị quyết của hội đồng quản trị (Điều 416 Khoản 1 Mục 1).
Ở Việt Nam, chủ tịch hội đồng quản trị do đại hội đồng cổ đông hoặc
hội đồng quản trị bầu ra. Trong trường hợp hội đồng quản trị bầu ra chủ tịch
hội đồng quản trị thì Chủ tịch được bầu trong số đó có thể kiêm nhiệm giám
đốc hoặc tổng giám đốc (Luật doanh nghiệp Điều 111), giám đốc hoặc tổng
giám đốc có thể là đại diện theo pháp luật trong trường hợp Điều lệ công ty
không qui định chủ tịch hội đồng quản trị là đại diện theo pháp luật (Điều
116, Khoản 1). Còn ở Nhật Bản, đại diện hội đồng quản trị là đại diện công
ty, điều hành hoạt động trong công ty, tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng
với bên ngoài.
Theo pháp luật Việt Nam thì khi đăng ký thành lập công ty, luật buộc
kê khai trong điều lệ công ty và trong giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp ai là
người đại diện theo pháp luật, các thông tin về người đại diện theo pháp luật,
chức danh và kèm theo bản sao hợp lệ giấy chứng minh nhân dân còn hiệu lực
hoặc hộ chiếu còn hiệu lực của người đại diện theo pháp luật.
28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua các nghiên cứu tại Chương 1, tác giả rút ra một số kết luận như sau:
Chế định đại diện là một chế định truyền thống và là trung tâm của
pháp luật dân sự và doanh nghiệp, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh
tế xã hội và trong cơ cấu pháp lý. Trong đời sống hiện nay, cùng với sự phát
triển của kinh tế xã hội thì việc hoàn thiện chế định đại diện là một xu thế tất
yếu, phù hợp với sự phát triển của cuộc sống.
Công ty với tư cách là một pháp nhân (thực thể giả tạo) thực hiện các
quyền và nghĩa vụ bởi những hành động của người đại diện của mình. Thông
qua người đại diện, pháp nhân tham gia xác lập các giao dịch dân sự, được
hưởng các quyền và phải gánh vách các nghĩa vụ với bên thứ ba. Vì thế, hoạt
động của người đại diện phải tuân thủ phạm vi thẩm quyền được quy định tại
điều lệ và pháp luật.
Việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt tư cách người đại diện và phạm vi
thẩm quyền mà người đại diện cho pháp nhân có thể tiến hành phải tuân thủ
quy định của pháp luật và của điều lệ pháp nhân. Công ty cổ phần là loại hình
pháp nhân phổ biến hiện nay, bởi những ưu điểm được các nhà đầu tư lựa chọn,
đầu tư.
Các nội dung cơ sở lý luận về pháp nhân và đại diện theo pháp luật của
pháp nhân của chương I này, là tiền đề để phân tích những thực trạng tồn tại
của pháp luật Việt Nam, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế
định người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở các chương sau.
29
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện theo pháp luật của
công ty cổ phần
2.1.1. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn
Theo quy định hiện nay của pháp luật Việt Nam về người đại diện theo
pháp luật của công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng, phải đáp ứng đủ
các điều kiện theo quy định tại luật doanh nghiệp, điều lệ công ty. Người đại
diện theo pháp luật phải đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh (tại thời
điểm đăng ký thành lập hoặc khi có sự thay đổi người đại diện theo pháp luật
của công ty). Thông tin về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là
mục quan trọng trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn, điều kiện đối với người
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần như sau:
Thứ nhất, Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần phải giữ
một trong các chức danh là giám đốc (tổng giám đốc) hoặc chủ tịch hội đồng
quản trị của công ty. Thuật ngữ mà Bộ luật dân sự sử dụng “người đứng đầu”
của pháp nhân.
Nếu người đại diện theo pháp luật của công ty là giám đốc hoặc tổng
giám đốc. giám đốc hoặc tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh
doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu
trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ được giao.
Theo điểm h, khoản 2, Điều 108 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định về
thẩm quyền của Hội đồng quản trị trong việc thành lập chức danh giám đốc
30
hoặc tổng giám đốc “Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt
hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng
khác do Điều lệ công ty quy định…”. Hội đồng quản trị có quyền và nghĩa vụ
trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức hoặc ký hợp đồng, chấm dứt hợp
đồng đối với chức danh giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty.
Điều kiện người đại diện theo pháp luật phải giữ các chức vụ “đứng
đầu công ty” là một quy định cứng nhắc, không linh hoạt của Luật doanh
nghiệp. Luật doanh nghiệp nên để doanh nghiệp có toàn quyền quyết định ai
và giữ chức danh gì làm đại diện theo pháp luật của công ty sao cho phù hợp
với đặc điểm doanh nghiệp hoặc lĩnh vực hoạt động.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 116, Điều 57 của Luật doanh nghiệp
2005; Điều 15 của Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2010
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, các tiêu chuẩn
và điều kiện của giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty cổ phần được quy định
như sau:
a) Có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị
cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều
13 của Luật Doanh nghiệp;
b) Cổ đông là cá nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ thông,
hoặc người khác thì phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm
thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh
doanh chính của công ty [11].
Nếu người đại diện theo pháp luật của công ty là chủ tịch hội đồng quản
trị, thì thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức thuộc thẩm quyền của Đại
hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị theo quy định tại điều lệ của công ty.
Khoản 1 điều 111 Luật doanh nghiệp quy định:
31
Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội
đồng quản trị theo quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp Hội đồng
quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị thì Chủ tịch được bầu trong số
thành viên Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có
quy định khác [42, Điều 111].
Khoản 3 điều 15 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP quy định thành viên
Hội đồng quản trị công ty cổ phần phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:
a) Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị
cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều
13 của Luật Doanh nghiệp;
b) Cổ đông là cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ
thông hoặc cổ đông sở hữu ít hơn 5% tổng số cổ phần, người không
phải là cổ đông thì phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm
trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chính
của công ty [11].
Tuy nhiên, quy định của pháp luật cũng đưa ra trường hợp nếu Điều lệ
công ty có quy định tiêu chuẩn và điều kiện khác thì áp dụng tiêu chuẩn và điều
kiện do Điều lệ công ty quy định. Quy định này cũng phù hợp với tinh thần pháp
luật tôn trọng sự tự quyết định của doanh nghiệp và chỉ mang tính tham khảo mà
thôi. Quy định của năng lực hành vi của các chức danh trên là không cần thiết.
Bởi, các chủ sở hữu công ty khi bỏ vốn của mình đầu tư vào công ty, họ phải cân
nhắc giao tài sản của mình cho ai để vốn đó sinh lời. Hơn nữa, việc xác định một
người hạn chế hoặc mất năng lực hành vi của một cá nhân, công ty không thể
thực hiện, mà cơ quan có thẩm quyền duy nhất có quyền tuyên bố về bấn đề này
là Tòa án nhân dân.
32
Thứ hai, Tổng giám đốc/Giám đốc công ty cổ phần không thể làm
Tổng giám đốc/Giám đốc của công ty khác. Quy định cấm một người làm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của nhiều công ty khác nhau sẽ ảnh hưởng đến
quyền lợi của công ty trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên Tổng giám đốc/Giám đốc vẫn có thể làm đại diện pháp luật của công ty
khác với chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị/Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Có nhiều cách giải thích cho qui định này, nhưng đều không thuyết
phục, chẳng hạn vì qui mô công ty cổ phần thường là công ty lớn, do đó Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc phải “toàn tâm, toàn ý” phục vụ công ty, thay vì vấn
đề bí mật thông tin trong khi công ty cổ phần niêm yết chứng khoán trên thị
trường…Qui định ngăn cấm này là không có cơ sở lý luận, thực tiễn thuyết
phục, và dường như đã hạn chế quyền tự do kinh doanh của cá nhân.
Theo ý kiến của tác giả, pháp luật cần quy định theo hướng mở để việc
quy định về vấn đề về tiêu chuẩn và điều kiện của những người lãnh đạo quan
trọng trong công ty vốn là vấn đề nội bộ của doanh nghiệp và nhất thiết phải
dành doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc đưa ra các quy định về tiêu
chuẩn, điều kiện phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên cơ
sở các quy định của pháp luật.
2.1.2. Quy định về chức danh
Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là người đứng đầu
của công ty, thay mặt công ty thực hiện các giao dịch với đối tác, khách hàng
và với cơ quan Nhà nước vì lợi ích của công ty. Vì vậy, người đại diện theo
pháp luật phải là người có chức danh quan trọng trong cơ cấu tổ chức của
công ty. Theo quy định tại khoản 1 Điều 116 Luật Doanh nghiệp 2005: “…
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị là
người đại diện theo pháp luật thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại
diện theo pháp luật của công ty” [42]. Theo quy định trên, người đại diện
33
theo pháp luật của công ty cổ phần chỉ có thể giữ chức vụ là Chủ tịch Hội
đồng quản trị hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc.
Thực tế cho thấy, các công ty thường quy định chức danh Giám
đốc/Tổng giám đốc làm người đại diện theo pháp luật. Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc là người trực tiếp điều hành các hoạt động kinh doanh của
công ty, vì thế hoạt động của họ gắn liền với hoạt động của người đại diện
theo pháp luật.
Nếu người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch hội đồng quản trị, có lẽ
không phù hợp với vai trò của người đại diện theo pháp luật trong các hoạt
động nhân danh công ty, bởi:
Thứ nhất, Chủ tịch hội đồng quản trị có thể do Đại hội đồng cổ đông
bầu ra, hoặc do Hội đồng quản trị bầu trong số các thành viên. Vì thế, nếu lực
chọn người giữ chức danh chủ tịch Hội đồng quản trị làm người đại diện theo
pháp luật, thì phải do Đại hội đồng cổ đông quyết định, không đáp ứng kịp
thời trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty.
Thứ hai, Chức danh Chủ tịch hội đồng quản trị là người đứng đầu Hội
đồng quản trị, cơ quan giám sát các hoạt động của ban giám đốc, đưa ra các
chiến lược phát triển lâu dài cho công ty. Chứ không trực tiếp tham gia các
hoạt động kinh doanh thường nhật của công ty, vì vậy sẽ không theo sát được
việc xác lập, thực hiện các giao dịch.
Thứ ba, Giám đốc/Tổng giám đốc là người điều hành công ty, vì thế
mọi hoạt động, giao dịch đối với bên thứ ba tốt nhất thuộc thẩm quyền của
Giám đốc/Tổng giám đốc. Giám đốc/Tổng giám đốc có trách nhiệm thực hiện
các hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình được quy định trong điều
lệ công ty.
Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp cũng cho phép Chủ tịch Hội đồng quản
trị có thể kiêm Giám đốc/Tổng giám đốc công ty theo quy định tại khoản 1
34
điều 111 Luật doanh nghiệp 2005 “Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định
khác”. Trong trường hợp này, thì người giữ chức vụ kiêm nhiệm này đồng
thời sẽ là người đại diện theo pháp luật của công ty. Hiện nay, với chủ yếu
loại hình công ty vừa và nhỏ, được tổ chức theo mô hình công ty gia đình, thì
các doanh nghiệp thường gắn hai chức danh trên cho một người đảm nhiệm,
vì thế cơ cấu quản trị công ty không được đảm bảo, hoạt động của công ty chủ
yếu dựa vào một cá nhân. Ngoài ra, cơ cấu quản lý như vậy, sẽ ảnh hưởng đến
quyền lợi của các cổ đông khác trong công ty, vì những giao dịch bất lợi,
xung đột lợi ích mà người kiêm nhiệm có thể thực hiện nhằm mục đích tư lợi
cá nhân.
Theo Điều lệ mẫu Ban hành kèm theo Thông tư số 121/2012/TT-BTC
ngày 26 tháng 7 năm 2012 của Bộ Tài chính quy định về quản trị công ty áp
dụng cho các công ty đại chúng quy định “Chủ tịch Hội đồng quản trị không
kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành của Công ty. Việc
Chủ tịch ….. phải được phê chuẩn hàng năm tại Đại hội đồng cổ đông thường
niên”. Việc kiêm nhiệm chỉ được các chủ sở hữu quyết định thông qua nghị
quyết của cuộc họp Đại hội đồng thường niên của công ty hàng năm. Quy
định này để tránh việc Hội đồng quản trị công ty bổ nhiệm chủ tịch Hội đồng
quản trị kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc/Tổng giám đốc khi không có quyết
định của cơ quan có quyền lực cao nhất trong công ty cổ phần.
2.1.3. Quy định về phạm vi thẩm quyền
Về thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ
phần, Luật Doanh nghiệp quy định theo tính chất mở, do đó doanh nghiệp
hoàn toàn có quyền quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc/Tổng giám
đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị để phù hợp với tình hình hoạt động kinh
doanh hoặc đặc thù ngành nghề của doanh nghiệp.
35
Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật được quy định
tại khoản 1 điều 144 Bộ luật dân sự 2005: “Người đại diện theo pháp luật có
quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại
diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Có lẽ các nhà làm luật đưa
cách xác định phạm vi thẩm quyền trong trường hợp này là “vì lợi ích của
người được đại diện”, nếu giao dịch mà không vì lợi ích của người được đại
diện, hoặc vì lợi ích của chính người đại diện, người khác thì người đại diện
theo pháp luật đã vượt quá thẩm quyền đại diện của mình, xâm hại đến lợi ích
của người được đại diện. Tuy nhiên, việc xác định “vì lợi ích của người được
đại diện” đôi khi cũng không phải là chuyện đơn giản. Tuy nhiên, quy định
trên còn nêu “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, đây là quy định
mang tính chung chung, mục đích của nhà làm luật là muốn dẫn chiếu đến các
quy định của luật chuyên ngành. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp không có quy
định nào về các “trường hợp khác” để bổ sung liên quan đến Điều 144 trên.
Đây cũng là sự thiếu thống nhất giữa luật chung và luật chuyên ngành.
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định một cách chung chung về phạm vi
thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần: các quyền
và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị tại Điều 111, các quyền và nhiệm
vụ của Giám đốc/Tổng giám đốc tại Điều 116. Chính vì thế, gây khó khăn cho
bên thứ ba khi giao dịch với công ty.
Khi thực hiện các giao dịch với công ty, trước hết cần phải tìm xem
cách nào để ràng buộc trách nhiệm của công ty. Bên thứ ba có thể căn cứ vào
các yếu tố sau để xem xét thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của
công ty:
Thứ nhất, đề nghị công ty cho xem giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và bản điều lệ của công ty. Căn cứ để biết người đại diện theo pháp
luật là ai, giữ chức vụ gì. Nếu không phải người đó ký, thì người ký thay có
36
được ủy quyền hay có sự chấp thuận của hội đồng quản trị không; có khi
hội đồng quản trị giao cho một người khác không phải là Giám đốc/Tổng
giám đốc và chủ tịch Hội đồng quản trị ký kết trong một giao dịch nhất
định nào đó;
Thứ hai, Người đại diện pháp lý thực hiện giao dịch có đúng thẩm
quyền hay không trên cơ sở xem bản điều lệ phân định thẩm quyền của Đại
hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc trong việc
quyết định và ký kết các giao dịch được ghi trong Điều lệ và các quy chế nội
bộ của công ty.
Thứ ba, Khi phát hiện giao dịch của người đại diện là vượt quá thẩm
quyền theo quy định của điều lệ, thì bên thứ ba có thể yêu cầu công ty có nghị
quyết của hội đồng quản trị cho phép thực hiện.
Thứ tư, Khi phát hiện việc ký kết không của người không phải là đại
diện theo pháp luật của công ty, nhưng không có ủy quyền hoặc ủy quyền
không hợp pháp, thì bên thứ ba có thể yêu cầu công ty (cơ quan, người có
thẩm quyền quyết định, ký kết) đưa ra ý kiến về việc giao kết của người
không có ủy quyền hoặc ủy quyền không hợp pháp đó. Nếu công ty có văn
bản đồng ý, thì hai bên cùng nhau thực hiện giao dịch đã ký kết. Nhưng
nếu công ty không đồng ý việc người không có ủy quyền hoặc ủy quyền
không hợp pháp thì bên thứ ba, tùy từng trường hợp cụ thể có thể yêu cầu
người không có ủy quyền hoặc ủy quyền không hợp pháp thực hiện giao
dịch với tư cách cá nhân của mình. Hoặc, dừng việc thực hiện hợp đồng,
yêu cầu tòa án có thẩm quyền tuyên vô hiệu hợp đồng, giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu.
Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật được quy định
trong điều lệ của doanh nghiệp hoặc trong quyết định bổ nhiệm hoặc quy chế
nội bộ của công ty cổ phần đó. Trong rất nhiều trường hợp, người đại diện
37
theo pháp luật của công ty cổ phần chỉ là một người làm thuê và thẩm quyền
của người này còn bị giới hạn trong hợp đồng lao động ký với doanh nghiệp.
Như vậy, thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty không
phải là vô hạn.
Trong trường hợp có sự xung đột lợi ích giữa người đại diện và người
được đại diện. Theo quy định của Bô ̣luâ ̣t dân sự Việt Nam đã đề cập tới
trường hợp có xung đột lợi ích tại khoản 5, Điều 14: “Người đại diện không
được xác lập thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc người thứ ba mà
mình cũng là người đại diện của người đó , trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”. Tuy nhiên, giải pháp mà Bộ luật Dân sự đưa ra dường như là chưa
đầy đủ nếu so sánh với quy đi ̣nh của BộNguyên tắc của UNIDROIT:
1. Nếu việc người đại diện ký hợp đồng dẫn đến việc xung đột
lợi ích giữa người được đại diện và người đại diện, mà bên thứ 3
biết hoặc đáng lẽ phải biết, người được đại diện có thể huỷ hợp
đồng theo quy định tại điều 3.12 và các điều từ 3.14 - 3.17.2. Tuy
nhiên, người được đại diện sẽ không thể huỷ hợp đồng nếu:
a. người được đại diện đã đồng ý để người đại diện hành
động khi có xung đột lợi ích, hoặc người được đại diện biết, đáng
lẽ phải biết.
b. người đại diện đã nói với người đại diện về việc xung đột lợi
ích mà người được đại diện không phản đối trong thời gian hợp
lý[18].
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp mà người đại diện thực
hiện giao dịch có sự mâu thuẫn lợi ích, thì công ty đều có thể chối bỏ trách
nhiệm, hay yêu cầu tuyên hủy giao dịch do người đại diện đã ký. Nếu
“người được đại diện đã đồng ý để người đại diện hành động khi có xung
đột lợi ích, hoặc người được đại diện biết, đáng lẽ phải biết” và khi “người
38
đại diện đã nói với công ty về việc xung đột lợi ích mà người được đại diện
không phản đối trong thời gian hợp lý” thì trách nhiệm thực hiện giao dịch
vẫn phải là của công ty.
Trong trường hợp, nếu người ký kết hợp đồng không đúng thẩm
quyền, khi xảy ra tranh chấp, tòa án phải xem xét trong quá trình thực hiện
hợp đồng, người có thẩm quyền ký kết hợp đồng theo quy định của pháp
luật hoặc điều lệ công ty đã chấp thuận, thì hợp đồng không bị coi là vô
hiệu toàn bộ.
Theo Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng
thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế giải thích các trường hợp
“Được coi là người có thẩm quyền chấp thuận nếu người đó đã biết hợp đồng
đã được ký kết mà không phản đối”, khi thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
Thứ nhất, sau khi hợp đồng đã được ký kết, có đầy đủ căn cứ chứng
minh rằng người ký kết hợp đồng đã báo cáo với người có thẩm quyền biết
hợp đồng đã được ký kết (việc báo cáo đó được thể hiện trong biên bản họp
giao ban của Ban giám đốc, biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị, có nhiều
người khai thống nhất về việc báo cáo là có thật...).
Thứ hai, người có thẩm quyền thông qua các chứng từ, tài liệu về kế
toán, thống kê biết được hợp đồng đó đã được ký kết và đang được thực hiện
(đã ký trên hóa đơn, phiếu xuất kho, các khoản thu chi của việc thực hiện hợp
đồng kinh tế hoặc trên sổ sách kế toán của pháp nhân...).
Thứ ba, người có thẩm quyền có những hành vi chứng minh có tham
gia thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh theo thỏa thuận của hợp đồng (ký
các văn bản xin gia hạn thời gian thanh toán, cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ
39
theo hợp đồng, ký các văn bản duyệt thu, chi hay quyết toán đối chiếu công
nợ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng kinh tế...);
Thứ tư, người có thẩm quyền đã trực tiếp sử dụng các tài sản, lợi nhuận
có được do việc ký kết, thực hiện hợp đồng mà có (sử dụng xe tô để đi lại, để
kinh doanh mà biết do việc ký kết, thực hiện hợp đồng đó mà có; sử dụng trụ
sở làm việc do việc ký kết, thực hiện hợp đồng thuê tài sản...).
Tuy nhiên, còn một hình thức vượt quá thẩm quyền mà không được Bộ
luật dân sự, Luật doanh nghiệp đề cập đến. Đó là trường hợp người đại diện
công ty kết hợp đồng với bên thứ ba về nội dung thực hiện các ngành nghề
chưa đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Ví dụ, một công ty không đăng ký kinh doanh ngành nghề tư vấn giám
sát xây dựng ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn giám sát với một doanh nghiệp
khác. Khi xảy ra tranh chấp sẽ được giải quyết ra sao?trách nhiệm của người
đại diện theo pháp luật của công ty như thế nào?. Theo Nghị quyết
04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế, thì trong trường hợp này khi
xảy ra tranh chấp giữa các bên sẽ được giải quyết theo các hướng sau:
Trường hợp thứ nhất: Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế mà một trong
các bên chưa có đăng ký kinh doanh, trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh
tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh
chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa
có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thỏa thuận trong
hợp đồng, thì hợp đồng kinh tế này bị coi là vô hiệu toàn bộ.
Trường hợp thứ hai: Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế một trong các bên
chưa có đăng ký kinh doanh, nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế
giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp,
bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng đã có đăng ký kinh doanh
40
để thực hiện công việc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng thì hợp đồng
kinh tế này không bị coi là vô hiệu toàn bộ. Các bên phải tôn trọng hợp đồng đã
ký kết.
Hiện nay, thẩm quyền tuyên bố một hợp đồng là vô hiệu là tòa án
hoặc trọng tài, vì vậy, các bên không thể dựa trên cơ sở là hợp đồng vô
hiệu để có thể hủy bỏ hoặc không thực hiện công việc, mà phải khởi kiện
yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu
phát sinh.
Rõ ràng, đây là một hoạt động xác lập giao dịch vượt quá thẩm quyền,
và trách nhiệm của người đại diện không được đặt ra. Nếu việc giải quyết hậu
quả của giao dịch vô hiệu là công ty phải bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba,
thì người đại diện theo pháp luật có phải bồi thường cho công ty hay không?
Vấn đề này cần được pháp luật làm rõ.
2.1.4. Quy định về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật
Trong quá trình hoạt động, công ty có thể gây thiệt hại cho bên thứ ba
bởi hành động của người đại diện theo pháp luật. Vì thế, cần phân định rõ
trách nhiệm của công ty và trách nhiệm của cá nhân người đại diện theo pháp
luật nếu họ vượt quá phạm vi thẩm quyền mà điều lệ hoặc pháp luật quy định.
Tuy nhiên, trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật không được quy
định cụ thể, mà pháp luật chỉ quy định trách nhiệm, nhiệm vụ của những chức
danh đứng đầu trong công ty cổ phần.
Trách nhiệm, nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc trong quá trình quản lý hoạt động kinh doanh của công ty trên cơ
sở quy định của pháp luật, điều lệ công ty hoặc hợp đồng lao động đã ký:
b) Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung
thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của
công ty và cổ đông của công ty;
41
c) Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông của công ty;
không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty,
lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục
vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
d) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về các
doanh nghiệp mà họ và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có
phần vốn góp, cổ phần chi phối; thông báo này được niêm yết tại
trụ sở chính và chi nhánh của công ty [42, Điều 119].
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty, người đại diện theo
pháp luật phải có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật và điều lệ công ty. Hoạt động nội bộ trong công ty như quá trình
góp vốn, định giá phần vốn góp…Luật doanh nghiệp quy định:
Trường hợp có cổ đông rút một phần hoặc toàn bộ vốn cổ phần
đã góp trái với quy định tại khoản này thì thành viên Hội đồng quản
trị và người đại diện theo pháp luật của công ty phải cùng liên đới
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi giá trị cổ phần đã bị rút [42, Điều 80].
Trong hoạt động bên ngoài của công ty, để tránh sự lạm dụng cũng
như bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người thứ ba, pháp luật quy định
người đại diện phải thông báo cho người thứ ba biết về phạm vi đại diện
của mình. Quy định này là một cách để công khai việc đại diện và là cách
thức để bảo vệ quyền, lợi ích của người thứ ba. Việc thông báo có thể được
thực hiện bằng văn bản, kèm theo văn bản chứng minh phạm vi đại diện
của mình.
Bên cạnh đó, người đại diện không được thực hiện các giao dịch dân sự
với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện hoặc thực hiện giao dịch với
chính mình, hay được gọi là xung đột lợi ích. Mục đích nhằm ngăn chặn các
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY

Contenu connexe

Tendances

Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)nataliej4
 

Tendances (20)

Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luậtLuận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAYĐề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luậtLuận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
 
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOTLuận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
 
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAYLuận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
 
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOTLuận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao độngLuận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAYĐề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
 
Luận văn: Sự phát triển của chế định công ty TNHH, HOT
Luận văn: Sự phát triển của chế định công ty TNHH, HOTLuận văn: Sự phát triển của chế định công ty TNHH, HOT
Luận văn: Sự phát triển của chế định công ty TNHH, HOT
 
Luận án: Quản trị công ty đại chúng theo pháp luật hiện nay, HAY
Luận án: Quản trị công ty đại chúng theo pháp luật hiện nay, HAYLuận án: Quản trị công ty đại chúng theo pháp luật hiện nay, HAY
Luận án: Quản trị công ty đại chúng theo pháp luật hiện nay, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
 
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
 

Similaire à Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY

Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...KhoTi1
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019PinkHandmade
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...anh hieu
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docxLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docxNhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 

Similaire à Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY (20)

Luận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đLuận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà NộiLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
 
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Luận văn: Công ty luật hợp danh theo pháp luật việt nam, HAY
Luận văn: Công ty luật hợp danh theo pháp luật việt nam, HAYLuận văn: Công ty luật hợp danh theo pháp luật việt nam, HAY
Luận văn: Công ty luật hợp danh theo pháp luật việt nam, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sưĐề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
 
Luận văn: Đăng ký, sử dụng tên doanh nghiệp theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Đăng ký, sử dụng tên doanh nghiệp theo pháp luật, 9đLuận văn: Đăng ký, sử dụng tên doanh nghiệp theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Đăng ký, sử dụng tên doanh nghiệp theo pháp luật, 9đ
 
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAYPHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
 
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệpTổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệpLuận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docxLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
 
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOTQuản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nướcLuận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Dernier

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họchelenafalet
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Logistics ngược trong thương mại doa.pdf
Logistics ngược trong thương mại doa.pdfLogistics ngược trong thương mại doa.pdf
Logistics ngược trong thương mại doa.pdfAnPhngVng
 

Dernier (20)

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Logistics ngược trong thương mại doa.pdf
Logistics ngược trong thương mại doa.pdfLogistics ngược trong thương mại doa.pdf
Logistics ngược trong thương mại doa.pdf
 

Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ BÍCH THÙY ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ BÍCH THÙY ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Tuấn HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tác giả Vũ Thị Bích Thùy
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠI DIỆN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN………………………………….............. 9 1.1. Khái quát những lý luận cơ bản về pháp nhân..……...………….. 9 1.1.1. Khái niệm pháp nhân…………………………………….. 9 1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân………. 12 1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp luật Việt Nam………………………………………….…. 13 1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp nhân....................................................................................... 16 1.2. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam.............. 18 1.3. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại một số quốc gia... 22 1.3.1. Pháp luật của Thái Lan…………………………………… 22 1.3.2. Pháp luật của Pháp……………………………………… 23 1.3.3. Pháp luật của Nhật Bản…………………………………. 25 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1……………………………………………..... 28 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM…………………………………………………. 29 2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần……………………………………..………….. 29 2.1.1. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn……………………... 29 2.1.2. Quy định về chức danh……………………………………. 32 2.1.3. Quy định về phạm vi thẩm quyền………………………….. 34 2.1.4. Quy định về trách nhiệm của đại diện theo pháp luật…….. 40 2.1.5. Các quy định về xác lập và thay đổi đại diện theo pháp luật……………………………………………………….. 42 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần……………………………………………………... 46 2.2.1. Thực trạng áp dụng quy định về xác lập, thay đổi đại diện 46
  • 5. theo pháp luật…………………………………………….. 2.2.2. Thực trạng áp dụng quy định về thẩm quyền của đại diện theo pháp luật…………………………………………… 49 2.2.3. Thực trạng áp dụng quy định về đại diện công ty tham gia góp vốn vào doanh nghiệp khác………………..…………. 51 2.2.4. Thực trạng áp dụng quy định về ủy quyền của đại diện theo pháp luật………………………………………………….. 52 2.3. Những nguyên nhân dẫn đến bất cập về vấn đề đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần…………….…………………… 56 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2…………………………………………….... 60 Chƣơng 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM…………………………………. 61 3.1. Những cơ sở định hướng hoàn thiện……………..………….…… 61 3.1.1. Đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay……… 61 3.1.2. Những yêu cầu đặt ra cho quá trình hội nhập kinh tế hiện nay… 62 3.1.3. Đòi hỏi của sự thực hiện đường lối của Đảng …………… 63 3.1.4. Đòi hỏi sự hoàn thiện chế định đại diện ………………… 64 3.2. Các giải pháp hoàn thiện ………………………………………. 65 3.2.1. Giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan……… 65 3.2.2. Giải pháp thi hành và áp dụng pháp luật………………. 72 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3………………………………………………. 74 KẾT LUẬN……………………………………………………………... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… 76
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay đang trên con đường phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Các nhà hoạch định chính sách đang dần gỡ bỏ các rào cản của quy định pháp luật, thủ tục hành chính, thuế quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút cho các nhà đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế. Trước những làn sóng đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài như hiện nay, thì các doanh nghiệp trong nước mà chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh mang tính sống còn với các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới, nhất là khi Việt Nam đang là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO và tham gia Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP. Nhiệm vụ đặt ra là nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát triển nền kinh tế hiện nay. Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài thể nhân – con người cụ thể còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể giống như con người được gọi là pháp nhân. Các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ thể chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên cơ sở nhà nước tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân. Công ty cổ phần là một loại hình pháp nhân, với những ưu điểm vượt trội về địa vị pháp lý, mô hình tổ chức, chế độ vốn góp nên đã được nhiều nhà đầu tư ưu tiên lựa chọn. Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật doanh nghiệp năm 1999 đã góp phần hoàn thiện khung pháp lý các mô hình tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần và đồng thời, tiếp cận và tuân thủ các nguyên tắc quản trị
  • 7. 2 công ty đang được áp dụng trên thế giới đã phần nào đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn tồn tại những chế định chưa được quy định rõ ràng, thiếu nhất quán, mà nổi cộm nhất có lẽ là quy định về người đại diện theo pháp luật. Từ những tồn tại của pháp luật dẫn đến hệ quả là việc áp dụng pháp luật không đúng, không thống nhất, đồng thời gây khó khăn cho chính các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh. Các vấn đề pháp lý liên quan đến người đại diện theo pháp luật trong các loại hình công ty nói chung, trong công ty cổ phần nói riêng hiện nay đang nảy sinh những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo giữa luật chung và luật chuyên ngành. Như các vấn đề xác lập, thay đổi, chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật, phạm vi đại diện, sự phân định trách nhiệm của người đại diện và của công ty đối với bên thứ ba, vấn đề đại diện đương nhiên, đại diện ủy quyền. Trong khi giới khoa học pháp lý vẫn còn đặt ra các câu hỏi tranh luận trên nhiều diễn đàn về các vấn đề dường như cơ bản của chế định đại diện, thế nhưng các nhà làm luật chưa có sự quan tâm thoả đáng và đặc biệt là thực tiễn áp dụng pháp luật chưa có sự thống nhất, tuỳ thuộc theo nhận thức của những người, cơ quan áp dụng pháp luật theo một cách khác nhau, ảnh hưởng đến các quyền lợi hợp pháp của công dân. Với mục đích tiếp cận chế định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần trên cơ sở nền tảng lý luận và hoạt động áp dụng trong thực tiễn đời sống để nêu ra những bất cập, tồn tại làm cơ sở cho các định hướng hoàn thiện chế định quan trọng của pháp luật doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình với mong muốn góp phần nhỏ bé vào hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp ở nước ta.
  • 8. 3 2. Tình hình nghiên cứu Khi nghiên cứu các vấn đề về pháp nhân, các công trình nghiên cứu đã đưa ra các học thuyết, tư tưởng ngay từ khi nước ta còn là thuộc địa của thực dân Pháp, mô hình pháp nhân đã được các thương gia người Pháp du nhập, và áp dụng trong hoạt động của mình tại các thuộc địa. Tiêu biểu là các tác giả như: Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản; Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản. Các nghiên cứu đã đưa ra các học thuyết pháp nhân, tìm ra các đặc tính thuộc về bản chất của pháp nhân. Gần đây, có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cương (2001), Pháp nhân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích- Nguyễn Đình Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí Thức 2008; Lê Việt Anh (2008), Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 113, tháng 1/2008; TS Phạm Hồng Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, tạp chí Luật học số 6 năm 1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2009), vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày tháng 03/2009. Các công trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề cơ bản của pháp nhân, và những bất cập trong các quy định liên quan đến pháp nhân và các mô hình công ty của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, so sánh các quy định của các nước và những định hướng hoàn thiện. Các nghiên cứu về mô hình công ty cổ phần và chế định đại diện của công ty cổ phần đã góp phần làm rõ những vấn đề pháp lý cơ bản, cơ cấu tổ chức nội bộ và vấn đề liên quan đến người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Có thể kể đến các công trình như: Tác giả Ngô Viễn Phú trong luận án tiến sĩ của mình với đề tài “So sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
  • 9. 4 Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” đề cập đến người đại diện theo pháp luật công ty và đưa ra quan điểm ai nên là người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa làm sáng tỏ các vấn đề thuộc về bản chất, những tồn tại trong pháp luật về chế định người đại diện theo pháp luật trong công ty mà chỉ đề cập vấn đề người đại diện theo pháp luật là rất quan trọng liên quan đến cán cân quyền lực trong công ty cổ phần. Bên cạnh đó, đáng chú ý là luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Thắng “Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2005”. Với đề tài này, tác giả đã làm rõ khái niệm, thẩm quyền và vai trò của người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, ở khía cạnh lý luận và thực tiễn, thì tác giả chưa đi nghiên cứu sâu sắc một cách thỏa đáng. Ngoài ra, gần đây xuất hiện một loạt bài báo viết về vấn đề đại diện theo pháp luật của công ty. Tiêu biểu là các tác giả: Bùi Xuân Hải,"Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam ", Tạp chí Khoa học Pháp lý 2007, số 4 (41); TS. Ngô Huy Cương, Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 4/2009; Bài viết “Bình luận chế định pháp nhân và đại diện pháp nhân trong Bộ luật dân sự năm 2005” của Luật sư Trương Thanh Đức; Lê Văn Thiệp, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Số Tân Xuân, 2012. Các công trình nghiên cứu này, phần nào đã làm rõ những vấn đề cơ bản của chế định đại diện và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp trong các quy định về đại diện. Đồng thời các tác giả cũng đưa ra các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện. Đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc, mang tính hệ thống liên quan đến các quy định của pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Các tác giả trong bài nghiên cứu của mình có đề cập đến vấn đề người đại diện theo pháp luật trong công ty nhưng chưa nêu
  • 10. 5 lên được những bất cập trong thực tế khi xác lập, thay đổi tư cách của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, thẩm quyền đại diện và xử lý các giao dịch vượt thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật. Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và định hướng, đưa ra giải pháp toàn diện để hoàn thiện chế định này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Công ty cổ phần, với tư cách là một pháp nhân, theo đó căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách cũng như địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần cũng được điều chỉnh bởi chế định pháp nhân. Luật doanh nghiệp hiện hành chỉ đơn giản quy định một trong số ba chức danh quản lý là đại diện theo pháp luật, đó là chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng gám đốc. Bởi vậy, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu mang tính hạt nhân là đại diện theo pháp luật của pháp nhân, từ đó nghiên cứu sâu về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Với đối tượng nghiên cứu đã định, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu khái quát về pháp nhân là tổ chức kinh tế, lý giải cơ sở triết học về đại diện theo pháp luật của pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần; Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến vấn đề đại diện theo ủy quyền với mục đích làm rõ thêm thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nước ta, dựa trên những chủ trương, đường lối và chính sách xây dựng nền kinh tế xã hội
  • 11. 6 hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, luận văn đặt mục đích đó là nghiên cứu những vấn đề lý luận về đại diện theo pháp luật của pháp nhân nói chung và công ty cổ phần nói riêng; nêu toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại Việt Nam và từ đó đưa ra các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này. Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật điều chỉnh về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và công ty cổ phần, nhằm: Làm rõ những vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, từ đó đi sâu nghiên cứu các vấn đề về pháp luật và thực trạng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay; Đưa ra các cơ sở định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Từ những mục đích trên, tác giả đưa ra các nhiệm vụ của luận văn như sau: - Làm rõ cơ sở triết học hình thành đại diện theo pháp luật của pháp nhân; - Xây dựng khái niệm đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. - Xác định căn cứ xác lập và chấm dứt tư cách đại diện theo pháp luật, địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần; - Phân tích làm rõ khiếm khuyết của pháp luật hiện hành và áp dụng pháp luật hiện hành về việc xác định tư cách người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, qua đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện.
  • 12. 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp luận của triết học Mác – Lênin; lý luận chung về nhà nước – pháp luật; các quan điểm của Đảng và tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp này kết hợp với nhau để giải quyết các vấn đề của đề tài. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu sử dụng: phân tích tài liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp của luật so sánh. Và các phương pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học pháp lý: phân tích quy phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật…. 6. Những đóng góp của luận văn Những đóng góp của luận văn gồm có: Về mặt lý luận: - Luận văn đưa ra hệ thống các cơ sở lý luận về pháp nhân, những luận điểm cơ sở triết học của vấn đề đại diện theo pháp luật của pháp nhân. - Luận văn đưa ra và phân tích các căn cứ để xác lập, thay đổi, và chấm dứt với tư cách của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam. - Luận văn cũng đề cập quy định về đại diện của công ty cổ phần của một số nước, từ đó so sánh với những quy định hiện hành ở Việt Nam. Về tính thực tiễn: Luận văn đã nêu và phân tích làm rõ những khiếm khuyết của pháp luật hiện hành và áp dụng pháp luật về việc xác định tư cách người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. Từ đó, nhận định những nguyên nhân của các thực trạng làm tiền đề cho các định hướng hoàn thiện.
  • 13. 8 Về định hướng hoàn thiện: tác giả luận văn nêu lên cơ sở hình thành các định hướng và giải pháp mang tính toàn diện nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần.
  • 14. 9 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 1.1. Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về pháp nhân 1.1.1. Khái niệm pháp nhân Khi nói về chủ thể của pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân – con người cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể, đó chính là pháp nhân. Nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý có tư cách chủ thể độc lập với thể nhân là một tất yếu đối với các hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và của các nhà đầu tư. Bởi lẽ, các thực thể pháp lý đó có thể do một tổ chức, cá nhân hoặc nhiều tổ chức, cá nhân tạo lập, nhưng các hoạt động kinh doanh do các thực thể này thực hiện mang lại hiệu quả cao mà thể nhân đơn lẻ khó có thể thực hiện được. Khi nghiên cứu về pháp nhân, Giáo sư Jean Claude Ricci chỉ ra hai lợi ích cơ bản sau đây: - Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả thiết là không có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất phức tạp. - Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó [57, tr.105-106].
  • 15. 10 Harold Arthur Jonh Ford trong công trình “Principles of Company Law” cũng nhấn mạnh rằng “Trong bất kỳ hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nào cũng có nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý, có thể thụ hưởng các quyền và chịu nghĩa vụ cơ bản giống như con người, thực thể đó được gọi là pháp nhân” [65]. Về đặc tính và bản chất pháp lý của pháp nhân, cho đến này người ta vẫn còn tranh luận, và luật pháp các quốc gia thường có sự khác biệt về tiêu chí xác định pháp nhân. Tuy nhiên, tư cách pháp nhân của từng loại hình công ty thường được pháp luật công ty xác định một cách trực tiếp mà không cần phải có một thủ tục công nhận riêng. Maurice cozian và Alain Viandier đã ví von pháp nhân như một cái vỏ ốc và công ty là con dã tràng sống trong đó. Ở Việt Nam, nếu tính từ năm 1975, thuật ngữ pháp nhân được nhắc đến lần đầu tiên trong Thông tư 525-HĐ ngày 23-6-1975 của Hội đồng trọng tài kinh tế nhà nước hướng dẫn việc thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế quy định ban hành kèm theo Nghị định số 54-CP ngày 10-3-1975 của Hội đồng Chính phủ quy định quy cách pháp nhân của các bên ký kết hợp đồng kinh tế: Các đơn vị, tổ chức, cơ quan tham gia giao kết hợp đồng kinh tế. Đó là những đơn vị có đủ tư cách pháp nhân được nhà nước thành lập hoặc thừa nhận, có tài sản riêng và có trách nhiệm độc lập về tài sản đó, có tài khoản tại ngân hàng. các tổ chức xã hội có đủ tư cách pháp nhân phải là những tổ chức được nhà nước công nhận và cũng có tài khoản ở ngân hàng [27]. Năm 1990, Nghị định 17-HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Pháp nhân là một tổ chức có đủ điều kiện sau đây: 1. Được thành lập một cách hợp pháp; 2. Có tài sản riêng và chịu trách
  • 16. 11 nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó; 3. Có quyền quyết định một cách độc lập về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; 4. Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật [28]. Các điều kiện này đang được quy định trong bộ luật dân sự hiện hành. Trong Luật công ty của Úc, tại điều 57A đưa ra định nghĩa pháp nhân theo kiểu liệt kê các chủ thể được gọi là pháp nhân “Pháp nhân bao gồm công ty, công ty sở hữu chủ...”; Tại mục 1.40.9 Luật mẫu về công ty kinh doanh của Mỹ cũng đưa ra cách định nghĩa tương tự nhưng có bổ sung một số tổ chức như Bang, Liên Bang và Chính phủ nước ngoài là pháp nhân. Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN quy định: Pháp nhân có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành lập hoặc tổ chức một cách hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước, bao gồm mọi công ty, tập đoàn, liên danh, liên doanh, công ty một chủ hoặc hiệp hội [2, Điều 1]. Theo Hiệp định thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại: Pháp nhân là một thực thể pháp lý bất kỳ được thiết lập hay tổ chức một cách hợp pháp theo luật áp dụng, bất kể vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dưới hình thức sở hữu tư nhân hay Nhà nước, bao gồm mọi công ty, công ty tín thác, công ty hợp danh, liên doanh, doanh nghiệp một chủ hay hiệp hội [12, chương 3 điều 11]. Như vậy, pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể pháp luật độc lập, dùng để phân biệt với chủ thể là con người. Pháp nhân được tạo lập bởi ý chí của một hoặc nhiều con người cụ thể.
  • 17. 12 1.1.2. Cơ sở triết học về vấn đề đại diện của pháp nhân Như chúng ta đã biết, triết học và phương pháp luận khoa học đã hỗ trợ các khoa học khác giải quyết những vấn đề của chúng. Qua đó, triết học thúc đẩy tiến bộ khoa học trong đó có khoa học pháp lý phát triển. Trong triết học con người là trung tâm, do vậy, tự do của con người là hạt nhân, tạo ra nguồn cảm hứng chủ yếu cho những phát minh. Triết học xã hội tham gia vào việc giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế xã hội ... đóng góp đáng kể vào mọi thành tựu của loài người. Pháp luật dân sự là một trong những thành tựu đáng được nhắc đến, nó ghi nhận nguyên tắc tự do ý chí. Vũ Văn Mẫu cho rằng, “về phương diện triết học, các lý thuyết tự do sở dĩ coi ý chí là căn bản của các nghĩa vụ, là vì tin tưởng rằng khi các cá nhân được tự do thương thuyết không vướng mắc một trở ngại nào thị sự quyết định của họ phản chiếu sự công bằng” [32, tr. 84]. Về phương diện triết học, pháp nhân được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí. Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân được thụ hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ. Tuy nhiên, nó có thể thực hiện các quyền năng bằng cách nào khi nó là một thực thể pháp lý. Đây là vấn đề mấu chốt luận giải về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Từ giữa thế kỷ 19, các án lệ của các nước theo truyền thống thông luật đã khẳng định rằng, công ty chỉ có thể hành động thông qua các giám đốc– tức những người quản lý công ty và hành động của cá nhân cổ đông sẽ không ảnh hưởng gì, không ràng buộc trách nhiệm của pháp nhân công ty – với tư cách là một thực thể pháp lý độc lập [24]. Pháp nhân, dù được nhân cách hóa, không phải là con người cụ thể và do đó, không thể tự mình xử sự…Suy cho cùng, pháp nhân luôn phải được đại diện bởi con người cụ thể, từ khi thành lập cho
  • 18. 13 đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực hành vi của pháp nhân thực ra là năng lực hành vi mà pháp nhân vay mượn của những con người mà pháp nhân hóa thân vào [21, tr. 246]. Trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí, con người luôn đòi hỏi xã hội đáp ứng những nhu cầu của mình về tự do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo quyền con người. Vì thế, xuất pháp từ bản chất pháp lý của việc hình thành pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng lập nhằm tạo ra một thực thể cụ thể để đáp ứng hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu chung mà các sáng lập viên xác định khi giao kết hợp đồng. Sự ra đời của pháp nhân trên cơ sở học thuyết tự do ý chí và tự do lập hội dựa trên nền tảng của tự do cá nhân, không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một việc gì đó ngoài ý muốn của họ. Các cá nhân tự do lựa chọn mô hình pháp nhân để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, và tự do lựa chọn người đại diện theo pháp luật, trên cơ sở sự ủy thác của các chủ sở hữu pháp nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của người quản lý pháp nhân trong hoạt động nội bộ, các hoạt động kinh doanh. Người đại diện theo pháp luật chịu sự điều chỉnh của quy định của pháp luật và các quy chế của pháp nhân, trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Như vậy, pháp nhân với tư cách là một thực thể pháp lý, được tạo nên bởi ý chí của một hoặc nhiều người cụ thể và chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua con người cụ thể. 1.1.3. Căn cứ xác lập tư cách đại diện của pháp nhân theo pháp luật Việt Nam Có nhiều quan điểm cho rằng, quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) là căn cứ xác lập tư cách người đại diện pháp luật của pháp nhân. Nếu chỉ xem xét từ thực tiễn áp dụng thì quan điểm này có phần đúng. Bởi lẽ, một trong những nội
  • 19. 14 dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là: “Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” [42, Điều 25]. Quy định này có thể được hiểu là người có tên trong đăng ký kinh doanh mới là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp liên quan đến người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hiện nay thì không có sự thống nhất, có thể nói khách quan hơn là tuỳ thuộc vào quyết định của toà án. Thực tế này có thể minh chứng như sau: Có nhiều vụ án, trong đó đương sự là pháp nhân mà người đại diện của pháp nhân đã bị bãi nhiệm, cách chức bằng quyết định của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị theo quy định tại điều lệ. Tuy nhiên, pháp nhân đó chưa thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh thì có toà án vẫn xác định người đại diện theo pháp luật là người có tên trong giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh. Thực tế này thường xảy ra đối với những vụ án tranh chấp nội bộ công ty "yêu cầu huỷ nghị quyết của đại hội đồng cổ đông" trong công ty cổ phần. Thế nhưng, đối với trường hợp đương sự là pháp nhân, do người đại diện theo pháp luật chết, mất năng lực hành vi, bị tạm giam..... thì toà án lại không sử dụng đăng ký kinh doanh làm căn cứ xác định tư cách người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, còn có trường hợp toà án áp dụng mang tính chủ quan khác. Cụ thể, đối với những vụ án có đương sự là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, thì trong suốt một thời gian dài toà án xác định người đại diện theo quyết định bổ nhiệm chủ tịch hội đồng thành viên, trong khi đó người đại diện theo pháp luật có tên trong đăng ký kinh doanh không được chấp nhận vì đã bị chuyển công tác. Như vậy, thực tiễn xét xử thường không đưa ra căn cứ pháp lý để xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Vậy, luật thực định quy định như thế nào về vấn đề này.
  • 20. 15 Theo quy định tại Điều 91, 140 và 141 Bộ luật dân sự 2005: Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Người đại diện theo pháp luật bao gồm: ... Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền [44]. Đối với người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần được luật Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành quy định tại Điều 116, theo đó người đại diện theo pháp luật có thể là chủ tịch hội đồng quản trị hoặc giám đốc/tổng giám đốc và phải được ghi trong điều lệ của công ty. Tuy nhiên, bằng việc bỏ qua "Luật áp dụng luật" – Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và với cơ chế thông thoáng thì vẫn còn những văn bản dưới luật quy định trái luật mà vẫn được áp dụng. Cụ thể, Quyết định số 1087/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001 của thống đốc ngân hàng nhà nước tại khoản 3, Điều 9 là: "Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của ngân hàng thương mại cổ phần và được ghi trong điều lệ ngân hàng thương mại cổ phần". Như vậy, ở giác độ luật thực định thì nhà làm luật chỉ quy định một chức danh nào đó trong cơ cấu tổ chức quản lý của pháp nhân làm người đại diện theo pháp luật. Cách quy định này là một trong những biểu hiện việc bảo hộ quyền tự do kinh doanh, tôn trọng quyền tự định đoạt của thành viên pháp nhân. Cụ thể, với cách quy định của luật thực định, thành viên pháp nhân có toàn quyền quyết định bầu/bổ nhiệm một người cụ thể giữ chức danh mà pháp luật quy định là người đại diện theo quy định của pháp nhân. Thông thường, việc bầu được thể hiện bằng kết quả kiểm phiếu được xác định trong biên bản kiểm phiếu; việc bổ nhiệm được thể hiện bằng hình thức ban hành quyết định.
  • 21. 16 Bằng việc làm rõ quy định của luật thực định, tác giả đi đến nhận định rằng, việc xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, trước hết phải căn cứ theo điều lệ của pháp nhân để biết người đại diện là người có chức danh nào trong bộ máy quản lý; sau đó căn cứ văn bản của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị về việc bầu hoặc bổ nhiệm chức danh để xác định người đại diện theo pháp luật. Đăng ký kinh doanh không phải là căn cứ để xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. 1.1.4. Phạm vi thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của pháp nhân Công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập, không phải là thể nhân, nên chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua người đại diện trong các giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Người đại diện thay mặt, nhân danh pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật, xác lập các giao dịch dân sự trong quá trình hoạt động của pháp nhân. Pháp nhân được hưởng các quyền và phải gánh vách các nghĩa vụ do người đại diện nhân danh mình xác lập với bên thứ ba. Tuy nhiên, người đại diện về nguyên tắc phải hành động trong phạm vi đại diện, là giới hạn quyền và nghĩa vụ trong việc nhân danh pháp nhân xác lập và thực hiện giao dịch với người thứ ba theo sự xác định của pháp luật hoặc của người được đại diện. Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền. Chính vì thế, năng lực pháp luật của pháp nhân khi tham gia các quan hệ pháp luật thông qua năng lực của người đại diện. “Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự” [44, điều 86]. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là việc người đại diện nhân danh pháp nhân tham gia xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch với bên thứ ba vì lợi ích của pháp nhân được quy định trong điều lệ và pháp luật.
  • 22. 17 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định” [44, Điều 140]. Người đại diện theo pháp luật là đại diện đương nhiên của pháp nhân, nhân danh pháp nhân tham gia các giao dịch trong phạm vi đại diện mà pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định. Phạm vi đại diện người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là “có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [44, Điều 144]. Theo quy định này, thì việc xác định phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân căn cứ vào mục đích tham gia giao dịch mà người đại diện. Có nghĩa là, giao dịch mà người đại diện theo pháp luật tham gia phải nhằm đáp ứng lợi ích của pháp nhân, chứ không phải vì lợi ích cá nhân người đại diện. Những giao dịch mà người đại diện theo pháp luật xác lập nhằm tư lợi đều bị pháp luật cấm, nếu người đại diện thực hiện những giao dịch đó, phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các quyền và nghĩa vụ đã xác lập với bên thứ ba, và chịu trách nhiệm với pháp nhân, trước pháp luật về hành vi của mình. Có quan điểm cho rằng phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật được quy định trong điều lệ hoặc trong quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng lao động hoặc quy chế nội bộ của công ty cổ phần đó. Luận giải của quan điểm này là luật Doanh nghiệp, điều lệ.... có quy định những giao dịch có giá trị đến mức nào đó thì phải có sự phê chuẩn của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị.... Tuy nhiên, còn có nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình áp dụng quy định này về sự giới hạn thẩm quyền của người đại diện hay chỉ là các thủ tục mà người đại diện cần thực hiện trước khi tham gia xác lập các giao dịch.
  • 23. 18 Đại diện theo uỷ quyền “là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được đại diện” [44, Điều 142]. Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là việc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh pháp nhân. Phạm vi đại diện của người đại diện theo ủy quyền được xác định trên cơ sở nội dung văn bản ủy quyền của người đại diện theo pháp luật cho người được ủy quyền. Trong văn bản ủy quyền, người được ủy quyền sẽ được làm gì và không được làm gì để thực hiện công việc ủy quyền. Kết quả hoạt động của những người đại diện của pháp nhân khi thực hiện các hoạt động nhân danh pháp nhân: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân” [44, điều 93]. Pháp nhân không thể chối bỏ trách nhiệm của mình, khi người đại diện tham gia xác lập các giao dịch với tư cách của pháp nhân và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của điều lệ hoặc của pháp luật. 1.2. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người đứng đầu doanh nghiệp, thay mặt doanh nghiệp thực hiện các giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp, với đối tác, khác hàng và với cơ quan nhà nước, đại diện cho công ty với tư cách là nguyên đơn, bị đơn trong vụ kiện, tranh chấp thương mại... Hành động của người đại diện theo pháp luật chịu sự ràng buộc trong phạm vi đại diện được giới hạn theo quy định của điều lệ công ty và các quy định pháp luật. Hiện nay, quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005; Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
  • 24. 19 Về chức danh, điều kiện của người đại diện theo pháp luật: Thứ nhất, Về chức danh của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần: người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần có thể là chủ tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc/giám đốc, chức danh cụ thể được quy định trong điều lệ của công ty. Ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là tổng giám đốc/giám đốc của công ty: Trường hợp điều lệ công ty không quy định chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì giám đốc hoặc tgổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Giám đốc hoặc tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Nếu chủ tịch hội đồng quản trị là ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty: Ngoài việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của theo chức danh của mình, chủ tịch hội đồng quản trị còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật công ty. Thứ hai, về điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần: Theo pháp luật Việt Nam thì tiêu chuẩn và điều kiện trở thành chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc cũng là điều kiện, tiêu chuẩn của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và áp dụng theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty hoặc của hợp đồng lao động ký với công ty. Các điều kiện đó có thể kể đến là: Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định của Luật Doanh nghiệp; Cổ đông là cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc cổ đông sở hữu ít hơn 5% tổng số cổ phần, người không phải là cổ đông thì
  • 25. 20 phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty. Phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng mặt trên ba mươi ngày ở Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty. Ngoài ra giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty cổ phần không được đồng thời làm giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, việc quy định vấn đề về tiêu chuẩn và điều kiện của những người lãnh đạo quan trọng vốn là vấn đề nội bộ của doanh nghiệp và nhất thiết phải dành doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc đưa ra các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở các quy định của pháp luật. Về bầu, bổ nhiệm người đại diện theo pháp luật: Tùy theo quy định tại điều lệ để xác định chức danh là đại điện theo pháp luật của công ty. Theo đó ta cũng biết được thẩm quyền bầu hoặc bổ nhiệm người đại diện theo pháp luật thuộc về hội đồng quản trị hoặc đại hội đồng cổ đông, cụ thể: Nếu người đại diện theo pháp luật là tổng giám đốc hoặc giám đốc thì hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm tổng giám đốc hoặc giám đốc. Nếu người đại diện theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị. Thì việc bầu được thực hiện theo quy định của điều lệ: Đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị bầu chủ tịch hội đồng quản trị. Trường hợp hội đồng quản trị bầu chủ tịch hội đồng quản trị thì chủ tịch được bầu trong số thành viên của mình. Như vậy, việc bầu hoặc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, đồng thời là đại diện theo pháp luật phải dựa trên quy định của điều lệ công ty. Đại hội đồng
  • 26. 21 cổ đông hoặc hội đồng quản trị tiến hành họp để ban hành nghị quyết (quyết định) về việc bổ nhiệm hoặc bầu chức danh đại diện theo pháp luật. Bởi các thông tin của người đại diện theo pháp luật được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty, vì thế công ty phải căn cứ vào nghị quyết đó để đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Về thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần: Về nguyên tắc người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của công ty, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ sở để xác định phạm vi trong trường hợp này là “vì lợi ích của công ty”, nếu giao dịch mà không vì lợi ích của công ty, hoặc vì lợi ích của chính người đại diện hoặc của người khác thì người đại diện theo pháp luật đã vượt quá thẩm quyền đại diện của mình, xâm hại đến lợi ích của công ty. Tuy nhiên, việc xác định vì lợi ích của công ty đôi khi cũng không phải là chuyện đơn giản. Một khía cạnh xác định hành động của người đại diện theo pháp luật có “vì lợi ích của công ty” hay không, Luật Doanh nghiệp quy định về các giao dịch tư lợi mà người đại diện theo pháp luật có thể xác lập. Đó là những hợp đồng, giao dịch phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận: Một là, Hợp đồng, giao dịch mà người đại diện nhân danh công ty giao kết với cổ đông trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên quan của cổ đông đó; Hai là, Hợp đồng, giao dịch mà người đại diện nhân danh công ty giao kết thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty. Tùy theo giá trị của hợp đồng, giao dịch mà thẩm quyền chấp thuận thuộc về đại hội đồng cổ đông hay hội đồng quản trị theo quy định của điều lệ công ty. Quy định trên nhằm hạn chế các giao dịch của người đại diện theo pháp luật nhân danh công ty nhưng không vì lợi ích của công ty mà muốn lợi dụng
  • 27. 22 công ty để xác lập các giao dịch để tư lợi cho riêng mình. Bởi các thủ tục chấp thuận của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị chỉ nhằm mục đích bảo vệ các cổ đông – chủ sở hữu công ty trước những hoạt động của người đại diện theo pháp luật có nguy cơ đe dọa đến lợi ích của họ. 1.3. Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần tại một số quốc gia 1.3.1. Pháp luật của Thái Lan Pháp luật Thái Lan quy định pháp nhân hoạt động không nhất thiết chỉ thông qua một người đại diện, mà có thể nhiều người quản lý trong pháp nhân đều có thẩm quyền đại diện cho pháp nhân tham gia các giao dịch nhân danh pháp nhân đó. “Ý chí của một pháp nhân được bày tỏ thông qua những người đại diện của pháp nhân đó” [6, Điều 80]. Theo quy định này, một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện, mỗi người đại diện phụ trách những hoạt động nhất định của pháp nhân, và có quyền nhân danh pháp nhân trong hoạt động của mình. Đồng thời pháp luật cũng gắn trách nhiệm của pháp nhân đối với các hoạt động đó: Một pháp nhân buộc phải bồi thường về bất cứ thiệt hại nào, do người quản lý hoặc những người đại diện khác của pháp nhân gây ra cho những người khác trong khi thi hành nhiệm vụ của mình, đồng thời dành quyền khiếu nại những người gây ra thiệt hại đó [6, Điều 76 Các quyển I-VI]. Ở Việt Nam, hiện nay chỉ có loại hình công ty hợp danh có quy định này, theo đó các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau trong việc nhân danh công ty thực hiện các giao dịch với bên thứ ba. Quy định này tạo cho các doanh nghiệp chủ động trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, nhất là những doanh nghiệp lớn. Vấn đề quan trọng là gắn trách nhiệm của những người đại diện của pháp nhân trong quá trình nhân danh pháp nhân thực hiện các giao dịch. Pháp luật Thái Lan quy định trách nhiệm của người đại diện như sau:
  • 28. 23 Nếu thiệt hại gây ra cho những người khác là do một hành vi không nằm trong phạm vi mục đích hoạt động của pháp nhân, thì những thành viên hoặc những người quản lý tán thành hành vi đó, những người quản lý và những người đại diện khác thực thi hành vi đó phải liên đới chịu bồi thường [6, Điều 76 Các quyển I-VI]. Nếu pháp nhân chối bỏ trách nhiệm bằng cách thay đổi các văn bản nội bộ của mình, trong trường hợp này, pháp luật Thái Lan đã quy định cụ thể: “Bất cứ sự hạn chế hoặc sửa đổi nào về quyền hạn đại diện của những người quản lý, không được thiết lập nhằm chống lại những người thứ ba có thiện chí” [6, Điều 76 Các quyển I-VI].. Quy định này rất tiến bộ và có nhiều ưu điểm, sẽ tránh những hành động của những người quản lý trong nội bộ công ty đưa ra những quyết định như sửa đổi điều lệ, các văn bản nội bộ nhằm thay đổi quyền hạn của người đại diện mục đích để gây bất lợi hoặc chối bỏ trách nhiệm đối với bên thứ ba. Bài học đối với các quy định trong pháp luật Việt Nam, cần quy định trách nhiệm của pháp nhân trong trường hợp những người quản lý thực hiện những hoạt động sửa đổi quyền hạn của người đại diện mang tính nội bộ, nhưng lại ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba. Cụ thể theo hướng “Bất cứ sự hạn chế hoặc sửa đổi nào về quyền hạn đại diện của những người quản lý, không được thiết lập nhằm chống lại những người thứ ba có thiện chí”. 1.3.2. Pháp luật công ty của Pháp Pháp luật của Pháp đưa ra các điều kiện trở thành thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị và chức danh tổng giám đốc công ty: Vấn đề kiêm nhiệm của thành viên hội đồng quản trị, theo pháp luật của Pháp, thì một thể nhân không thể cùng một lúc tham gia vào trên tám hội đồng quản trị của các công ty vô danh có trụ sở trên đất Pháp. Vấn đề này trong pháp
  • 29. 24 luật Việt Nam không có quy định. Lý giải cho vấn đề này, các nhà luật học của Pháp cho rằng: Ngay cả khi nhiệm vụ quản trị viên chỉ cần sự có mặt của ông ta ở các cuộc họp 3 tháng một kỳ của hội đồng quản trị, nghĩa là không cần sự có mặt thường xuyên ở trụ sở công ty, thì nhà lập pháp cũng thấy rằng nếu tham gia quá 8 hội đồng quản trị, thì cũng không thể làm việc một các nghiêm túc được [12, tr.19]. Thành viên của Hội đồng quản trị có bắt buộc phải là thể nhân hay không ? Pháp luật Pháp có quy định: Một pháp nhân cũng có thể làm quản trị viên như một thể nhân: vậy là một công ty có thể được phép quản lý một công ty khác với yêu cầu duy nhất bổ nhiệm mộ “đại diện thường trực” luôn có mặt tại trụ sở của công ty. Đại diện này cũng phải có những điều kiện như một quản trị viên là thể nhân [12, tr.19]. Tổng giám đốc theo luật năm 1966 là người được công ty ủy nhiệm. Giúp đỡ chủ tịch và có nhiệm vụ thay mặt công ty với người ngoài. Đàm phán các hợp đồng, thay mặt công ty ký các hợp đồng, là nguyên đơn trước tòa án, khi cần còn là người giao dịch với cơ quan hành chính, thuế: Đôi khi điều lệ hạn chế quyền hạn của chủ tịch kiêm tổng giám đốc bằng các đòi hỏi phải có sự đồng ý trước hội đồng quản trị, nếu giá trị hợp đồng ký vượt quá một mức nào đó. Nhưng giới hạn này không có giá trị với người ngoài, người ngoài vẫn có quyền đòi phải thi hành hợp đồng dù chưa có ý kiến của hội đồng quản trị…Một chủ tịch – tổng giám đốc không thể đến mức khiến cho ông ta trở thành một người thừa hành, làm lu mờ quyền hạn riêng của ông ta ở cương vị điều hành chung [12, tr.19].
  • 30. 25 Trong pháp luật Việt Nam, Luật Doanh nghiệp quy định tại Điều 120 về các “Hợp đồng, giao dịch phải được đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị chấp thuận”. Nếu người đại diện theo pháp luật của công ty thực hiện các giao dịch thuộc Điều 120 mà không có sự chấp của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị thì giao dịch đó bị coi là vượt quá thẩm quyền và có thể bị tuyên vô hiệu. Bên thứ ba không thể bắt công ty thực hiện nghĩa vụ của mình, mà chỉ có thể yêu cầu người đại diện theo pháp luật chịu trách nhiệm cá nhân mà thôi. Quy định trong pháp luật của Pháp nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên thứ ba, là bên được coi là yếu thế đối với các vấn đề nội bộ của công ty. Bài học cho các nhà làm luật Việt Nam là các quy định trong pháp luật Việt Nam cần rõ ràng hơn về trách nhiệm của công ty trong các giao dịch đối với bên thứ ba, là bên yếu thế trong quan hệ. Pháp luật Việt Nam quy định các trường hợp công ty được coi là biết đến các giao dịch do người đại diện công ty tham gia, từ đó xem xét trách nhiệm là của công ty hay của cá nhân người đại diện. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận và xem xét quy định trong pháp luật Pháp cho rằng, trong quá trình hoạt động các cơ quan như đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị buộc phải biết các hoạt động của người đại diện. Vì thế, trong mọi trường hợp thì công ty vẫn phải thực hiện trách nhiệm đối với bên thứ ba khi người đại diện tham gia xác lập. 1.3.3. Pháp luật của Nhật Bản Luật Công ty Nhật Bản là sự kết hợp đặc biệt giữa truyền thống luật dân sự của Đức (có một vài yếu tố của Pháp) với luật công ty của Mỹ và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội, văn hóa Nhật Bản . Nền tảng pháp lý cho các loại hình công ty ở Nhật Bản là Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại có từ khá lâu đời và sau đó được sửa đổi bổ sung khá nhiều lần.
  • 31. 26 Với việc ban hành Luật Công ty mới trong tháng 6/2005 (Japanese Company Act 2006-JCA 2006) là đỉnh cao của những nỗ lực gần đây của Nhật Bản để tái cấu trúc lại và làm mới khuôn khổ hệ thống pháp luật công ty của mình. Về nguyên tắc trong công ty cổ phần không cần thiết lập hội đồng quản trị. Tuy nhiên, Luật công ty quy định có 3 loại công ty cổ phần phải thiết lập hội đồng quản trị đó là công ty đại chúng, công ty có thiết lập Ban kiểm soát và công ty có thiết lập các ủy ban. Trong công ty cổ phần có thiết lập Hội đồng quản trị thì phải bầu một thành viên làm đại diện Hội đồng quản trị. Trong trường hợp công ty có nhiều người điều hành, thì Hội đồng quản trị sẽ xác định mối quan hệ giữa những người điều hành, xác định công việc và nhiệm vụ của từng người trong thực hiện nghị quyết của Hội đồng quản trị. Luật cũng quy định về giám đốc và ban giám đốc: Giám đốc chịu trách nhiệm quản lý và điều hành kinh doanh của một công ty cổ phần (Kabushiki Kaisha). Trong ban giám đốc, ít nhất phải có một giám đốc đại diện cho công ty do các thành viên trong ban giám đốc bầu ra. Thông thường Ban giám đốc đưa ra quyết định về các vấn đề quan trọng và sẽ giám sát các giám đốc phụ trách từng phân ban hay từng bộ phận cụ thể theo đúng với điều lệ công ty cũng như các quy chế nội bộ khác [61, tr220-221]. Theo Luật công ty Nhật Bản, về nguyên tắc trong công ty cổ phần không cần thiết lập hội đồng quản trị. Tuy nhiên, Luật công ty qui định có 3 loại công ty cổ phần phải thiết lập hội đồng quản trị đó là công ty đại chúng, công ty có thiết lập ban kiểm soát và công ty có thiết lập các ủy ban (Điều 327 Khoản 1). Còn công ty có thiết lập ban kiểm soát là công ty cổ phần buộc phải thiết lập ban kiểm soát là công ty đại chúng trừ công ty có thiết lập các ủy ban (Điều 328 Khoản 1). Còn đối với những công ty cổ phần không cần thiết phải thiết lập ban kiểm soát thì cũng có thể thỏa thuận thành lập ban
  • 32. 27 kiểm soát (Điều 326, Khoản 2). Trong công ty cổ phần có thiết lập hội đồng quản trị thì phải bầu một thành viên làm đại diện hội đồng quản trị (Điều 362, Khoản 3). Trong công ty cổ phần có thiết lập các ủy ban thì có đại diện điều hành, còn trong công ty cổ phần chỉ có một người điều hành thì người này trở thành đại diện điều hành (Luật công ty Điều 420 Khoản 1). Trong trường hợp công ty có nhiều người điều hành, thì hội đồng quản trị sẽ xác định mối quan hệ giữa những người điều hành, xác định công việc và nhiệm vụ của từng người trong thực hiện Nghị quyết của hội đồng quản trị (Điều 416 Khoản 1 Mục 1). Ở Việt Nam, chủ tịch hội đồng quản trị do đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị bầu ra. Trong trường hợp hội đồng quản trị bầu ra chủ tịch hội đồng quản trị thì Chủ tịch được bầu trong số đó có thể kiêm nhiệm giám đốc hoặc tổng giám đốc (Luật doanh nghiệp Điều 111), giám đốc hoặc tổng giám đốc có thể là đại diện theo pháp luật trong trường hợp Điều lệ công ty không qui định chủ tịch hội đồng quản trị là đại diện theo pháp luật (Điều 116, Khoản 1). Còn ở Nhật Bản, đại diện hội đồng quản trị là đại diện công ty, điều hành hoạt động trong công ty, tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng với bên ngoài. Theo pháp luật Việt Nam thì khi đăng ký thành lập công ty, luật buộc kê khai trong điều lệ công ty và trong giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp ai là người đại diện theo pháp luật, các thông tin về người đại diện theo pháp luật, chức danh và kèm theo bản sao hợp lệ giấy chứng minh nhân dân còn hiệu lực hoặc hộ chiếu còn hiệu lực của người đại diện theo pháp luật.
  • 33. 28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Qua các nghiên cứu tại Chương 1, tác giả rút ra một số kết luận như sau: Chế định đại diện là một chế định truyền thống và là trung tâm của pháp luật dân sự và doanh nghiệp, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội và trong cơ cấu pháp lý. Trong đời sống hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì việc hoàn thiện chế định đại diện là một xu thế tất yếu, phù hợp với sự phát triển của cuộc sống. Công ty với tư cách là một pháp nhân (thực thể giả tạo) thực hiện các quyền và nghĩa vụ bởi những hành động của người đại diện của mình. Thông qua người đại diện, pháp nhân tham gia xác lập các giao dịch dân sự, được hưởng các quyền và phải gánh vách các nghĩa vụ với bên thứ ba. Vì thế, hoạt động của người đại diện phải tuân thủ phạm vi thẩm quyền được quy định tại điều lệ và pháp luật. Việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt tư cách người đại diện và phạm vi thẩm quyền mà người đại diện cho pháp nhân có thể tiến hành phải tuân thủ quy định của pháp luật và của điều lệ pháp nhân. Công ty cổ phần là loại hình pháp nhân phổ biến hiện nay, bởi những ưu điểm được các nhà đầu tư lựa chọn, đầu tư. Các nội dung cơ sở lý luận về pháp nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân của chương I này, là tiền đề để phân tích những thực trạng tồn tại của pháp luật Việt Nam, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế định người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần ở các chương sau.
  • 34. 29 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần 2.1.1. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn Theo quy định hiện nay của pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng, phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại luật doanh nghiệp, điều lệ công ty. Người đại diện theo pháp luật phải đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh (tại thời điểm đăng ký thành lập hoặc khi có sự thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty). Thông tin về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là mục quan trọng trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Theo quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn, điều kiện đối với người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần như sau: Thứ nhất, Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần phải giữ một trong các chức danh là giám đốc (tổng giám đốc) hoặc chủ tịch hội đồng quản trị của công ty. Thuật ngữ mà Bộ luật dân sự sử dụng “người đứng đầu” của pháp nhân. Nếu người đại diện theo pháp luật của công ty là giám đốc hoặc tổng giám đốc. giám đốc hoặc tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Theo điểm h, khoản 2, Điều 108 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định về thẩm quyền của Hội đồng quản trị trong việc thành lập chức danh giám đốc
  • 35. 30 hoặc tổng giám đốc “Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định…”. Hội đồng quản trị có quyền và nghĩa vụ trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức hoặc ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với chức danh giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty. Điều kiện người đại diện theo pháp luật phải giữ các chức vụ “đứng đầu công ty” là một quy định cứng nhắc, không linh hoạt của Luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp nên để doanh nghiệp có toàn quyền quyết định ai và giữ chức danh gì làm đại diện theo pháp luật của công ty sao cho phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp hoặc lĩnh vực hoạt động. Theo quy định tại khoản 2 Điều 116, Điều 57 của Luật doanh nghiệp 2005; Điều 15 của Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, các tiêu chuẩn và điều kiện của giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty cổ phần được quy định như sau: a) Có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật Doanh nghiệp; b) Cổ đông là cá nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ thông, hoặc người khác thì phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty [11]. Nếu người đại diện theo pháp luật của công ty là chủ tịch hội đồng quản trị, thì thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị theo quy định tại điều lệ của công ty. Khoản 1 điều 111 Luật doanh nghiệp quy định:
  • 36. 31 Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị theo quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị thì Chủ tịch được bầu trong số thành viên Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác [42, Điều 111]. Khoản 3 điều 15 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP quy định thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây: a) Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật Doanh nghiệp; b) Cổ đông là cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc cổ đông sở hữu ít hơn 5% tổng số cổ phần, người không phải là cổ đông thì phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty [11]. Tuy nhiên, quy định của pháp luật cũng đưa ra trường hợp nếu Điều lệ công ty có quy định tiêu chuẩn và điều kiện khác thì áp dụng tiêu chuẩn và điều kiện do Điều lệ công ty quy định. Quy định này cũng phù hợp với tinh thần pháp luật tôn trọng sự tự quyết định của doanh nghiệp và chỉ mang tính tham khảo mà thôi. Quy định của năng lực hành vi của các chức danh trên là không cần thiết. Bởi, các chủ sở hữu công ty khi bỏ vốn của mình đầu tư vào công ty, họ phải cân nhắc giao tài sản của mình cho ai để vốn đó sinh lời. Hơn nữa, việc xác định một người hạn chế hoặc mất năng lực hành vi của một cá nhân, công ty không thể thực hiện, mà cơ quan có thẩm quyền duy nhất có quyền tuyên bố về bấn đề này là Tòa án nhân dân.
  • 37. 32 Thứ hai, Tổng giám đốc/Giám đốc công ty cổ phần không thể làm Tổng giám đốc/Giám đốc của công ty khác. Quy định cấm một người làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của nhiều công ty khác nhau sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của công ty trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên Tổng giám đốc/Giám đốc vẫn có thể làm đại diện pháp luật của công ty khác với chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị/Chủ tịch Hội đồng thành viên. Có nhiều cách giải thích cho qui định này, nhưng đều không thuyết phục, chẳng hạn vì qui mô công ty cổ phần thường là công ty lớn, do đó Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải “toàn tâm, toàn ý” phục vụ công ty, thay vì vấn đề bí mật thông tin trong khi công ty cổ phần niêm yết chứng khoán trên thị trường…Qui định ngăn cấm này là không có cơ sở lý luận, thực tiễn thuyết phục, và dường như đã hạn chế quyền tự do kinh doanh của cá nhân. Theo ý kiến của tác giả, pháp luật cần quy định theo hướng mở để việc quy định về vấn đề về tiêu chuẩn và điều kiện của những người lãnh đạo quan trọng trong công ty vốn là vấn đề nội bộ của doanh nghiệp và nhất thiết phải dành doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc đưa ra các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở các quy định của pháp luật. 2.1.2. Quy định về chức danh Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là người đứng đầu của công ty, thay mặt công ty thực hiện các giao dịch với đối tác, khách hàng và với cơ quan Nhà nước vì lợi ích của công ty. Vì vậy, người đại diện theo pháp luật phải là người có chức danh quan trọng trong cơ cấu tổ chức của công ty. Theo quy định tại khoản 1 Điều 116 Luật Doanh nghiệp 2005: “… Trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty” [42]. Theo quy định trên, người đại diện
  • 38. 33 theo pháp luật của công ty cổ phần chỉ có thể giữ chức vụ là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc. Thực tế cho thấy, các công ty thường quy định chức danh Giám đốc/Tổng giám đốc làm người đại diện theo pháp luật. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người trực tiếp điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty, vì thế hoạt động của họ gắn liền với hoạt động của người đại diện theo pháp luật. Nếu người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch hội đồng quản trị, có lẽ không phù hợp với vai trò của người đại diện theo pháp luật trong các hoạt động nhân danh công ty, bởi: Thứ nhất, Chủ tịch hội đồng quản trị có thể do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, hoặc do Hội đồng quản trị bầu trong số các thành viên. Vì thế, nếu lực chọn người giữ chức danh chủ tịch Hội đồng quản trị làm người đại diện theo pháp luật, thì phải do Đại hội đồng cổ đông quyết định, không đáp ứng kịp thời trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Thứ hai, Chức danh Chủ tịch hội đồng quản trị là người đứng đầu Hội đồng quản trị, cơ quan giám sát các hoạt động của ban giám đốc, đưa ra các chiến lược phát triển lâu dài cho công ty. Chứ không trực tiếp tham gia các hoạt động kinh doanh thường nhật của công ty, vì vậy sẽ không theo sát được việc xác lập, thực hiện các giao dịch. Thứ ba, Giám đốc/Tổng giám đốc là người điều hành công ty, vì thế mọi hoạt động, giao dịch đối với bên thứ ba tốt nhất thuộc thẩm quyền của Giám đốc/Tổng giám đốc. Giám đốc/Tổng giám đốc có trách nhiệm thực hiện các hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình được quy định trong điều lệ công ty. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp cũng cho phép Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc/Tổng giám đốc công ty theo quy định tại khoản 1
  • 39. 34 điều 111 Luật doanh nghiệp 2005 “Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác”. Trong trường hợp này, thì người giữ chức vụ kiêm nhiệm này đồng thời sẽ là người đại diện theo pháp luật của công ty. Hiện nay, với chủ yếu loại hình công ty vừa và nhỏ, được tổ chức theo mô hình công ty gia đình, thì các doanh nghiệp thường gắn hai chức danh trên cho một người đảm nhiệm, vì thế cơ cấu quản trị công ty không được đảm bảo, hoạt động của công ty chủ yếu dựa vào một cá nhân. Ngoài ra, cơ cấu quản lý như vậy, sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông khác trong công ty, vì những giao dịch bất lợi, xung đột lợi ích mà người kiêm nhiệm có thể thực hiện nhằm mục đích tư lợi cá nhân. Theo Điều lệ mẫu Ban hành kèm theo Thông tư số 121/2012/TT-BTC ngày 26 tháng 7 năm 2012 của Bộ Tài chính quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại chúng quy định “Chủ tịch Hội đồng quản trị không kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành của Công ty. Việc Chủ tịch ….. phải được phê chuẩn hàng năm tại Đại hội đồng cổ đông thường niên”. Việc kiêm nhiệm chỉ được các chủ sở hữu quyết định thông qua nghị quyết của cuộc họp Đại hội đồng thường niên của công ty hàng năm. Quy định này để tránh việc Hội đồng quản trị công ty bổ nhiệm chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc/Tổng giám đốc khi không có quyết định của cơ quan có quyền lực cao nhất trong công ty cổ phần. 2.1.3. Quy định về phạm vi thẩm quyền Về thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần, Luật Doanh nghiệp quy định theo tính chất mở, do đó doanh nghiệp hoàn toàn có quyền quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc/Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị để phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh hoặc đặc thù ngành nghề của doanh nghiệp.
  • 40. 35 Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật được quy định tại khoản 1 điều 144 Bộ luật dân sự 2005: “Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Có lẽ các nhà làm luật đưa cách xác định phạm vi thẩm quyền trong trường hợp này là “vì lợi ích của người được đại diện”, nếu giao dịch mà không vì lợi ích của người được đại diện, hoặc vì lợi ích của chính người đại diện, người khác thì người đại diện theo pháp luật đã vượt quá thẩm quyền đại diện của mình, xâm hại đến lợi ích của người được đại diện. Tuy nhiên, việc xác định “vì lợi ích của người được đại diện” đôi khi cũng không phải là chuyện đơn giản. Tuy nhiên, quy định trên còn nêu “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, đây là quy định mang tính chung chung, mục đích của nhà làm luật là muốn dẫn chiếu đến các quy định của luật chuyên ngành. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp không có quy định nào về các “trường hợp khác” để bổ sung liên quan đến Điều 144 trên. Đây cũng là sự thiếu thống nhất giữa luật chung và luật chuyên ngành. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định một cách chung chung về phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần: các quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị tại Điều 111, các quyền và nhiệm vụ của Giám đốc/Tổng giám đốc tại Điều 116. Chính vì thế, gây khó khăn cho bên thứ ba khi giao dịch với công ty. Khi thực hiện các giao dịch với công ty, trước hết cần phải tìm xem cách nào để ràng buộc trách nhiệm của công ty. Bên thứ ba có thể căn cứ vào các yếu tố sau để xem xét thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty: Thứ nhất, đề nghị công ty cho xem giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bản điều lệ của công ty. Căn cứ để biết người đại diện theo pháp luật là ai, giữ chức vụ gì. Nếu không phải người đó ký, thì người ký thay có
  • 41. 36 được ủy quyền hay có sự chấp thuận của hội đồng quản trị không; có khi hội đồng quản trị giao cho một người khác không phải là Giám đốc/Tổng giám đốc và chủ tịch Hội đồng quản trị ký kết trong một giao dịch nhất định nào đó; Thứ hai, Người đại diện pháp lý thực hiện giao dịch có đúng thẩm quyền hay không trên cơ sở xem bản điều lệ phân định thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc trong việc quyết định và ký kết các giao dịch được ghi trong Điều lệ và các quy chế nội bộ của công ty. Thứ ba, Khi phát hiện giao dịch của người đại diện là vượt quá thẩm quyền theo quy định của điều lệ, thì bên thứ ba có thể yêu cầu công ty có nghị quyết của hội đồng quản trị cho phép thực hiện. Thứ tư, Khi phát hiện việc ký kết không của người không phải là đại diện theo pháp luật của công ty, nhưng không có ủy quyền hoặc ủy quyền không hợp pháp, thì bên thứ ba có thể yêu cầu công ty (cơ quan, người có thẩm quyền quyết định, ký kết) đưa ra ý kiến về việc giao kết của người không có ủy quyền hoặc ủy quyền không hợp pháp đó. Nếu công ty có văn bản đồng ý, thì hai bên cùng nhau thực hiện giao dịch đã ký kết. Nhưng nếu công ty không đồng ý việc người không có ủy quyền hoặc ủy quyền không hợp pháp thì bên thứ ba, tùy từng trường hợp cụ thể có thể yêu cầu người không có ủy quyền hoặc ủy quyền không hợp pháp thực hiện giao dịch với tư cách cá nhân của mình. Hoặc, dừng việc thực hiện hợp đồng, yêu cầu tòa án có thẩm quyền tuyên vô hiệu hợp đồng, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật được quy định trong điều lệ của doanh nghiệp hoặc trong quyết định bổ nhiệm hoặc quy chế nội bộ của công ty cổ phần đó. Trong rất nhiều trường hợp, người đại diện
  • 42. 37 theo pháp luật của công ty cổ phần chỉ là một người làm thuê và thẩm quyền của người này còn bị giới hạn trong hợp đồng lao động ký với doanh nghiệp. Như vậy, thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty không phải là vô hạn. Trong trường hợp có sự xung đột lợi ích giữa người đại diện và người được đại diện. Theo quy định của Bô ̣luâ ̣t dân sự Việt Nam đã đề cập tới trường hợp có xung đột lợi ích tại khoản 5, Điều 14: “Người đại diện không được xác lập thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó , trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Tuy nhiên, giải pháp mà Bộ luật Dân sự đưa ra dường như là chưa đầy đủ nếu so sánh với quy đi ̣nh của BộNguyên tắc của UNIDROIT: 1. Nếu việc người đại diện ký hợp đồng dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa người được đại diện và người đại diện, mà bên thứ 3 biết hoặc đáng lẽ phải biết, người được đại diện có thể huỷ hợp đồng theo quy định tại điều 3.12 và các điều từ 3.14 - 3.17.2. Tuy nhiên, người được đại diện sẽ không thể huỷ hợp đồng nếu: a. người được đại diện đã đồng ý để người đại diện hành động khi có xung đột lợi ích, hoặc người được đại diện biết, đáng lẽ phải biết. b. người đại diện đã nói với người đại diện về việc xung đột lợi ích mà người được đại diện không phản đối trong thời gian hợp lý[18]. Như vậy, không phải trong mọi trường hợp mà người đại diện thực hiện giao dịch có sự mâu thuẫn lợi ích, thì công ty đều có thể chối bỏ trách nhiệm, hay yêu cầu tuyên hủy giao dịch do người đại diện đã ký. Nếu “người được đại diện đã đồng ý để người đại diện hành động khi có xung đột lợi ích, hoặc người được đại diện biết, đáng lẽ phải biết” và khi “người
  • 43. 38 đại diện đã nói với công ty về việc xung đột lợi ích mà người được đại diện không phản đối trong thời gian hợp lý” thì trách nhiệm thực hiện giao dịch vẫn phải là của công ty. Trong trường hợp, nếu người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền, khi xảy ra tranh chấp, tòa án phải xem xét trong quá trình thực hiện hợp đồng, người có thẩm quyền ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ công ty đã chấp thuận, thì hợp đồng không bị coi là vô hiệu toàn bộ. Theo Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế giải thích các trường hợp “Được coi là người có thẩm quyền chấp thuận nếu người đó đã biết hợp đồng đã được ký kết mà không phản đối”, khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Thứ nhất, sau khi hợp đồng đã được ký kết, có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người ký kết hợp đồng đã báo cáo với người có thẩm quyền biết hợp đồng đã được ký kết (việc báo cáo đó được thể hiện trong biên bản họp giao ban của Ban giám đốc, biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị, có nhiều người khai thống nhất về việc báo cáo là có thật...). Thứ hai, người có thẩm quyền thông qua các chứng từ, tài liệu về kế toán, thống kê biết được hợp đồng đó đã được ký kết và đang được thực hiện (đã ký trên hóa đơn, phiếu xuất kho, các khoản thu chi của việc thực hiện hợp đồng kinh tế hoặc trên sổ sách kế toán của pháp nhân...). Thứ ba, người có thẩm quyền có những hành vi chứng minh có tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh theo thỏa thuận của hợp đồng (ký các văn bản xin gia hạn thời gian thanh toán, cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ
  • 44. 39 theo hợp đồng, ký các văn bản duyệt thu, chi hay quyết toán đối chiếu công nợ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng kinh tế...); Thứ tư, người có thẩm quyền đã trực tiếp sử dụng các tài sản, lợi nhuận có được do việc ký kết, thực hiện hợp đồng mà có (sử dụng xe tô để đi lại, để kinh doanh mà biết do việc ký kết, thực hiện hợp đồng đó mà có; sử dụng trụ sở làm việc do việc ký kết, thực hiện hợp đồng thuê tài sản...). Tuy nhiên, còn một hình thức vượt quá thẩm quyền mà không được Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp đề cập đến. Đó là trường hợp người đại diện công ty kết hợp đồng với bên thứ ba về nội dung thực hiện các ngành nghề chưa đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Ví dụ, một công ty không đăng ký kinh doanh ngành nghề tư vấn giám sát xây dựng ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn giám sát với một doanh nghiệp khác. Khi xảy ra tranh chấp sẽ được giải quyết ra sao?trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của công ty như thế nào?. Theo Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế, thì trong trường hợp này khi xảy ra tranh chấp giữa các bên sẽ được giải quyết theo các hướng sau: Trường hợp thứ nhất: Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế mà một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh, trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng, thì hợp đồng kinh tế này bị coi là vô hiệu toàn bộ. Trường hợp thứ hai: Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh, nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng đã có đăng ký kinh doanh
  • 45. 40 để thực hiện công việc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng thì hợp đồng kinh tế này không bị coi là vô hiệu toàn bộ. Các bên phải tôn trọng hợp đồng đã ký kết. Hiện nay, thẩm quyền tuyên bố một hợp đồng là vô hiệu là tòa án hoặc trọng tài, vì vậy, các bên không thể dựa trên cơ sở là hợp đồng vô hiệu để có thể hủy bỏ hoặc không thực hiện công việc, mà phải khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu phát sinh. Rõ ràng, đây là một hoạt động xác lập giao dịch vượt quá thẩm quyền, và trách nhiệm của người đại diện không được đặt ra. Nếu việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu là công ty phải bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba, thì người đại diện theo pháp luật có phải bồi thường cho công ty hay không? Vấn đề này cần được pháp luật làm rõ. 2.1.4. Quy định về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật Trong quá trình hoạt động, công ty có thể gây thiệt hại cho bên thứ ba bởi hành động của người đại diện theo pháp luật. Vì thế, cần phân định rõ trách nhiệm của công ty và trách nhiệm của cá nhân người đại diện theo pháp luật nếu họ vượt quá phạm vi thẩm quyền mà điều lệ hoặc pháp luật quy định. Tuy nhiên, trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật không được quy định cụ thể, mà pháp luật chỉ quy định trách nhiệm, nhiệm vụ của những chức danh đứng đầu trong công ty cổ phần. Trách nhiệm, nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong quá trình quản lý hoạt động kinh doanh của công ty trên cơ sở quy định của pháp luật, điều lệ công ty hoặc hợp đồng lao động đã ký: b) Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty và cổ đông của công ty;
  • 46. 41 c) Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông của công ty; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; d) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về các doanh nghiệp mà họ và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần chi phối; thông báo này được niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty [42, Điều 119]. Trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty, người đại diện theo pháp luật phải có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Hoạt động nội bộ trong công ty như quá trình góp vốn, định giá phần vốn góp…Luật doanh nghiệp quy định: Trường hợp có cổ đông rút một phần hoặc toàn bộ vốn cổ phần đã góp trái với quy định tại khoản này thì thành viên Hội đồng quản trị và người đại diện theo pháp luật của công ty phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị cổ phần đã bị rút [42, Điều 80]. Trong hoạt động bên ngoài của công ty, để tránh sự lạm dụng cũng như bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người thứ ba, pháp luật quy định người đại diện phải thông báo cho người thứ ba biết về phạm vi đại diện của mình. Quy định này là một cách để công khai việc đại diện và là cách thức để bảo vệ quyền, lợi ích của người thứ ba. Việc thông báo có thể được thực hiện bằng văn bản, kèm theo văn bản chứng minh phạm vi đại diện của mình. Bên cạnh đó, người đại diện không được thực hiện các giao dịch dân sự với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện hoặc thực hiện giao dịch với chính mình, hay được gọi là xung đột lợi ích. Mục đích nhằm ngăn chặn các