SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  106
Télécharger pour lire hors ligne
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH VĂN CHUNG
NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH VĂN CHUNG
NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TUẤN
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Trịnh Văn Chung
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của Đề tài............................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................1
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài...................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài............................................3
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................3
6. Điểm mới của Luận văn ............................................................................4
7. Kết cấu của Luận văn ................................................................................4
Chương 1- KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ............................................................................................5
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
dân sự.............................................................................................................5
1.1.1. Tranh tụng trong tố tụng dân sự ...................................................5
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ..............10
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự............11
1.2. Cơ sở của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.........................12
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân
sự ...........................................................................................................12
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
dân sự ....................................................................................................15
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc
khác trong tố tụng dân sự ............................................................................16
1.4. Lược sử hình thành và phát triển các quy định về nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng dân sự ở Việt Nam................................................19
1.4.1. Từ năm 1945 đến trước năm 2005 ..............................................19
1.4.2. Từ năm 2005 đến nay..................................................................25
Kết luận Chương 1.......................................................................................28
Chương 2- CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..............29
2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người
tham gia tố tụng...........................................................................................29
2.1.1. Quy định về quyền bình đẳng trong tố tụng dân sự....................29
2.1.2. Quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
và thời điểm được bổ sung yêu cầu trong quá trình Tòa án giải
quyết tranh chấp....................................................................................29
2.1.3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết tài
liệu, chứng cứ do người khác xuất trình ...............................................31
2.1.4. Quy định về quyền bảo vệ và tranh luận.....................................35
2.2. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm tranh
tụng trong tố tụng dân sự.............................................................................37
2.2.1. Sự độc lập, vô tư của Toà án trong tố tụng dân sự - tiền đề
cần thiết của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng................................37
2.2.2. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm
cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thực hiện
tranh tụng trong tố tụng dân sự.............................................................39
2.2.3. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm
cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thực hiện
các quyền tố tụng khác..........................................................................41
2.3. Các quy định về thủ tục liên quan đến nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng dân sự.....................................................................................42
2.3.1. Các quy định về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự...................42
2.3.2. Các quy định về thủ tục trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự...................44
2.3.3. Các quy định về thủ tục tại phiên tòa xét xử sơ thẩm liên
quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự..........................50
2.3.4. Các quy định về thủ tục phúc thẩm liên quan đến nguyên
tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.......................................................56
Kết luận Chương 2.......................................................................................59
Chương 3- THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG...........60
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................60
3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự............60
3.1.1. Kết quả đạt được trong thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng dân sự ..............................................................................60
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tranh
tụng trong tố tụng dân sự và nguyên nhân............................................63
3.2. Kiến nghị về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ....................70
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tranh tụng trong tố tụng
dân sự ....................................................................................................70
3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về tranh tụng trong tố tụng
dân sự ....................................................................................................87
Kết luận Chương 3.......................................................................................92
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................96
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nguyên chữ
BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
HĐXX Hội đồng xét xử
PLTTGQCTCLĐ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
PLTTGQCVADS Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
TTDS Tố tụng dân sự
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Xây dựng và hoàn hiện bộ máy Nhà nước, bộ máy cơ quan tiến hành tố
tụng; pháp luật về tố tụng để góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng,
Nhà nước và Nhân dân ta đang hướng tới. Thực hiện chủ trương của Đảng về
cải cách tư pháp nói chung và hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc của Tòa
án nói riêng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, góp
phần quan trọng vào việc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực TTDS, vấn đề xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc tranh
tụng đang thu hút sự quan tâm rộng rãi của nhiều nhà khoa học cũng như
những nhà hoạt động thực tiễn. Tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong
TTDS là gì? Nội dung, ý nghĩa, vai trò của nguyên tắc này trong điều kiện cải
cách tư pháp được thể hiện ra sao? Việc áp dụng nguyên tắc tranh tụng đối với
pháp luật TTDS và thực tiễn Việt Nam như thế nào? Nghiên cứu một số vấn đề
mang tính lý luận, pháp luật thực định và thực trạng về nguyên tắc tranh tụng
trong TTDS Việt Nam sẽ góp phần mở ra một bước đi mới trong việc hoàn
thiện và thực hiện pháp luật TTDS ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao chất
lượng giải quyết các vụ án dân sự, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các quyết
định, bản án dân sự bị hủy, sửa do vi phạm thủ tục tố tụng. Quá trình nghiên
cứu này cũng không nằm ngoài định hướng cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà
nước ta đang đề cập đến hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình xây dựng BLTTDS năm 2004 và sau khi Bộ luật được ban hành
đã có một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố có đề cập
tới vấn đề này như: Kỷ yếu hội thảo (của Nhà pháp luật Việt – Pháp ngày
18/01/2002) về “Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng.
2
Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm và quản lý
Thẩm phán; Luận văn thạc sỹ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002; Bài về “Vấn đề tranh tụng trong tố
tụng dân sự” của TS. Nguyễn Công Bình đăng trên Tạp chí Luật học số
6/2003; Bài “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của PGS.TS Trần Văn Độ
đăng trên tạp chí Khoa học Pháp lý số 4/2004; Đề tài cấp cơ sở “Tranh tụng
trong tố tụng dân sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” do Trường Đại
học Luật Hà Nội thực hiện năm 2011; Bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng dân sự” của TS. Mai Bộ đăng trên trang Web của Tòa án nhân dân tối cao
năm 2014 v.v… Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu các
công trình này mới chỉ đề cập đến một số nội dung của đề tài dưới dạng riêng
biệt, chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống các vấn đề liên quan về
nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
Ngoài ra, phần lớn các công trình này đều được thực hiện trước khi ra đời
BLTTDS sửa đổi năm 2011. Trong khi đó BLTTDS sửa đổi năm 2011, Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, BLTTDS năm
2015 đã có nhiều nội dung mới có liên quan đến vấn đề này đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu kịp thời và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu Đề tài là làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam, nội dung các quy
định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong
TTDS. Phát hiện những bất cập, vướng mắc trong các quy định này và thực
tiễn thực hiện để đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của tranh tụng
trong TTDS theo tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài là: Tìm hiểu những vấn đề lý luận về
tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, các nội dung và yếu tố quyết
định của nguyên tắc tranh tụng trong TTDS; phân tích, nghiên cứu thực tiễn xét
3
xử, giải quyết các vụ án dân sự để phát hiện những vướng mắc, bất cập trong
các quy định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng;
nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập để từ đó đề ra những giải pháp để
nâng cao vai trò của tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là những vấn đề lý luận về tranh tụng và
nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về những quy định này. Liên quan đến Đề tài, có nhiều nội dung
khác nhau, trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ không thể xem xét giải
quyết hết mọi vấn đề mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các nội dung
sau:
- Một số vấn đề lý luận về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS
như khái niệm, nội dung, ý nghĩa, cơ sở, đối tượng và lịch sử các quy định về
tranh tụng để hình thành nên nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam;
- Nội dung và một số quy định liên quan đến tranh tụng trong TTDS hiện
hành, tập trung vào các quy định trong các BLTTDS của Việt Nam (bao gồm
cả BLTTDS năm 2015) chủ yếu ở trong và trước giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự, có so sánh với các quy định về tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng
của một số nước có nền tố tụng phát triển trên thế giới;
- Những kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân của các quy định pháp
luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
Từ đó đưa ra một số kiến nghị về xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật để
hoàn thiện và nâng cao vai trò của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong
giải quyết vụ án dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu Đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật và chủ trương về cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cũng đã sử dụng các
4
phương pháp truyền thống như: phương pháp logic - lịch sử, phương pháp
thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp...
6. Điểm mới của Luận văn
Đây là công trình nghiên cứu về tranh tụng trong TTDS Việt Nam dưới
góc độ là một nguyên tắc pháp luật nên có những điểm mới như sau:
- Bổ sung, làm rõ và góp phần hoàn thiện khái niệm, ý nghĩa, cơ sở, nội
dung của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam;
- Trong bối cảnh BLTTDS năm 2015 mới ra đời, chưa có hiệu lực pháp
luật, Đề tài sẽ làm rõ một số nội dung liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng dân sự giúp cho quá trình áp dụng luật và hướng dẫn luật trong thời
gian sắp tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt và Tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm 3 chương như sau:
- Chương 1 - Khái quát về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.
- Chương 2 - Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nguyên
tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.
- Chương 3 - Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
và kiến nghị.
5
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
dân sự
1.1.1. Tranh tụng trong tố tụng dân sự
Đối với việc nghiên cứu đề tài nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt
Nam thì khái niệm tranh tụng trong TTDS là một vấn đề hết sức quan trọng,
khái niệm này giúp hiểu đúng và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS.
Theo các nhà nghiên cứu, tố tụng tranh tụng xuất hiện sớm nhất ở Châu
Âu, cùng với sự xuất hiện của Tòa án nhà nước. Loại hình tố tụng này được áp
dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau đó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi
đáp liên tục”[10, tr.2]. Cùng với thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa,
phát triển và cho đến nay nó được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệ thống
luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.
Ở Việt Nam, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
này. Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Hán - Việt tự điển thì tranh tụng có nghĩa
là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”[12, tr.621]; theo Đại từ điển tiếng Việt
thì tranh tụng có nghĩa là “kiện tụng”[26, tr.1686], đây có thể coi là những
cách hiểu chung nhất về “từ ngữ” tranh tụng. Tại Từ điển luật học thì tranh
tụng được hiểu như sau: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi
các bên tham gia tố tụng, có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa
ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các
quan điểm và lợi ích của phía đối lập”[30, tr.807-808]. Cách hiểu này đã thể
hiện được một số đặc trưng của tranh tụng như: “là hoạt động tố tụng của các
bên tham gia tố tụng”; “có quyền bình đẳng với nhau... để bảo vệ các quan
điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối
lập”. Tuy nhiên, cách hiểu này chưa phân biệt được hoạt động tranh tụng với
6
những hoạt động tố tụng khác và cũng thiếu đi vai trò rất quan trọng của một
chủ thể là Tòa án.
Xung quanh khái niệm tranh tụng trong TTDS còn có nhiều quan điểm
khác, ví dụ như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “tranh tụng trong TTDS được hiểu là một
phương thức tố tụng để đương sự bảo vệ quyền lợi của mình, toà án xác định
sự thật khách quan của vụ án”[7].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tranh tụng là việc các bên đương sự đưa ra
các chứng cứ, các căn cứ pháp lý, lập luận, tranh luận, đối đáp với nhau nhằm
bảo vệ quyền lợi của mình và Tòa án chủ yếu dựa trên kết quả tranh tụng giữa
các bên để ra phán quyết giải quyết vụ án, vụ việc dân sự”[30, tr.19].
Quan điểm thứ ba cho rằng:
“Theo nghĩa rộng, tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi có yêu
cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật. Quá trình tranh tụng này không chỉ bao gồm các giai đoạn khởi kiện,
chuẩn bị xét xử, thu thập, trao đổi chứng cứ, tài liệu, quan điểm về việc giải
quyết vụ án, đối chất giữa các bên đương sự, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà cả
giai đoạn xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Thậm chí quá trình
tranh tụng có thể được tiến hành lại từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
trong trường hợp khi bản án, quyết định về vụ án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến
hành xét xử lại.
Theo nghĩa hẹp, quá trình tranh tụng được tiến hành tại các phiên tòa sơ
thẩm và phúc thẩm, theo đó các bên đương sự dưới sự điều khiển của Hội đồng
xét xử trực tiếp trình bày yêu cầu, chứng cứ, tranh luận và đối đáp với nhau về
chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ, lập luận để chứng minh rằng yêu cầu, phản yêu
cầu, phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia là có căn cứ và
hợp pháp. Trên cơ sở kết quả tranh tụng của các bên đương sự, Hội đồng xét
xử ra phán quyết về việc giải quyết vụ án dân sự”[27, tr.6].
7
Nghiên cứu các quan điểm nêu trên, nếu hiểu tranh tụng trong TTDS như
quan điểm thứ nhất thì chưa cụ thể vì mới chỉ coi tranh tụng là một phương
thức (hay phương pháp) tố tụng để đương sự bảo vệ quyền lợi của mình; Tòa
án xác định sự thật khách quan của vụ án, theo cách hiểu này thì chưa xác định
được những đặc điểm của tranh tụng để phân biệt với các phương pháp tố tụng
khác. Đối với quan điểm thứ hai, đã chỉ ra được những đặc điểm của tranh tụng
nhưng lại không nêu được bản chất của tranh tụng, đó là tranh tụng chỉ diễn ra
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự chứ không có trong quá trình giải quyết
việc dân sự; hoạt động tranh tụng phải được chứng kiến, ghi nhận bởi Tòa án.
Đối với quan điểm thứ ba, đã đưa ra hai góc nhìn khác nhau về tranh tụng theo
nghĩa “rộng” và “hẹp”. Tuy nhiên, tranh tụng không đồng nghĩa với quá trình
giải quyết vụ án mà là hoạt động được diễn ra trong quá trình đó.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa tranh tụng trong TTDS như
sau: “Tranh tụng trong TTDS là phương pháp giải quyết tranh chấp dân sự tại
Tòa án, diễn ra trong quá trình tố tụng, theo đó các bên đương sự xuất trình,
trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu
của mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và kết quả của quá trình này
được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án”.
Cũng cần phải phân biệt giữa tranh tụng và tranh luận. Tranh luận có xuất
phát điểm từ tranh chấp, mâu thuẫn, tranh luận là cốt lõi và sự biểu hiện tập
trung của tranh tụng, nếu không có tranh luận thì sẽ không có tranh tụng hoặc
tranh tụng sẽ không được biểu hiện rõ nét nhưng tranh luận chưa phải là tranh
tụng. Tranh tụng là một tổng thể gồm cả tranh luận và quyền, nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ; quyền được biết chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý áp dụng của phía
đối lập, quyền được hỏi những người tham gia tố tụng khác... để bảo đảm cho
việc tranh luận. Như vậy, trong một số trường hợp (như thủ tục giải quyết việc
dân sự, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng...) vì không có tranh
chấp giữa các bên đương sự với nhau nên không có quá trình tranh tụng.
8
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, hai loại chủ thể có liên quan chủ
yếu tới việc thực hiện và bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong TTDS
Việt Nam là đương sự (chủ thể tham gia tranh tụng) và Tòa án (chủ thể bảo
đảm tranh tụng).
Chủ thể tham gia tranh tụng được hiểu là những chủ thể mang quyền,
nghĩa vụ tố tụng, tham gia vào quá trình tranh tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trước Tòa án. Do đó, quá trình tranh tụng luôn có sự tham
gia của hai bên đương sự, là những chủ thể tranh tụng giữ vai trò chủ động,
quyết định kết quả tranh tụng. Bởi vì, họ tham gia tranh tụng xuất phát từ chính
yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong vụ án, kết quả tranh tụng ảnh
hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của bản thân các đương sự. Hơn nữa, các
vụ án dân sự chủ yếu phát sinh do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các
đương sự. Do đó, việc xác định quyền và nghĩa vụ đó có tồn tại hay không phải
thuộc về các đương sự, người biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh ra tranh
chấp vì nó không chỉ là con đường ngắn nhất để biết rõ sự thật, mà còn làm các
bên thỏa mãn hơn với kết quả được xác lập lại theo đúng quy định của pháp
luật.
Đương sự trong vụ án dân sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng chủ thể tranh tụng trước hết và chủ yếu là nguyên
đơn và bị đơn. Họ là những chủ thể có mâu thuẫn về quyền và lợi ích, họ đứng
ở vị trí tố tụng đối lập nhau. Trong suốt quá trình tranh tụng, nguyên đơn và bị
đơn bình đẳng với nhau và liên tục trao đổi với nhau những chứng cứ, lý lẽ, căn
cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của mình trước
Toà án trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS.
Ngoài nguyên đơn và bị đơn, tham gia vào quá trình tranh tụng còn có
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp này họ cũng được
coi là chủ thể tranh tụng, bởi họ cũng có lợi ích liên quan đến vụ án, tham gia
tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cũng có quyền đưa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn.
9
Do vậy, họ cũng được đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ và lập luận để
chứng minh cho yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của các đương sự
khác.
Như vậy, có thể thấy đương sự là những chủ thể giữ vị trí và vai trò trung
tâm trong quá trình tranh tụng. Tuy nhiên, trên thực tế có những đương sự
không thể hoặc không có điều kiện thực hiện tốt nhất quyền tranh tụng của
mình nên việc tranh tụng của các đương sự này do người đại diện hoặc người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện. Việc tham gia tranh
tụng của người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự xuất phát từ quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chứ
không phải xuất phát trực tiếp từ lợi ích của họ bởi họ không phải là các chủ
thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung.
Người đại diện của đương sự là người thay mặt cho đương sự tham gia
vào quá trình tranh tụng với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự như bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Người đại diện có quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự khi tham gia vào tranh tụng. Do đó, người đại
diện có quyền được biết tất cả chứng cứ, lý lẽ của bên đương sự đối phương và
được quyền trình bày ý kiến, đối đáp về những vấn đề mà đối phương có yêu
cầu đối với đương sự mà mình đại diện. Người đại diện của đương sự phải có
quyền bình đẳng với bên đương sự đối lập trước Tòa án trong việc thực hiện
tranh tụng.
Trong tranh tụng thì không thể thiếu một chủ thể quan trọng đó là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ là người giúp đỡ đương sự
về mặt pháp lý, đồng thời tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Người bảo vệ có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, có các
quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định chứ không bị ràng buộc bởi quyền và
nghĩa vụ của đương sự như người đại diện. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thông thường là các Luật sư hoặc là những người am hiểu
pháp luật. Trong quá trình tranh tụng, do người bảo vệ là người có kiến thức
10
pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng và kỹ năng tranh tụng nên có thể giúp
cho các bên đương sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhất là
trong việc đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận. Không những thế, ý
kiến tham gia tranh tụng của người bảo vệ còn giúp cho Tòa án trong việc giải
quyết vụ án.
Tòa án có vai trò quyết định bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong
TTDS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và hiệu quả. Để bảo đảm sự công
bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì trong quá trình
tranh tụng Tòa án, mà trước tiên là Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án
và HĐXX tại phiên tòa phải thực hiện đúng chức năng của mình là người tài
phán công minh, xem xét, đánh giá toàn diện tất cả các chứng cứ, căn cứ, lập
luận mà các bên đương sự đưa ra trong quá trình tranh tụng. Tòa án điều khiển
quá trình tranh tụng, bảo đảm quá trình này diễn ra một cách rõ ràng, đúng quy
định của pháp luật TTDS và bảo đảm sự bình đẳng của các bên tham gia tranh
tụng, kết quả tranh tụng sẽ là căn cứ để Tòa án ra quyết định giải quyết vụ án.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
Từ điển tiếng Việt, khái niệm từ “nguyên tắc” là “điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”[28, tr.694]. Theo Giáo trình
lý luận chung nhà nước và pháp luật của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
thì “nguyên tắc pháp luật” được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang
tính xuất phát điểm, định hướng, chịu sự quy định của những quy luật phát
triển khách quan của xã hội, xuyên suốt nội dung, hình thức pháp luật, toàn bộ
thực tiễn pháp luật, hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, hành vi
pháp luật, ý thức pháp luật” [34, tr.344]. Còn theo Giáo trình lý luận nhà nước
và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “nguyên tắc pháp luật xã hội
chủ nghĩa” được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo nội dung, quá trình xây dựng,
thực hiện và bảo vệ pháp luật” [33, tr.405]. Đối với lĩnh vực TTDS, theo Giáo
trình luật TTDS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “nguyên tắc”
của luật TTDS Việt Nam được hiểu là “những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định
11
hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật TTDS” [32, tr.36].
Như vậy nguyên tắc tranh tụng trong TTDS được hiểu là: “những tư
tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải
quyết vụ án dân sự, theo đó các bên đương sự có quyền xuất trình, trao đổi
chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của
mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và Tòa án phải căn cứ vào kết
quả tranh tụng để quyết định về việc giải quyết vụ án dân sự”.
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
- Nguyên tắc tranh tụng đề cao tính chất dân chủ, công khai và minh bạch
trong hoạt động TTDS:
Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS là tư tưởng pháp lý chỉ đạo thể hiện rõ
nhất tính chất dân chủ, công khai và minh bạch của TTDS. Trong quá trình
thực hiện việc tranh tụng, các đương sự, người đại diện của đương sự đều được
bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý và đối
đáp nhau để làm rõ sự thật khách quan của vụ án dân sự. Tòa án là cơ quan tiến
hành tố tụng đóng vai trò giám sát quá trình tranh tụng, sử dụng kết quả tranh
tụng của các bên để giải quyết vụ án dân sự một cách khách quan, công bằng và
đúng pháp luật.
- Nguyên tắc tranh tụng tạo cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án:
Với việc giải quyết vụ án dân sự theo nguyên tắc tranh tụng, các đương sự
có điều kiện trong việc trình bày, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ chứng minh cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa, tranh tụng cũng buộc các đương
sự phải nỗ lực, tích cực hơn trong việc tham gia tố tụng. Kết quả tranh tụng là
cơ sở để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên đương sự phải tìm mọi cách để
thu thập chứng cứ và tìm ra căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp, bác bỏ yêu cầu của đương sự phía bên kia.
12
- Nguyên tắc tranh tụng góp phần bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa
án đã tuyên là có căn cứ và hợp pháp:
Tranh tụng không những tạo điều kiện cho đương sự thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình mà qua quá trình tranh tụng Tòa án xác định được sự thật
khách quan của vụ án dân sự. Trên cơ sở đó, Tòa án giải quyết được yêu cầu
của các đương sự, xác định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy
định của pháp luật. Vì khi đương sự thực hiện đầy đủ các quyền TTDS của
mình như quyền đề đạt yêu cầu để Tòa án bảo vệ, quyền đưa ra chứng cứ và
chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quyền được biết
chứng cứ do bên kia cung cấp hoặc do Tòa án thu thập, quyền yêu cầu Tòa án
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người
khác bảo vệ, quyền tranh luận tại phiên tòa… thì các tình tiết của vụ án được
làm sáng tỏ, Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự một cách
chính xác, công minh và đúng pháp luật.
- Thông qua nguyên tắc tranh tụng trong TTDS giúp cho mọi công dân
hiểu biết thêm pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào chế độ, vào đường lối,
chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó góp phần vào
việc giáo dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội của Nhân dân, tạo điều kiện cho việc củng cố trật tự pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
Tranh tụng trong TTDS là loại hình tố tụng đề cao vị trí, vai trò của đương
sự trong việc giải quyết tranh chấp, nó là một loại hình TTDS dân chủ nhất, thể
hiện được sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại [7, tr.6]. Tranh tụng phát huy
được tính tích cực, chủ động của các đương sự trong việc thu thập, cung cấp và
đánh giá chứng cứ, thực hiện tranh tụng theo quy định của pháp luật TTDS
nhằm giúp Tòa án nhanh chóng nhận thức được các tình tiết của vụ án để xác
định sự thật, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được khách quan, đúng
13
pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.
Trong quá trình tố tụng, các đương sự trao đổi với nhau những chứng cứ để
chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án trên cơ
sở của các quy định pháp luật TTDS.
Tranh tụng trong TTDS xuất phát từ bản chất của quan hệ pháp luật nội
dung giải quyết trong vụ án, bao gồm quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Các chủ thể của quan hệ pháp
luật nội dung này có quyền tự do, tự nguyện, bình đẳng trong việc thiết lập các
quyền và nghĩa vụ phục vụ cho lợi ích của mình phù hợp với lợi ích chung của
xã hội. Các chủ thể có quyền tự định đoạt có tham gia vào quan hệ pháp luật
nội dung hay không, quyết định nội dung của quan hệ gồm các quyền và nghĩa
vụ của các bên, quyết định các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
Khi họ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì việc tham
gia tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình phải thuộc về các đương sự. Hơn
nữa các vụ án dân sự chủ yếu phát sinh do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích
giữa các đương sự, do đó việc xác định nghĩa vụ đó có tồn tại hay không phải
thuộc về các đương sự. Việc xét xử vụ án dân sự thực chất là việc giải quyết
xung đột hoặc liên quan đến quyền lợi của đương sự. Đương sự là chủ thể của
quan hệ pháp luật nội dung, là người đưa ra yêu cầu, kết quả của việc giải quyết
vụ án dân sự liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chính họ nên họ có quyền và
nghĩa vụ tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án. Quá trình giải
quyết tranh chấp trong TTDS đòi hỏi các đương sự phải tranh tụng để làm rõ
được quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp, quyền lợi hợp pháp của mình trên
cơ sở các chứng cứ, tài liệu được xuất trình và các lý lẽ, lập luận được sử dụng.
Vì mâu thuẫn về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên đương sự là tiền đề và là động
lực thúc đẩy quá trình tranh tụng. Mặt khác để tiến hành tranh tụng, pháp luật
TTDS phải quy định cụ thể quyền hạn, nghĩa vụ của các bên đương sự và Tòa
án trong việc tranh tụng, trình tự và thủ tục tranh tụng. Thẩm phán giải quyết
vụ án phải độc lập, khách quan, có trình độ chuyên môn cao và năng lực xét xử
14
tốt. Các đương sự phải biết được yêu cầu, chứng cứ và lý lẽ của đối phương
đưa ra, phải có sự hiểu biết về pháp luật và những kinh nghiệm tham gia tố
tụng nhất định [7, tr.7].
Tranh tụng thực chất là việc các bên đương sự đưa ra các chứng cứ, các
căn cứ pháp lý, lập luận, đối đáp lại nhau, tranh luận với nhau để bảo vệ quyền
lợi của mình dưới sự chứng kiến của Tòa án. Thông qua việc tranh tụng, các
tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ, Tòa án nhận thức được sự thật khách quan
của vụ án. Khi bên đưa ra yêu cầu đã chứng minh được tính có căn cứ và hợp
pháp đối với yêu cầu của mình thì bên phản đối yêu cầu cũng phải đưa ra
chứng cứ, lý lẽ để chứng minh sự phản đối của mình là có căn cứ. Trong tranh
tụng dân sự, các đương sự là người trong cuộc, biết được sự việc, đưa ra yêu
cầu nên họ phải cung cấp chứng cứ cho Tòa án và đương sự đối phương, từ đó
các bên có thể đưa ra quan điểm của mình, giúp Tòa án có thể làm rõ sự việc
tranh chấp. Để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được khách quan,
đúng pháp luật giữa các đương sự phải được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
TTDS. Tòa án có nhiệm vụ thực hiện những biện pháp do pháp luật quy định
để tạo điều kiện cho các đương sự được thật sự bình đẳng với nhau trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Tranh tụng thực chất là việc
các đương sự cung cấp chứng cứ, đưa ra các luận điểm, căn cứ pháp lý để đối
đáp, tranh luận với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình, giảm bớt trách nhiệm
xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án trở thành cơ
quan tài phán độc lập, bảo đảm khách quan trong quá trình giải quyết vụ án dân
sự. Loại hình tố tụng tranh tụng quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của các đương sự trong vụ án dân sự để họ có thể tự bảo vệ được các quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, với chức năng xét xử
có vai trò bảo đảm cho các đương sự thực hiện tranh tụng để đi đến xác định
được sự thật của vụ án. Các đương sự là chủ thể của tranh tụng nên giữ vai trò
quan trọng trong quá trình tranh tụng, có quyền bình đẳng trong việc cung cấp,
đánh giá chứng cứ, tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình.
15
Tranh tụng xuất phát từ yêu cầu xét xử đúng pháp luật các vụ án dân sự
của Tòa án. Tranh tụng có ý nghĩa lớn trong việc tìm ra sự thật của vụ án, bảo
vệ quyền lợi của đương sự [7, tr.7]. Để giải quyết đúng pháp luật các vụ án dân
sự, Tòa án phải đánh giá, phân tích các chứng cứ, căn cứ pháp lý mà các đương
sự cung cấp. Tranh tụng yêu cầu phiên tòa dân sự được diễn ra theo hướng các
đương sự thực hiện nghĩa vụ đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu
của mình còn Tòa án chỉ thẩm tra các chứng cứ do các đương sự và những
người tham gia tố tụng khác cung cấp. Thông qua tranh tụng Tòa án có điều
kiện thuận lợi trong việc phân tích, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các quan hệ
pháp luật nội dung mà các đương sự tranh chấp trong vụ án. Mục đích cuối
cùng bảo đảm cho phán quyết của Tòa án được khách quan và đúng pháp luật.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cho thấy tỷ lệ các vụ án
dân sự bị hủy, sửa còn cao, do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có
nhiều trường hợp là khi tiến hành giải quyết các vụ án dân sự Tòa án đã vi
phạm thủ tục tố tụng, đặc biệt là chưa tạo điều kiện cho các đương sự trình bày
chứng cứ, lý lẽ để làm sáng tỏ vụ án. Trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự của Tòa án là một đòi hỏi
cấp bách. Vì vậy, phải đổi mới mô hình TTDS trong đó có sự kết hợp những
yếu tố hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng với thẩm vấn. Tranh tụng trong
TTDS là giải pháp làm cho Tòa án gần dân, giúp dân, hiểu dân, tăng cường
hiệu quả công tác xét xử các vụ án dân sự, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các
vụ án dân sự bị hủy, sửa do lỗi chủ quan hoặc phải kéo dài thời hạn giải quyết.
Tranh tụng trong TTDS cũng xuất phát từ yêu cầu thực hiện chiến lược cải
cách tư pháp của Nhà nước ta. Trước những yêu cầu của việc đẩy mạnh công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực, để hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung cũng như đổi mới thủ tục TTDS nói riêng trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngày
16
24/5/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020. Tiếp đó, ngày 02/6/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cả hai Nghị
quyết này đều xác định nhiều định hướng quan trọng, toàn diện cho việc xây
dựng hệ thống pháp luật và chương trình cải cách tư pháp đến năm 2020, trong
đó trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm
bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể tham gia TTDS, người dân có cơ hội
được tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua quá trình tranh
tụng góp phần hạn chế các tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng. Ngày
29/03/2011 khi Quốc hội ban hành BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã bổ sung
thêm Điều 23a về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS. Tuy vậy,
do tranh luận không phải là tranh tụng nên nguyên tắc này chưa thật sự bảo
đảm được các yêu cầu của tranh tụng. Tiếp đó, khi Hiến pháp năm 2013 được
thông qua, tại Điều 103 khoản 5 Hiến pháp khẳng định: “Nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là quy định mang tính chất bản lề cho
việc xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong các luật tố tụng nói
chung và trong luật TTDS nói riêng. Vì vậy, khi BLTTDS năm 2015 được
thông qua thì nguyên tắc tranh tụng trong TTDS đã được khẳng định là một
trong những nguyên tắc chung nhất của luật TTDS.
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc
khác trong tố tụng dân sự
- Nguyên tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong TTDS” (được quy định tại Điều 6 BLTTDS năm 2004
và Điều 6 BLTTDS năm 2015). Trên cơ sở của nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong TTDS thì các đương sự biết được các yêu cầu và chứng
cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý cho yêu cầu của mình đưa ra và thông qua đó các
đương sự có thể tranh luận với nhau về các yêu cầu, phản yêu cầu, đưa ra các lý
lẽ để chứng minh cho quyền lợi hợp pháp, viện dẫn các quy định pháp luật làm
17
căn cứ cho những nhận định và kết luận của mình. Thực chất của tranh tụng là
việc các bên đi tìm và so sánh chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình
là xác thực hơn. Bên cạnh đó, các đương sự bình đẳng với nhau trong việc cung
cấp chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh là điều kiện tốt nhất để các
đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, việc tranh tụng
chỉ có hiệu quả khi nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS
được bảo đảm.
- Nguyên tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trong TTDS” (được quy định tại Điều 8 BLTTDS năm 2004
và Điều 8 BLTTDS năm 2015). Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ dân sự giữa các cá nhân, pháp nhân. Trong TTDS bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ tố tụng là điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tranh tụng tại Tòa
án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tranh tụng công bằng nhất là
tranh tụng giữa các bên có vị trí pháp lý ngang bằng nhau. Tòa án bảo đảm cho
các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS chính là bảo đảm cho các
đương sự bình đẳng trong việc tranh tụng tại Tòa án.
18
- Nguyên tắc tranh tụng còn có mối liên hệ với nguyên tắc “Quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự” (được quy định tại Điều 5 BLTTDS năm
2004 và Điều 5 BLTTDS năm 2015). Theo nguyên tắc quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự trong TTDS, các đương sự có quyền tự quyết định việc
bảo vệ quyền, lợi ích của mình cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật như khởi
kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện, bổ sung yêu cầu... Như vậy, việc thực hiện
nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong TTDS sẽ
quyết định phạm vi của những vấn đề mà các bên cần tranh tụng để bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngược lại, nếu Tòa án bảo đảm triệt
để tôn trọng và thực hiện nguyên tắc tranh tụng thì quyền tự quyết định việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án mới có ý nghĩa. Mối
liên hệ giữa hai nguyên tắc này cũng là mối liên hệ hai chiều qua lại, bổ sung
cho nhau.
- Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự” (quy định tại Điều 9 BLTTDS năm 2004 và Điều 9 BLTTDS năm
2015) có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Đương
sự tranh tụng mục đích là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, vì
vậy, bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng tức là bảo đảm cho
tranh tụng. Theo nguyên tắc này, đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Luật
sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, đối với một số đối tượng yếu thế, có khó khăn sẽ được hưởng
trợ giúp pháp lý theo quy định.
- Nguyên tắc “Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai; Bảo đảm sự
vô tư, khách quan trong TTDS” (quy định tại Điều 15, 16 BLTTDS năm 2004
và Điều 15, 16 BLTTDS năm 2015). Sự công bằng, vô tư, khách quan của cơ
quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là yếu tố hết sức cần
thiết cho tranh tụng, có những yếu tố này thì tranh tụng mới trở nên thực chất
và có ý nghĩa. Tranh tụng là sự so sánh chứng cứ, sự so sánh này phải dựa trên
cơ sở là lẽ công bằng chứ không phải gì khác ngoài lẽ công bằng. Tòa án là
19
trọng tài của quá trình tranh tụng và Tòa án luôn phải bảo đảm sự vô tư, khách
quan trong quá trình này, không được định kiến hay thiên vị bất cứ bên nào.
1.4. Lược sử hình thành và phát triển các quy định về nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng dân sự ở Việt Nam
1.4.1. Từ năm 1945 đến trước năm 2005
Với thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử nước ta, đó
là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Để
xây dựng, củng cố chính quyền, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật, trong đó phải kể đến là Sắc lệnh số 34/SL ngày 13/9/1945 bãi bỏ hai
ngạch quan hành chính và tư pháp cũ; Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 duy
trì tổ chức Luật sư cũ với một số điểm sửa đổi cho thích hợp với tình hình mới.
Trong lĩnh vực TTDS, đáng chú ý nhất là Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946
đã đánh dấu bước phát triển của hoạt động tư pháp Việt Nam. Sắc lệnh này quy
định khá rõ trách nhiệm của Thẩm phán trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích
của đương sự. “Thẩm phán không được tự đặt ra lệ mà xử đoán” (Điều 81);
“Thẩm phán không được biện hộ trước Tòa án, nếu không phải việc của mình,
việc của vợ, con của thân thuộc, thích thuộc về trực hệ của mình hay của trẻ
chưa thành niên mà làm giám hộ” (Điều 82); “Các Thẩm phán phải làm đầy
đủ bổn phận, dự đều các phiên tòa, xét xử thật nhanh chóng và thật công minh.
Thanh liêm là đức tính thiêng liêng của Thẩm phán” (Điều 83). Bên cạnh các
quy định trên, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, tại Điều 26 có quy định:
“Khi ra phiên tòa... bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo có quyền yêu cầu Tòa
án thi hành phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật”.
Sau đó, để bảo đảm dân chủ trong tố tụng Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949 đã được ban hành, trong đó mở rộng quyền bào chữa cho các bị can.
Tại Điều 1 Sắc lệnh này quy định:
20
“Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các toà án thường và toà án đặc
biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ toà án binh tại mặt trận, bị can có thể
nhờ một công dân không phải là Luật sư, bào chữa cho.
Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án
thừa nhận”.
Ngày 22/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số
144/SL sửa đổi Điều 1 của Sắc lệnh số 69/SL, mở rộng cho người không phải
là Luật sư cũng được bào chữa, bảo vệ quyền lợi của các đương sự trong vụ án
dân sự. Điều 1 Sắc lệnh số 144/SL quy định như sau:
“Từ nay, trước toà án việc xử hộ và thương mại, trước các toà án thường
và toà án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ toà án binh tại mặt trận,
nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư
bênh vực cho mình.
Công dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận”.
Để cụ thể hóa Sắc lệnh số 69/SL, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số
1/NĐ-VY ngày 12/01/1950 ấn định điều kiện để làm bào chữa viên và phụ cấp
cho bào chữa viên.
Bước vào những năm 50, chúng ta đã có cuộc cải cách tư pháp nhằm phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, đó là việc ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, trong đó quy định Luật
sư được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Các quy định trong các văn bản pháp luật nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ban hành đã thể hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc
mở rộng dân chủ trong TTDS, phát huy vai trò tích cực của các bên và của các
Luật sư.
Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại
hòa bình ở Việt Nam được ký kết đã đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến để giành độc lập thống nhất
21
đất nước. Ở miền Nam chính quyền Ngụy quyền trong một thời gian dài vẫn áp
dụng những văn bản pháp luật cũ thời Pháp thuộc. Đến ngày 20/12/1972, chính
quyền Ngụy quyền ban hành Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng, trong đó đã
thừa nhận quyền tự bảo vệ của đương sự, quyền nhờ Luật sư, tôn thuộc, ti
thuộc, vợ chồng, anh em, đồng thừa kế và đồng hội viên thay mặt (Điều 50);
đồng thời Bộ luật này cũng quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh, đó là
“người nào viện dẫn một sự kiện thuận lợi cho mình, có trách nhiệm dẫn
chứng. Đối phương muốn phủ nhận tín lực của sự kiện được chứng minh phải
xuất trình bằng cớ tương phản” (Điều 56). “Nếu không có đủ bằng cứ theo luật
về chủ trương của mình, đương sự sẽ bị bác khước về những khoản không
chứng minh được” (Điều 58) và đặc biệt Bộ luật đã quy định quá trình giải
quyết vụ kiện phải qua tranh tụng. Như vậy, các quy định pháp luật về tranh
tụng trong TTDS của chính quyền Ngụy quyền có tiến bộ hơn so với pháp luật
tố tụng thời Pháp thuộc, tuy nhiên chưa có quy định về quyền và nghĩa vụ của
các đương sự thể hiện được nguyên tắc tranh tụng trong giải quyết vụ kiện,
cũng như chưa có những bảo đảm cho tranh tụng được thực hiện trên thực tế.
Ở miền Bắc, Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
1960 được ban hành làm nền móng cho việc xây dựng một thiết chế xét xử xã
hội chủ nghĩa. Nhiều văn bản pháp luật ra đời quy định cụ thể về nghĩa vụ
chứng minh của đương sự, vai trò của Luật sư, về sự vô tư, khách quan của
Thẩm phán trong khi xét xử và tranh luận tại phiên tòa. Thông tư số 39/NCPL
ngày 20/01/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp
và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình, tranh chấp về dân sự có
hướng dẫn như sau:
“Sau khi nguyên đơn đưa đơn kiện, Tòa án nhân dân phải cho bị đơn và
người dự sự biết nội dung đơn kiện và yêu cầu của nguyên đơn, nếu xét thấy
cần thiết và không có hại cho việc hòa giải thì Tòa án nhân dân có thể cho
nguyên đơn, bị đơn và người dự sự xem hoặc sao chép đơn và lời khai của
nhau. Sau khi được biết những yêu cầu và những chứng cứ của những đương
22
sự khác, mỗi đương sự đều có thể nộp hoặc đến khai trước Tòa án nhân dân để
trình bày những lý lẽ và chứng cứ nhằm xác định hoặc bác bỏ một phần hay
toàn bộ những yêu cầu đó, đồng thời cũng có quyền đề xuất những lý lẽ và
chứng cứ về yêu cầu của mình” [13, tr.59].
Thông tư số 06/TT-TATC ngày 25/02/1974 đã quy định thêm về quyền
yêu cầu và nghĩa vụ chứng minh như sau: “Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn
và người dự sự) có quyền đề xuất những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày
những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho những yêu cầu và bảo vệ những
quyền lợi hợp pháp của mình” [13, tr.40].
Ngoài ra, Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân, bị cáo (nguyên đơn, bị đơn trong các vụ kiện
dân sự) và những người khác tham gia tố tụng có quyền tranh luận về chứng cứ
cũng như về việc áp dụng pháp luật, đường lối, chính sách xét xử... Các Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân cần tránh tư tưởng cọi nhẹ việc xét hỏi và việc
tranh cãi ở phiên tòa vì chỉ tin vào hồ sơ hoặc chỉ là để hợp pháp hóa một chủ
trương xét xử đã được dự kiến trước” [13, tr.164].
Đặc biệt, ngày 08/02/1977 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số
69/NCPL hướng dẫn trình tự xét xử sơ thẩm. Công văn quy định quyền và
nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được đề xuất chứng cứ và yêu cầu
về biện pháp khẩn cấp tạm thời; được đề xuất những câu hỏi trong khi Tòa án
thẩm vấn và được tham gia tranh luận, cụ thể:
“* Được Tòa án nhân dân cho xem hoặc sao chép đơn từ, tài liệu của các
đương sự khác, nhân chứng, giám định viên... nếu nhận thấy việc đó cần thiết
cho đương sự chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ những quyền lợi của họ.
* Được đề xuất yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc thay đổi yêu cầu của việc
kiện.
* Được đề xuất chứng cứ và những yêu cầu về điều tra hoặc về biện pháp
khẩn cấp tạm thời được Tòa án nhân dân giải quyết.
23
* Được đề xuất những câu hỏi trong khi Tòa án nhân dân thẩm vấn và
được tham gia cuộc tranh luận...”. [14, tr.33]
Bên cạnh đó, Công văn còn xác định rõ trách nhiệm của Tòa án nhân dân
trong việc bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong tố tụng;
phân biệt giữa xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, trình tự, thủ tục tranh luận tại
phiên tòa sơ thẩm.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã thông
qua Hiến pháp năm 1980, tại Điều 133 Hiến pháp quy định: “Tổ chức Luật sư
được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Trên cơ
sở đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 quy định: “Các đương sự có
quyền nhờ Luật sư bảo vệ quyền lợi của mình” (Điều 9). Tiếp đó, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 1988 khẳng định các đương sự không những có quyền
nhờ Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình mà còn có quyền tự bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, Pháp lệnh tổ chức
Luật sư được ban hành ngày 18/12/1987 tạo cơ sở cho việc hình thành và phát
triển của đội ngũ Luật sư ở Việt Nam, phát huy vai trò của Luật sư trong tư vấn
và tham gia tố tụng.
Có thể thấy rằng, trong giai đoạn này nhiều văn bản pháp luật TTDS đã
được ban hành nhằm phát huy và đề cao quyền và nghĩa vụ chứng minh của các
đương sự và Luật sư. Nhiều quy định tiến bộ về quyền bình đẳng trong tố tụng,
trao đổi chứng cứ, lý lẽ, tranh luận tại phiên tòa, trách nhiệm của Tòa án nhân
dân trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được ghi
nhận.
Kế thừa và phát triển các quy định về TTDS của giai đoạn trước, ngày
29/11/1989 Hội đồng nhà nước đã thông qua PLTTGQCVADS. Pháp lệnh đã
đánh dấu bước phát triển của pháp luật TTDS, quy định một cách có hệ thống
về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, nghĩa vụ chứng minh của đương
sự, vị trí, vai trò của người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tại Điều 3
PLTTGQCVADS quy định:
24
“Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình.
Toà án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu
thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác”.
Pháp lệnh cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong
đó:
“Các đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ để bảo
vệ quyền lợi của mình; được biết chứng cứ do bên kia cung cấp; yêu cầu Toà
án tiến hành biện pháp điều tra cần thiết, quyết định biện pháp khẩn cấp tạm
thời; tham gia hoà giải; tham gia phiên toà; yêu cầu thay đổi Thẩm phán, hội
thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên
dịch; đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; tham gia tranh luận
tại phiên toà; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án” (Điều 20).
Ngoài ra, tại Điều 51 Pháp lệnh đã quy định về thủ tục tranh luận tại phiên
tòa như sau:
“1. Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc việc hỏi, các đương sự, người đại
diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người đại diện tổ
chức xã hội khởi kiện về lợi ích chung trình bày ý kiến của mình về đánh giá
chứng cứ, đề xuất hướng giải quyết vụ án. Người tham gia tranh luận có quyền
đáp lại ý kiến của người khác, nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý
kiến mà mình không đồng ý. Nếu thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử cho phát
biểu thêm. Sau đó kiểm sát viên trình bày ý kiến về hướng giải quyết vụ án.
2. Nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng
xét xử có thể quyết định xét hỏi lại và tranh luận lại”.
Hiến pháp năm 1992 được thông qua đã tiếp tục khẳng định các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng như tổ chức Luật sư được thành lập để giúp
các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 1992, tại Điều 9 quy định: “Tòa án bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự”. Để đáp
ứng những chuyển biến to lớn về mọi mặt trong đời sống xã hội, chủ động hội
25
nhập kinh tế khu vực và thế giới Pháp lệnh Luật sư năm 2001 ra đời đã tạo cơ
sở pháp lý cho sự phát triển của đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp có phẩm chất
đạo đức, trình độ chuyên môn, phát huy vai trò của Luật sư trong tư vấn và
tham gia tố tụng.
Tóm lại, qua nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật TTDS
Việt Nam giai đoạn này cho thấy, đã có nhiều quy định về những vấn đề thuộc
nội dung của nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề liên quan đến tranh tụng.
Pháp luật Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “tranh tụng” cũng như nguyên
tắc tranh tụng trong TTDS chưa được thừa nhận nhưng những quy định đã
phân tích ở trên là gần gũi với những quy định về tranh tụng của các nước trên
thế giới và phần nào đã thể hiện được tranh tụng là một nguyên tắc cần phải có
của TTDS.
1.4.2. Từ năm 2005 đến nay
Thực hiện mục tiêu của Đảng về cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ
quan tư pháp theo hướng mở rộng tranh tụng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới. Trên cơ sở đổi mới của Đảng, từ thực trạng pháp
luật TTDS và thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự, ngày 27/5/2004, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLTTDS năm 2004,
có hiệu lực từ ngày 01/01/2005.
BLTTDS năm 2004 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển của các quy
định liên quan đến vấn đề tranh tụng trong TTDS. Mặc dù trong các nguyên tắc
của pháp luật TTDS mà Bộ luật nêu ra chưa có quy định nào về áp dụng
nguyên tắc tranh tụng nhưng nội dung của hoạt động tranh tụng trong TTDS đã
được đề cập khá cụ thể và chi tiết. BLTTDS năm 2004 đã có những quy định
liên quan đến quá trình tranh tụng như quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh của người khởi kiện; quyền phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu
độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan... Nghĩa vụ chứng minh của
đương sự được đề cao hơn trước, trong trường hợp xét thấy chứng cứ trong hồ
26
sơ chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ
sung chứng cứ và Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ trong trường
hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có đơn yêu cầu
hoặc trong trường hợp do pháp luật quy định. Bên cạnh đó, việc quy định thủ
tục tranh luận tại phiên tòa theo hướng Tòa án không được hạn chế thời gian
tranh luận của các đương sự mà phải tạo điều kiện cho người tham gia tranh
luận trình bày hết ý kiến của họ đã góp phần bảo đảm cho tranh tụng trong
TTDS có cơ sở thực hiện, đây là bước tiến quan trọng về kỹ thuật lập pháp so
với các văn bản pháp luật trước đây.
Tại kỳ họp thứ 9 ngày 29/3/2011, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực ngày
01/01/2012. Trong đạo luật này đã có nhiều quy định mới liên quan đến việc
bảo đảm tranh tụng của các đương sự như: đương sự trong các vụ việc dân sự
có thêm quyền được trực tiếp đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan
đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần
hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng. Đặc
biệt, Điều 23a của Luật này ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận
trong TTDS:
“Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Toà án bảo đảm để các bên
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện
quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
Quy định này tạo hành lang pháp lý cho việc bảo đảm quyền tranh tụng
của các chủ thể tranh tụng đặc biệt là đương sự. Hơn nữa nó càng thể hiện rõ
nét các nội dung của một nguyên tắc, đó là nguyên tắc tranh tụng trong TTDS.
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, BLTTDS năm 2015 đã
được Quốc hội khóa XIII thông qua vào ngày 25/11/2015 và chính thức có hiệu
lực từ ngày 01/7/2016. Trong đó, để thi hành khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp,
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định tại Điều 24, coi tranh tụng là một
trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS Việt Nam, cùng với đó là
27
nhiều quy định mới khác nhằm bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện có
hiệu quả như: quy định rõ nội hàm của nguyên tắc này theo hướng Tòa án có
trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự thực hiện việc thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể
từ khi Tòa án nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; trình bày, đối đáp, phát biểu
quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu
cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác.
Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình
hoặc do Tòa án thu thập; có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại
diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ. Tòa án phải
bảo đảm mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét công khai. Tòa án điều hành
việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để
ra bản án, quyết định.
28
Kết luận Chương 1
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguyên tắc tranh tụng trong
TTDS Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Tranh tụng trong TTDS là phương pháp giải quyết vụ án dân sự trên cơ
sở thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của các bên đương sự về việc đưa ra,
trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu
của mình và phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án, được Tòa án làm căn cứ để
giải quyết vụ án.
Chủ thể thực hiện tranh tụng là đương sự và người đại diện, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự (nếu có), thực hiện tranh tụng xuất phát từ việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án là cơ quan bảo đảm cho quá
trình tranh tụng và ghi nhận kết quả tranh tụng trong quyết định giải quyết vụ
án.
2. Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS được hiểu là những tư tưởng chỉ
đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải quyết vụ án
dân sự trên cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của các bên đương sự về
việc đưa ra, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận
cho yêu cầu của mình và phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án, Tòa án căn cứ
vào kết quả tranh tụng để giải quyết vụ án dân sự.
3. Nguyên tắc tranh tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong TTDS Việt
Nam, giúp Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ án một cách nhanh nhất để
giải quyết vụ án. Đây cũng là một phương thức giải quyết vụ án một cách dân
chủ, thông qua việc thu thập, cung cấp chứng cứ; đối đáp, tranh luận còn giúp
cho đương sự thêm hiểu biết pháp luật và tạo lòng tin vào pháp luật. Các quy
định có tính tiền đề về tranh tụng đã được ghi nhận trong lịch sử lập pháp Việt
Nam và cho đến nay tranh tụng đã được ghi nhận là một nguyên tắc trong
BLTTDS năm 2015.
29
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người
tham gia tố tụng
2.1.1. Quy định về quyền bình đẳng trong tố tụng dân sự
Điều 8 BLTTDS năm 2004 ghi nhận sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
trong TTDS, theo đó:
“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào
hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.
Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS, Toà án có
trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”.
Quy định tại khoản 1 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011 tiếp tục ghi
nhận: “Các đương sự có các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố
tụng”. Quy định về sự bình đẳng này là nền tảng căn bản để thực hiện nguyên
tắc tranh tụng, tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho các bên đương sự có thể
tranh tụng một cách thực chất. Người đại diện của đương sự là người thực hiện
thay các hoạt động tranh tụng của đương sự, họ thực hiện các quyền và nghĩa
vụ tố tụng của đương sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự tại Tòa án.
Do vậy, người đại diện trong TTDS cũng có quyền bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án như đối với đương sự mà họ đại diện. Đây chính
là tiền đề căn bản của việc thực thi nguyên tắc tranh tụng trong TTDS.
2.1.2. Quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và
thời điểm được bổ sung yêu cầu trong quá trình Tòa án giải quyết tranh chấp
Quyền yêu cầu phản tố là một trong những quyền liên quan đến tranh tụng
trong TTDS, xét trong mối quan hệ giữa yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với
30
yêu cầu phản tố của bị đơn có thể thấy đã có sự đối kháng nhau về quyền lợi,
đòi hỏi cần tranh tụng để giải quyết. Tuy nhiên, việc phản tố của bị đơn được
thực hiện sau việc khởi kiện nguyên đơn. Do vậy, để yêu cầu phản tố này
không gây khó khăn cho việc thực hiện tranh tụng của nguyên đơn, pháp luật
đã có quy định giới hạn quyền phản tố trong một số trường hợp nhất định. Cụ
thể là theo quy định tại Điều 176 BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì yêu cầu phản
tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
- Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập;
- Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được
giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính
xác và nhanh hơn.
Ngoài ra, để yêu cầu phản tố không gây khó khăn cho việc thực hiện tranh
tụng của nguyên đơn, khoản 3 Điều 176 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã có quy
định giới hạn thời điểm mà bị đơn có thể thực hiện quyền phản tố là “trước khi
Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”. Quy định này tạo điều kiện
cho nguyên đơn có thời gian tiếp cận hồ sơ, chuẩn bị chứng cứ, tài liệu và lập
luận cần thiết để tranh tụng trước phiên tòa.
Cũng với mục đích bảo đảm tranh tụng của nguyên đơn và bị đơn cũng
như các đương sự khác, Điều 177 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã có những quy
định tương tự đối với quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Theo đó, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu
độc lập khi hội đủ các điều kiện như: việc giải quyết vụ án có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang
31
được giải quyết; yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án
làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan cũng chỉ có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Toà
án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
Việc nghiên cứu cho thấy mặc dù pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt
của đương sự và ghi nhận quyền “Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu
cầu...” của đương sự tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011
nhưng để quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu này không gây khó khăn cho các
đương sự khác trong việc thực hiện tranh tụng, tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS
năm 2004 đã quy định: “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá
phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”.
2.1.3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong
việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết tài liệu, chứng cứ do
người khác xuất trình
2.1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, cung cấp tài
liệu, chứng cứ
Đương sự có quyền và nghĩa vụ “Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (điểm b khoản 2 Điều 58
BLTTDS sửa đổi năm 2011). Đây là quyền và nghĩa vụ thể hiện sự chủ động,
tích cực của đương sự khi tham gia tố tụng, theo đó các đương sự có quyền đưa
ra tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, phản yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp hoặc phản bác yêu cầu của các đương sự khác.
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền cung cấp tài liệu và chứng cứ của đương
sự, tạo điều kiện cho việc thực hiện tranh tụng, BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã
quy định đương sự có quyền “Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ,
quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp
cho Toà án” (điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Yêu cầu
cung cấp chứng cứ của đương sự được thể hiện dưới hình thức văn bản và khi
32
nhận được yêu cầu của đương sự “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời
hạn cho đương sự… tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có
yêu cầu của đương sự… và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải
thông báo bằng văn bản cho đương sự… biết và nêu rõ lý do của việc không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ” (Điều 7 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Ngoài
ra đương sự cũng có quyền “Đề nghị Toà án xác minh, thu thập tài liệu, chứng
cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu
tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá” (điểm d
khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011).
Theo các quy định của BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011
thì đương sự có quyền cung cấp chứng cứ cho Tòa án vào bất kỳ giai đoạn nào
của quá trình xét xử vụ án dân sự. Quy định này giống với quy định của
BLTTDS của Trung Quốc: “Điều 125 Bộ luật TTDS Trung Quốc cho phép
đương sự có thể đưa ra những chứng cứ mới tại phiên tòa”[27, tr.102]. Nhằm
hạn chế việc thiếu hợp tác của một bên đương sự, gây trở ngại cho việc tranh
tụng, khoản 4 Điều 96 BLTTDS năm 2015 đã có những quy định về thời hạn
cung cấp chứng cứ, theo đó “Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm
phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá
thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc
dân sự theo quy định của Bộ luật này…”. Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã
khống chế thời gian cung cấp chứng cứ của đương sự cho Tòa án bằng việc
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự ấn định, nhưng không quá
thời hạn chuẩn bị xét xử. Vậy, BLTTDS năm 2015 đã hạn chế được phần nào
những bất cập trong quá trình tố tụng gây ra bởi việc đương sự cố tình không
xuất trình chứng cứ ngay khi thu thập được mà để đến thời điểm nào đó gây
được bất ngờ cho bên đương sự đối phương thì mới xuất trình.
33
Các quyền yêu cầu trên đây liên quan đến nguyên tắc tranh tụng bởi lẽ
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức hay trách nhiệm thu
thập tài liệu của Tòa án xuất phát từ yêu cầu của đương sự và để chứng minh
cho yêu cầu của đương sự, nó thể hiện quan điểm, lý lẽ của đương sự về một
nội dung nào đó trong vụ án dân sự mà Tòa án đang giải quyết. Ngoài ra, trong
tranh tụng thì vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
là hết sức quan trọng. Đương sự có thể nhờ sự hỗ trợ của Luật sư hoặc người
khác để thực hiện việc tranh tụng trước Tòa án. Trong hoạt động tranh tụng,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng được quy định có
quyền “Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên
cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong
hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”
(khoản 2 Điều 64 BLTTDS). Quy định này tạo điều kiện cho người bảo vệ
quyền có được các chứng cứ cần thiết để thực hiện việc tranh tụng, tìm ra
những căn cứ cho việc biện hộ từ đó giúp đương sự có thể tranh tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
2.1.3.2. Quyền được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình
Đương sự có quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do
các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập” (điểm đ khoản 2 Điều
58 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Đây là một quyền quan trọng bảo đảm đương
sự có được đầy đủ các chứng cứ của đương sự phía bên kia cũng như chứng cứ
Tòa án đã thu thập được để chuẩn bị cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Điều 17
Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP đã có những hướng dẫn về trình tự cụ thể
thực hiện quyền này của đương sự như sau:
“Đương sự chỉ được yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án trước khi Tòa án mở phiên toà xét xử vụ án. Khi có yêu cầu
ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ phải làm đơn gửi Tòa án có thẩm
quyền. Nếu họ trực tiếp đến Tòa án trình bày yêu cầu được ghi chép, sao chụp
tài liệu, chứng cứ, thì họ cũng phải thể hiện bằng văn bản nộp cho Tòa án. Nếu
34
đương sự là người không biết chữ, thì Tòa án lập biên bản ghi rõ yêu cầu của
họ. Biên bản phải được đọc lại cho người có yêu cầu nghe, ký tên hoặc điểm
chỉ xác nhận. Đơn hoặc văn bản yêu cầu phải ghi cụ thể các tên tài liệu, chứng
cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp.
Trên cơ sở đề nghị của đương sự, Tòa án tạo điều kiện cho họ được ghi
chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ mà họ có yêu cầu. Tuy nhiên, theo quy định
về chế độ bảo quản hồ sơ vụ án, về trách nhiệm của cán bộ, công chức của các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo quản hồ sơ vụ án, thì Tòa án yêu cầu
đương sự thực hiện quyền ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ
vụ án như sau:
Tòa án cung cấp cho đương sự những tài liệu, chứng cứ cần ghi chép, sao
chụp theo yêu cầu của họ, để họ thực hiện việc ghi chép, sao chụp bằng máy
ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật khác của họ. Các tài liệu chứng cứ đó phải liên
quan đến vụ án, không liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí
mật kinh doanh, bí mật đời tư. Nếu không cung cấp tài liệu nào theo đề nghị
của đương sự thì cần nêu rõ lý do.
Trong trường hợp đương sự không có máy ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật
khác để tự mình thực hiện việc sao chụp và nhờ Tòa án sao chụp giúp, thì tuỳ
theo các điều kiện cụ thể, lực lượng cán bộ của Tòa án mà có thể sao chụp giúp
được thì đương sự phải trả chi phí sao chụp theo quy định chung. Việc sao
chụp có thể được thực hiện ngay hoặc có thể trong một thời hạn hợp lý do Tòa
án ấn định.
Việc ghi chép, sao chụp phải được thực hiện tại trụ sở của Tòa án dưới sự
giám sát của cán bộ Tòa án và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo
vệ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư”.
Về quyền được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình, trong
BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011 của Việt Nam đều không
quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp cho đương sự khác bản sao yêu cầu
cùng với tài liệu, chứng cứ kèm theo hoặc chứng cứ bổ sung cho yêu cầu trước
35
đó khi họ nộp cho Tòa án. Điều này sẽ làm hạn chế quyền được biết tài liệu,
chứng cứ dẫn tới hạn chế khả năng tranh tụng của đương sự. Bởi lẽ, không phải
lúc nào đương sự cũng có thể tiếp xúc được với hồ sơ vụ án để cập nhật kịp
thời những yêu cầu, chứng cứ mới của các đương sự khác xuất trình. Về điểm
này pháp luật TTDS Pháp và Liên Bang Nga đã có những quy định nhằm bảo
đảm hơn quyền về tranh tụng của đương sự [27, tr.99;101], Điều 149 BLTTDS
Liên Bang Nga quy định như sau:
“1. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn hoặc đại diện của
nguyên đơn chuyển cho bị đơn bản sao chứng cứ mà dựa vào đó nguyên đơn
đưa ra yêu cầu;
...
2. Bị đơn và đại diện của bị đơn:
1) Làm rõ hơn yêu cầu của nguyên đơn và những căn cứ của yêu cầu đó;
2) Chuyển cho nguyên đơn, đại diện của nguyên đơn và Tòa án ý kiến
phản đối bằng văn bản đối với những yêu cầu của nguyên đơn;
3) Chuyển cho nguyên đơn, đại diện của nguyên đơn và Tòa án những
chứng cứ làm cơ sở cho ý kiến phản đối của bị đơn… [1, tr.126].
Điểm hợp lý này đã được tiếp thu và khắc phục trong các quy định tại
khoản 5 Điều 96 BLTTDS năm 2015. Theo đó, khi đương sự giao nộp tài liệu,
chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự
khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng
cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS
năm 2015 hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo
bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự
khác.
2.1.4. Quy định về quyền bảo vệ và tranh luận
Quyền bảo vệ và quyền tranh luận là những quyền về tranh tụng hết sức
quan trọng đối với đương sự. Đương sự có quyền “Tự bảo vệ hoặc nhờ người
khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình” (điểm i khoản 2 Điều 58
36
BLTTDS sửa đổi năm 2011). Trước tiên, xuất phát từ chính lợi ích của các
đương sự pháp luật cho phép họ được quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trong vụ án dân sự đang được giải quyết tại Tòa án. Trong trường hợp
nếu các đương sự không tự bảo vệ được quyền lợi của mình hoặc có nhu cầu
nhờ người khác có khả năng tốt hơn (thường là Luật sư hoặc người có am hiểu
pháp luật) thực hiện quyền này thay mình, sẽ được Tòa án xem xét, chấp nhận.
Người được đương sự nhờ bảo vệ quyền lợi có thể là người đại diện, hoặc cũng
có thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người này có
quyền như đương sự, nếu là người đại diện hoặc có quyền “giúp đương sự về
mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”
(khoản 5 Điều 64 BLTTDS năm 2004), nếu là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Xuất phát từ quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền lợi được
quyền tranh luận, quyền cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đưa
ra... trong đó tranh luận là biện pháp cần thiết, thực tế và hiệu quả giúp đương
sự bảo vệ quyền lợi của mình. Tranh luận được hiểu là việc phát biểu ý kiến về
đánh giá chứng cứ, về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án dân sự, bảo vệ cho
yêu cầu của mình và phản bác lại yêu cầu đối lập. Điểm m khoản 2 Điều 58
BLTTDS sửa đổi năm 2011 quy định đương sự có quyền “tranh luận tại phiên
tòa”, quyền này cũng được trao cho người đại diện và người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho đương sự. Tuy nhiên, quyền tranh luận không chỉ được
thực hiện ở phiên tòa mà đương sự còn có thể thực hiện quyền này trong quá
trình đối chất, quá trình hòa giải tại Tòa án (xem thêm Mục 2.3.2.3. và Mục
2.3.2.4 của Luận văn này).
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT

Contenu connexe

Tendances

Tendances (20)

Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luậtLuận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAYLuận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 ĐiểmLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn NhânLuận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
 

Similaire à Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT

Similaire à Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT (20)

Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
 
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
 
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
 
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAYĐề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
 
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều traLuận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
 
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
 
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụngLuận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụngNguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
 
Nguyên Tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụn...
Nguyên Tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụn...Nguyên Tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụn...
Nguyên Tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụn...
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 Điểm
Luận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 ĐiểmLuận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 Điểm
Luận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 Điểm
 

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Plus de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Dernier

C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Dernier (20)

C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 

Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH VĂN CHUNG NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH VĂN CHUNG NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TUẤN HÀ NỘI – 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Trịnh Văn Chung
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .............................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của Đề tài............................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................1 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài...................................2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài............................................3 5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................3 6. Điểm mới của Luận văn ............................................................................4 7. Kết cấu của Luận văn ................................................................................4 Chương 1- KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ............................................................................................5 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.............................................................................................................5 1.1.1. Tranh tụng trong tố tụng dân sự ...................................................5 1.1.2. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ..............10 1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự............11 1.2. Cơ sở của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.........................12 1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ...........................................................................................................12 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ....................................................................................................15 1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự ............................................................................16 1.4. Lược sử hình thành và phát triển các quy định về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ở Việt Nam................................................19 1.4.1. Từ năm 1945 đến trước năm 2005 ..............................................19 1.4.2. Từ năm 2005 đến nay..................................................................25 Kết luận Chương 1.......................................................................................28 Chương 2- CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..............29 2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham gia tố tụng...........................................................................................29 2.1.1. Quy định về quyền bình đẳng trong tố tụng dân sự....................29
  • 5. 2.1.2. Quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và thời điểm được bổ sung yêu cầu trong quá trình Tòa án giải quyết tranh chấp....................................................................................29 2.1.3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình ...............................................31 2.1.4. Quy định về quyền bảo vệ và tranh luận.....................................35 2.2. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự.............................................................................37 2.2.1. Sự độc lập, vô tư của Toà án trong tố tụng dân sự - tiền đề cần thiết của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng................................37 2.2.2. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thực hiện tranh tụng trong tố tụng dân sự.............................................................39 2.2.3. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thực hiện các quyền tố tụng khác..........................................................................41 2.3. Các quy định về thủ tục liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.....................................................................................42 2.3.1. Các quy định về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự...................42 2.3.2. Các quy định về thủ tục trong giai đoạn chuẩn bị xét xử liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự...................44 2.3.3. Các quy định về thủ tục tại phiên tòa xét xử sơ thẩm liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự..........................50 2.3.4. Các quy định về thủ tục phúc thẩm liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.......................................................56 Kết luận Chương 2.......................................................................................59 Chương 3- THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG...........60 TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................60 3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự............60 3.1.1. Kết quả đạt được trong thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ..............................................................................60 3.1.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự và nguyên nhân............................................63 3.2. Kiến nghị về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ....................70 3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tranh tụng trong tố tụng dân sự ....................................................................................................70
  • 6. 3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về tranh tụng trong tố tụng dân sự ....................................................................................................87 Kết luận Chương 3.......................................................................................92 KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................96
  • 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nguyên chữ BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX Hội đồng xét xử PLTTGQCTCLĐ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động PLTTGQCVADS Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự PLTTGQCVAKT Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế TTDS Tố tụng dân sự
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài Xây dựng và hoàn hiện bộ máy Nhà nước, bộ máy cơ quan tiến hành tố tụng; pháp luật về tố tụng để góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang hướng tới. Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp nói chung và hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc của Tòa án nói riêng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực TTDS, vấn đề xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng đang thu hút sự quan tâm rộng rãi của nhiều nhà khoa học cũng như những nhà hoạt động thực tiễn. Tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS là gì? Nội dung, ý nghĩa, vai trò của nguyên tắc này trong điều kiện cải cách tư pháp được thể hiện ra sao? Việc áp dụng nguyên tắc tranh tụng đối với pháp luật TTDS và thực tiễn Việt Nam như thế nào? Nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý luận, pháp luật thực định và thực trạng về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam sẽ góp phần mở ra một bước đi mới trong việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật TTDS ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án dân sự, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các quyết định, bản án dân sự bị hủy, sửa do vi phạm thủ tục tố tụng. Quá trình nghiên cứu này cũng không nằm ngoài định hướng cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang đề cập đến hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Quá trình xây dựng BLTTDS năm 2004 và sau khi Bộ luật được ban hành đã có một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố có đề cập tới vấn đề này như: Kỷ yếu hội thảo (của Nhà pháp luật Việt – Pháp ngày 18/01/2002) về “Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng.
  • 9. 2 Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm và quản lý Thẩm phán; Luận văn thạc sỹ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002; Bài về “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Công Bình đăng trên Tạp chí Luật học số 6/2003; Bài “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của PGS.TS Trần Văn Độ đăng trên tạp chí Khoa học Pháp lý số 4/2004; Đề tài cấp cơ sở “Tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” do Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện năm 2011; Bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự” của TS. Mai Bộ đăng trên trang Web của Tòa án nhân dân tối cao năm 2014 v.v… Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu các công trình này mới chỉ đề cập đến một số nội dung của đề tài dưới dạng riêng biệt, chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống các vấn đề liên quan về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam. Ngoài ra, phần lớn các công trình này đều được thực hiện trước khi ra đời BLTTDS sửa đổi năm 2011. Trong khi đó BLTTDS sửa đổi năm 2011, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, BLTTDS năm 2015 đã có nhiều nội dung mới có liên quan đến vấn đề này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kịp thời và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài Mục đích của việc nghiên cứu Đề tài là làm rõ hơn những vấn đề lý luận về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam, nội dung các quy định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Phát hiện những bất cập, vướng mắc trong các quy định này và thực tiễn thực hiện để đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của tranh tụng trong TTDS theo tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài là: Tìm hiểu những vấn đề lý luận về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, các nội dung và yếu tố quyết định của nguyên tắc tranh tụng trong TTDS; phân tích, nghiên cứu thực tiễn xét
  • 10. 3 xử, giải quyết các vụ án dân sự để phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng; nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập để từ đó đề ra những giải pháp để nâng cao vai trò của tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là những vấn đề lý luận về tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về những quy định này. Liên quan đến Đề tài, có nhiều nội dung khác nhau, trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ không thể xem xét giải quyết hết mọi vấn đề mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các nội dung sau: - Một số vấn đề lý luận về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS như khái niệm, nội dung, ý nghĩa, cơ sở, đối tượng và lịch sử các quy định về tranh tụng để hình thành nên nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam; - Nội dung và một số quy định liên quan đến tranh tụng trong TTDS hiện hành, tập trung vào các quy định trong các BLTTDS của Việt Nam (bao gồm cả BLTTDS năm 2015) chủ yếu ở trong và trước giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, có so sánh với các quy định về tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng của một số nước có nền tố tụng phát triển trên thế giới; - Những kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân của các quy định pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam. Từ đó đưa ra một số kiến nghị về xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật để hoàn thiện và nâng cao vai trò của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong giải quyết vụ án dân sự. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện nghiên cứu Đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật và chủ trương về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cũng đã sử dụng các
  • 11. 4 phương pháp truyền thống như: phương pháp logic - lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp... 6. Điểm mới của Luận văn Đây là công trình nghiên cứu về tranh tụng trong TTDS Việt Nam dưới góc độ là một nguyên tắc pháp luật nên có những điểm mới như sau: - Bổ sung, làm rõ và góp phần hoàn thiện khái niệm, ý nghĩa, cơ sở, nội dung của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam; - Trong bối cảnh BLTTDS năm 2015 mới ra đời, chưa có hiệu lực pháp luật, Đề tài sẽ làm rõ một số nội dung liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự giúp cho quá trình áp dụng luật và hướng dẫn luật trong thời gian sắp tới. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt và Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương như sau: - Chương 1 - Khái quát về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự. - Chương 2 - Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự. - Chương 3 - Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự và kiến nghị.
  • 12. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự 1.1.1. Tranh tụng trong tố tụng dân sự Đối với việc nghiên cứu đề tài nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam thì khái niệm tranh tụng trong TTDS là một vấn đề hết sức quan trọng, khái niệm này giúp hiểu đúng và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Theo các nhà nghiên cứu, tố tụng tranh tụng xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu, cùng với sự xuất hiện của Tòa án nhà nước. Loại hình tố tụng này được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau đó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”[10, tr.2]. Cùng với thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và cho đến nay nó được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ. Ở Việt Nam, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Hán - Việt tự điển thì tranh tụng có nghĩa là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”[12, tr.621]; theo Đại từ điển tiếng Việt thì tranh tụng có nghĩa là “kiện tụng”[26, tr.1686], đây có thể coi là những cách hiểu chung nhất về “từ ngữ” tranh tụng. Tại Từ điển luật học thì tranh tụng được hiểu như sau: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng, có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập”[30, tr.807-808]. Cách hiểu này đã thể hiện được một số đặc trưng của tranh tụng như: “là hoạt động tố tụng của các bên tham gia tố tụng”; “có quyền bình đẳng với nhau... để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập”. Tuy nhiên, cách hiểu này chưa phân biệt được hoạt động tranh tụng với
  • 13. 6 những hoạt động tố tụng khác và cũng thiếu đi vai trò rất quan trọng của một chủ thể là Tòa án. Xung quanh khái niệm tranh tụng trong TTDS còn có nhiều quan điểm khác, ví dụ như: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “tranh tụng trong TTDS được hiểu là một phương thức tố tụng để đương sự bảo vệ quyền lợi của mình, toà án xác định sự thật khách quan của vụ án”[7]. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tranh tụng là việc các bên đương sự đưa ra các chứng cứ, các căn cứ pháp lý, lập luận, tranh luận, đối đáp với nhau nhằm bảo vệ quyền lợi của mình và Tòa án chủ yếu dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên để ra phán quyết giải quyết vụ án, vụ việc dân sự”[30, tr.19]. Quan điểm thứ ba cho rằng: “Theo nghĩa rộng, tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quá trình tranh tụng này không chỉ bao gồm các giai đoạn khởi kiện, chuẩn bị xét xử, thu thập, trao đổi chứng cứ, tài liệu, quan điểm về việc giải quyết vụ án, đối chất giữa các bên đương sự, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà cả giai đoạn xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Thậm chí quá trình tranh tụng có thể được tiến hành lại từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong trường hợp khi bản án, quyết định về vụ án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến hành xét xử lại. Theo nghĩa hẹp, quá trình tranh tụng được tiến hành tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, theo đó các bên đương sự dưới sự điều khiển của Hội đồng xét xử trực tiếp trình bày yêu cầu, chứng cứ, tranh luận và đối đáp với nhau về chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ, lập luận để chứng minh rằng yêu cầu, phản yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia là có căn cứ và hợp pháp. Trên cơ sở kết quả tranh tụng của các bên đương sự, Hội đồng xét xử ra phán quyết về việc giải quyết vụ án dân sự”[27, tr.6].
  • 14. 7 Nghiên cứu các quan điểm nêu trên, nếu hiểu tranh tụng trong TTDS như quan điểm thứ nhất thì chưa cụ thể vì mới chỉ coi tranh tụng là một phương thức (hay phương pháp) tố tụng để đương sự bảo vệ quyền lợi của mình; Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, theo cách hiểu này thì chưa xác định được những đặc điểm của tranh tụng để phân biệt với các phương pháp tố tụng khác. Đối với quan điểm thứ hai, đã chỉ ra được những đặc điểm của tranh tụng nhưng lại không nêu được bản chất của tranh tụng, đó là tranh tụng chỉ diễn ra trong quá trình giải quyết vụ án dân sự chứ không có trong quá trình giải quyết việc dân sự; hoạt động tranh tụng phải được chứng kiến, ghi nhận bởi Tòa án. Đối với quan điểm thứ ba, đã đưa ra hai góc nhìn khác nhau về tranh tụng theo nghĩa “rộng” và “hẹp”. Tuy nhiên, tranh tụng không đồng nghĩa với quá trình giải quyết vụ án mà là hoạt động được diễn ra trong quá trình đó. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa tranh tụng trong TTDS như sau: “Tranh tụng trong TTDS là phương pháp giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án, diễn ra trong quá trình tố tụng, theo đó các bên đương sự xuất trình, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và kết quả của quá trình này được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án”. Cũng cần phải phân biệt giữa tranh tụng và tranh luận. Tranh luận có xuất phát điểm từ tranh chấp, mâu thuẫn, tranh luận là cốt lõi và sự biểu hiện tập trung của tranh tụng, nếu không có tranh luận thì sẽ không có tranh tụng hoặc tranh tụng sẽ không được biểu hiện rõ nét nhưng tranh luận chưa phải là tranh tụng. Tranh tụng là một tổng thể gồm cả tranh luận và quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; quyền được biết chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý áp dụng của phía đối lập, quyền được hỏi những người tham gia tố tụng khác... để bảo đảm cho việc tranh luận. Như vậy, trong một số trường hợp (như thủ tục giải quyết việc dân sự, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng...) vì không có tranh chấp giữa các bên đương sự với nhau nên không có quá trình tranh tụng.
  • 15. 8 Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, hai loại chủ thể có liên quan chủ yếu tới việc thực hiện và bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam là đương sự (chủ thể tham gia tranh tụng) và Tòa án (chủ thể bảo đảm tranh tụng). Chủ thể tham gia tranh tụng được hiểu là những chủ thể mang quyền, nghĩa vụ tố tụng, tham gia vào quá trình tranh tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Do đó, quá trình tranh tụng luôn có sự tham gia của hai bên đương sự, là những chủ thể tranh tụng giữ vai trò chủ động, quyết định kết quả tranh tụng. Bởi vì, họ tham gia tranh tụng xuất phát từ chính yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong vụ án, kết quả tranh tụng ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của bản thân các đương sự. Hơn nữa, các vụ án dân sự chủ yếu phát sinh do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các đương sự. Do đó, việc xác định quyền và nghĩa vụ đó có tồn tại hay không phải thuộc về các đương sự, người biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh ra tranh chấp vì nó không chỉ là con đường ngắn nhất để biết rõ sự thật, mà còn làm các bên thỏa mãn hơn với kết quả được xác lập lại theo đúng quy định của pháp luật. Đương sự trong vụ án dân sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng chủ thể tranh tụng trước hết và chủ yếu là nguyên đơn và bị đơn. Họ là những chủ thể có mâu thuẫn về quyền và lợi ích, họ đứng ở vị trí tố tụng đối lập nhau. Trong suốt quá trình tranh tụng, nguyên đơn và bị đơn bình đẳng với nhau và liên tục trao đổi với nhau những chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Toà án trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS. Ngoài nguyên đơn và bị đơn, tham gia vào quá trình tranh tụng còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp này họ cũng được coi là chủ thể tranh tụng, bởi họ cũng có lợi ích liên quan đến vụ án, tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có quyền đưa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn.
  • 16. 9 Do vậy, họ cũng được đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ và lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của các đương sự khác. Như vậy, có thể thấy đương sự là những chủ thể giữ vị trí và vai trò trung tâm trong quá trình tranh tụng. Tuy nhiên, trên thực tế có những đương sự không thể hoặc không có điều kiện thực hiện tốt nhất quyền tranh tụng của mình nên việc tranh tụng của các đương sự này do người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện. Việc tham gia tranh tụng của người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự xuất phát từ quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chứ không phải xuất phát trực tiếp từ lợi ích của họ bởi họ không phải là các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung. Người đại diện của đương sự là người thay mặt cho đương sự tham gia vào quá trình tranh tụng với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Người đại diện có quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự khi tham gia vào tranh tụng. Do đó, người đại diện có quyền được biết tất cả chứng cứ, lý lẽ của bên đương sự đối phương và được quyền trình bày ý kiến, đối đáp về những vấn đề mà đối phương có yêu cầu đối với đương sự mà mình đại diện. Người đại diện của đương sự phải có quyền bình đẳng với bên đương sự đối lập trước Tòa án trong việc thực hiện tranh tụng. Trong tranh tụng thì không thể thiếu một chủ thể quan trọng đó là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ là người giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý, đồng thời tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người bảo vệ có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định chứ không bị ràng buộc bởi quyền và nghĩa vụ của đương sự như người đại diện. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thông thường là các Luật sư hoặc là những người am hiểu pháp luật. Trong quá trình tranh tụng, do người bảo vệ là người có kiến thức
  • 17. 10 pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng và kỹ năng tranh tụng nên có thể giúp cho các bên đương sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhất là trong việc đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận. Không những thế, ý kiến tham gia tranh tụng của người bảo vệ còn giúp cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án. Tòa án có vai trò quyết định bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong TTDS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và hiệu quả. Để bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì trong quá trình tranh tụng Tòa án, mà trước tiên là Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án và HĐXX tại phiên tòa phải thực hiện đúng chức năng của mình là người tài phán công minh, xem xét, đánh giá toàn diện tất cả các chứng cứ, căn cứ, lập luận mà các bên đương sự đưa ra trong quá trình tranh tụng. Tòa án điều khiển quá trình tranh tụng, bảo đảm quá trình này diễn ra một cách rõ ràng, đúng quy định của pháp luật TTDS và bảo đảm sự bình đẳng của các bên tham gia tranh tụng, kết quả tranh tụng sẽ là căn cứ để Tòa án ra quyết định giải quyết vụ án. 1.1.2. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Từ điển tiếng Việt, khái niệm từ “nguyên tắc” là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”[28, tr.694]. Theo Giáo trình lý luận chung nhà nước và pháp luật của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội thì “nguyên tắc pháp luật” được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang tính xuất phát điểm, định hướng, chịu sự quy định của những quy luật phát triển khách quan của xã hội, xuyên suốt nội dung, hình thức pháp luật, toàn bộ thực tiễn pháp luật, hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, hành vi pháp luật, ý thức pháp luật” [34, tr.344]. Còn theo Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa” được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo nội dung, quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật” [33, tr.405]. Đối với lĩnh vực TTDS, theo Giáo trình luật TTDS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “nguyên tắc” của luật TTDS Việt Nam được hiểu là “những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định
  • 18. 11 hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật TTDS” [32, tr.36]. Như vậy nguyên tắc tranh tụng trong TTDS được hiểu là: “những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải quyết vụ án dân sự, theo đó các bên đương sự có quyền xuất trình, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng để quyết định về việc giải quyết vụ án dân sự”. 1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự - Nguyên tắc tranh tụng đề cao tính chất dân chủ, công khai và minh bạch trong hoạt động TTDS: Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS là tư tưởng pháp lý chỉ đạo thể hiện rõ nhất tính chất dân chủ, công khai và minh bạch của TTDS. Trong quá trình thực hiện việc tranh tụng, các đương sự, người đại diện của đương sự đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý và đối đáp nhau để làm rõ sự thật khách quan của vụ án dân sự. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng đóng vai trò giám sát quá trình tranh tụng, sử dụng kết quả tranh tụng của các bên để giải quyết vụ án dân sự một cách khách quan, công bằng và đúng pháp luật. - Nguyên tắc tranh tụng tạo cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án: Với việc giải quyết vụ án dân sự theo nguyên tắc tranh tụng, các đương sự có điều kiện trong việc trình bày, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa, tranh tụng cũng buộc các đương sự phải nỗ lực, tích cực hơn trong việc tham gia tố tụng. Kết quả tranh tụng là cơ sở để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên đương sự phải tìm mọi cách để thu thập chứng cứ và tìm ra căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bác bỏ yêu cầu của đương sự phía bên kia.
  • 19. 12 - Nguyên tắc tranh tụng góp phần bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên là có căn cứ và hợp pháp: Tranh tụng không những tạo điều kiện cho đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình mà qua quá trình tranh tụng Tòa án xác định được sự thật khách quan của vụ án dân sự. Trên cơ sở đó, Tòa án giải quyết được yêu cầu của các đương sự, xác định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Vì khi đương sự thực hiện đầy đủ các quyền TTDS của mình như quyền đề đạt yêu cầu để Tòa án bảo vệ, quyền đưa ra chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quyền được biết chứng cứ do bên kia cung cấp hoặc do Tòa án thu thập, quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ, quyền tranh luận tại phiên tòa… thì các tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ, Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự một cách chính xác, công minh và đúng pháp luật. - Thông qua nguyên tắc tranh tụng trong TTDS giúp cho mọi công dân hiểu biết thêm pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào chế độ, vào đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó góp phần vào việc giáo dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội của Nhân dân, tạo điều kiện cho việc củng cố trật tự pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.2. Cơ sở của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự 1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Tranh tụng trong TTDS là loại hình tố tụng đề cao vị trí, vai trò của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp, nó là một loại hình TTDS dân chủ nhất, thể hiện được sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại [7, tr.6]. Tranh tụng phát huy được tính tích cực, chủ động của các đương sự trong việc thu thập, cung cấp và đánh giá chứng cứ, thực hiện tranh tụng theo quy định của pháp luật TTDS nhằm giúp Tòa án nhanh chóng nhận thức được các tình tiết của vụ án để xác định sự thật, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được khách quan, đúng
  • 20. 13 pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án. Trong quá trình tố tụng, các đương sự trao đổi với nhau những chứng cứ để chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án trên cơ sở của các quy định pháp luật TTDS. Tranh tụng trong TTDS xuất phát từ bản chất của quan hệ pháp luật nội dung giải quyết trong vụ án, bao gồm quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Các chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung này có quyền tự do, tự nguyện, bình đẳng trong việc thiết lập các quyền và nghĩa vụ phục vụ cho lợi ích của mình phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Các chủ thể có quyền tự định đoạt có tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung hay không, quyết định nội dung của quan hệ gồm các quyền và nghĩa vụ của các bên, quyết định các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Khi họ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì việc tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình phải thuộc về các đương sự. Hơn nữa các vụ án dân sự chủ yếu phát sinh do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các đương sự, do đó việc xác định nghĩa vụ đó có tồn tại hay không phải thuộc về các đương sự. Việc xét xử vụ án dân sự thực chất là việc giải quyết xung đột hoặc liên quan đến quyền lợi của đương sự. Đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung, là người đưa ra yêu cầu, kết quả của việc giải quyết vụ án dân sự liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chính họ nên họ có quyền và nghĩa vụ tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án. Quá trình giải quyết tranh chấp trong TTDS đòi hỏi các đương sự phải tranh tụng để làm rõ được quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp, quyền lợi hợp pháp của mình trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu được xuất trình và các lý lẽ, lập luận được sử dụng. Vì mâu thuẫn về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên đương sự là tiền đề và là động lực thúc đẩy quá trình tranh tụng. Mặt khác để tiến hành tranh tụng, pháp luật TTDS phải quy định cụ thể quyền hạn, nghĩa vụ của các bên đương sự và Tòa án trong việc tranh tụng, trình tự và thủ tục tranh tụng. Thẩm phán giải quyết vụ án phải độc lập, khách quan, có trình độ chuyên môn cao và năng lực xét xử
  • 21. 14 tốt. Các đương sự phải biết được yêu cầu, chứng cứ và lý lẽ của đối phương đưa ra, phải có sự hiểu biết về pháp luật và những kinh nghiệm tham gia tố tụng nhất định [7, tr.7]. Tranh tụng thực chất là việc các bên đương sự đưa ra các chứng cứ, các căn cứ pháp lý, lập luận, đối đáp lại nhau, tranh luận với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình dưới sự chứng kiến của Tòa án. Thông qua việc tranh tụng, các tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ, Tòa án nhận thức được sự thật khách quan của vụ án. Khi bên đưa ra yêu cầu đã chứng minh được tính có căn cứ và hợp pháp đối với yêu cầu của mình thì bên phản đối yêu cầu cũng phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh sự phản đối của mình là có căn cứ. Trong tranh tụng dân sự, các đương sự là người trong cuộc, biết được sự việc, đưa ra yêu cầu nên họ phải cung cấp chứng cứ cho Tòa án và đương sự đối phương, từ đó các bên có thể đưa ra quan điểm của mình, giúp Tòa án có thể làm rõ sự việc tranh chấp. Để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được khách quan, đúng pháp luật giữa các đương sự phải được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS. Tòa án có nhiệm vụ thực hiện những biện pháp do pháp luật quy định để tạo điều kiện cho các đương sự được thật sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Tranh tụng thực chất là việc các đương sự cung cấp chứng cứ, đưa ra các luận điểm, căn cứ pháp lý để đối đáp, tranh luận với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình, giảm bớt trách nhiệm xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án trở thành cơ quan tài phán độc lập, bảo đảm khách quan trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Loại hình tố tụng tranh tụng quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự trong vụ án dân sự để họ có thể tự bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, với chức năng xét xử có vai trò bảo đảm cho các đương sự thực hiện tranh tụng để đi đến xác định được sự thật của vụ án. Các đương sự là chủ thể của tranh tụng nên giữ vai trò quan trọng trong quá trình tranh tụng, có quyền bình đẳng trong việc cung cấp, đánh giá chứng cứ, tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình.
  • 22. 15 Tranh tụng xuất phát từ yêu cầu xét xử đúng pháp luật các vụ án dân sự của Tòa án. Tranh tụng có ý nghĩa lớn trong việc tìm ra sự thật của vụ án, bảo vệ quyền lợi của đương sự [7, tr.7]. Để giải quyết đúng pháp luật các vụ án dân sự, Tòa án phải đánh giá, phân tích các chứng cứ, căn cứ pháp lý mà các đương sự cung cấp. Tranh tụng yêu cầu phiên tòa dân sự được diễn ra theo hướng các đương sự thực hiện nghĩa vụ đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu của mình còn Tòa án chỉ thẩm tra các chứng cứ do các đương sự và những người tham gia tố tụng khác cung cấp. Thông qua tranh tụng Tòa án có điều kiện thuận lợi trong việc phân tích, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các quan hệ pháp luật nội dung mà các đương sự tranh chấp trong vụ án. Mục đích cuối cùng bảo đảm cho phán quyết của Tòa án được khách quan và đúng pháp luật. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cho thấy tỷ lệ các vụ án dân sự bị hủy, sửa còn cao, do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có nhiều trường hợp là khi tiến hành giải quyết các vụ án dân sự Tòa án đã vi phạm thủ tục tố tụng, đặc biệt là chưa tạo điều kiện cho các đương sự trình bày chứng cứ, lý lẽ để làm sáng tỏ vụ án. Trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự của Tòa án là một đòi hỏi cấp bách. Vì vậy, phải đổi mới mô hình TTDS trong đó có sự kết hợp những yếu tố hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng với thẩm vấn. Tranh tụng trong TTDS là giải pháp làm cho Tòa án gần dân, giúp dân, hiểu dân, tăng cường hiệu quả công tác xét xử các vụ án dân sự, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các vụ án dân sự bị hủy, sửa do lỗi chủ quan hoặc phải kéo dài thời hạn giải quyết. Tranh tụng trong TTDS cũng xuất phát từ yêu cầu thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Trước những yêu cầu của việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực, để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng như đổi mới thủ tục TTDS nói riêng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngày
  • 23. 16 24/5/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Tiếp đó, ngày 02/6/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cả hai Nghị quyết này đều xác định nhiều định hướng quan trọng, toàn diện cho việc xây dựng hệ thống pháp luật và chương trình cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể tham gia TTDS, người dân có cơ hội được tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua quá trình tranh tụng góp phần hạn chế các tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng. Ngày 29/03/2011 khi Quốc hội ban hành BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã bổ sung thêm Điều 23a về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS. Tuy vậy, do tranh luận không phải là tranh tụng nên nguyên tắc này chưa thật sự bảo đảm được các yêu cầu của tranh tụng. Tiếp đó, khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, tại Điều 103 khoản 5 Hiến pháp khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là quy định mang tính chất bản lề cho việc xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong các luật tố tụng nói chung và trong luật TTDS nói riêng. Vì vậy, khi BLTTDS năm 2015 được thông qua thì nguyên tắc tranh tụng trong TTDS đã được khẳng định là một trong những nguyên tắc chung nhất của luật TTDS. 1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự - Nguyên tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS” (được quy định tại Điều 6 BLTTDS năm 2004 và Điều 6 BLTTDS năm 2015). Trên cơ sở của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS thì các đương sự biết được các yêu cầu và chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý cho yêu cầu của mình đưa ra và thông qua đó các đương sự có thể tranh luận với nhau về các yêu cầu, phản yêu cầu, đưa ra các lý lẽ để chứng minh cho quyền lợi hợp pháp, viện dẫn các quy định pháp luật làm
  • 24. 17 căn cứ cho những nhận định và kết luận của mình. Thực chất của tranh tụng là việc các bên đi tìm và so sánh chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là xác thực hơn. Bên cạnh đó, các đương sự bình đẳng với nhau trong việc cung cấp chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh là điều kiện tốt nhất để các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, việc tranh tụng chỉ có hiệu quả khi nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS được bảo đảm. - Nguyên tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS” (được quy định tại Điều 8 BLTTDS năm 2004 và Điều 8 BLTTDS năm 2015). Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các cá nhân, pháp nhân. Trong TTDS bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng là điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tranh tụng tại Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tranh tụng công bằng nhất là tranh tụng giữa các bên có vị trí pháp lý ngang bằng nhau. Tòa án bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS chính là bảo đảm cho các đương sự bình đẳng trong việc tranh tụng tại Tòa án.
  • 25. 18 - Nguyên tắc tranh tụng còn có mối liên hệ với nguyên tắc “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” (được quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2004 và Điều 5 BLTTDS năm 2015). Theo nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong TTDS, các đương sự có quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích của mình cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật như khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện, bổ sung yêu cầu... Như vậy, việc thực hiện nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong TTDS sẽ quyết định phạm vi của những vấn đề mà các bên cần tranh tụng để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngược lại, nếu Tòa án bảo đảm triệt để tôn trọng và thực hiện nguyên tắc tranh tụng thì quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án mới có ý nghĩa. Mối liên hệ giữa hai nguyên tắc này cũng là mối liên hệ hai chiều qua lại, bổ sung cho nhau. - Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” (quy định tại Điều 9 BLTTDS năm 2004 và Điều 9 BLTTDS năm 2015) có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Đương sự tranh tụng mục đích là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, vì vậy, bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng tức là bảo đảm cho tranh tụng. Theo nguyên tắc này, đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đối với một số đối tượng yếu thế, có khó khăn sẽ được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định. - Nguyên tắc “Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai; Bảo đảm sự vô tư, khách quan trong TTDS” (quy định tại Điều 15, 16 BLTTDS năm 2004 và Điều 15, 16 BLTTDS năm 2015). Sự công bằng, vô tư, khách quan của cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là yếu tố hết sức cần thiết cho tranh tụng, có những yếu tố này thì tranh tụng mới trở nên thực chất và có ý nghĩa. Tranh tụng là sự so sánh chứng cứ, sự so sánh này phải dựa trên cơ sở là lẽ công bằng chứ không phải gì khác ngoài lẽ công bằng. Tòa án là
  • 26. 19 trọng tài của quá trình tranh tụng và Tòa án luôn phải bảo đảm sự vô tư, khách quan trong quá trình này, không được định kiến hay thiên vị bất cứ bên nào. 1.4. Lược sử hình thành và phát triển các quy định về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ở Việt Nam 1.4.1. Từ năm 1945 đến trước năm 2005 Với thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử nước ta, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Để xây dựng, củng cố chính quyền, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó phải kể đến là Sắc lệnh số 34/SL ngày 13/9/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và tư pháp cũ; Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 duy trì tổ chức Luật sư cũ với một số điểm sửa đổi cho thích hợp với tình hình mới. Trong lĩnh vực TTDS, đáng chú ý nhất là Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 đã đánh dấu bước phát triển của hoạt động tư pháp Việt Nam. Sắc lệnh này quy định khá rõ trách nhiệm của Thẩm phán trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích của đương sự. “Thẩm phán không được tự đặt ra lệ mà xử đoán” (Điều 81); “Thẩm phán không được biện hộ trước Tòa án, nếu không phải việc của mình, việc của vợ, con của thân thuộc, thích thuộc về trực hệ của mình hay của trẻ chưa thành niên mà làm giám hộ” (Điều 82); “Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên tòa, xét xử thật nhanh chóng và thật công minh. Thanh liêm là đức tính thiêng liêng của Thẩm phán” (Điều 83). Bên cạnh các quy định trên, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, tại Điều 26 có quy định: “Khi ra phiên tòa... bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo có quyền yêu cầu Tòa án thi hành phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật”. Sau đó, để bảo đảm dân chủ trong tố tụng Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 đã được ban hành, trong đó mở rộng quyền bào chữa cho các bị can. Tại Điều 1 Sắc lệnh này quy định:
  • 27. 20 “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các toà án thường và toà án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ toà án binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư, bào chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận”. Ngày 22/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 144/SL sửa đổi Điều 1 của Sắc lệnh số 69/SL, mở rộng cho người không phải là Luật sư cũng được bào chữa, bảo vệ quyền lợi của các đương sự trong vụ án dân sự. Điều 1 Sắc lệnh số 144/SL quy định như sau: “Từ nay, trước toà án việc xử hộ và thương mại, trước các toà án thường và toà án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ toà án binh tại mặt trận, nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận”. Để cụ thể hóa Sắc lệnh số 69/SL, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 1/NĐ-VY ngày 12/01/1950 ấn định điều kiện để làm bào chữa viên và phụ cấp cho bào chữa viên. Bước vào những năm 50, chúng ta đã có cuộc cải cách tư pháp nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, đó là việc ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, trong đó quy định Luật sư được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Các quy định trong các văn bản pháp luật nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành đã thể hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc mở rộng dân chủ trong TTDS, phát huy vai trò tích cực của các bên và của các Luật sư. Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết đã đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến để giành độc lập thống nhất
  • 28. 21 đất nước. Ở miền Nam chính quyền Ngụy quyền trong một thời gian dài vẫn áp dụng những văn bản pháp luật cũ thời Pháp thuộc. Đến ngày 20/12/1972, chính quyền Ngụy quyền ban hành Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng, trong đó đã thừa nhận quyền tự bảo vệ của đương sự, quyền nhờ Luật sư, tôn thuộc, ti thuộc, vợ chồng, anh em, đồng thừa kế và đồng hội viên thay mặt (Điều 50); đồng thời Bộ luật này cũng quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh, đó là “người nào viện dẫn một sự kiện thuận lợi cho mình, có trách nhiệm dẫn chứng. Đối phương muốn phủ nhận tín lực của sự kiện được chứng minh phải xuất trình bằng cớ tương phản” (Điều 56). “Nếu không có đủ bằng cứ theo luật về chủ trương của mình, đương sự sẽ bị bác khước về những khoản không chứng minh được” (Điều 58) và đặc biệt Bộ luật đã quy định quá trình giải quyết vụ kiện phải qua tranh tụng. Như vậy, các quy định pháp luật về tranh tụng trong TTDS của chính quyền Ngụy quyền có tiến bộ hơn so với pháp luật tố tụng thời Pháp thuộc, tuy nhiên chưa có quy định về quyền và nghĩa vụ của các đương sự thể hiện được nguyên tắc tranh tụng trong giải quyết vụ kiện, cũng như chưa có những bảo đảm cho tranh tụng được thực hiện trên thực tế. Ở miền Bắc, Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 được ban hành làm nền móng cho việc xây dựng một thiết chế xét xử xã hội chủ nghĩa. Nhiều văn bản pháp luật ra đời quy định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của đương sự, vai trò của Luật sư, về sự vô tư, khách quan của Thẩm phán trong khi xét xử và tranh luận tại phiên tòa. Thông tư số 39/NCPL ngày 20/01/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình, tranh chấp về dân sự có hướng dẫn như sau: “Sau khi nguyên đơn đưa đơn kiện, Tòa án nhân dân phải cho bị đơn và người dự sự biết nội dung đơn kiện và yêu cầu của nguyên đơn, nếu xét thấy cần thiết và không có hại cho việc hòa giải thì Tòa án nhân dân có thể cho nguyên đơn, bị đơn và người dự sự xem hoặc sao chép đơn và lời khai của nhau. Sau khi được biết những yêu cầu và những chứng cứ của những đương
  • 29. 22 sự khác, mỗi đương sự đều có thể nộp hoặc đến khai trước Tòa án nhân dân để trình bày những lý lẽ và chứng cứ nhằm xác định hoặc bác bỏ một phần hay toàn bộ những yêu cầu đó, đồng thời cũng có quyền đề xuất những lý lẽ và chứng cứ về yêu cầu của mình” [13, tr.59]. Thông tư số 06/TT-TATC ngày 25/02/1974 đã quy định thêm về quyền yêu cầu và nghĩa vụ chứng minh như sau: “Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người dự sự) có quyền đề xuất những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình” [13, tr.40]. Ngoài ra, Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân, bị cáo (nguyên đơn, bị đơn trong các vụ kiện dân sự) và những người khác tham gia tố tụng có quyền tranh luận về chứng cứ cũng như về việc áp dụng pháp luật, đường lối, chính sách xét xử... Các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần tránh tư tưởng cọi nhẹ việc xét hỏi và việc tranh cãi ở phiên tòa vì chỉ tin vào hồ sơ hoặc chỉ là để hợp pháp hóa một chủ trương xét xử đã được dự kiến trước” [13, tr.164]. Đặc biệt, ngày 08/02/1977 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 69/NCPL hướng dẫn trình tự xét xử sơ thẩm. Công văn quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được đề xuất chứng cứ và yêu cầu về biện pháp khẩn cấp tạm thời; được đề xuất những câu hỏi trong khi Tòa án thẩm vấn và được tham gia tranh luận, cụ thể: “* Được Tòa án nhân dân cho xem hoặc sao chép đơn từ, tài liệu của các đương sự khác, nhân chứng, giám định viên... nếu nhận thấy việc đó cần thiết cho đương sự chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ những quyền lợi của họ. * Được đề xuất yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc thay đổi yêu cầu của việc kiện. * Được đề xuất chứng cứ và những yêu cầu về điều tra hoặc về biện pháp khẩn cấp tạm thời được Tòa án nhân dân giải quyết.
  • 30. 23 * Được đề xuất những câu hỏi trong khi Tòa án nhân dân thẩm vấn và được tham gia cuộc tranh luận...”. [14, tr.33] Bên cạnh đó, Công văn còn xác định rõ trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong việc bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong tố tụng; phân biệt giữa xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã thông qua Hiến pháp năm 1980, tại Điều 133 Hiến pháp quy định: “Tổ chức Luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Trên cơ sở đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 quy định: “Các đương sự có quyền nhờ Luật sư bảo vệ quyền lợi của mình” (Điều 9). Tiếp đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1988 khẳng định các đương sự không những có quyền nhờ Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình mà còn có quyền tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, Pháp lệnh tổ chức Luật sư được ban hành ngày 18/12/1987 tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển của đội ngũ Luật sư ở Việt Nam, phát huy vai trò của Luật sư trong tư vấn và tham gia tố tụng. Có thể thấy rằng, trong giai đoạn này nhiều văn bản pháp luật TTDS đã được ban hành nhằm phát huy và đề cao quyền và nghĩa vụ chứng minh của các đương sự và Luật sư. Nhiều quy định tiến bộ về quyền bình đẳng trong tố tụng, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, tranh luận tại phiên tòa, trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được ghi nhận. Kế thừa và phát triển các quy định về TTDS của giai đoạn trước, ngày 29/11/1989 Hội đồng nhà nước đã thông qua PLTTGQCVADS. Pháp lệnh đã đánh dấu bước phát triển của pháp luật TTDS, quy định một cách có hệ thống về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, nghĩa vụ chứng minh của đương sự, vị trí, vai trò của người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tại Điều 3 PLTTGQCVADS quy định:
  • 31. 24 “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác”. Pháp lệnh cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong đó: “Các đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình; được biết chứng cứ do bên kia cung cấp; yêu cầu Toà án tiến hành biện pháp điều tra cần thiết, quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời; tham gia hoà giải; tham gia phiên toà; yêu cầu thay đổi Thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch; đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; tham gia tranh luận tại phiên toà; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án” (Điều 20). Ngoài ra, tại Điều 51 Pháp lệnh đã quy định về thủ tục tranh luận tại phiên tòa như sau: “1. Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc việc hỏi, các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người đại diện tổ chức xã hội khởi kiện về lợi ích chung trình bày ý kiến của mình về đánh giá chứng cứ, đề xuất hướng giải quyết vụ án. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác, nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Nếu thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử cho phát biểu thêm. Sau đó kiểm sát viên trình bày ý kiến về hướng giải quyết vụ án. 2. Nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định xét hỏi lại và tranh luận lại”. Hiến pháp năm 1992 được thông qua đã tiếp tục khẳng định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng như tổ chức Luật sư được thành lập để giúp các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, tại Điều 9 quy định: “Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự”. Để đáp ứng những chuyển biến to lớn về mọi mặt trong đời sống xã hội, chủ động hội
  • 32. 25 nhập kinh tế khu vực và thế giới Pháp lệnh Luật sư năm 2001 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, phát huy vai trò của Luật sư trong tư vấn và tham gia tố tụng. Tóm lại, qua nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam giai đoạn này cho thấy, đã có nhiều quy định về những vấn đề thuộc nội dung của nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề liên quan đến tranh tụng. Pháp luật Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “tranh tụng” cũng như nguyên tắc tranh tụng trong TTDS chưa được thừa nhận nhưng những quy định đã phân tích ở trên là gần gũi với những quy định về tranh tụng của các nước trên thế giới và phần nào đã thể hiện được tranh tụng là một nguyên tắc cần phải có của TTDS. 1.4.2. Từ năm 2005 đến nay Thực hiện mục tiêu của Đảng về cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng mở rộng tranh tụng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Trên cơ sở đổi mới của Đảng, từ thực trạng pháp luật TTDS và thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự, ngày 27/5/2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLTTDS năm 2004, có hiệu lực từ ngày 01/01/2005. BLTTDS năm 2004 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển của các quy định liên quan đến vấn đề tranh tụng trong TTDS. Mặc dù trong các nguyên tắc của pháp luật TTDS mà Bộ luật nêu ra chưa có quy định nào về áp dụng nguyên tắc tranh tụng nhưng nội dung của hoạt động tranh tụng trong TTDS đã được đề cập khá cụ thể và chi tiết. BLTTDS năm 2004 đã có những quy định liên quan đến quá trình tranh tụng như quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của người khởi kiện; quyền phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan... Nghĩa vụ chứng minh của đương sự được đề cao hơn trước, trong trường hợp xét thấy chứng cứ trong hồ
  • 33. 26 sơ chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ và Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có đơn yêu cầu hoặc trong trường hợp do pháp luật quy định. Bên cạnh đó, việc quy định thủ tục tranh luận tại phiên tòa theo hướng Tòa án không được hạn chế thời gian tranh luận của các đương sự mà phải tạo điều kiện cho người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến của họ đã góp phần bảo đảm cho tranh tụng trong TTDS có cơ sở thực hiện, đây là bước tiến quan trọng về kỹ thuật lập pháp so với các văn bản pháp luật trước đây. Tại kỳ họp thứ 9 ngày 29/3/2011, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực ngày 01/01/2012. Trong đạo luật này đã có nhiều quy định mới liên quan đến việc bảo đảm tranh tụng của các đương sự như: đương sự trong các vụ việc dân sự có thêm quyền được trực tiếp đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng. Đặc biệt, Điều 23a của Luật này ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS: “Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Toà án bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Quy định này tạo hành lang pháp lý cho việc bảo đảm quyền tranh tụng của các chủ thể tranh tụng đặc biệt là đương sự. Hơn nữa nó càng thể hiện rõ nét các nội dung của một nguyên tắc, đó là nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, BLTTDS năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua vào ngày 25/11/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Trong đó, để thi hành khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định tại Điều 24, coi tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS Việt Nam, cùng với đó là
  • 34. 27 nhiều quy định mới khác nhằm bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện có hiệu quả như: quy định rõ nội hàm của nguyên tắc này theo hướng Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập; có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ. Tòa án phải bảo đảm mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét công khai. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
  • 35. 28 Kết luận Chương 1 Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau: 1. Tranh tụng trong TTDS là phương pháp giải quyết vụ án dân sự trên cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của các bên đương sự về việc đưa ra, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của mình và phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án, được Tòa án làm căn cứ để giải quyết vụ án. Chủ thể thực hiện tranh tụng là đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (nếu có), thực hiện tranh tụng xuất phát từ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án là cơ quan bảo đảm cho quá trình tranh tụng và ghi nhận kết quả tranh tụng trong quyết định giải quyết vụ án. 2. Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải quyết vụ án dân sự trên cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của các bên đương sự về việc đưa ra, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của mình và phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án, Tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng để giải quyết vụ án dân sự. 3. Nguyên tắc tranh tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong TTDS Việt Nam, giúp Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ án một cách nhanh nhất để giải quyết vụ án. Đây cũng là một phương thức giải quyết vụ án một cách dân chủ, thông qua việc thu thập, cung cấp chứng cứ; đối đáp, tranh luận còn giúp cho đương sự thêm hiểu biết pháp luật và tạo lòng tin vào pháp luật. Các quy định có tính tiền đề về tranh tụng đã được ghi nhận trong lịch sử lập pháp Việt Nam và cho đến nay tranh tụng đã được ghi nhận là một nguyên tắc trong BLTTDS năm 2015.
  • 36. 29 Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham gia tố tụng 2.1.1. Quy định về quyền bình đẳng trong tố tụng dân sự Điều 8 BLTTDS năm 2004 ghi nhận sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS, theo đó: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS, Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”. Quy định tại khoản 1 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011 tiếp tục ghi nhận: “Các đương sự có các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng”. Quy định về sự bình đẳng này là nền tảng căn bản để thực hiện nguyên tắc tranh tụng, tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho các bên đương sự có thể tranh tụng một cách thực chất. Người đại diện của đương sự là người thực hiện thay các hoạt động tranh tụng của đương sự, họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự tại Tòa án. Do vậy, người đại diện trong TTDS cũng có quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án như đối với đương sự mà họ đại diện. Đây chính là tiền đề căn bản của việc thực thi nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. 2.1.2. Quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và thời điểm được bổ sung yêu cầu trong quá trình Tòa án giải quyết tranh chấp Quyền yêu cầu phản tố là một trong những quyền liên quan đến tranh tụng trong TTDS, xét trong mối quan hệ giữa yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với
  • 37. 30 yêu cầu phản tố của bị đơn có thể thấy đã có sự đối kháng nhau về quyền lợi, đòi hỏi cần tranh tụng để giải quyết. Tuy nhiên, việc phản tố của bị đơn được thực hiện sau việc khởi kiện nguyên đơn. Do vậy, để yêu cầu phản tố này không gây khó khăn cho việc thực hiện tranh tụng của nguyên đơn, pháp luật đã có quy định giới hạn quyền phản tố trong một số trường hợp nhất định. Cụ thể là theo quy định tại Điều 176 BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; - Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; - Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Ngoài ra, để yêu cầu phản tố không gây khó khăn cho việc thực hiện tranh tụng của nguyên đơn, khoản 3 Điều 176 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã có quy định giới hạn thời điểm mà bị đơn có thể thực hiện quyền phản tố là “trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”. Quy định này tạo điều kiện cho nguyên đơn có thời gian tiếp cận hồ sơ, chuẩn bị chứng cứ, tài liệu và lập luận cần thiết để tranh tụng trước phiên tòa. Cũng với mục đích bảo đảm tranh tụng của nguyên đơn và bị đơn cũng như các đương sự khác, Điều 177 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã có những quy định tương tự đối với quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu độc lập khi hội đủ các điều kiện như: việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang
  • 38. 31 được giải quyết; yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng chỉ có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Việc nghiên cứu cho thấy mặc dù pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự và ghi nhận quyền “Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu...” của đương sự tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011 nhưng để quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu này không gây khó khăn cho các đương sự khác trong việc thực hiện tranh tụng, tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS năm 2004 đã quy định: “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”. 2.1.3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình 2.1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ Đương sự có quyền và nghĩa vụ “Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Đây là quyền và nghĩa vụ thể hiện sự chủ động, tích cực của đương sự khi tham gia tố tụng, theo đó các đương sự có quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, phản yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp hoặc phản bác yêu cầu của các đương sự khác. Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền cung cấp tài liệu và chứng cứ của đương sự, tạo điều kiện cho việc thực hiện tranh tụng, BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã quy định đương sự có quyền “Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án” (điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Yêu cầu cung cấp chứng cứ của đương sự được thể hiện dưới hình thức văn bản và khi
  • 39. 32 nhận được yêu cầu của đương sự “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự… tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự… và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự… biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ” (Điều 7 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Ngoài ra đương sự cũng có quyền “Đề nghị Toà án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá” (điểm d khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Theo các quy định của BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì đương sự có quyền cung cấp chứng cứ cho Tòa án vào bất kỳ giai đoạn nào của quá trình xét xử vụ án dân sự. Quy định này giống với quy định của BLTTDS của Trung Quốc: “Điều 125 Bộ luật TTDS Trung Quốc cho phép đương sự có thể đưa ra những chứng cứ mới tại phiên tòa”[27, tr.102]. Nhằm hạn chế việc thiếu hợp tác của một bên đương sự, gây trở ngại cho việc tranh tụng, khoản 4 Điều 96 BLTTDS năm 2015 đã có những quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ, theo đó “Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này…”. Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã khống chế thời gian cung cấp chứng cứ của đương sự cho Tòa án bằng việc Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự ấn định, nhưng không quá thời hạn chuẩn bị xét xử. Vậy, BLTTDS năm 2015 đã hạn chế được phần nào những bất cập trong quá trình tố tụng gây ra bởi việc đương sự cố tình không xuất trình chứng cứ ngay khi thu thập được mà để đến thời điểm nào đó gây được bất ngờ cho bên đương sự đối phương thì mới xuất trình.
  • 40. 33 Các quyền yêu cầu trên đây liên quan đến nguyên tắc tranh tụng bởi lẽ nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức hay trách nhiệm thu thập tài liệu của Tòa án xuất phát từ yêu cầu của đương sự và để chứng minh cho yêu cầu của đương sự, nó thể hiện quan điểm, lý lẽ của đương sự về một nội dung nào đó trong vụ án dân sự mà Tòa án đang giải quyết. Ngoài ra, trong tranh tụng thì vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là hết sức quan trọng. Đương sự có thể nhờ sự hỗ trợ của Luật sư hoặc người khác để thực hiện việc tranh tụng trước Tòa án. Trong hoạt động tranh tụng, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng được quy định có quyền “Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” (khoản 2 Điều 64 BLTTDS). Quy định này tạo điều kiện cho người bảo vệ quyền có được các chứng cứ cần thiết để thực hiện việc tranh tụng, tìm ra những căn cứ cho việc biện hộ từ đó giúp đương sự có thể tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 2.1.3.2. Quyền được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình Đương sự có quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập” (điểm đ khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Đây là một quyền quan trọng bảo đảm đương sự có được đầy đủ các chứng cứ của đương sự phía bên kia cũng như chứng cứ Tòa án đã thu thập được để chuẩn bị cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Điều 17 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP đã có những hướng dẫn về trình tự cụ thể thực hiện quyền này của đương sự như sau: “Đương sự chỉ được yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án trước khi Tòa án mở phiên toà xét xử vụ án. Khi có yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ phải làm đơn gửi Tòa án có thẩm quyền. Nếu họ trực tiếp đến Tòa án trình bày yêu cầu được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ cũng phải thể hiện bằng văn bản nộp cho Tòa án. Nếu
  • 41. 34 đương sự là người không biết chữ, thì Tòa án lập biên bản ghi rõ yêu cầu của họ. Biên bản phải được đọc lại cho người có yêu cầu nghe, ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Đơn hoặc văn bản yêu cầu phải ghi cụ thể các tên tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp. Trên cơ sở đề nghị của đương sự, Tòa án tạo điều kiện cho họ được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ mà họ có yêu cầu. Tuy nhiên, theo quy định về chế độ bảo quản hồ sơ vụ án, về trách nhiệm của cán bộ, công chức của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo quản hồ sơ vụ án, thì Tòa án yêu cầu đương sự thực hiện quyền ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như sau: Tòa án cung cấp cho đương sự những tài liệu, chứng cứ cần ghi chép, sao chụp theo yêu cầu của họ, để họ thực hiện việc ghi chép, sao chụp bằng máy ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật khác của họ. Các tài liệu chứng cứ đó phải liên quan đến vụ án, không liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư. Nếu không cung cấp tài liệu nào theo đề nghị của đương sự thì cần nêu rõ lý do. Trong trường hợp đương sự không có máy ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật khác để tự mình thực hiện việc sao chụp và nhờ Tòa án sao chụp giúp, thì tuỳ theo các điều kiện cụ thể, lực lượng cán bộ của Tòa án mà có thể sao chụp giúp được thì đương sự phải trả chi phí sao chụp theo quy định chung. Việc sao chụp có thể được thực hiện ngay hoặc có thể trong một thời hạn hợp lý do Tòa án ấn định. Việc ghi chép, sao chụp phải được thực hiện tại trụ sở của Tòa án dưới sự giám sát của cán bộ Tòa án và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư”. Về quyền được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình, trong BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011 của Việt Nam đều không quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp cho đương sự khác bản sao yêu cầu cùng với tài liệu, chứng cứ kèm theo hoặc chứng cứ bổ sung cho yêu cầu trước
  • 42. 35 đó khi họ nộp cho Tòa án. Điều này sẽ làm hạn chế quyền được biết tài liệu, chứng cứ dẫn tới hạn chế khả năng tranh tụng của đương sự. Bởi lẽ, không phải lúc nào đương sự cũng có thể tiếp xúc được với hồ sơ vụ án để cập nhật kịp thời những yêu cầu, chứng cứ mới của các đương sự khác xuất trình. Về điểm này pháp luật TTDS Pháp và Liên Bang Nga đã có những quy định nhằm bảo đảm hơn quyền về tranh tụng của đương sự [27, tr.99;101], Điều 149 BLTTDS Liên Bang Nga quy định như sau: “1. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn hoặc đại diện của nguyên đơn chuyển cho bị đơn bản sao chứng cứ mà dựa vào đó nguyên đơn đưa ra yêu cầu; ... 2. Bị đơn và đại diện của bị đơn: 1) Làm rõ hơn yêu cầu của nguyên đơn và những căn cứ của yêu cầu đó; 2) Chuyển cho nguyên đơn, đại diện của nguyên đơn và Tòa án ý kiến phản đối bằng văn bản đối với những yêu cầu của nguyên đơn; 3) Chuyển cho nguyên đơn, đại diện của nguyên đơn và Tòa án những chứng cứ làm cơ sở cho ý kiến phản đối của bị đơn… [1, tr.126]. Điểm hợp lý này đã được tiếp thu và khắc phục trong các quy định tại khoản 5 Điều 96 BLTTDS năm 2015. Theo đó, khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS năm 2015 hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác. 2.1.4. Quy định về quyền bảo vệ và tranh luận Quyền bảo vệ và quyền tranh luận là những quyền về tranh tụng hết sức quan trọng đối với đương sự. Đương sự có quyền “Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình” (điểm i khoản 2 Điều 58
  • 43. 36 BLTTDS sửa đổi năm 2011). Trước tiên, xuất phát từ chính lợi ích của các đương sự pháp luật cho phép họ được quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án dân sự đang được giải quyết tại Tòa án. Trong trường hợp nếu các đương sự không tự bảo vệ được quyền lợi của mình hoặc có nhu cầu nhờ người khác có khả năng tốt hơn (thường là Luật sư hoặc người có am hiểu pháp luật) thực hiện quyền này thay mình, sẽ được Tòa án xem xét, chấp nhận. Người được đương sự nhờ bảo vệ quyền lợi có thể là người đại diện, hoặc cũng có thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người này có quyền như đương sự, nếu là người đại diện hoặc có quyền “giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” (khoản 5 Điều 64 BLTTDS năm 2004), nếu là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Xuất phát từ quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền lợi được quyền tranh luận, quyền cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đưa ra... trong đó tranh luận là biện pháp cần thiết, thực tế và hiệu quả giúp đương sự bảo vệ quyền lợi của mình. Tranh luận được hiểu là việc phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ, về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án dân sự, bảo vệ cho yêu cầu của mình và phản bác lại yêu cầu đối lập. Điểm m khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi năm 2011 quy định đương sự có quyền “tranh luận tại phiên tòa”, quyền này cũng được trao cho người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Tuy nhiên, quyền tranh luận không chỉ được thực hiện ở phiên tòa mà đương sự còn có thể thực hiện quyền này trong quá trình đối chất, quá trình hòa giải tại Tòa án (xem thêm Mục 2.3.2.3. và Mục 2.3.2.4 của Luận văn này).