Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, cho các bạn tham khảo
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
Luận văn: Trợ giúp pháp lý cho người nghèo tại tỉnh Bắc Giang, HAY
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG LÂM BÍCH
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG LÂM BÍCH
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Đặng Lâm Bích
4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
UBND : Uỷ ban Nhân dân
HĐND : Hội đồng Nhân dân
5. MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. i
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1.......................................................................................................... 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO..... 8
1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý và trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo......... 8
1.1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý................................................................ 8
1.1.2. Khái niệm về trợ giúp pháp lý cho người nghèo ................................13
1.2. Chính sách pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay...........15
1.3. Đặc điểm trợ giúp pháp lý cho người nghèo..........................................22
1.4. Chủ thể của hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo ...................24
1.4.1. Chủ thể thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo ......24
1.4.2.Chủthểlàđốitượngcủahoạtđộngtrợgiúppháplýchongườinghèo............29
1.5. Hình thức, phƣơng pháp, nội dung, lĩnh vực trợ giúp pháp lý cho
ngƣời nghèo....................................................................................................31
1.5.1. Hình thức .............................................................................................31
1.5.2. Phƣơng pháp........................................................................................33
1.5.3. Nội dung, lĩnh vực ...............................................................................34
1.6. Vai trò của trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo.....................................35
1.7. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho ngƣời
nghèo...............................................................................................................39
1.8. Dự báo nhu cầu trợ giúp pháp lý của ngƣời nghèo trong thời gian tới......43
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..............................................................................44
Chƣơng 2........................................................................................................45
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO Ở
TỈNH BẮC GIANG.......................................................................................45
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ở tỉnh Bắc Giang liên quan đến trợ
giúp pháp lý cho ngƣời nghèo ......................................................................45
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên................................................................................45
6. 2.1.2. Tình hình kinh tế xã hội......................................................................46
2.1.3. Khái quát về người nghèo ở tỉnh Bắc Giang......................................49
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật của tỉnh Bắc Giang về hoạt động
trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo trên địa bàn tỉnh..................................50
2.2.1. Việc xây dựng, chi tiết hóa các văn bản pháp luật của tỉnh Bắc Giang
về trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh................................50
2.2.2. Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành của Bắc Giang liên quan
đến trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh. ............................53
2.3. Thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo ở tỉnh Bắc
Giang ..............................................................................................................56
2.3.1. Hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động trợ giúp
pháp lý cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang..................................................56
2.3.2. Cơ sở vật chất, kinh phí và việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Bắc Giang ...............................................60
2.3.3. Các hình thức và phương pháp tiến hành hoạt động trợ giúp pháp lý
cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang...............................................................61
2.3.4. Hoạt động kiểm tra, đánh giá công tác trợ giúp pháp lý cho người
nghèo ở tỉnh Bắc Giang.................................................................................66
2.3.5. Thực trạng hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở
tỉnh Bắc Giang................................................................................................69
2.4. Đánh giá về công tác trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo ở tỉnh Bắc
Giang ..............................................................................................................74
2.4.1. Những thành tựu..................................................................................74
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân.........................................................77
2.5. Kinh nghiệm trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo ở tỉnh Hải Dƣơng..........82
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..............................................................................85
Chƣơng 3........................................................................................................86
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO
NGƢỜI NGHÈO Ở TỈNH BẮC GIANG....................................................86
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý cho ngƣời
nghèo ở tỉnh Bắc Giang.................................................................................86
7. 3.2. Những yêu cầu khách quan đối với trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo
ở tỉnh Bắc Giang............................................................................................90
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo
ở tỉnh Bắc Giang............................................................................................94
3.3.1. Tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, giám sát, quản lý Nhà nước của
các cơ quan có thẩm quyền ở Bắc Giang đối với hoạt động trợ giúp pháp lý
cho người nghèo trên địa bàn tỉnh................................................................94
3.3.2. Tăng cường sự phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan tiến hành
tố tụng trong việc trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang .....96
3.3.3. Vận dụng linh hoạt các hình thức, đổi mới phương pháp trợ giúp
pháp lý cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang..................................................97
3.3.4. Nâng cao tính chủ động của đối tượng người nghèo cần trợ giúp
pháp lý ở tỉnh Bắc Giang .............................................................................100
3.3.5. Bảo đảm các điều kiện về kinh phí, vật chất cho hoạt động trợ giúp
pháp lý cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang................................................101
3.3.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp
pháp lý...........................................................................................................101
3.3.7. Bảo đảm nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư ở tỉnh Bắc
Giang.............................................................................................................102
3.3.8. Tăng cường cơ chế chịu trách nhiệm cá nhân đối với những cá nhân
thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang.................104
3.3.9. Tăng cường xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo
ở tỉnh Bắc Giang ..........................................................................................106
3.3.10. Nâng cao chất lượng văn bản của tỉnh Bắc Giang, tăng cường công
tác kiến nghị với Nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc
gia về trợ giúp pháp lý..................................................................................108
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3............................................................................112
KẾT LUẬN..................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................115
PHỤ LỤC...........................................................................................................
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI ngày 23/6/2006, Luật Trợ giúp
pháp lý chính thức được thông qua (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007)
đã đánh dấu một bước chuyển lớn, đưa hoạt động trợ giúp pháp lý lên một
tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và xu thế thời đại.
Theo quy định tại Điều 3 của Luật Trợ giúp pháp lý thì “trợ giúp pháp lý được
hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp
lý, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp
phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công
bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”.
Hiện nay, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội còn lớn, sự không
ngang bằng trong việc tiếp cận với các điều kiện giáo dục, y tế, văn hóa… và
đặc biệt là tiếp cận với các dịch vụ pháp lý còn có khoảng cách đáng kể. Bởi
vậy, một số trường hợp người dân không được tư vấn pháp luật hoặc không
mời được luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại
dẫn đến việc họ dễ bị thiệt thòi trước pháp luật. Tổ chức trợ giúp pháp lý của
Nhà nước ra đời đã tạo điều kiện để người nghèo, người có công với cách
mạng và một số đối tượng yếu thế khác có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ
pháp lý, củng cố lòng tin của Nhân dân vào pháp luật và góp phần thực hiện
công bằng xã hội.
Ở tỉnh Bắc Giang, tỷ lệ người nghèo còn khá lớn, công tác trợ giúp
pháp lý nói chung và trợ giúp pháp lý cho người nghèo nói riêng thường
xuyên nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự quan tâm
chỉ đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện của Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp.
9. 2
Các cấp ủy, chính quyền và các sở, ban, ngành liên quan có sự quan tâm phối
hợp thực hiện tốt công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo đặc biệt là Đảng
uỷ và UBND các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, những
người thực hiện trợ giúp pháp lý như trợ giúp viên pháp lý, luật sư cộng tác
viên… luôn nỗ lực, cố gắng khắc phục khó khăn trong việc tổ chức thực hiện
hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo nhất là hoạt động trợ giúp pháp
lý lưu động.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt
động trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang còn
những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nhất định như: Hoạt động trợ giúp pháp
lý cho người nghèo dàn trải theo nhiều hình thức, chưa đảm bảo đúng trọng
tâm là cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý theo vụ việc, nhất là vụ việc tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo; Hệ thống tổ
chức thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và cho người nghèo nói riêng chưa
phù hợp và hoạt động chưa hiệu quả so với yêu cầu thực tiễn; Trợ giúp viên
pháp lý chưa thực sự chuyên nghiệp trong hoạt động tham gia tố tụng; Kinh
phí đảm bảo của công tác trợ giúp pháp lý còn hạn chế, không thường xuyên
và phân bổ các khoản chi chưa hợp lý; Công tác xã hội hóa hoạt động trợ giúp
pháp lý cho người nghèo còn chậm.
Hơn nữa, về mặt lý luận, hoạt động trợ giúp pháp lý đã được các nhà
khoa học nghiên cứu ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác. Tuy nhiên, ở tỉnh
Bắc Giang đến nay trên chưa có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp về
vấn đề này để tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động trợ giúp pháp lý
trên địa bàn tỉnh.
Xuất phát từ yêu cầu lý luận và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và đảm
bảo quyền con người đặc biệt là bảo vệ những người yếu thế trong xã hội,
trong đó có người nghèo, việc nghiên cứu về công tác trợ giúp pháp lý nói
chung và cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang nói riêng là một vấn đề quan
trọng và cần thiết.
10. 3
Do vậy, việc triển khai nghiên cứu đề tài: "Trợ giúp pháp lý cho người
nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang'' làm luận văn thạc sĩ là cần thiết, vừa có
ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây trên phạm vi cả nước đã có những công trình khoa
học và tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực trợ giúp pháp lý như sau:
- TS. Đinh Trung Tụng (2006), “Phương hướng xây dựng Luật Trợ
giúp pháp lý”, Tập san Trợ giúp pháp lý;
- Tạ Thị Minh Lý (2006), “Bàn về khái niệm trợ giúp pháp lý”, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật;
- TS. Trần Huy Liệu (2005), “Một số vấn đề về trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách”, Thông tin Khoa học pháp lý;
- Tạ Thị Minh Lý (2008), “Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Nguyễn Văn Tùng (2007), “Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
- Trịnh Thị Thùy Anh (2012), “Trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Bích Ngọc (2012), “Các giải pháp nâng cao hiệu quả trợ giúp
pháp lý”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Lê Thị Thúy (2012), “Hoạt động trợ giúp pháp lý qua các chương trình
giảm nghèo”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Đào Dư Long (2013), “Chất lượng trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Trần Thị Việt Hà (2015), “Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt
Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. 4
Ngoài ra còn một số bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí chuyên
ngành về Nhà nước và pháp luật.
Các công trình trên chủ yếu nghiên cứu về quản lý Nhà nước về trợ
giúp pháp lý, hoạt động trợ giúp pháp lý trong phạm vi toàn quốc, ở tầm vĩ
mô (chỉ có một công trình nghiên cứu về trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa là trong phạm vi một tỉnh).
Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong những năm gần đây có nhiều công
trình nghiên cứu về người nghèo và thực hiện pháp luật trong một số lĩnh vực,
có thể kể đến một số công trình sau:
- Nguyễn Văn Công (2013), Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Lý Thị Vui (2014), An sinh xã hội trong các hoạt động giảm nghèo
tại xã Tam Dị - huyện Lục Nam – tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Xã hội
học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn;
- Nguyễn Thị Hiên (2014), Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp
luật (qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Trương Ngọc Bích (2014), Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của UBND tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu các công trình cho thấy ở tỉnh Bắc Giang hiện nay chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống và cụ thể về trợ giúp
pháp lý cho người nghèo. Vì vậy, đây có thể được coi là đóng góp mới,
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý cho người
nghèo ở tỉnh Bắc Giang.
12. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là phân tích cơ sở lý luận và vấn đề
thực tiễn về hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo trong thời kỳ mới.
Đánh giá thực trạng việc trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang trong thời gian gần đây để xác định quan điểm, giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở tỉnh Bắc Giang.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ cơ sở lý luận, xác định khái niệm, nội dung
pháp luật về trợ giúp pháp lý, đối tượng được trợ giúp pháp lý là người nghèo.
- Phân tích vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo.
- Đánh giá về thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong những năm gần đây. Trong đó tập trung phân
tích, đánh giá những ưu điểm, những khó khăn, hạn chế trong hoạt động trợ
giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và rút ra các nguyên
nhân của những thành tựu, hạn chế.
- Luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm
nâng cao hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về trợ giúp
pháp lý, vai trò, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý đối với người nghèo trên cơ sở thực
trạng hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng lý luận chung về hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đi
sâu và phân tích hoạt động trợ giúp pháp lý và luận chứng chứng minh vai trò của
hoạt động này đối với người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
13. 6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Các quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước; từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân, đặc biệt là quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cải cách bộ máy hành chính Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bởi phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn đã sử dụng nhiều
phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, điều tra xã hội học.
Luận văn đã tiến hành tổng hợp, rà soát, thống kê các văn bản quy
phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý và văn bản pháp luật khác có liên quan;
nghiên cứu các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước có liên hệ trực tiếp đến
hoạt động trợ giúp pháp lý; phân tích Báo cáo của Sở Tư pháp Bắc Giang, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Giang, Báo cáo của UBND tỉnh
Bắc Giang, UBND tỉnh Hải Dương về hoạt động trợ giúp pháp lý từ năm
2007 đến 2014.
Luận văn đã tiến hành điều tra xã hội học đối với 03 nhóm đối tượng là
cán bộ, công chức, viên chức thuộc các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; cá
nhân trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý và người nghèo - đối tượng thụ
hưởng trợ giúp pháp lý để có căn cứ đánh giá hiệu quả thực trạng hoạt động
này ở Bắc Giang.
14. 7
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đưa ra một số quan điểm góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về trợ
giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý cho người nghèo.
- Mô tả thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở Bắc
Giang; đánh giá một cách có hệ thống về trợ giúp pháp lý cho người nghèo
tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất và luận giải về một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả trong việc trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần xây dựng cơ sở khoa học về trợ giúp
pháp lý trên địa bàn cấp tỉnh nói chung, trong đó có tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đã góp phần chỉ ra những thành tựu, hạn
chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác trợ giúp pháp lý cho người
nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, đề xuất các giải pháp có thể giải quyết
được những bất cập trong trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn tỉnh
tỉnh Bắc Giang hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 15 tiết.
15. 8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO
1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý và trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo
1.1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “Trợ giúp pháp lý” xuất phát từ tiếng Anh là Legal aid. Theo
từ điển Anh – Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm
1997 thì “Legal aid” được dịch là “Trợ cấp pháp lý”. Ngoài ra, trong một số
tài liệu khác dịch “Legal aid” là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ
trợ tư pháp”… Có rất nhiều cách dịch khác nhau về thuật ngữ này nhưng xuất
phát từ bản chất và hình thức hoạt động “legal aid” trên thế giới và thực tiễn
hoạt động này ở Việt Nam trong thời gian qua, thuật ngữ “Legal aid” được
dịch là “Trợ giúp pháp lý” đang được sử dụng chính thức trong các văn bản
và sách báo ở Việt Nam hiện nay.
Dưới góc độ ngôn ngữ học: Từ thế kỷ 20, "Trợ giúp pháp lý" - "Legal
aid" bắt đầu được sử dụng phổ biến, "đó là việc cung cấp cho những người
không có đủ khả năng có được đại diện pháp lý khi tiếp cận với hệ thống tư
pháp. Nó được coi là trụ cột của tiếp nhận công lý để bảo đảm mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền được tư vấn và quyền được xét xử
một cách công bằng"[2]. Khái niệm trợ giúp pháp lý bao gồm việc giúp đỡ
toàn bộ hoặc một phần cho những người không có điều kiện kinh tế chi trả
cho các dịch vụ liên quan đến pháp luật và kinh phí để chi trả cho sự hỗ trợ
này được lấy được ngân sách Nhà nước [3, tr8].
Dưới góc độ luật thực định, pháp luật về trợ giúp pháp lý của một số
nước định nghĩa về trợ giúp pháp lý không thống nhất, như là “sự trợ giúp
trong việc sử dụng bất kỳ biện pháp nào mà một người có thể sử dụng, gồm
cả các biện pháp đối với thủ tục tố tụng, liên quan đến việc áp dụng pháp
16. 9
luật” (Điều 2 Luật về trợ giúp pháp lý năm 1988 của Anh); “là hoạt động có
mục đích tạo điều kiện cho người gặp khó khăn về tài chính có cơ hội tiếp cận
với dịch vụ pháp lý” (Québec, Canada); “là tạo sự công bằng khi tiếp cận
pháp luật của các cá nhân không thể thuê mướn luật sư, tạo cơ hội cho những
người có thu nhập thấp (Điều 1001, Luật về công ty dịch vụ pháp lý của Mỹ
sửa đổi năm 1977), “là việc giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho
những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp
luật, đại diện hoặc bào chữa trước Tòa án” (Đức), “là việc đại diện cho khách
hàng trước Tòa án nhằm giúp đỡ những người không có khả năng chi trả cho
các dịch vụ pháp lý” (Điều 2 Luật đại diện và tư vấn pháp lý năm 1995 của
Singapore), “là việc tư vấn và đưa ra ý kiến; soạn thảo các hợp đồng; cung
cấp các dịch vụ pháp lý phục vụ hoạt động tranh tụng cho những người nghèo
và người bị đối xử bất công” (Luật về hành nghề luật B.E.2528 năm 1985 của
Thái Lan)…[3, tr9,10]. Nhìn chung, nội hàm khái niệm trợ giúp pháp lý trong
pháp luật thực định của các nước đều thể hiện tính kinh tế, nhân đạo và pháp
lý. Tính kinh tế, nhân đạo thể hiện ở chỗ trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ về tài
chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí khi tiếp
cận với dịch vụ pháp lý. Tính pháp lý thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải
quyết các vụ, việc có liên quan đến pháp luật. Phạm vi rộng, hẹp có khác nhau
nhưng đều có nội hàm là để giúp đỡ pháp luật cho những nhóm người cụ thể
và nhóm này không phải trả thù lao cho dịch vụ được hưởng.
Dưới góc độ khoa học ở Việt Nam, trợ giúp pháp lý được hiểu “là sự
cung cấp dịch vụ pháp lý của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, đối tượng
chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số qua các hình thức tư vấn pháp luật,
đại diện, bào chữa nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật và thực hiện công bằng xã hội” (nghĩa rộng) hoặc “là sự giúp đỡ của các
tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người nghèo, đối tượng chính sách
17. 10
và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp
luật, đại diện, bào chữa), nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội” (nghĩa hẹp) [39, tr22]. Hướng
tiếp cận này được tiếp tục phát triển và hoàn thiện, theo đó, trợ giúp pháp lý là
việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho
người nghèo, người được hưởng chính sách ưu đãi và một số đối tượng khác
do pháp luật quy định thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện, bào
chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật,
góp phần thực hiện công bằng xã hội [40, tr21]. Ngoài ra, có quan điểm cho
rằng trợ giúp pháp lý là việc Nhà nước, các tổ chức xã hội và các cá nhân thực
hiện việc cung ứng dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc có thu phí nhưng thấp hơn
giá trị của dịch vụ bao gồm đại diện, bào chữa, tư vấn pháp luật và các loại
hình giúp đỡ pháp luật khác cho những đối tượng nhất định. Hay có quan
điểm cho rằng trợ giúp pháp lý là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí
hoặc có giảm chi phí cho những đối tượng nhất định hoặc trong những trường
hợp cần thiết nhằm bù đắp, bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng, giúp họ có
điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp được Hiến pháp và pháp luật quy định [41, tr77-83]. Theo tác giả của
quan niệm này, trợ giúp pháp lý là các dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc có giảm
phí và các hoạt động giúp đỡ pháp luật khác do Nhà nước và xã hội thực hiện
cho những người do điều kiện tài chính, pháp lý, hoàn cảnh xã hội hoặc năng
lực cá nhân không thể tự mình hoặc nhân danh mình thực hiện, nhằm bảo
đảm cho họ công bằng trong tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, đồng thời góp phần bảo vệ lợi ích của
cộng đồng và xã hội [38].
18. 11
Qua các quan điểm trên đây, có thể thấy, trợ giúp pháp lý được thể hiện
qua các khía cạnh sau:
Khía cạnh nghề nghiệp, trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý thuộc phạm
trù nghề luật. Chất lượng trợ giúp pháp lý phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhân
lực có chất lượng nên đòi hỏi người thực hiện trợ giúp pháp lý có trình độ
pháp lý, kỹ năng hành nghề cao, chuyên môn hóa, có đạo đức và uy tín nghề
nghiệp. Người thực hiện trợ giúp pháp lý thường là luật sư (Nhà nước hoặc
hành nghề tự do), trợ giúp viên pháp lý, chuyên gia pháp lý, người hành nghề
luật bán chuyên nghiệp. Tính chất nghề luật thể hiện ở chỗ, trợ giúp pháp lý
lấy pháp luật làm công cụ và có đối tượng là các vụ việc pháp luật. Hình thức
trợ giúp pháp lý là tư vấn, đại diện, bào chữa, bảo vệ trong phạm vi và theo
trình tự luật định.
Khía cạnh chính trị, trợ giúp pháp lý là phương thức tổ chức thực hiện
đường lối của Đảng đã được thể chế hóa trong pháp luật, thông qua vận dụng
pháp luật vào từng trường hợp cụ thể. Qua đó, đưa chủ trương, đường lối của
Đảng vào cuốc sống, khắc phục sự bất cập trong hoạt động công vụ, tăng
cường niềm tin của dân vào pháp luật. Nó còn là cơ chế để phát huy vai trò,
tính đúng đắn của đường lối, chính sách đã được luật hóa. Công dân với tư
cách là chủ thể của quyền lực nên họ phải được bảo đảm về mặt pháp lý để họ
được hưởng công bằng trong phán quyết tranh chấp, khiếu kiện hoặc xét xử.
Qua trợ giúp pháp lý, Nhà nước điều tiết, giải quyết các mối quan hệ xã hội
đang có sự bất ổn, nhằm khắc phục bất cập của công vụ hoặc tình trạng quẫn
bách phải tự “xử lý”, phải “chạy chọt” tốn kém. Trợ giúp pháp lý chính là
công cụ góp phần khắc phục sự bất bình đẳng do phân tầng giầu nghèo, làm
giảm bớt mâu thuẫn giai cấp, từ đó thiết lập sự ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ chế độ và định hướng các quan hệ xã hội theo ý chí của
Nhà nước.
19. 12
Khía cạnh kinh tế, trợ giúp pháp lý là việc Nhà nước và xã hội tạo cơ
chế để một người được nhận tư vấn pháp luật, được đại diện bảo vệ quyền lợi
hoặc được bào chữa miễn phí. Nhà nước có thể cấp kinh phí cho tổ chức nghề
nghiệp (Văn phòng luật sư, Công ty luật…); thuê luật sư theo vụ việc; lập ra
các tổ chức hưởng lương hoặc trực tiếp cấp tài chính cho người dân để họ chi
trả theo vụ việc hoặc tạo lập các thiết chế…Sự cung ứng tài chính của Nhà
nước thực tế có giá trị xã hội và lợi ích kinh tế lớn khi góp phần giữ ổn định
trật tự xã hội, tránh được chi phí giải quyết khiếu kiện không cần thiết để
người dân yên tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải, vật chất cho xã hội.
Từ các khía cạnh thể hiện trên có thể thấy mặc dù có nhiều quan điểm
về trợ giúp pháp lý, tuy nhiên, khái niệm trợ giúp pháp lý được quy định tại
Điều 3, Luật Trợ giúp pháp lý là phù hợp hơn cả, theo đó Trợ giúp pháp lý là
việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo
quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi
phạm pháp luật.
Từkháiniệmtrên,chúngtathấytrợgiúppháplýcónhữngđặcđiểmcơbảnsau:
- Nhà nước là nòng cốt trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách
tư pháp đã chỉ rõ “đẩy mạnh công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách theo hướng xã hội hóa”. Để thực hiện nhiệm vụ của mình,
Nhà nước đã thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền như Bộ Tư
pháp, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Trung tâm
Trợ giúp pháp lý Nhà nước… nhằm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cho
các đối tượng được trợ giúp.
20. 13
- Đối tượng được hưởng các quyền và lợi ích từ việc trợ giúp pháp lý là
người nghèo và đối tượng chính sách theo chế độ của Nhà nước, những người
không có khả năng thanh toán chi phí khi tiếp cận dịch vụ pháp lý và đối
tượng yếu thế trong xã hội khác mà họ không có khả năng, điều kiện để bảo
vệ quyền và lợi ích của mình.
- Hoạt động trợ giúp pháp lý là một hoạt động bổ trợ tư pháp. Theo đó,
trợ giúp viên pháp lý, luật sư cộng tác viên là một trong các chủ thể thực hiện
trợ giúp pháp lý. Do vậy, việc tham gia của trợ giúp viên pháp lý, luật sư cộng
tác viên với tư cách là người bào chữa, đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp tại các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là tham gia tại Tòa án, đây được
coi là một chủ thể hỗ trợ cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Trợ giúp pháp lý là hoạt động Nhà nước khuyến khích, động viên và
huy động lực lượng xã hội tham gia rộng rãi với hình thức phong phú. Hoạt
động trợ giúp pháp lý Nhà nước luôn giữ vị trí nòng cốt nhưng để huy động
sức mạnh của toàn xã hội, Nhà nước đã khuyến khích, động viên Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư, luật sư,
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý.
1.1.2. Khái niệm về trợ giúp pháp lý cho người nghèo
Người nghèo trong xã hội là một hiện tượng xã hội: Có hai loại nghèo,
nghèo về vật chất và nghèo về tinh thần (về tri thức). Nghèo về vật chất
thường có những biểu hiện như thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiền chi tiêu, thiếu
các vật dụng phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, nên các tiêu chuẩn về ăn, ở,
mặc, đi lại, học hành không được bảo đảm. Nghèo về tinh thần thường là việc
bị hạn chế về nhận thức, hạn chế trong việc hưởng thụ các giá trị nghệ thuật,
thiếu hiểu biết, thiếu thông tin, hạn chế trong việc tiếp cận các quyền, tiếp cận
pháp luật...
21. 14
Trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam, việc phân hóa giàu nghèo là rất khó tránh khỏi. Nguyên nhân dẫn đến
nghèo, về khách quan, có thể từ tình trạng thiếu việc làm ở quy mô lớn, điều
kiện thiên nhiên khắc nghiệt tác động đến năng suất lao động, những khó
khăn chung của tình hình kinh tế, xã hội, môi trường, vị trí địa lý. Về chủ
quan, có thể do năng lực tự thân, điều kiện sức khỏe, sự cố gắng, nhận thức,
kiến thức, kỹ năng lao động của từng người cụ thể bị hạn chế... Mặc dù đã ở
vào vị thế của các nước đang phát triển, nhưng số người nghèo ở Việt Nam là
không nhỏ và theo tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc, thì số người nghèo ở Việt
Nam đang có sự gia tăng.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn có mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, có chính sách giúp đỡ
người nghèo, những người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống để người
nghèo có điều kiện phát triển toàn diện và có thể tự làm chủ được cuộc sống
vật chất, tinh thần của mình. Một trong những chính sách đó là chính sách trợ
giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, giúp họ có thể tham gia các quan hệ
pháp luật, thực hiện nghĩa vụ công dân như mọi người khác để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp, sự bình đẳng trước pháp luật cũng như bảo đảm trật
tự chung của xã hội.
Về địa vị pháp lý của người nghèo, Luật Trợ giúp pháp lý và Nghị định
số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý đã quy định: người nghèo là
người thuộc hộ nghèo, được xác định theo chuẩn nghèo do Thủ tướng chính
phủ quy định trong từng giai đoạn.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về trợ giúp pháp lý cho
người nghèo như sau: Trợ giúp pháp lý cho người nghèo là việc cung cấp dịch
vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo theo quy định, giúp người nghèo bảo vệ
22. 15
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật, góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và
vi phạm pháp luật.
Trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở Việt Nam là phù hợp với yêu cầu
thực tế vì tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam khá cao, chủ yếu sống ở các xã,
huyện miền núi, địa lý cách biệt, điều kiện sống khó khăn, khả năng tiếp cận
với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở kém
phát triển, tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên. Trong khi đó, mạng lưới các dịch vụ
pháp lý và số lượng các luật gia, luật sư chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị
xã, phí dịch vụ pháp lý còn cao (thậm chí là quá cao) so với người nghèo. Bởi
vậy mà người nghèo rất cần sự trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước.
1.2. Chính sách pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay
Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam ra đời và phát triển gắn với sự ra đời của
chế định tư pháp bảo trợ của nền tư pháp Nhân dân dưới chế độ mới, gắn liền
với yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nhằm thực thi tốt
nhất các quyền tự do, dân chủ của công dân. Trong mỗi giai đoạn lịch sử,
cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội, chế định này từng bước
hoàn thiện gắn với nhận thức mới về sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp
lý và nghề luật sư cũng như thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với người
nghèo và đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, các quy định về bảo trợ tư pháp gắn với quyền bào chữa và bảo đảm các
quyền bào chữa đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 để thực hiện tốt nhất
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không phân biệt giàu nghèo. Theo
Điều 67, Hiến pháp 1946 thì “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc
23. 16
mượn luật sư”. Trên nền tảng Hiến pháp 1946, các bản Hiến pháp 1959, 1980
vấn đề “tư pháp bảo trợ” được tiếp tục thể hiện gắn với nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Đến năm 1996, Trung tâm Trợ giúp pháp
lý đã được thành lập thí điểm tại tỉnh Cần Thơ và đến năm 1997 thành lập ở
tỉnh Hà Tây theo ý kiến chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII “tổ
chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân, tạo điều
kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”. Ngày
06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc
thành lập tổ chức Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.
Trên cơ sở Quyết định này, mô hình trợ giúp pháp lý, đối tượng được trợ giúp
pháp lý, hình thức trợ giúp pháp lý, các lĩnh vực pháp luật trợ giúp pháp lý,
phương thức trợ giúp pháp lý, phạm vi trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ
giúp pháp lý, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của người thực hiện trợ giúp pháp
lý đã được thiết lập một cách rõ nét [3, tr40-63].
Sau gần 10 năm triển khai thực hiện công tác trợ giúp pháp lý miễn phí
cho người nghèo và đối tượng chính sách, ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa X
kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý. Luật có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2007 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong hoạt động trợ giúp
pháp lý. Để triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành nhiều văn bản để thực
hiện, một số văn bản nổi bật như sau:
- Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý;
- Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ
giúp pháp lý;
24. 17
- Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án Quy hoạch mạng lưới Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước
và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015;
- Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính
phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật
cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn
2011-2020 và chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo;
- Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030;
- Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025;
- Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-
VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân
tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý
hoạt động tố tụng;
- Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV ngày 07/11/2008 của
Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hướng dẫn về tổ chức và biên chế của Trung tâm trợ
giúp pháp lý Nhà nước;
- Thông tư liên tịch số 209/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 30/11/2012 của
Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý Nhà nước;
- Thông tư số 05/2008/TT-BTP ngày 23/9/2008 của Bộ Tư pháp hướng
dẫn về nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý Nhà nước về trợ giúp pháp lý
(được sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục hành chính tại Thông tư số
19/2011/TT-BTP ngày 31/10/2011 của Bộ Tư pháp);
25. 18
- Thông tư số 02/2013/TT-BTP ngày 05/01/2013 của Bộ Tư pháp về Bộ
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý;
- Quyết định số 02/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trợ
giúp pháp lý Nhà nước...
Với các văn bản trên, có thể nói pháp luật về trợ giúp pháp lý đã điều
chỉnh một cách toàn diện và có hệ thống về các vấn đề về người được trợ giúp
pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý,
hoạt động trợ giúp pháp lý và quản lý Nhà nước về trợ giúp pháp lý, có thể
khái quát như sau:
- Về nguyên tắc của hoạt động trợ giúp pháp lý.
Các nguyên tắc gồm: Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được trợ
giúp pháp lý; Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; Sử dụng các biện
pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp
pháp của người được trợ giúp pháp lý; Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề
nghiệp trợ giúp pháp lý; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ
giúp pháp lý (Điều 4, Luật Trợ giúp pháp lý). Bên cạnh đó, người thực hiện
trợ giúp pháp lý phải thực hiện 12 quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý bao
gồm: Giữ gìn và không ngừng nâng cao uy tín nghề nghiệp; trung thực, khách
quan; tuân thủ và tôn trọng pháp luật, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của người được trợ giúp pháp lý; bảo đảm bí mật thông tin về vụ việc
trợ giúp pháp lý; tác phong, thái độ và hành vi ứng xử đúng mực; không phân
biệt đối xử; tôn trọng, hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp; tôn trọng, phối hợp
với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc làm rõ
sự thật khách quan của vụ án; cộng tác, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
thông tin đại chúng; cộng tác, hỗ trợ chính quyền cơ sở; phối hợp, cộng tác
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân [32].
26. 19
- Về người được trợ giúp pháp lý.
Pháp luật về trợ giúp pháp lý quy định người được trợ giúp pháp lý bao
gồm người nghèo, người có công với cách mạng, người già từ đủ 60 tuổi trở
lên sống cô đơn, không nơi nương tựa, người khuyết tật theo Luật Người
khuyết tật, người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV mà không có nơi
nương tựa, trẻ em dưới 16 tuổi không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số
thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, các đối
tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, nạn nhân theo quy định của pháp
luật phòng, chống mua bán người (Điều 10, Luật Trợ giúp pháp lý, Điều 2,
Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Điều 1, Nghị định số
14/2013/NĐ-CP của Chính phủ). Quy định này đã khẳng định sự nhất quán
trong các chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là chính sách xóa đói,
giảm nghèo, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, chính sách dân
tộc… và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng
như bản chất tốt đẹp của chế độ ta đồng thời phù hợp với khả năng thực tế của
đất nước.
- Về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động trợ giúp pháp lý.
Pháp luật trợ giúp pháp lý quy định nghiêm cấm tổ chức thực hiện trợ
giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện các hành vi: Xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ
giúp pháp lý; phân biệt đối xử người được trợ giúp pháp lý; nhận, đòi hỏi bất
kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất nào khác từ người được trợ giúp pháp lý;
sách nhiễu người được trợ giúp pháp lý; tiết lộ thông tin, bí mật về vụ việc trợ
giúp pháp lý, về người được trợ giúp pháp lý trừ trường hợp được người được
trợ giúp pháp lý đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; từ
chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý, trừ trường hợp Luật trợ
27. 20
giúp pháp lý quy định; lợi dụng hoạt động trợ giúp pháp lý để trục lợi hoặc
gây mất trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, thuần phong mỹ
tục của dân tộc, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân; xúi giục người được trợ giúp pháp lý khai, cung cấp thông
tin, tài liệu sai sự thật, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trái pháp luật. Bên cạnh đó,
người được trợ giúp pháp lý, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt
động trợ giúp pháp lý bị nghiêm cấm thực hiện các hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm của người thực hiện trợ giúp pháp lý; cố tình cung cấp thông
tin, tài liệu sai sự thật về vụ việc trợ giúp pháp lý; cản trở hoạt động trợ giúp
pháp lý; gây rối, làm mất trật tự nơi thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 9, Luật
Trợ giúp pháp lý).
- Về vai trò của Nhà nước và các tổ chức khác trong trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước giữ vai trò
nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; khuyến
khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên,
tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia
thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý. Để đảm bảo thực thi
chính sách trợ giúp pháp lý trong thực tiễn, một mặt, Nhà nước thiết lập các tổ
chức trợ giúp pháp lý chuyên trách và hình thành đội ngũ người thực hiện trợ
giúp pháp lý của Nhà nước với tư cách là lực lượng chủ yếu, giữ vai trò nòng
cốt trong việc thực hiện và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Mặt khác, Nhà
nước huy động các nguồn lực xã hội tham gia thông qua cơ chế hình thành,
phát triển đội ngũ cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước
cấp tỉnh và huy động các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật
thuộc các tổ chức đoàn thể, xã hội tham gia trợ giúp pháp lý bằng việc đăng
ký với Nhà nước. Nhà nước còn khuyến khích và tạo điều kiện để các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có lòng hảo tâm có thể đóng
28. 21
góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý qua nguồn tài trợ về tài chính cho Quỹ
trợ giúp pháp lý (Điều 6, Luật Trợ giúp pháp lý, Điều 7, Nghị định số
77/2008/NĐ-CP của Chính phủ, Điều 3, Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ).
- Về vụ việc, lĩnh vực thuộc phạm vi trợ giúp pháp lý.
Chỉ những vụ việc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
được trợ giúp pháp lý và không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại thì
mới được trợ giúp pháp lý (Điều 5, Luật Trợ giúp pháp lý). Việc hạn chế vụ
việc trợ giúp pháp lý không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại đã kế thừa
quy định của pháp luật hiện hành và phù hợp với thông lệ quốc tế về trợ giúp
pháp lý, bảo đảm phù hợp với khả năng thực tế về ngân sách của Nhà nước.
- Về quyền được bồi thường thiệt hại của người được trợ giúp pháp lý
và tiêu chuẩn chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý.
Nhằm nâng cao chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, hạn chế đến mức
thấp nhất các sai sót, vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện vụ việc trợ
giúp pháp lý, pháp luật trợ giúp pháp lý đã quy định: tổ chức thực hiện trợ
giúp pháp lý có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra khi thực
hiện trợ giúp pháp lý (Điều 15,18, Luật Trợ giúp pháp lý). Về tiêu chuẩn chất
lượng vụ việc trợ giúp pháp lý thì vụ việc trợ giúp pháp lý có chất lượng khi
đáp ứng các tiêu chuẩn chung và các tiêu chuẩn cụ thể đối với từng hình thức
trợ giúp pháp lý, đồng thời với đó là cơ chế đánh giá, cơ quan đánh giá, các
hình thức, phương pháp, nội dung đánh giá và hậu quả pháp lý nảy sinh từ
hoạt động đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và quản lý Nhà nước
về chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý [30].
Có thể nói, chính sách pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đã tạo
cơ sở pháp lý quan trọng trong việc hoàn thiện mô hình trợ giúp pháp lý ở
nước ta - mô hình trợ giúp pháp lý hỗn hợp. Trong mô hình này, trợ giúp pháp
29. 22
lý của Nhà nước có vai trò nòng cốt và Nhà nước khuyến khích, huy động các
tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, các tổ chức đoàn thể xã hội, các cơ sở
nghiên cứu và đào tạo luật tham gia trợ giúp pháp lý một cách tự nguyện,
đồng thời quy định nghĩa vụ trợ giúp pháp lý bắt buộc đối với luật sư. Các
vấn đề như người được trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, vụ
việc trợ giúp pháp lý, hình thức, lĩnh vực, phạm vi, hoạt động trợ giúp pháp
lý, tiêu chuẩn chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, quản lý Nhà nước và quản
lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý đã được thiết lập một cách đồng bộ,
thống nhất và toàn diện.
1.3. Đặc điểm trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo
Là một bộ phận của hoạt động trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý cho
người nghèo mang đầy đủ đặc điểm của hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung,
tuy nhiên, loại hình trợ giúp này còn có những đặc điểm riêng như:
- Trợ giúp pháp lý cho người nghèo có đối tượng được trợ giúp pháp lý
mang tính đặc thù - chỉ là những người nghèo.
Khác với các đối tượng được trợ giúp pháp lý khác, người nghèo là
những đối tượng chủ yếu có sự thiếu thốn về vật chất, điều kiện sống - vốn là
những điều kiện quyết định sự sinh tồn của con người trong xã hội. Những
hạn chế về điều kiện kinh tế thường kéo theo những hạn chế về nhận thức
pháp luật, dễ bị tổn thương hơn, không có khả năng tự mình thực hiện quyền
và nghĩa vụ, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, dễ bị các chủ thể khác xâm
hại. Trong tương quan xã hội, các chủ thể này cũng thường xuyên rơi vào vị
thế bị thiệt thòi do không có khả năng tự bảo vệ, thiếu điều kiện tiếp cận
thông tin và sử dụng nguồn lực, dịch vụ…. Về mặt tâm lý, họ là những người
dễ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo, ức chế, dễ bị chèn ép, lợi dụng,
lạm dụng nên hay bi quan, chán nản và quyền công dân, quyền con người của
họ dễ bị vi phạm, dễ dẫn đến tiêu cực hoặc có hành vi “tức nước vỡ bờ”. Trợ
30. 23
giúp pháp lý với tư cách là một dịch vụ pháp lý miễn phí sẽ tạo ra cơ hội cho
những đối tượng này được tiếp cận, chia sẻ thông tin, giảm ức chế, sử dụng
dịch vụ khi có nhu cầu hoặc khi có vướng mắc mà không bị cản trở bởi các
điều kiện kinh tế, vị thế xã hội. Từ đó, tích cực tham gia vào các hoạt động
xóa đói, giảm nghèo về mặt pháp luật, góp phần nâng cao kiến thức hiểu biết
pháp luật cho người nghèo để họ có thể tự mình sử dụng và thực hiện các
quyền và lợi ích hợp pháp, tận dụng các chính sách của Nhà nước để vươn lên
xóa nghèo, cải thiện cuộc sống và thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, hạn chế
những vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết, yên tâm làm ăn, sinh sống.
- Trợ giúp pháp lý cho người nghèo thường có lĩnh vực, vụ việc cần
được trợ giúp pháp lý đa dạng hơn.
Từ những hạn chế về mức sống, thậm chí cùng quẫn về vật chất, người
nghèo thường cũng là những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi, gặp nhiều vướng
mắc ở hầu hết các lĩnh vực trong cuộc sống. Do vậy, người nghèo cũng
thường có nhu cầu trợ giúp pháp lý trong tất cả các lĩnh vực như hình sự, dân
sự, hôn nhân gia đình, đất đai, nhà ở, môi trường, lao động… Trong khi các
đối tượng khác thường chỉ có nhu cầu về vụ việc, lĩnh vực đặc thù. Ví dụ như
người có công với cách mạng thường có nhu cầu về lĩnh vực pháp luật ưu đãi
người có công với cách mạng, hay người già từ đủ 60 tuổi trở lên sống cô
đơn, không nơi nương tựa, người khuyết tật, người bị nhiễm chất độc hóa học,
bị nhiễm HIV mà không có nơi nương tựa thường có nhu cầu trợ giúp pháp lý
đối với lĩnh vực pháp luật về chính sách ưu đãi khác…
- Trợ giúp pháp lý cho người nghèo đòi hỏi các chủ thể thực hiện trợ
giúp pháp lý phải thực sự trách nhiệm và có sự đồng cảm lớn với đối tượng
được trợ giúp pháp lý.
Từ hai đặc trưng trên mà trợ giúp pháp lý cho người nghèo xuất hiện
một đặc điểm như một yêu cầu này. Bởi đối tượng cần trợ giúp rất dễ bi quan,
31. 24
tủi thân, họ lại hầu như không có điều kiện vật chất gì để có thể hỗ trợ hoặc
để có thêm quyết tâm, động lực theo đuổi đến cùng các vụ việc liên quan cần
trợ giúp của mình. Do đó, những người nghèo sẽ rất thiếu sự chủ động nếu
như các cá nhân trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý không có sự cảm thông,
chia sẻ nhất định, đề cao trách nhiệm nghề nghiệp trước hoàn cảnh cũng như
nhu cầu của họ.
1.4. Chủ thể của hoạt động trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo
1.4.1. Chủ thể thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo
Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo gồm tổ chức thực
hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý.
1.4.1.1. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
Trên thế giới, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở hầu hết các nước đều
có hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước và các tổ chức trợ giúp pháp lý phi
Chính phủ (trợ giúp pháp lý xã hội). Hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước
được tổ chức từ Trung ương đến địa phương, có nhiệm vụ thực hiện trợ giúp
pháp lý miễn phí cho các đối tượng nhất định mà chủ yếu là người nghèo. Ví
dụ, ở Philippine là Văn phòng luật sư công (hiện nay là Cục luật sư công) -
giữ vai trò nòng cốt, các Văn phòng khu vực, Văn phòng cấp quận và các Văn
phòng cấp dưới trực thuộc, ngoài ra còn có Ủy ban trợ giúp pháp lý về đất đai
thuộc Bộ Cải cách ruộng đất. Ở Canada và Hàn Quốc, tổ chức trợ giúp pháp
lý được gọi là Cục trợ giúp pháp lý.
Song song với hệ thống trợ giúp pháp lý Nhà nước này là các tổ chức
trợ giúp pháp lý phi Chính phủ và trợ giúp pháp lý của Luật sư tư. Ở Canada
gồm tổ chức trợ giúp pháp lý cộng đồng, Hội trợ giúp pháp lý sinh viên, tổ
chức trợ giúp pháp lý thổ dân… Các tổ chức phi Chính phủ này muốn thành
lập và hoạt động cần gửi đơn xin cấp kinh phí và xin phép hoạt động đến Cục
trợ giúp pháp lý. Sau khi xem xét, nếu đồng ý cho thành lập, Cục trợ giúp
32. 25
pháp lý sẽ ký một bản thỏa thuận với người sáng lập ra tổ chức đó, trong đó
nêu rõ việc phê duyệt thành lập tổ chức, phạm vi, thời gian hoạt động của tổ
chức đó. Trong quá trình hoạt động, Cục trợ giúp pháp lý có thể đưa ra các
hướng dẫn và tiêu chuẩn cụ thể để các tổ chức đó tuân theo. Nếu các tổ chức
này không tuân thủ các hướng dẫn của Cục trợ giúp pháp lý thì Cục có thể
ngừng cấp kinh phí hoặc giảm kinh phí hoạt động theo từng trường hợp. Ở
Phillipine các tổ chức này gồm Trung tâm pháp luật Alterlaw, Hiệp hội Luật
sư là tổ chức xã hội nhưng cũng thực hiện trợ giúp pháp lý. Ở Úc có các
Trung tâm pháp lý cộng đồng, Trung tâm pháp trợ giúp pháp lý cho thổ dân…
Đối với một số nước Bắc Âu (Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan), hệ thống
tổ chức trợ giúp pháp lý thường gồm 2 hệ thống: Hệ thống thứ nhất hình
thành từ các tổ chức tình nguyện của các tầng lớp Nhân dân lao động do các
Luật sư chuyên về lao động thành lập để xử lý các vụ việc về hôn nhân, nhà ở
và lao động; hệ thống thứ hai do Hiệp hội Luật sư thành lập để thực hiện trợ
giúp pháp lý cho người nghèo [3, tr16-17].
Ở Việt Nam, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và cho người
nghèo nói riêng gồm Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước và các tổ chức
tham gia trợ giúp pháp lý (Điều 13, Luật Trợ giúp pháp lý).
Theo đó, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước do UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập. Trung tâm Trợ giúp pháp lý
Nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân,
có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.
Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước được thành lập với chức năng
cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý, giúp họ
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp
luật, giải quyết các vướng mắc, tranh chấp pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm
33. 26
công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước là lực lượng nòng cốt, đại diện cho Nhà
nước trong hoạt động trợ giúp pháp lý.
Với đặc điểm là đơn vị sự nghiệp công lập, được cấp kinh phí, bảo đảm
về cơ sở vật chất, phương tiện, cùng đội ngũ trợ giúp viên, cộng tác viên đông
đảo, so với các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý khác, Trung tâm trợ giúp
pháp lý Nhà nước có nhiều ưu thế trong hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý
miễn phí và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong hoạt động này.
Về các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thì Luật Trợ giúp pháp lý đã
quy định bao gồm tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức tư vấn pháp luật thuộc
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp. Trong đó tổ chức hành nghề luật sư là các Văn phòng luật
sư, Công tư luật được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về
luật sư. Tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hôi, tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp là các Trung tâm
tư vấn pháp luật được thành lập theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày
16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật. Tổ chức tham gia trợ giúp pháp
lý phải đăng ký bằng văn bản về phạm vi, hình thức, lĩnh vực trợ giúp pháp lý
với Sở Tư pháp nơi đã cấp giấy Chứng nhận đăng ký hoạt động.
Trong thời gian tới, với xu thế xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý,
các tổ chức hành nghề luật sư với các luật sư chuyên nghiệp, có khả năng, kỹ
năng và nhiều kinh nghiệm trong hoạt động tranh tụng sẽ là tổ chức ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động trợ giúp pháp lý cho người
nghèo đặc biệt là hoạt động tham gia tố tụng. Bên cạnh đó các tổ chức tư vấn
pháp luật với nguồn lực xã hội mạnh mẽ là lực lượng giải quyết những nhu
cầu tư vấn pháp luật nhỏ của người nghèo.
34. 27
1.4.1.2. Người thực hiện trợ giúp pháp lý
Nhìn chung trên thế giới hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu được thực
hiện bởi đội ngũ luật sư chuyên nghiệp. Ngoài ra, một số nhóm người khác
như sinh viên, cán bộ pháp luật Nhà nước, người có kiến thức pháp luật được
thu hút khuyến khích làm trợ giúp pháp lý. Ở Hàn Quốc, có 3 nhóm người
được thực hiện trợ giúp pháp lý: Luật sư do tổ chức trợ giúp pháp lý tuyển
dụng; Ủy viên trợ giúp pháp lý do Cục trợ giúp pháp lý chỉ định luật sư làm
ủy viên trợ giúp pháp lý để thực hiện các vụ việc đại điện, bào chữa khi các
luật sư đều bận hoặc không có luật sư; Luật sư công là người được Bộ trưởng
Tư pháp chỉ định thực hiện trợ giúp pháp lý nhưng không phải là luật sư mà
chỉ là người có am hiểu về luật. Ở Canada, Dự luật về trợ giúp pháp lý cho
phép những nhóm người sau thực hiện trợ giúp pháp lý: Các luật sư tư có sự
thỏa thuận, cam kết với Cục trợ giúp pháp lý về việc đồng ý giúp đỡ pháp lý
cho người được trợ giúp pháp lý của Cục và nằm trong danh sách luật sư đã
đăng ký của Cục; Người cung cấp dịch vụ không phải là luật sư và chỉ được
cung cấp các dịch vụ giúp đỡ khác, không thuộc loại trợ giúp pháp lý; Thành
viên của tổ chức trợ giúp pháp lý cộng đồng không nhất thiết là luật sư nhưng
phải qua một khóa đào tạo đặc biệt do Cục trợ giúp pháp lý tổ chức; Sinh viên
– người đang theo khóa học để được gia nhập Đoàn luật sư hoặc bất cứ khóa
học pháp luật nào mà Hiệp hội luật sư tổ chức (Những người này được phép
thực hiện trợ giúp pháp lý dưới dạng “Hội trợ giúp pháp lý sinh viên”. Hội
này được thành lập theo yêu cầu của trưởng khoa luật và phải được Cục trợ
giúp pháp lý phê chuẩn); Luật sư thường trực – luật sư được Cục trợ giúp
pháp lý ký hợp đồng để thường trực tại Tòa và giúp đỡ pháp lý cho những
người phải ra tòa mà chưa có luật sư. Những luật sư này có thể làm việc theo
cơ chế kiêm nhiệm hoặc chuyên trách và được Cục trả thù lao theo cơ chế
chung. Ở Philippine, người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm các luật sư
35. 28
công, luật sư tư và các luật sư thuộc các tổ chức trợ giúp pháp lý phi Chính
phủ. Nhìn chung những người này muốn thực hiện trợ giúp pháp lý đều phải
có chứng chỉ luật sư. Bất kỳ người nào muốn làm việc với tư cách luật sư tư
hay làm việc trong một cơ quan pháp luật của Chính phủ đều phải có bằng
Đại học luật và qua kỳ thi tuyển để trở thành luật sư do Hiệp hội luật sư tổ
chức. Sau khi đã được công nhận là luật sư, họ được tự lựa chọn cho mình trở
thành luật sư tư hay làm việc cho một cơ quan pháp luật Nhà nước [3, tr18-19].
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, người
thực hiện trợ giúp pháp lý cũng phải là người có kiến thức pháp luật sâu rộng,
cụ thể bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý, Cộng tác viên, Luật sư và Tư vấn viên
pháp luật (Điều 20, Luật Trợ giúp pháp lý).
Trợ giúp viên pháp lý theo quy định phải là công dân Việt Nam thường
trú tại Việt Nam và có đủ các tiêu chuẩn sau: có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ; có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; có Chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; có thời gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở
lên; có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trợ giúp viên pháp
lý là viên chức Nhà nước, làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước,
được Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp thẻ Trợ giúp
viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp.
Cộng tác viên là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ bảo đảm
hoàn thành nhiệm vụ được giao, tự nguyện tham gia trợ giúp pháp lý mà
không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 20 của Luật
Trợ giúp pháp lý thì được Giám đốc Sở Tư pháp xem xét, công nhận và cấp
thẻ cộng tác viên trong các trường hợp sau đây: Người có bằng cử nhân luật;
người có bằng đại học khác làm việc trong các ngành, nghề có liên quan đến
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Người thường trú ở vùng có điều
36. 29
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi có
bằng trung cấp luật hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ ba năm trở lên
hoặc có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng; Luật sư, Tư vấn
viên pháp luật.
Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về luật
sư, tham gia trợ giúp pháp lý với tư cách cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp
pháp lý Nhà nước theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý.
Tư vấn viên pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý theo sự phân công của
tổ chức tư vấn pháp luật nơi họ làm việc, tham gia trợ giúp pháp lý với tư
cách cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước.
Người thực hiện trợ giúp pháp lý có các quyền và nghĩa vụ sau: Thực
hiện trợ giúp pháp lý; Từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý
trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 45 của Luật Trợ
giúp pháp lý và theo quy định của pháp luật về tố tụng; Được bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp pháp lý; Tuân thủ nguyên tắc hoạt
động trợ giúp pháp lý; Tuân thủ nội quy nơi thực hiện trợ giúp pháp lý; Kịp
thời báo cáo với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý những vấn đề phát sinh
làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý.
Như vậy, mặc dù người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể là người làm
việc trong Nhà nước hoặc tổ chức khác nhưng điều kiện đầu tiên và quan
trọng nhất là có đủ khả năng, trình độ để thực hiện hoạt động này.
1.4.2. Chủ thể là đối tượng của hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo
Chủ thể được trợ giúp pháp lý hay chủ thể là đối tượng của hoạt động
trợ giúp pháp lý cho người nghèo là người nghèo.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội, tổ chức tại
Coopenhaghen – Đan Mạnh (1995) đã đưa ra một định nghĩa về người nghèo
như sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập dưới 1USD/ngày, là số
37. 30
tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”. Theo đó,
Ngân hàng Thế giới đã từng đưa ra chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu nghèo của
các nước, dựa vào GDP hàng năm quy ra USD [48].
Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một
người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình
quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia [49].
Tuy nhiên, cách đánh giá theo GDP cũng chỉ mang tính chất tương đối
và có hạn chế nhất định bởi vì không phải bất cứ nước nào có GDP cao là hết
nghèo đói. Vì vậy ngày nay các nước trên thế giới nhất trí cho rằng, việc đánh
giá mức sống của con người, việc bình xét các quốc gia thuộc loại nước giàu
hay nước nghèo, phát triển hay đang phát triển là dựa vào chỉ số phát triển con
người (HDI) – một tiêu chí tổng hợp gồm ba tiêu chí cơ bản là GDP bình quân
đầu người trong năm, thành tựu y tế xã hội và trình độ văn hóa, giáo dục.
Dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng tựu chung lại, khái niệm đói
nghèo phản ánh những khía cạnh cơ bản sau đây: Không được hoặc ít được
thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người; Mức
sống của người nghèo, hộ nghèo thấp hơn mức sống trung bình của cộng
đồng dân cư tại địa bàn sinh sống; Thiếu hoặc không có cơ hội lựa chọn để
tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Người nghèo là nhóm đối tượng yếu thế của xã hội, chịu ảnh hưởng
trực tiếp và đầu tiên từ quá trình phát triển kinh tế, xã hội, quá trình biến đổi
khí hậu… Người nghèo luôn mang tâm lý tự ti, dè dặt và là nhóm đối tượng
dễ bị tổn thương, luôn sống trong tâm trạng bị gạt ra bên lề và không thuộc về
xã hội. Họ nghĩ rằng mình ở vị trí thấp kém trong thang bậc xã hội, chẳng có
quyền lực hay tiếng nói gì trong xã hội mà họ đang sống. Do quá vất cả với
cuộc sống mưu sinh, người nghèo không có cái nhìn dài hạn mà luôn chọn
thái độ sống vì cái hiện tại, các trước mắt, cái ăn cái mặc hàng ngày… Vì vậy,
38. 31
tìm hiểu cuộc sống, đánh giá đúng về số lượng, mức độ nghèo sẽ giúp cho
Nhà nước có những chủ trương, chính sách phù hợp để hỗ trợ người nghèo tự
ổn định cuộc sống, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Ở Việt Nam, người nghèo là người thuộc hộ gia đình nghèo theo quy
định của pháp luật (Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý, Khoản 1, Điều 2, Nghị
định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ).
Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ
400.000 đồng/người/tháng (4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống và hộ
nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ 500.000
đồng/người/tháng (6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống (Điều 1, Quyết định
số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành chuẩn hộ nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015). Hộ nghèo được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hộ nghèo (sổ hoặc giấy
chứng nhận hộ nghèo) để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước
nói chung và chính sách trợ giúp pháp lý nói riêng.
1.5. Hình thức, phƣơng pháp, nội dung, lĩnh vực trợ giúp pháp lý
cho ngƣời nghèo
1.5.1. Hình thức
Hình thức trợ giúp pháp lý nói chung là cách thể hiện, cách tiến hành
hoạt động trợ giúp pháp lý cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý. Hiện nay,
trên thế giới mỗi nước có những hình thức trợ giúp pháp lý khác nhau tùy
thuộc vào tính chất, nhu cầu trợ giúp pháp lý của đối tượng được trợ giúp
pháp lý. Tuy nhiên hình thức đại diện pháp lý - hình thức tổ chức trợ giúp
pháp lý cử người đại diện bào chữa, bảo vệ cho người được trợ giúp pháp lý
trước cơ quan tiến hành tố tụng là hình thức cơ bản nhất, được quy định trong
chế định trợ giúp pháp lý của nhiều nước. Nhìn chung các nước đều cho phép
thực hiện đại diện cho đối tượng ở mọi giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, phạm vi
39. 32
đại diện và việc bảo đảm đại diện có thể khác nhau tùy theo pháp luật tố tụng
của từng nước [3, tr20]. Ở Phần Lan, bên cạnh hình thức đại diện pháp lý,
hình thức trợ giúp pháp lý chủ yếu là tư vấn, thu thập tài liệu [50]. Hình thức
tư vấn pháp luật là dịch vụ pháp lý nhằm giải thích pháp luật và hướng dẫn
việc thực hiện pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý thông qua lời nói
hoặc văn bản, trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngoài ra, ở Anh, Ấn Độ, Mỹ, ngoài
hình thức đại diện pháp lý và tư vấn pháp luật, hình thức hòa giải cũng thường
xuyên được áp dụng. Trong quá trình thụ lý vụ việc trợ giúp pháp lý, nếu thấy
vụ việc có thể hòa giải được thì tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử người
thực hiện hòa giải [3, tr21]. Như vậy, tựu chung lại, mỗi nước đều có những
hình thức trợ giúp pháp lý được sử dụng khác nhau nhưng chủ yếu là hình
thức đại diện và tư vấn pháp luật.
Ở Việt Nam, hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện bằng 4 hình
thức: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và các hình
thức trợ giúp pháp lý khác (Điều 27, Luật Trợ giúp pháp lý). Là một đối
tượng được trợ giúp pháp lý, các hình thức trợ giúp pháp lý cho người nghèo
cũng được áp dụng theo quy định trên, cụ thể:
- Tư vấn pháp luật: Là hình thức các chủ thể trợ giúp pháp lý cho người
nghèo thực hiện việc hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin
pháp luật hoặc giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý
cho người nghèo.
- Tham gia tố tụng: Là hình thức trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sư
thực hiện đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý khi họ
không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc đại diện
ngoài tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được trợ giúp
pháp lý.
40. 33
- Đại diện ngoài tố tụng: Là hình thức trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật
sư thực hiện đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý khi họ
không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc đại diện
ngoài tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được trợ giúp
pháp lý.
- Hình thức trợ giúp pháp lý khác: Là hình thức trợ giúp viên pháp lý
hoặc Luật sư thực hiện các hình thức trợ giúp pháp lý khác cho người được
trợ giúp pháp lý bằng việc giúp đỡ họ hoà giải, thực hiện những công việc liên
quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định
của pháp luật.
1.5.2. Phương pháp
Phương pháp trợ giúp pháp lý nói chung là cách thức mà chủ thể thực
hiện trợ giúp pháp lý tiến hành nhằm mục đích thực hiện các hình thức trợ
giúp pháp lý cho đối tượng. Ở các nước trên thế giới, các chủ thể thực hiện trợ
giúp pháp lý lại có phương pháp khác nhau để thực hiện trợ giúp pháp lý cho
phù hợp với điều kiện của mình nhưng nhìn chung phương pháp chủ yếu là
phổ biến, truyền thông về trợ giúp pháp lý.
Phương pháp phổ biến, truyền thông về trợ giúp pháp lý có thể thực
hiện thông qua việc in ấn tờ rơi, tờ gấp pháp luật, các buổi diễn thuyết hoặc
khi gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với đối tượng được trợ giúp pháp lý. Bên cạnh
đó, một số quốc gia như Philippine, Úc còn tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động,
phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng [3, tr19].
Ở Việt Nam, để thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể tiến hành bằng nhiều phương
pháp khác nhau như thông qua hoạt động truyền thông và thông tin để đối
tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý biết và hiểu được quyền lợi của mình
và khi họ có yêu cầu họ sẽ biết phải làm như thế nào, tìm đến đâu để đảm bảo
41. 34
quyền cho mình. Hoạt động trợ giúp pháp lý còn được thực hiện thông qua
phương pháp phối hợp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tất cả các
hoạt động, đặc biệt là hoạt động tố tụng.
Bên cạnh đó, phương pháp ưu việt nhất của hoạt động trợ giúp pháp lý
là thực hiện trợ giúp pháp lý lưu động. Đặc biệt đối với người nghèo, hoạt
động trợ giúp pháp lý lưu động được đánh giá là một hình thức trợ giúp pháp
lý hiệu quả vì tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo - đối tượng không có
khả năng về kinh tế, phương tiện đi lại để giảm bớt thời gian và chi phí. Qua
đó, góp phần tuyên truyền phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, tạo được sự tin cậy cho người dân trong việc tìm
hiểu, giải quyết những vấn đề khúc mắc về mặt pháp luật.
1.5.3. Nội dung, lĩnh vực
Hiện nay, trên thế giới lĩnh vực hình sự và dân sự cơ bản đều được các
nước thực hiện trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Trong đó hầu hết các nước
đều thực hiện trợ giúp pháp lý đối với lĩnh vực hình sự vì đây là vấn đề cơ
bản, gắn liền với quyền chính trị, nhân thân của công dân. Đối với lĩnh vực
dân sự, khái niệm dân sự trong pháp luật các nước được hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm nhiều lĩnh vực như hôn nhân và gia đình, đất đai, lao động, việc làm,
di cư, kinh doanh thương mại. Phạm vi trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự
của các nước có nhiều điểm khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính
trị, văn hóa của từng nước. Ví dụ trợ giúp pháp lý của Anh tập trung chủ yếu
vào luật tư và các vấn đề hôn nhân gia đình, phúc lợi xã hội. Tại các nước
khác, đặc biệt là những nước thiết lập hệ thống trung tâm pháp luật cộng đồng
thì lĩnh vực phúc lợi xã hội được quan tâm, chú trọng (Hà Lan, Úc). Đa số các
nước không trợ giúp pháp lý trong vụ việc kinh doanh thương mại bởi đối
tượng tham gia kinh doanh thương mại là những người giàu có, đủ khả năng
chi trả chi phí cho dịch vụ pháp lý, trong khi đó bản chất của hoạt động trợ
42. 35
giúp pháp lý mang tính nhân đạo, dành cho một số đối tượng đặc biệt, có
hoàn cảnh khó khăn.
Ở Việt Nam, pháp luật trợ giúp pháp lý cũng quy định rõ phạm vi trợ
giúp pháp lý nói chung là: Vụ việc trợ giúp pháp lý phải liên quan đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý và không thuộc lĩnh vực
kinh doanh, thương mại (Điều 5, Luật Trợ giúp pháp lý). Nội dung, lĩnh vực
cụ thể của hoạt động trợ giúp pháp lý cũng được quy định rõ ràng tại Điều 34,
Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, cụ thể như sau:
- Pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự;
- Pháp luật về dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án dân sự;
- Pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em;
- Pháp luật hành chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính;
- Pháp luật đất đai, nhà ở, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng;
- Pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm;
- Pháp luật về chính sách ưu đãi xã hội;
- Các lĩnh vực pháp luật liên quan đến chương trình mục tiêu quốc gia
xóa đói, giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân.
Có thể thấy các nội dung, lĩnh vực trợ giúp pháp lý được quy định đã bao
quát hết các lĩnh vực pháp luật nói chung trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
1.6. Vai trò của trợ giúp pháp lý cho ngƣời nghèo
- Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm công bằng xã hội.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của Nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phấn đấu vì
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện”. Thực tế qua 18 năm thực
43. 36
hiện trợ giúp pháp lý đã góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn pháp luật
cho người nghèo và đối tượng khác, bảo đảm cho họ được tiếp cận, sử dụng
pháp luật miễn phí góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghèo.
Giúp người nghèo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện
để thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật.
- Nâng cao ý thức pháp luật cho người nghèo.
Quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo có vai trò quan
trọng trong việc đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần
từng bước nâng cao nhận thức pháp luật của Nhân dân nói chung và người
nghèo nói riêng, tạo ra sự công bằng trong nhận thức và sử dụng pháp luật để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, giúp người nghèo từng bước hoàn
thiện hành vi ứng xử của mình phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm
các đối tượng trợ giúp pháp lý là người nghèo sử dụng pháp luật để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Chính vì vậy, để pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo đi vào
cuộc sống, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, tăng cường và đẩy mạnh
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức tuyên truyền phong
phú để đưa pháp luật đến với Nhân dân nói chung, người nghèo nói riêng.
- Góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người nghèo.
Thông qua việc thực hiện trợ giúp pháp lý đã bảo đảm thực hiện chính
sách nhất quán của Đảng ta là đặc biệt quan tâm đến người có hoàn cảnh khó
khăn, người nghèo, đối tượng chính sách xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp chính đáng của họ.
Trợ giúp pháp lý cho người nghèo có vai trò quan trọng là bảo vệ sự
công bằng, tự do, nhân đạo, niềm tin của người dân vào lẽ phải. Từ vai trò đó
của trợ giúp pháp lý đã tạo thêm nguồn lực thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi