SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  7
1. Diễn biến
Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ
nhất kể từ sau Thế chiến thứ II bắt đầu lan rộng. Từ sự suy thoái của thị
trường nhà đất Mỹ với nguyên nhân được người ta nhắc đến nhiều nhất sau
này là "cho vay dưới chuẩn" (tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản
không đủ đảm bảo trả nợ), cuộc khủng hoảng lan sang thị trường tài chính và
rồi tới kinh tế toàn cầu.
Cơn địa chấn thực sự nổ ra vào ngày 7/9 với việc hai đại gia cho vay thế chấp
của Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac bị quốc hữu hóa. Sau đó, lần lượt
Lehman Brothers, Washington Mutual tuyên bố phá sản. Merill Lynch bị
Bank of America mua lại, còn AIG phải nhận hàng chục tỷ USD cứu trợ từ
Chính phủ Mỹ.
Để cứu vãn nền tình thế, ngân hàng trung ương các nước đã phải cắt giảm lãi
suất, bơm tiền cho các công ty hay mua lại nợ xấu. Tuy nhiên, động thái đó
cũng không thể ngăn cản Nhật, EU, Mỹ, Nga và nhiều quốc gia khác trên thế
giới rơi vào suy thoái trong quý IV năm đó. Theo cựu Chủ tịch Cục dự trữ
liên bang Mỹ (FED) - Alan Greenspan, đây là cuộc khủng hoảng "hàng trăm
năm mới có một lần".
Tại Mỹ, riêng năm 2009, 140 ngân hàng Mỹ bị xóa sổ, GDP nước này cũng
tăng trưởng âm 2,8%. Hai đại gia sản xuất ôtô General Motors (GM) và
Chrysler nộp đơn xin bảo hộ phá sản trong cùng năm đó. Cuộc chiến nâng
trần nợ công năm 2011 còn khiến Mỹ lần đầu tiên bị hạ xếp hạng tín nhiệm.
Để cứu vãn nền kinh tế, từ tháng 11/2008, FED đã phải liên tục tung ra các
gói kích thích. Chương trình mua lại trái phiếu hiện tại (QE3) đã được thực
hiện từ tháng 9 năm ngoái để bơm 85 tỷ USD mỗi tháng vào nền kinh tế. Lãi
suất cũng được duy trì ở mức kỷ lục gần 0% nhiều năm nay.
Tuy nhiên, mãi đến thời gian gần đây, kinh tế Mỹ mới có một số dấu hiệu lạc
quan. Nước này đã tăng trưởng 2,8% năm ngoái, cao hơn thời kỳ tiền khủng
hoảng năm 2006 (2,7%). Niềm tin doanh nghiệp và đầu tư trong quý II/2013
đã được cải thiện. Thị trường nhà đất ấm dần, chứng khoán cũng liên tiếp lập
kỷ lục trong vài tháng gần đây trước các số liệu lạc quan của nền kinh tế.
Ngân sách Mỹ tháng 6 lên cao nhất 5 năm và tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm
đáng kể so với gần 10% cuối năm 2010.
Châu Âu sau khi tuyên bố thoát khỏi suy thoái từ cuối năm 2009, gần như
ngay lập tức sa lầy vào cuộc khủng hoảng nợ công đã bước sang năm thứ 5.
Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ cơn địa chấn tài chính 2008. Các quốc
gia tăng cường tung kích thích bằng các biện pháp tài khóa đã khiến thâm hụt
ngân sách và nợ công tăng dần. Khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2009 tại
Hy Lạp, sau đó lan ra toàn khu vực đồng euro. Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha, Ireland và Síp đã phải xin cứu trợ quốc tế để tránh vỡ nợ.
Những diễn biến này đã khiến đồng euro mất giá trầm trọng. Chính sách thắt
lưng buộc bụng của các nước trong khu vực, nhằm giảm thâm hụt và nợ công,
cũng khiến tỷ lệ thất nghiệp tại Hy Lạp hay Tây Ban Nha thường xuyên trên
25%. GDP Hy Lạp thậm chí còn giảm tới 30% kể từ năm 2008.
Lo ngại bởi cuộc suy thoái dài nhất kể từ khi đồng euro lưu hành và tỷ lệ thất
nghiệp kỷ lục, các lãnh đạo EU đã phải nới lỏng biện pháp khắc khổ trong
vài tháng gần đây. Vì vậy, hoạt động tại châu Âu đã có một số dấu hiệu khởi
sắc. Tốc độ suy thoái tại Italy và Tây Ban Nha đã giảm trong quý II. Các số
liệu thương mại tại Đức cũng tăng mạnh trong tháng 6. Giới chuyên gia dự
đoán khu vực eurozone có thể tăng trưởng dương trong quý II sau 6 quý liên
tiếp co lại.
Khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, trái ngược với tình cảnh tại Mỹ và châu
Âu, trong những năm đầu của cuộc khủng hoảng là điểm sáng khi đóng góp
tới 40% tăng trưởng GDP thế giới. Những nền kinh tế châu Á, như Nhật Bản,
Singapore hay Hong Kong (Trung Quốc) cũng thoát khỏi suy thoái tương đối
sớm, hầu hết vào nửa cuối năm 2009.
Thậm chí, một số quốc gia trong nhóm nền kinh tế mới nổi (BRICS), như Ấn
Độ hay Trung Quốc chỉ bị giảm nhẹ tăng trưởng GDP trong hai năm 2008 và
2009, nhưng vẫn ở mức cao so với toàn cầu. Đặc biệt là Trung Quốc - cỗ máy
tăng trưởng của thế giới với 9,6% năm 2008 và 9,2% năm 2009.
Dù vậy, kinh tế Nhật Bản sau đó lại liên tiếp gặp vấn đề. Chưa giải quyết
được tình trạng giảm phát liên tiếp trong gần hai thập kỷ, đầu năm 2011, Nhật
lại lao đao vì thảm họa kép động đất - sóng thần, gây thiệt hại hàng trăm tỷ
USD. Nợ công của nước này hiện cũng cao nhất thế giới với 231% GDP, và
kinh tế còn tăng trưởng âm quý III năm ngoái.
Tình hình tại đất nước mặt trời mọc chỉ có dấu hiệu khởi sắc từ cuối năm
2012, khi Thủ tướng Shinzo Abe nắm quyền. Nhóm chính sách kích thích
kinh tế (Abenomics) mạnh mẽ của ông đã phát huy tác dụng. Đồng yen mất
giá liên tục so với USD từ tháng 9 năm ngoái, khiến các hãng xuất khẩu lãi
kỷ lục. Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 3,6% trong quý II so với cùng kỳ. Thậm
chí, trong tháng 6, lần đầu tiên sau hơn một năm, nước này đã có lạm phát.
Trong khi đó, kinh tế Trung Quốc lại có nhiều dấu hiệu chững lại sau ba thập
kỷ tăng trưởng cao. Để ngăn tác động của khủng hoảng tài chính, tháng
11/2008, nước này đã chi gần 600 tỷ USD để kích thích kinh tế, từ đầu tư cơ
sở hạ tầng đến an sinh xã hội. Trong 2 năm 2009 và 2010, Trung Quốc đã
dần leo lên vị trí nền kinh tế số 2 thế giới.
Nhưng sau khủng hoảng, để không bị suy giảm như Mỹ và châu Âu, nước
này vẫn liên tục tung kích thích dưới dạng các khoản cho vay khổng lồ. Hệ
quả là tỷ lệ cấp tín dụng trên GDP tăng từ 120% lên gần 200% trong gần 5
năm qua, nợ địa phương ngày càng phình to và bong bóng bất động sản tạo
ra hàng loạt thành phố ma trên khắp cả nước. Nhu cầu nội địa yếu, thị trường
Âu - Mỹ chưa hồi phục đã khiến cả tăng trưởng GDP, lạm phát, sản xuất và
xuất khẩu của Trung Quốc liên tục giảm sút từ năm ngoái.
Ban lãnh đạo mới của nước này đã tuyên bố chấp nhận tăng trưởng thấp để
chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng dựa vào tiêu dùng. Đầu năm nay,
Trung Quốc còn khủng hoảng thanh khoản ngắn hạn sau khi thực hiện thắt
chặt tín dụng để kiểm soát hệ thống ngân hàng ngầm. Theo giới phân tích,
nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đang có nhiều dấu hiệu rơi vào "thập kỷ mất
mát" như Nhật Bản thập niên 90, với các biểu hiện như tăng trưởng chậm,
giảm phát và nợ xấu.
2. Thực chất của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu là gì?
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, theo Alan Greenspan (cựu Thống
đốc Quỹ Dự trữ liên bang Mĩ FED), là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất,
cuộc đại suy thoái của thế kỉ XXI kể từ cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới
1929- 1933, thế kỉ XX
- Cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới hiện nay khởi nguồn từ Mỹ hồi đầu
năm 2008 và đã biến thành cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới vào tháng
8/2008, khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) buộc phải thi hành biện pháp
khẩn cấp nhằm cứu vãn các ngân hàng trước nguy cơ sụp đổ do các khoản
cho vay nợ thế chấp khó đòi.
- Sau khi Chính phủ Mỹ tung ra kế hoạch giải cứu tài chính trị giá 700 tỷ USD,
ngày 25/11/2008, FED tiếp tục công bố kế hoạch sẵn sàng bơm 800 tỷ USD
cứu nguy thị trường tín dụng và Tổng thống Ba-rắc Ô-ba-ma cũng đưa ra kế
hoạch kích cầu.
- Thế giới đang theo dõi sát sao tình hình kinh tế Mỹ và các giải pháp cứu nguy
đang được thực thi hoặc bàn thảo, bởi lẽ, nền kinh tế Mỹ lớn mạnh nhất,
chiếm 22% GDP toàn cầu, đóng góp 60% vào đà tăng trưởng của kinh tế thế
giới, chủ yếu nhờ sức tiêu thụ tới 70% GDP của Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài
chính bùng nổ vào thời điểm mà kinh tế Mỹ bị suy thoái sau 6 năm tăng
trưởng liên tục, các nước khác như Tây Âu và Nhật Bản... đều bị đình trệ và
suy thoái. nền kinh tế Mỹ có sớm thoát khỏi giai đoạn suy thoái hay không
phụ các lý do chủ yếu sau:
 Khi nền kinh tế Mỹ đang bị suy giảm thì các số liệu về thông tin kinh tế
thường không chính xác do các công ty và tập đoàn kinh tế không muốn
công bố số liệu phản ánh thực trạng kinh doanh của mình. Chính phủ cũng
không muốn công bố các thông tin tiêu cực về kinh tế, họ lo ngại rằng sẽ
gây ra tâm lý hoảng loạn trong xã hội. Do vậy, tình hình xấu đi của hệ
thống tài chính và kinh tế Mỹ chưa được phản ánh đầy đủ. Để minh chứng
cho điều này, các chuyên gia đã dẫn ra sự kiện năm 2007, Ngân hàng đầu
tư Lehman Brothers còn được Tạp chí Fotune xếp hạng công ty chứng
khoán vinh danh nhất, nhưng đến tháng 9/2008 đã phải đệ đơn xin phá
sản với khoản nợ khổng lồ lên đến 613 tỷ USD.
 Tuy mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, nhưng các chỉ số của kinh
tế Mỹ hiện đã là rất nghiêm trọng: 12.000 tỷ USD cho vay thế chấp mua
nhà mà phần lớn trong số đó là cho vay dưới chuẩn; cho vay thế chấp mua
ô tô cũng đã lên tới hàng chục tỷ USD, nợ xấu gia tăng và được phỏng
đoán lên hàng nghìn tỷ USD. Do vậy, gói giải cứu của Chính phủ Mỹ
không đủ để mua hết các khoản nợ xấu. Thử giả định rằng, giải pháp 700
tỷ USD đủ để mua hết các khoản nợ xấu, thì cũng chỉ đủ để cứu nguy cho
hệ thống tài chính Mỹ qua cơn hấp hối, chứ không thể tài trợ cho phát
triển.
 Vì thế, các chỉ số của nền kinh tế Mỹ cũng không mấy sáng sủa. Mức lạm
phát đã là 4,5% vào tháng 7/2008 cao nhất trong 18 năm qua, không
những đã cao hơn mức tăng trưởng, mà còn cao hơn mức lãi suất 2% do
FED quy định, điều đó có nghĩa là công cụ lãi suất “thần diệu” trong tay
FED đã mất hiệu lực. Nếu FED hạ mức lãi suất xuống thấp hơn mức 2%
để chống suy thoái, thì với lãi suất âm nặng hơn sẽ đẩy lạm phát cao hơn
và sẽ làm cho nền kinh tế Mỹ bất ổn nhiều hơn.
 Thâm hụt ngân sách Mỹ trong năm tài khóa 2008 đã ở mức cao kỷ lục
455 tỷ USD, tăng hơn gấp đôi so với một năm trước đó. Theo dự báo của
các nhà nghiên cứu kinh tế, mức thâm hụt ngân sách liên bang Mỹ có thể
còn tăng lên đến khoảng 1.000 tỷ USD trong tài khóa 2009. Như vậy, với
700 tỷ USD sẽ khó có thể cải thiện các chỉ số của nền kinh tế Mỹ.
 Gói giải pháp cứu trợ 700 tỷ USD có thể tạm thời ổn định hệ thống tín
dụng Mỹ bằng cách mua lại các khoản nợ xấu, nhưng điều quan trọng hơn
là phải giải quyết những nguyên nhân dẫn tới các khoản nợ xấu đó.. Trong
tình trạng như vậy, các khoản nợ xấu có thể vẫn tiếp tục gia tăng. Nguy
cơ cạn kiệt năng lực tài chính của chính phủ Mỹ nếu không đủ sức mua
các khoản nợ xấu thì tình hình kinh tế Mỹ sẽ còn tồi tệ hơn.
- Các nền kinh tế châu Âu cũng đang đứng trước nhiều vấn đề phức tạp và nan
giải. Theo số liệu của Liên minh châu Âu (EU), nền kinh tế của 15 nước sử
dụng đồng ơ-rô lần đầu tiên kể từ khi được thành lập (1999) cũng đã rơi vào
giai đoạn suy thoái, do tăng trưởng âm (GDP giảm 0,2%) trong hai quý liên
tiếp. Khủng hoảng địa ốc gắn với tín dụng cũng là căn bệnh của một số nước
châu Âu như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... Tình hình công nghiệp và thương
mại của châu Âu tụt giảm nghiêm trọng, đặc biệt là thị trường chứng khoán
và ngân hàng, được thể hiện rõ nhất về tốc độ tăng trưởng quý III/2008 đã ở
con số âm, thấp hơn nhiều so với dự báo (2%) đầu năm 2008. Các ngân hàng
thua lỗ nặng nề, riêng hệ thống ngân hàng Pháp chỉ trong vòng 12 tháng đã
mất 12 tỷ ơ-rô; một số ngân hàng của Anh đã tuyên bố phá sản do cho vay
thế chấp; ngân hàng Fortis trong nhóm 20 ngân hàng lớn nhất châu Âu đang
đứng bên bờ phá sản và được 3 nước châu Âu mua lại. Bản thân các nền kinh
tế châu Âu vốn đã có nhiều vấn đề nan giải, nay lại bị cộng hưởng từ “cơn
bão tài chính” Mỹ càng làm cho các vấn đề kinh tế của châu Âu thêm nghiêm
trọng. Chính phủ các nước châu Âu đã có chính sách ứng phó với tình hình
khẩn cấp trên như bơm thêm tiền cho hệ thống tín dụng, giảm thuế... nhưng
hiện vẫn chưa có tín hiệu nào chứng tỏ tình hình kinh tế đã được cải thiện.
- Kinh tế Nhật Bản cũng rơi vào suy thoái với tốc độ nhanh hơn dự đoán.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này là do các công ty giảm đầu tư
để đối phó với khủng hoảng tài chính. Theo Văn phòng Nội các Nhật Bản,
tốc độ tăng trưởng quý III/2008 giảm 0,5% so với quý II/2008 và giảm 1,8%
so với cùng kỳ năm trước. Trong quý II/2008, kinh tế Nhật Bản giảm 1% so
với quý I và 3,7% so với cùng kỳ năm 2007. Đây là lần đầu tiên Nhật Bản
bước vào suy thoái kinh tế trong hai quý liên tiếp có mức tăng trưởng âm.
Thực trạng này cho thấy, nền kinh tế lớn nhất châu Á sẽ phải trải qua thời kỳ
suy thoái nghiêm trọng và kéo dài hơn dự đoán. Cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Nhật Bản, vốn phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu. Điều này khiến kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản giảm
đi đáng kể trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng nội địa vẫn chưa có dấu hiệu lạc
quan. Tình trạng giảm đầu tư đã gây ra suy thoái cho nền kinh tế nước này
khi các công ty giảm 2% vốn đầu tư vào thiết bị và xây dựng nhà máy mới.
Theo các chuyên gia kinh tế Nhật bản, chỉ số niềm tin kinh doanh của các
công ty lớn ở Nhật Bản sẽ giảm từ mức âm -3 (9/2008) xuống mức âm -3,6.
Đây là mức thấp nhất trong 30 năm qua. Nhật Bản gọi cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu hiện nay là một sự kiện "trăm năm có một", theo đó, Ngân
hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã bơm 1.000 tỷ yên (9,8 tỷ USD) vào thị
trường tiền tệ nhằm hỗ trợ hoạt động cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
Ngày 30/10/2008 Nhật Bản đã công bố gói kích thích kinh tế trị giá 26,9
nghìn tỷ yên (277 tỷ USD) nhằm vào việc cắt giảm thuế, tiền trợ cấp trực tiếp
cho các hộ gia đình và các khoản cho vay dành cho các doanh nghiệp nhỏ.
- Nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc đang phải đối mặt với những thách thức
nghiêm trọng về môi trường ô nhiễm, giá cả nguyên liệu tăng cao, thị trường
bên ngoài bị thu hẹp... và xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng trong năm 2008
và các năm tiếp theo là điều khó tránh. Trung Quốc thừa nhận cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này "nghiêm
trọng hơn dự đoán của Chính phủ". Tuyên bố trên đưa ra ngay sau khi Trung
Quốc công bố một loạt số liệu thống kê kinh tế của nước này như: sản xuất
công nghiệp giảm liên tục từ 16% hồi tháng 6/2008, đã rơi xuống 11,4% trong
tháng 9/2008, xuống còn 8,2% khi bước sang tháng 10/2008. Đây là mức
tăng trưởng công nghiệp thấp nhất từ 7 năm qua. Đầu tư quốc tế trực tiếp vào
Trung Quốc cũng thuyên giảm. Hậu quả là tất cả chỉ số kinh tế của Trung
Quốc đều ở mức báo động cùng với tỷ lệ tăng trưởng từ hai con số xuống một
con số 7,5% (theo dự báo của WB). Dự báo thâm hụt tài chính của Trung
Quốc năm 2009 sẽ từ 2 đến 3% GDP, do vậy, Chính phủ Trung Quốc đã có
phản ứng nhanh, mạnh bằng một gói kích thích kinh tế trị giá 585 tỷ USD,
tương đương với 15% GDP.
3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Nguyên nhân sâu xa:
Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín
dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt
thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu âu
vào thế nguy hiểm.
Cụ thể:
Từ tháng 05/2001 đến 12/2002: Lãi suất liên ngân hàng giảm từ 11 đợt từ 6,5%
xuống còn 1,75%, tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo → đi vay ồ ạt kể cả
nhằm mục đích đầu cơ → hình thành bong bóng nhà ở
Giai đoạn năm 2002-2004: Giá cả nhà đất tại các bang Arizona, California,
Florida, Hawaii và Nevada tăng trên 25%/ năm. Bắt đầu sự bùng nổ nhà đất ở
Mỹ
Giai đoạn 2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ
bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến
mức báo động.
Năm 2007: Các ngân hàng lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại
này, xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng đầu tiên
15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi
nhuận Qúy 3 bất ngờ giảm từ 57% do thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ
USD.
Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường
nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả
năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001
lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007
Năm 2008: Từ 8/2007 -> 8/2008, các chế định toàn cầu đã thua lỗ tổng số tiền
925 tỷ USD vì khủng hoảng tín dụng. Trong số này, trầm trọng nhất là khoản
thua lỗ có thể lên tới 525 tỷ USD liên quan đến các khoản cho vay địa ốc.
Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất
Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối
phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên
5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với
người mua nhà. Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng
băng và sụt giảm.
Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính... đã
mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản đảm bảo để phát hành
trái phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh này được đánh giá cao bởi các
tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không chỉ dừng lại ở đó, nhiều
công ty bảo hiểm, trong đó có AIG, còn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp đồng
hoán đổi này.
-> Chiến lược trên được đưa ra nhằm giải quyết rủi ro cho những khoản vay bất
động sản. Tuy nhiên, trái lại nó lại tại hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi
ro bị đẩy lên cao hơn
Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị
trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động
sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ
và tràn sang nhiều nước châu u, khiến nhiều công ty lớn phá sản.

Contenu connexe

Tendances

Giáo trình ngân hàng thương mại
Giáo trình ngân hàng thương mạiGiáo trình ngân hàng thương mại
Giáo trình ngân hàng thương mại
bookboomingslide
 
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...
taothichmi
 
Lý thuyết danh mục đầu tư
Lý thuyết danh mục đầu tưLý thuyết danh mục đầu tư
Lý thuyết danh mục đầu tư
maianhbang
 
Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận thực trạng và giải pháp nâng cao...
Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận   thực trạng và giải pháp nâng cao...Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận   thực trạng và giải pháp nâng cao...
Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận thực trạng và giải pháp nâng cao...
Bùi Trang
 
Bai tap tin dung nh + loi giai
Bai tap tin dung nh + loi giaiBai tap tin dung nh + loi giai
Bai tap tin dung nh + loi giai
Nhí Minh
 
Can can-thanh-toan-cua-thai-lan
Can can-thanh-toan-cua-thai-lanCan can-thanh-toan-cua-thai-lan
Can can-thanh-toan-cua-thai-lan
trangho01
 

Tendances (20)

Giáo trình ngân hàng thương mại
Giáo trình ngân hàng thương mạiGiáo trình ngân hàng thương mại
Giáo trình ngân hàng thương mại
 
Luận văn: Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại ngân hàng, HAY! 9ĐIỂM!
Luận văn: Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại ngân hàng, HAY! 9ĐIỂM!Luận văn: Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại ngân hàng, HAY! 9ĐIỂM!
Luận văn: Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại ngân hàng, HAY! 9ĐIỂM!
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Chuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giá
Chuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giáChuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giá
Chuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giá
 
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...
 
Mô hình dự báo ARIMA
Mô hình dự báo ARIMAMô hình dự báo ARIMA
Mô hình dự báo ARIMA
 
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài chi nhánh ...
 
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149
 
Lý thuyết danh mục đầu tư
Lý thuyết danh mục đầu tưLý thuyết danh mục đầu tư
Lý thuyết danh mục đầu tư
 
Mô hình xếp hạng tín dụng khách hàng của ngân hàng Đông Á
Mô hình xếp hạng tín dụng khách hàng của ngân hàng Đông ÁMô hình xếp hạng tín dụng khách hàng của ngân hàng Đông Á
Mô hình xếp hạng tín dụng khách hàng của ngân hàng Đông Á
 
Phân Tích Tình Hình Tài Chính Công Ty Cổ Phần Dược Hậu Giang.docx
Phân Tích Tình Hình Tài Chính Công Ty Cổ Phần Dược Hậu Giang.docxPhân Tích Tình Hình Tài Chính Công Ty Cổ Phần Dược Hậu Giang.docx
Phân Tích Tình Hình Tài Chính Công Ty Cổ Phần Dược Hậu Giang.docx
 
Luận văn: Quản trị rủi ro trong cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng BIDV
Luận văn: Quản trị rủi ro trong cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng BIDVLuận văn: Quản trị rủi ro trong cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng BIDV
Luận văn: Quản trị rủi ro trong cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng BIDV
 
Luận văn: Tác động của tỷ giá hối đoái đến ngoại thương Việt Nam
Luận văn: Tác động của tỷ giá hối đoái đến ngoại thương Việt NamLuận văn: Tác động của tỷ giá hối đoái đến ngoại thương Việt Nam
Luận văn: Tác động của tỷ giá hối đoái đến ngoại thương Việt Nam
 
Đề tài: Yếu tố ảnh hưởng hiệu quả hoạt động ngân hàng, HAY
Đề tài: Yếu tố ảnh hưởng hiệu quả hoạt động ngân hàng, HAYĐề tài: Yếu tố ảnh hưởng hiệu quả hoạt động ngân hàng, HAY
Đề tài: Yếu tố ảnh hưởng hiệu quả hoạt động ngân hàng, HAY
 
Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận thực trạng và giải pháp nâng cao...
Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận   thực trạng và giải pháp nâng cao...Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận   thực trạng và giải pháp nâng cao...
Chuyên đề lợi nhuận và phân phối lợi nhuận thực trạng và giải pháp nâng cao...
 
Bai tap tin dung nh + loi giai
Bai tap tin dung nh + loi giaiBai tap tin dung nh + loi giai
Bai tap tin dung nh + loi giai
 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SSI THEO BỘ TIÊU CHUẨN CAMEL
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SSI THEO BỘ TIÊU CHUẨN CAMELĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SSI THEO BỘ TIÊU CHUẨN CAMEL
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SSI THEO BỘ TIÊU CHUẨN CAMEL
 
Bài giảng thẩm định dự án đầu tư
Bài giảng thẩm định dự án đầu tưBài giảng thẩm định dự án đầu tư
Bài giảng thẩm định dự án đầu tư
 
Can can-thanh-toan-cua-thai-lan
Can can-thanh-toan-cua-thai-lanCan can-thanh-toan-cua-thai-lan
Can can-thanh-toan-cua-thai-lan
 
Thư giá
Thư giáThư giá
Thư giá
 

Similaire à Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx

Chuong 1 tu bat on vi mo den con duong tai co cau
Chuong 1   tu bat on vi mo den con duong tai co cauChuong 1   tu bat on vi mo den con duong tai co cau
Chuong 1 tu bat on vi mo den con duong tai co cau
Le Thuy Hanh
 
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
minhanh2812
 
Presentation group v_partii
Presentation group v_partiiPresentation group v_partii
Presentation group v_partii
Nguyễn Lương
 
Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012
Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012
Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012
lamcong
 
Kinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioi
Kinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioiKinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioi
Kinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioi
Tinh Hoa
 
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
phamquyenbt9191
 
Dinh tre kinh te và van de kich cau
Dinh tre kinh te và van de kich cauDinh tre kinh te và van de kich cau
Dinh tre kinh te và van de kich cau
Trương Quang Thông
 

Similaire à Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx (20)

Chuong 1 tu bat on vi mo den con duong tai co cau
Chuong 1   tu bat on vi mo den con duong tai co cauChuong 1   tu bat on vi mo den con duong tai co cau
Chuong 1 tu bat on vi mo den con duong tai co cau
 
Chuong 1 tu bat on vi mo den con duong tai co cau
Chuong 1   tu bat on vi mo den con duong tai co cauChuong 1   tu bat on vi mo den con duong tai co cau
Chuong 1 tu bat on vi mo den con duong tai co cau
 
Gih1
Gih1Gih1
Gih1
 
202311_Monthly_Report_VI.pdf
202311_Monthly_Report_VI.pdf202311_Monthly_Report_VI.pdf
202311_Monthly_Report_VI.pdf
 
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
 
Thực trạng nợ công ở VN.docx
 Thực trạng nợ công ở VN.docx Thực trạng nợ công ở VN.docx
Thực trạng nợ công ở VN.docx
 
Can can thanh toan quoc te Bop
Can can thanh toan quoc te BopCan can thanh toan quoc te Bop
Can can thanh toan quoc te Bop
 
Chính sách abenomics tại nhật bản và ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới
Chính sách abenomics tại nhật bản và ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giớiChính sách abenomics tại nhật bản và ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới
Chính sách abenomics tại nhật bản và ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới
 
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu ÁIMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
 
Báo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.doc
Báo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.docBáo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.doc
Báo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.doc
 
Presentation group v_partii
Presentation group v_partiiPresentation group v_partii
Presentation group v_partii
 
Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012
Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012
Bc kinh te_taichinh_6 thang 2012
 
Bài thảo luận nhóm 02
Bài thảo luận nhóm 02Bài thảo luận nhóm 02
Bài thảo luận nhóm 02
 
Gỗ & Nội thất - VOL 86
Gỗ & Nội thất - VOL 86Gỗ & Nội thất - VOL 86
Gỗ & Nội thất - VOL 86
 
Kinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioi
Kinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioiKinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioi
Kinh te viet nam trong boi canh kinh te the gioi
 
Báo Cáo Kinh Tế Vĩ Mô Và Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
Báo Cáo Kinh Tế Vĩ Mô Và Thị Trường Chứng Khoán Việt NamBáo Cáo Kinh Tế Vĩ Mô Và Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
Báo Cáo Kinh Tế Vĩ Mô Và Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
 
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
 
Dinh tre kinh te và van de kich cau
Dinh tre kinh te và van de kich cauDinh tre kinh te và van de kich cau
Dinh tre kinh te và van de kich cau
 
Bt cuoi ky phan chung
Bt cuoi ky   phan chungBt cuoi ky   phan chung
Bt cuoi ky phan chung
 
Phân tích tài chính và định giá công ty cổ phần nhựa bình minh.docx
Phân tích tài chính và định giá công ty cổ phần nhựa bình minh.docxPhân tích tài chính và định giá công ty cổ phần nhựa bình minh.docx
Phân tích tài chính và định giá công ty cổ phần nhựa bình minh.docx
 

Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx

  • 1. 1. Diễn biến Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ sau Thế chiến thứ II bắt đầu lan rộng. Từ sự suy thoái của thị trường nhà đất Mỹ với nguyên nhân được người ta nhắc đến nhiều nhất sau này là "cho vay dưới chuẩn" (tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản không đủ đảm bảo trả nợ), cuộc khủng hoảng lan sang thị trường tài chính và rồi tới kinh tế toàn cầu. Cơn địa chấn thực sự nổ ra vào ngày 7/9 với việc hai đại gia cho vay thế chấp của Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac bị quốc hữu hóa. Sau đó, lần lượt Lehman Brothers, Washington Mutual tuyên bố phá sản. Merill Lynch bị Bank of America mua lại, còn AIG phải nhận hàng chục tỷ USD cứu trợ từ Chính phủ Mỹ. Để cứu vãn nền tình thế, ngân hàng trung ương các nước đã phải cắt giảm lãi suất, bơm tiền cho các công ty hay mua lại nợ xấu. Tuy nhiên, động thái đó cũng không thể ngăn cản Nhật, EU, Mỹ, Nga và nhiều quốc gia khác trên thế giới rơi vào suy thoái trong quý IV năm đó. Theo cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) - Alan Greenspan, đây là cuộc khủng hoảng "hàng trăm năm mới có một lần". Tại Mỹ, riêng năm 2009, 140 ngân hàng Mỹ bị xóa sổ, GDP nước này cũng tăng trưởng âm 2,8%. Hai đại gia sản xuất ôtô General Motors (GM) và Chrysler nộp đơn xin bảo hộ phá sản trong cùng năm đó. Cuộc chiến nâng trần nợ công năm 2011 còn khiến Mỹ lần đầu tiên bị hạ xếp hạng tín nhiệm. Để cứu vãn nền kinh tế, từ tháng 11/2008, FED đã phải liên tục tung ra các gói kích thích. Chương trình mua lại trái phiếu hiện tại (QE3) đã được thực hiện từ tháng 9 năm ngoái để bơm 85 tỷ USD mỗi tháng vào nền kinh tế. Lãi suất cũng được duy trì ở mức kỷ lục gần 0% nhiều năm nay. Tuy nhiên, mãi đến thời gian gần đây, kinh tế Mỹ mới có một số dấu hiệu lạc quan. Nước này đã tăng trưởng 2,8% năm ngoái, cao hơn thời kỳ tiền khủng hoảng năm 2006 (2,7%). Niềm tin doanh nghiệp và đầu tư trong quý II/2013 đã được cải thiện. Thị trường nhà đất ấm dần, chứng khoán cũng liên tiếp lập kỷ lục trong vài tháng gần đây trước các số liệu lạc quan của nền kinh tế. Ngân sách Mỹ tháng 6 lên cao nhất 5 năm và tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm đáng kể so với gần 10% cuối năm 2010. Châu Âu sau khi tuyên bố thoát khỏi suy thoái từ cuối năm 2009, gần như ngay lập tức sa lầy vào cuộc khủng hoảng nợ công đã bước sang năm thứ 5. Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ cơn địa chấn tài chính 2008. Các quốc gia tăng cường tung kích thích bằng các biện pháp tài khóa đã khiến thâm hụt ngân sách và nợ công tăng dần. Khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2009 tại Hy Lạp, sau đó lan ra toàn khu vực đồng euro. Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland và Síp đã phải xin cứu trợ quốc tế để tránh vỡ nợ.
  • 2. Những diễn biến này đã khiến đồng euro mất giá trầm trọng. Chính sách thắt lưng buộc bụng của các nước trong khu vực, nhằm giảm thâm hụt và nợ công, cũng khiến tỷ lệ thất nghiệp tại Hy Lạp hay Tây Ban Nha thường xuyên trên 25%. GDP Hy Lạp thậm chí còn giảm tới 30% kể từ năm 2008. Lo ngại bởi cuộc suy thoái dài nhất kể từ khi đồng euro lưu hành và tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục, các lãnh đạo EU đã phải nới lỏng biện pháp khắc khổ trong vài tháng gần đây. Vì vậy, hoạt động tại châu Âu đã có một số dấu hiệu khởi sắc. Tốc độ suy thoái tại Italy và Tây Ban Nha đã giảm trong quý II. Các số liệu thương mại tại Đức cũng tăng mạnh trong tháng 6. Giới chuyên gia dự đoán khu vực eurozone có thể tăng trưởng dương trong quý II sau 6 quý liên tiếp co lại. Khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, trái ngược với tình cảnh tại Mỹ và châu Âu, trong những năm đầu của cuộc khủng hoảng là điểm sáng khi đóng góp tới 40% tăng trưởng GDP thế giới. Những nền kinh tế châu Á, như Nhật Bản, Singapore hay Hong Kong (Trung Quốc) cũng thoát khỏi suy thoái tương đối sớm, hầu hết vào nửa cuối năm 2009. Thậm chí, một số quốc gia trong nhóm nền kinh tế mới nổi (BRICS), như Ấn Độ hay Trung Quốc chỉ bị giảm nhẹ tăng trưởng GDP trong hai năm 2008 và 2009, nhưng vẫn ở mức cao so với toàn cầu. Đặc biệt là Trung Quốc - cỗ máy tăng trưởng của thế giới với 9,6% năm 2008 và 9,2% năm 2009. Dù vậy, kinh tế Nhật Bản sau đó lại liên tiếp gặp vấn đề. Chưa giải quyết được tình trạng giảm phát liên tiếp trong gần hai thập kỷ, đầu năm 2011, Nhật lại lao đao vì thảm họa kép động đất - sóng thần, gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD. Nợ công của nước này hiện cũng cao nhất thế giới với 231% GDP, và kinh tế còn tăng trưởng âm quý III năm ngoái. Tình hình tại đất nước mặt trời mọc chỉ có dấu hiệu khởi sắc từ cuối năm 2012, khi Thủ tướng Shinzo Abe nắm quyền. Nhóm chính sách kích thích kinh tế (Abenomics) mạnh mẽ của ông đã phát huy tác dụng. Đồng yen mất giá liên tục so với USD từ tháng 9 năm ngoái, khiến các hãng xuất khẩu lãi kỷ lục. Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 3,6% trong quý II so với cùng kỳ. Thậm chí, trong tháng 6, lần đầu tiên sau hơn một năm, nước này đã có lạm phát. Trong khi đó, kinh tế Trung Quốc lại có nhiều dấu hiệu chững lại sau ba thập kỷ tăng trưởng cao. Để ngăn tác động của khủng hoảng tài chính, tháng 11/2008, nước này đã chi gần 600 tỷ USD để kích thích kinh tế, từ đầu tư cơ sở hạ tầng đến an sinh xã hội. Trong 2 năm 2009 và 2010, Trung Quốc đã dần leo lên vị trí nền kinh tế số 2 thế giới. Nhưng sau khủng hoảng, để không bị suy giảm như Mỹ và châu Âu, nước này vẫn liên tục tung kích thích dưới dạng các khoản cho vay khổng lồ. Hệ quả là tỷ lệ cấp tín dụng trên GDP tăng từ 120% lên gần 200% trong gần 5 năm qua, nợ địa phương ngày càng phình to và bong bóng bất động sản tạo
  • 3. ra hàng loạt thành phố ma trên khắp cả nước. Nhu cầu nội địa yếu, thị trường Âu - Mỹ chưa hồi phục đã khiến cả tăng trưởng GDP, lạm phát, sản xuất và xuất khẩu của Trung Quốc liên tục giảm sút từ năm ngoái. Ban lãnh đạo mới của nước này đã tuyên bố chấp nhận tăng trưởng thấp để chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng dựa vào tiêu dùng. Đầu năm nay, Trung Quốc còn khủng hoảng thanh khoản ngắn hạn sau khi thực hiện thắt chặt tín dụng để kiểm soát hệ thống ngân hàng ngầm. Theo giới phân tích, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đang có nhiều dấu hiệu rơi vào "thập kỷ mất mát" như Nhật Bản thập niên 90, với các biểu hiện như tăng trưởng chậm, giảm phát và nợ xấu. 2. Thực chất của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu là gì? - Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, theo Alan Greenspan (cựu Thống đốc Quỹ Dự trữ liên bang Mĩ FED), là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất, cuộc đại suy thoái của thế kỉ XXI kể từ cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929- 1933, thế kỉ XX - Cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới hiện nay khởi nguồn từ Mỹ hồi đầu năm 2008 và đã biến thành cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới vào tháng 8/2008, khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) buộc phải thi hành biện pháp khẩn cấp nhằm cứu vãn các ngân hàng trước nguy cơ sụp đổ do các khoản cho vay nợ thế chấp khó đòi. - Sau khi Chính phủ Mỹ tung ra kế hoạch giải cứu tài chính trị giá 700 tỷ USD, ngày 25/11/2008, FED tiếp tục công bố kế hoạch sẵn sàng bơm 800 tỷ USD cứu nguy thị trường tín dụng và Tổng thống Ba-rắc Ô-ba-ma cũng đưa ra kế hoạch kích cầu. - Thế giới đang theo dõi sát sao tình hình kinh tế Mỹ và các giải pháp cứu nguy đang được thực thi hoặc bàn thảo, bởi lẽ, nền kinh tế Mỹ lớn mạnh nhất, chiếm 22% GDP toàn cầu, đóng góp 60% vào đà tăng trưởng của kinh tế thế giới, chủ yếu nhờ sức tiêu thụ tới 70% GDP của Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ vào thời điểm mà kinh tế Mỹ bị suy thoái sau 6 năm tăng trưởng liên tục, các nước khác như Tây Âu và Nhật Bản... đều bị đình trệ và suy thoái. nền kinh tế Mỹ có sớm thoát khỏi giai đoạn suy thoái hay không phụ các lý do chủ yếu sau:  Khi nền kinh tế Mỹ đang bị suy giảm thì các số liệu về thông tin kinh tế thường không chính xác do các công ty và tập đoàn kinh tế không muốn công bố số liệu phản ánh thực trạng kinh doanh của mình. Chính phủ cũng không muốn công bố các thông tin tiêu cực về kinh tế, họ lo ngại rằng sẽ gây ra tâm lý hoảng loạn trong xã hội. Do vậy, tình hình xấu đi của hệ thống tài chính và kinh tế Mỹ chưa được phản ánh đầy đủ. Để minh chứng cho điều này, các chuyên gia đã dẫn ra sự kiện năm 2007, Ngân hàng đầu
  • 4. tư Lehman Brothers còn được Tạp chí Fotune xếp hạng công ty chứng khoán vinh danh nhất, nhưng đến tháng 9/2008 đã phải đệ đơn xin phá sản với khoản nợ khổng lồ lên đến 613 tỷ USD.  Tuy mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, nhưng các chỉ số của kinh tế Mỹ hiện đã là rất nghiêm trọng: 12.000 tỷ USD cho vay thế chấp mua nhà mà phần lớn trong số đó là cho vay dưới chuẩn; cho vay thế chấp mua ô tô cũng đã lên tới hàng chục tỷ USD, nợ xấu gia tăng và được phỏng đoán lên hàng nghìn tỷ USD. Do vậy, gói giải cứu của Chính phủ Mỹ không đủ để mua hết các khoản nợ xấu. Thử giả định rằng, giải pháp 700 tỷ USD đủ để mua hết các khoản nợ xấu, thì cũng chỉ đủ để cứu nguy cho hệ thống tài chính Mỹ qua cơn hấp hối, chứ không thể tài trợ cho phát triển.  Vì thế, các chỉ số của nền kinh tế Mỹ cũng không mấy sáng sủa. Mức lạm phát đã là 4,5% vào tháng 7/2008 cao nhất trong 18 năm qua, không những đã cao hơn mức tăng trưởng, mà còn cao hơn mức lãi suất 2% do FED quy định, điều đó có nghĩa là công cụ lãi suất “thần diệu” trong tay FED đã mất hiệu lực. Nếu FED hạ mức lãi suất xuống thấp hơn mức 2% để chống suy thoái, thì với lãi suất âm nặng hơn sẽ đẩy lạm phát cao hơn và sẽ làm cho nền kinh tế Mỹ bất ổn nhiều hơn.  Thâm hụt ngân sách Mỹ trong năm tài khóa 2008 đã ở mức cao kỷ lục 455 tỷ USD, tăng hơn gấp đôi so với một năm trước đó. Theo dự báo của các nhà nghiên cứu kinh tế, mức thâm hụt ngân sách liên bang Mỹ có thể còn tăng lên đến khoảng 1.000 tỷ USD trong tài khóa 2009. Như vậy, với 700 tỷ USD sẽ khó có thể cải thiện các chỉ số của nền kinh tế Mỹ.  Gói giải pháp cứu trợ 700 tỷ USD có thể tạm thời ổn định hệ thống tín dụng Mỹ bằng cách mua lại các khoản nợ xấu, nhưng điều quan trọng hơn là phải giải quyết những nguyên nhân dẫn tới các khoản nợ xấu đó.. Trong tình trạng như vậy, các khoản nợ xấu có thể vẫn tiếp tục gia tăng. Nguy cơ cạn kiệt năng lực tài chính của chính phủ Mỹ nếu không đủ sức mua các khoản nợ xấu thì tình hình kinh tế Mỹ sẽ còn tồi tệ hơn. - Các nền kinh tế châu Âu cũng đang đứng trước nhiều vấn đề phức tạp và nan giải. Theo số liệu của Liên minh châu Âu (EU), nền kinh tế của 15 nước sử dụng đồng ơ-rô lần đầu tiên kể từ khi được thành lập (1999) cũng đã rơi vào giai đoạn suy thoái, do tăng trưởng âm (GDP giảm 0,2%) trong hai quý liên tiếp. Khủng hoảng địa ốc gắn với tín dụng cũng là căn bệnh của một số nước châu Âu như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... Tình hình công nghiệp và thương mại của châu Âu tụt giảm nghiêm trọng, đặc biệt là thị trường chứng khoán và ngân hàng, được thể hiện rõ nhất về tốc độ tăng trưởng quý III/2008 đã ở con số âm, thấp hơn nhiều so với dự báo (2%) đầu năm 2008. Các ngân hàng thua lỗ nặng nề, riêng hệ thống ngân hàng Pháp chỉ trong vòng 12 tháng đã mất 12 tỷ ơ-rô; một số ngân hàng của Anh đã tuyên bố phá sản do cho vay thế chấp; ngân hàng Fortis trong nhóm 20 ngân hàng lớn nhất châu Âu đang
  • 5. đứng bên bờ phá sản và được 3 nước châu Âu mua lại. Bản thân các nền kinh tế châu Âu vốn đã có nhiều vấn đề nan giải, nay lại bị cộng hưởng từ “cơn bão tài chính” Mỹ càng làm cho các vấn đề kinh tế của châu Âu thêm nghiêm trọng. Chính phủ các nước châu Âu đã có chính sách ứng phó với tình hình khẩn cấp trên như bơm thêm tiền cho hệ thống tín dụng, giảm thuế... nhưng hiện vẫn chưa có tín hiệu nào chứng tỏ tình hình kinh tế đã được cải thiện. - Kinh tế Nhật Bản cũng rơi vào suy thoái với tốc độ nhanh hơn dự đoán. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này là do các công ty giảm đầu tư để đối phó với khủng hoảng tài chính. Theo Văn phòng Nội các Nhật Bản, tốc độ tăng trưởng quý III/2008 giảm 0,5% so với quý II/2008 và giảm 1,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý II/2008, kinh tế Nhật Bản giảm 1% so với quý I và 3,7% so với cùng kỳ năm 2007. Đây là lần đầu tiên Nhật Bản bước vào suy thoái kinh tế trong hai quý liên tiếp có mức tăng trưởng âm. Thực trạng này cho thấy, nền kinh tế lớn nhất châu Á sẽ phải trải qua thời kỳ suy thoái nghiêm trọng và kéo dài hơn dự đoán. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Nhật Bản, vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Điều này khiến kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản giảm đi đáng kể trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng nội địa vẫn chưa có dấu hiệu lạc quan. Tình trạng giảm đầu tư đã gây ra suy thoái cho nền kinh tế nước này khi các công ty giảm 2% vốn đầu tư vào thiết bị và xây dựng nhà máy mới. Theo các chuyên gia kinh tế Nhật bản, chỉ số niềm tin kinh doanh của các công ty lớn ở Nhật Bản sẽ giảm từ mức âm -3 (9/2008) xuống mức âm -3,6. Đây là mức thấp nhất trong 30 năm qua. Nhật Bản gọi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay là một sự kiện "trăm năm có một", theo đó, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã bơm 1.000 tỷ yên (9,8 tỷ USD) vào thị trường tiền tệ nhằm hỗ trợ hoạt động cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Ngày 30/10/2008 Nhật Bản đã công bố gói kích thích kinh tế trị giá 26,9 nghìn tỷ yên (277 tỷ USD) nhằm vào việc cắt giảm thuế, tiền trợ cấp trực tiếp cho các hộ gia đình và các khoản cho vay dành cho các doanh nghiệp nhỏ. - Nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi trường ô nhiễm, giá cả nguyên liệu tăng cao, thị trường bên ngoài bị thu hẹp... và xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng trong năm 2008 và các năm tiếp theo là điều khó tránh. Trung Quốc thừa nhận cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này "nghiêm trọng hơn dự đoán của Chính phủ". Tuyên bố trên đưa ra ngay sau khi Trung Quốc công bố một loạt số liệu thống kê kinh tế của nước này như: sản xuất công nghiệp giảm liên tục từ 16% hồi tháng 6/2008, đã rơi xuống 11,4% trong tháng 9/2008, xuống còn 8,2% khi bước sang tháng 10/2008. Đây là mức tăng trưởng công nghiệp thấp nhất từ 7 năm qua. Đầu tư quốc tế trực tiếp vào Trung Quốc cũng thuyên giảm. Hậu quả là tất cả chỉ số kinh tế của Trung Quốc đều ở mức báo động cùng với tỷ lệ tăng trưởng từ hai con số xuống một con số 7,5% (theo dự báo của WB). Dự báo thâm hụt tài chính của Trung Quốc năm 2009 sẽ từ 2 đến 3% GDP, do vậy, Chính phủ Trung Quốc đã có phản ứng nhanh, mạnh bằng một gói kích thích kinh tế trị giá 585 tỷ USD, tương đương với 15% GDP.
  • 6. 3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Nguyên nhân sâu xa: Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu âu vào thế nguy hiểm. Cụ thể: Từ tháng 05/2001 đến 12/2002: Lãi suất liên ngân hàng giảm từ 11 đợt từ 6,5% xuống còn 1,75%, tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo → đi vay ồ ạt kể cả nhằm mục đích đầu cơ → hình thành bong bóng nhà ở Giai đoạn năm 2002-2004: Giá cả nhà đất tại các bang Arizona, California, Florida, Hawaii và Nevada tăng trên 25%/ năm. Bắt đầu sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ Giai đoạn 2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức báo động. Năm 2007: Các ngân hàng lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này, xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng đầu tiên 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Qúy 3 bất ngờ giảm từ 57% do thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007 Năm 2008: Từ 8/2007 -> 8/2008, các chế định toàn cầu đã thua lỗ tổng số tiền 925 tỷ USD vì khủng hoảng tín dụng. Trong số này, trầm trọng nhất là khoản thua lỗ có thể lên tới 525 tỷ USD liên quan đến các khoản cho vay địa ốc. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm. Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính... đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh này được đánh giá cao bởi các
  • 7. tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không chỉ dừng lại ở đó, nhiều công ty bảo hiểm, trong đó có AIG, còn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này. -> Chiến lược trên được đưa ra nhằm giải quyết rủi ro cho những khoản vay bất động sản. Tuy nhiên, trái lại nó lại tại hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu u, khiến nhiều công ty lớn phá sản.