SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  30
E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com
MÙA TẠ ƠN
Cuối niên khóa vào hè, thời gian
kết thúc niên học, kết thúc cả học kỳ đi
thực tế, kết thúc những năm tháng thực
tập mục vụ. Chủng Viện nào cũng xôn
xao tổ chức các Lễ Phong Chức Linh
Mục, Hội Dòng nào cũng tất bật với các
Lễ Khấn, Lễ Thụ Phong.
Tháng 6, tháng 7 và tháng 8, đi
qua các thành phố, qua các vùng miền có
nhiều Nhà Thờ gần nhau san sát, chúng
ta dễ gặp hình ảnh những lễ hội, người
người áo quần lụa là sang trọng, xe cộ tập
nập ra vào, tiệc tùng linh đình hân hoan,
cờ xí bay rợp trời, trống kèn inh ỏi.
Khi công nghệ tổ chức đám
cưới di đến tột đỉnh của sự ồn ào, tốn
phí và lắm trò lắm phép để hút tiền của
người ta, thì việc tổ chức các Lễ Tạ Ơn cũng được "dàn dựng" hoành tráng không kém. Loa thùng
khổng lồ được bắt ra tận đường và người phát thanh nói nhiều, nói linh tinh, ồn ào không thua gì bình
luận viên World Cup. Cái tật nói nhiều, nói nhanh, tranh nhau nói, khoe kiến thức vặt và gây náo động
ồn ào là căn bệnh lây lan nhanh chóng cho một số kẻ mệnh danh “có khiếu ăn nói” ngang nhiên chiếm
diễn đàn “tra tấn” ngưới khác. Đi dự các đám mà bị xếp vào ngồi bàn ngay trước mặt loa coi như phải
chịu vào "luyện ngục", cả bữa chỉ còn biết cắm cúi ăn uống, ra về tai lùng bùng suốt mấy ngày.
Có những đám tạ ơn tưng bừng hoa lá, kẻ tạ ơn vì những ân huệ nhận được một cách nhưng-
không, nhưng rạng rỡ không thua gì những ngôi sao điện ảnh trong ngày nhận giải thưởng do chính
công lao của họ. Có những đám tạ ơn của những kẻ tuyên bố sống khó nghèo, thuộc về người nghèo,
mừng và tạ ơn vì đã chọn cách sống nghèo, nhưng trớ trêu là tiêu tốn vô cùng cho hàng trăm mâm cỗ.
Có những đám tạ ơn khi vừa khởi
đầu sứ vụ nhưng được tổ chức y như là
một cuộc hoàn thành sứ vụ trong vinh
quang tràn ngập quanh mình. Rừng cờ
vui, ngập không gian nhạc, suối tràn trể lời
chúc tụng, biển dậy sóng lời tung hô và
bia rượu bật nắp tưng bừng.
Chẳng phải tự nhiên mà các đấng
Bề Trên những năm gần đây đã ra nghiêm
luật để hạn chế việc tổ chức sa hoa vô bổ
này. Có Giáo Phận chỉ cho phép tất cả các
tân Linh Mục trong cùng Giáo Phận được
tổ chức tạ ơn một lần, trong cùng một
ngày, có Giáo Phận quy định mỗi Lễ Tạ
Ơn chỉ được ba mươi bàn tiệc, có Giáo
1
NĂM THỨ 14 – SỐ 618 – CHÚA NHẬT 13.7.2014
Phận buộc các tân chức chỉ được tổ chức Lễ Tạ Ơn trong vòng 10 ngày, ngày thứ 11 phải trình diện
nhiệm sở mới để thi hành nhiệm vụ…
Như thế chứng tỏ vấn đề đã được nhìn thấy, các vị có trách nhiệm cũng đã có ý kiến bằng
những quy định cụ thể.
Thế nhưng về phía bản thân "người
tạ ơn" thì vẫn có trăm phương nghìn cách
để “lách luật”. Việc tổ chức linh đình được
xem như là ý của dân, dân bình thường ai
cũng thích, cứ nhìn các gương mặt hớn hở
của nhiều người thì biết họ đã thỏa thuê
chừng nào, mà các vị có trách nhiệm phải
nhận ra là ý dân thì không nên làm ngược
lại, chí ít cũng phải lờ đi, xem như không
biết, còn vai trò ngôn sứ thì dẹp qua một
bên nếu không muốn bị chống đối như các
ngôn sứ trong Kinh Thánh hồi xưa. Từ đó
có những người rất "cơ hội", họ ủng hộ tổ
chức để lấy được “lòng dân”.Thế là những
châu những ngọc được nhả, được phun
để ca tụng lẫn nhau cho thỏa chí, rồi các
đáp từ nối nhau với những lời cám ơn lên
tận mây xanh.
Câu chuyện và hình ảnh khó nghèo, đơn sơ và chân thành của Đức Phanxicô chỉ để kể trên bục
giảng, trong các lớp giáo lý, thêm mắm thêm muối, thêm hoa thêm lá để trang trí mỹ từ trong các bài
diễn văn thuộc lòng các công thức. Cái loại "mùi chiên" khó ngửi xin cứ để đấy đã, bây giờ là vui mừng
vì… “từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng”.
Rời bỏ cái không gian ồn ào xao động, tiếng cười tiếng hát rộn ràng, tôi bước vào Nhà Nguyện
hưu dưỡng, nhìn từng vị tu sĩ già đang đau yếu bệnh tật, âm thầm ngồi trên những chiếc xe lăn hay rũ
người trên các hàng ghế, lặng lẽ nhìn lên Chúa, đắm mình trong không gian chỉ có riêng cho Chúa, chỉ
còn Chúa để tâm sự vui chơi. Già và trẻ, thời gian và không gian, mọi cái không còn quan trọng, không
còn ý nghĩa đối với những giây phút thời gian vô cùng chậm chạp trôi qua của đời người.
Tôi có một cha giáo mà cái cách dạy của ngài làm tôi không bao giờ quên được. Những năm
tháng khó khăn, đầu thập niên 80, tôi được Bề Trên sắp xếp về ở với ngài trong một Họ Đạo nhỏ bé, tôi
chọn ngày ngài mừng 25 Linh Mục để đến xứ như muốn nói lên sự trân trọng của tôi dành cho ngài.
Chiều hôm ấy đến nhiệm sở, mọi sự vắng lặng, rồi người ta đến dự Lễ, Thánh Lễ rất bình
thường như mọi Thánh Lễ, khác một chút là ngài thông báo xin cầu nguyện vì hôm nay kỷ niệm Ngân
Khánh của ngài, cuối lễ ngài vào phòng áo đưa ra một bịch kẹo bánh phát cho cả Nhà Thờ cùng ăn,
cùng vui. Giờ cơm chiều sau Lễ, chúng tôi hỏi ngài về việc kỷ niệm, ngài ôn tồn chia sẻ, "25 năm là 25
năm bất trung với Chúa, có gì mà vui mừng ? Lẽ ra phải là một ngày tạ tội !”
Mới đây ngài mừng 50 năm Linh Mục cũng thế, ngài bảo với tôi: “Xin lỗi Chúa cả đời, em ơi” !
Lm.VĨNH SANG, DCCT, 9.7.2014
MỤC LỤC TÌM BÀI:
MÙA TẠ ƠN ( Lm. Vĩnh Sang ) ............................................................................................................. 01
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA CHO CÁC NẠN NHÂN… ( Bản dịch của Lm. Cao Tấn Tĩnh ) ..... 03
HẠT GIỐNG LỜI CHÚA ( AM. Trần Bình An ) ....................................................................................... 05
GIEO VÀ GẶT ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ....................................................................................... 06
HÃY LÀ ĐẤT TỐT, ĐỂ HẠT GIỐNG LỜI CHÚA... ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ................................. 09
LÝ GIẢI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT ( Bản dịch của Trầm Thiên Thu ) .............................................. 10
PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 13: PHAOLÔ BẮT CHƯỚC ĐỨC KITÔ… ( Nguyễn Trung ) ........... 12
CON ĐƯỜNG ( Joseph C. Pham ) ........................................................................................................... 15
DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI ( Bồ Câu Trắng ) ................................................................................................. 17
NGÔN NGỮ CỦA TÌNH YÊU ( Gm. James Conley, bản dịch của Joseph C. Pham ) .................................. 18
VIỆT NAM LỌT VÀO TOP 5 NƯỚC CÓ TỶ LỆ NẠO PHÁ THAI CAO NHẤT THẾ GIỚI ( Báo Người Việt ) ...... 22
GIÚP NGƯỜI LÀ TỰ CỨU MÌNH ( Vũ Chân ) .......................................................................................... 23
12 ĐIỀU NGẠC NHIÊN VỀ GIÁO DỤC MẦM NON NHẬT BẢN ( Nguyễn Thảo ) ........................................ 24
NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( TTMV DCCT ) .......................... 27
2
BÀI GIẢNG LỄ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
CHO CÁC NẠN NHÂN BỊ GIÁO SĨ LẠM DỤNG TÌNH DỤC
"Trước nhan Thiên Chúa và dân của Ngài, tôi xin bày tỏ niềm sầu thương của tôi về tội lỗi
và các tội ác trầm trọng lạm dụng tình dục của Giáo Sĩ đã phạm đến anh chị em. Và tôi khiêm tốn
xin anh chị em tha thứ". ( Thánh Lễ 7 giờ sáng thứ hai ngày 7.7.2014 ở Nguyện Đường của Nhà
Thánh Matta, có sự tham dự của cả một số gia đình cùng với các thành viên của Ủy Ban Tòa
Thánh đặc trách Bảo Vệ Vị Thành Niên ).
Nơi cảnh tượng Tông Đồ
Phêrô thấy Chúa Giêsu xuất hiện sau
một cuộc tra vấn kinh hoàng... con
mắt của ngài đã chạm phải ánh mắt
của Chúa Giêsu và đã khóc...
Cảnh tượng ấy hiện lên trong
tâm trí của tôi khi tôi nhìn vào anh chị
em đây, và tôi nghĩ đến rất nhiều con
người nam nữ, trẻ em nam nữ.
Tôi cảm thấy ánh mắt của
Chúa Giêsu và tôi xin ơn khóc
lóc, ơn để Giáo Hội khóc lóc và đền
bù cho con cái nam nữ của mình,
thành phần đã phản bội sứ vụ của
mình, thành phần lạm dụng tình dục
những con người vô tội.
Hôm nay tôi hết sức biết ơn anh chị em đã đến đây từ những nơi rất xa xôi. Vào lúc này đây có
những khi tôi cảm thấy đớn đau và khổ sầu rất sâu xa. Rất nhiều lúc nó được ẩn kín, bị che giấu đi
trước một hành động bất chính nào đó không thể nào hiểu nổi cho tới khi ai đó nhận thức được rằng
Chúa Giêsu đang nhìn họ và nhìn những người khác như thế... và họ bắt đầu cảm nhận được ánh
mắt đó.
Một số ít người bắt đầu khóc ấy đã chạm đến lương tâm chúng ta về tội ác này và trọng tội
kia. Đó là những gì khiến cho tôi cảm thấy buồn khổ và đau đớn trước sự kiện có một số vị Linh Mục và
Giám Mục, bằng việc lạm dụng tình dục các em vị thành niên, đã phạm đến tính chất ngây thơ vô tội của
họ cũng như đến ơn gọi Linh Mục của phạm nhân.
Nó là một cái gì đó vượt trên cả những hành động đáng khinh ghét. Nó như là một thứ tôn sùng
phạm thánh, vì những em trai em gái ấy được trao phó cho đặc sủng Linh Mục để được mang đến cùng
Thiên Chúa. Những phạm nhân ấy đã hiến tế những em này cho ngẫu tượng tình dục của mình. Họ tục
hóa chính hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng chúng ta đã được dựng nên giống như Ngài.
Như tất cả chúng ta đều biết là trẻ thơ, những tấm lòng trẻ dại, rất cởi mở và tin tưởng, theo
cách thức riêng của mình trong việc hiểu biết về các mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa và rất mong
muốn được lớn lên trong Đức Tin.
Hôm nay đây, tấm lòng của Giáo Hội đang nhìn vào đôi mắt của Chúa Giêsu ở nơi những em
trai và em gái này mà muốn khóc; Giáo Hội xin được ơn khóc lóc trước những hành vi lạm dụng cực kỳ
xấu xa đã lưu lại các vết sẹo cả đời. Tôi biết rằng những vết thương này là nguồn đớn đau da diết sâu
xa và thường xuyên về cảm xúc cũng như thiêng liêng, thậm chí đến thất vọng chán chường.
Nhiều người đã chịu đựng như thế cũng đã tìm cách giảm bớt bằng đường lối nghiện ngập.
Những người khác đã trải qua các thứ khó khăn nơi những mối liên hệ quan trọng, với cha mẹ, vợ
chồng và con cái. Nỗi khổ đau ở trong các gia đình đặc biệt là trầm trọng, vì cái tác hại gây ra bởi bị lạm
dụng tình dục là những gì ảnh hưởng tới các mối liên hệ trọng yếu về gia đình này.
Một số người thậm chí đã phải đương đầu với thảm họa kinh hoàng về cái chết tự tử của một
người thân yêu. Các cái chết của những người con cái rất yêu dấu của Thiên Chúa này đã đè nặng trên
tâm can và lương tâm của tôi cũng như của toàn thể Giáo Hội.
3
CÙNG HIỆP THÔNG
Tôi muốn bày tỏ tình yêu và nỗi khổ tâm thực lòng của tôi với những gia đình ấy. Chúa
Giêsu, Đấng bị hành hình và tra vấn đầy hận thù, khi được đưa đến một chỗ khác và đã nhìn ra ngoài.
Người nhìn đến một trong những kẻ hành hình Người, nhìn đến con người đã chối bỏ Người và
Người đã khiến hắn khóc lóc. Chúng ta hãy van xin ân sủng khóc lóc này cùng với ân sủng thực hiện
những bù đắp. Tội lỗi lạm dụng tình dục của Giáo Sĩ phạm đến những em vị thành niên có một tác
dụng độc hại trên Đức Tin và Đức Cậy Trông nơi Thiên Chúa.
Một số trong anh chị em đã giữ vững Đức Tin, trong khi đó có những người khác cảm nghiệm bị
lừa đảo và bỏ rơi đã khiến họ trở thành suy yếu niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Sự hiện diện của anh
chị em ở đây chứng tỏ một phép lạ của niềm hy vọng, phép lạ thắng vượt được bóng tối thăm thẳm.
Thật sự nó là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa mà hôm nay chúng ta mới có cơ hội gặp gỡ
nhau, để tôn thờ Thiên Chúa, để nhìn vào mắt của nhau và để xin ơn hòa giải.
Trước nhan Thiên Chúa và Dân của Ngài, tôi xin bày tỏ niềm sầu thương của tôi về tội lỗi và các
tội ác trầm trọng lạm dụng tình dục của Giáo Sĩ đã phạm đến anh chị em. Và tôi khiêm tốn xin anh chị
em tha thứ. Tôi cũng xin anh chị em tha thứ cả các tội lỗi vì đã không chịu ra tay giải quyết về phía các
vị lãnh đạo trong Giáo Hội, những vị ấy đã không đáp ứng một cách thích đáng trước các tường trình
của gia đình nạn nhân hoặc của chính các nạn nhân bị lạm dụng đã tường trình. Điều ấy lại càng gây ra
khổ đau hơn nữa nơi những ai bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho các trẻ em vị thành niên khác cũng có
thể bị nguy cơ lạm dụng.
Mặt khác, lòng can đảm của anh chị em và những người khác khi lên tiếng khi nói lên sự thật, đó
chính là việc phục vụ của tình yêu thương, vì đối với chúng tôi, nó đã chiếu rọi ánh sáng vào bóng tối
kinh hoàng trong đời sống của Giáo Hội.
Không có chỗ đứng trong thừa tác vụ của Giáo Hội cho những ai phạm đến những thứ lạm
dụng ấy, và tôi tự hứa rằng sẽ không dung nhượng cho bất cứ tác hại nào gây ra cho một em nhỏ bởi
bất cứ cá nhân nào, dù là Giáo Sĩ hay không.
Tất cả mọi vị Giám Mục cần phải thi hành thừa tác
mục vụ của mình một cách hết sức cẩn thận để giúp bảo
trì việc bảo vệ vị thành niên, và các vị sẽ bị trả lẽ về vấn đề
này. Những gì Chúa Giêsu nói về những ai gây ra gương
mù gương xấu đều được áp dụng cho tất cả chúng ta, đó
là tảng đá và biển cả ( xem Mt 18, 6 ).
Cũng thế, chúng tôi sẽ tiếp tục tỉnh táo trong việc
đào tạo huấn luyện Linh Mục. Tôi tin tưởng vào các phần tử
thuộc Ủy Ban Tòa Thánh đặc trách Bảo Vệ Trẻ Em, thành
phần mà ở bất cứ miền đất nào họ sống, đều là những
bông hoa nhỏ được Thiên Chúa âu yếm ngắm nhìn.
Tôi xin được sự nâng đỡ này để giúp tôi bảo đảm
rằng chúng ta phác họa những quy chế cùng với những
phương sách tốt đẹp hơn trong Giáo Hội hoàn vũ, để bảo
vệ các em vị thành niên, cũng như để huấn luyện các
nhân sự trong Giáo Hội ngay tại những nơi áp dụng các
quy chế và phương sách ấy. Chúng ta cần phải làm hết
sức có thể để bảo đảm rằng những tội lỗi này không còn
chỗ đứng nữa trong Giáo Hội.
Anh chị em thân mến, vì tất cả chúng ta đều là
thành phần của Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta được kêu
gọi để sống cuộc đời theo tình thương. Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế của chúng ta, là mẫu gương tối hậu
về tình thương; dù vô tội, Người cũng đã mặc lấy tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá.
Được hòa giải là chính yếu tính nơi căn tính chung của chúng ta là thành phần theo Chúa Giêsu
Kitô. Bằng việc trở về cùng Người, được trợ giúp bởi Người Mẹ rất thánh của chúng ta, Vị đã âu
sầu đứng dưới chân thập giá, chúng ta hãy xin được ơn hòa giải với toàn thể Dân Chúa. Việc chuyển
cầu yêu thương của Đức Mẹ Xót Thương Dịu Hiền là mạch nguồn trợ giúp không thể thiếu trong tiến
trình chữa lành của chúng ta.
Anh chị em cùng với tất cả những ai bị Giáo Sĩ lạm dụng tình dục đều được Thiên Chúa yêu
thương. Tôi nguyện cầu để những vết tích tồn tại của tăm tối đã đụng chạm đến anh chị em được chữa
lành bởi vòng tay ôm ấp của Con Trẻ Giêsu và những gì tác hại anh chị em sẽ phải nhường bước cho
một Đức Tin và niềm vui mới.
4
Tôi xin cám ơn cho cuộc gặp gỡ này. Xin cầu nguyện cho tôi, để đôi mắt của lòng tôi thấy được
một cách rõ ràng con đường của tình yêu nhân hậu, và để Thiên Chúa ban cho tôi lòng can đảm kiên trì
trên con đường này vì thiện ích của tất cả mọi trẻ em và giới trẻ.
Chúa Giêsu ra khỏi một phiên tòa bất công, khỏi một cuộc tra vấn dữ tợn và Người nhìn vào đôi
mắt của Tông Đồ Phêrô khiến Phêrô khóc lóc. Chúng ta hãy xin Người hãy nhìn đến chúng ta và hãy để
cho chính chúng ta được đoái nhìn và khóc lóc, và xin Người ban cho chúng ta ơn biết hổ thẹn,
nhờ đó, như Tông Đồ Phêrô, 40 ngày sau, chúng ta có thể thân thưa rằng: "Thầy biết rằng con yêu mến
Thầy", rồi nghe thấy Người nói rằng: "Con hãy trở về mà săn sóc chiên của Thầy". Và tôi xin được thêm
như thế này: "Đừng để cho sói lọt vào đàn chiên".
Đaminh Maria CAO TẤN TĨNH, BVL,
dịch từ http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-homily-at-mass-with-sexual-abuse-victims
HẠT GIỐNG LỜI CHÚA
Ở Đồng Tháp Mười có một loại lúa gọi là lúa trời, vì
lúa tự nhiên mọc trên cánh đồng mênh mông đầy nước. Còn
gọi là lúa ma vì mỗi ngày chỉ chín vài ba hạt mỗi bông vào
ban đêm, và sẽ rụng ngay khi mặt trời mọc. Muốn thu hoạch
thì bơi xuồng vào đồng lúa từ nửa đêm đến sáng.
Cây lúa ma thích hợp vùng sình lầy trũng thấp, và có
sức sống rất mãnh liệt. Hạt lúa ma có râu dài 3 – 4cm, khi
hạt chín rụng xuống, râu này sẽ cắm ngập vào bùn non, ẩn
nhẫn nằm đó chờ đến khi mùa mưa bắt đầu đem đủ độ ẩm
cho đất thì hạt nẩy mầm. Đến mùa nước nổi, nước dâng cao
bao nhiêu thì lúa vẫn vươn đọt và bông cao hơn mặt nước.
Thân cây lúa ma cứng, bông lúa ít hạt vì hạt mọc thưa so
với bông lúa thường, hạt to hơn, thời gian hạt chín kéo dài
từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 10 âm lịch. Vì lúa mọc giữa
đồng nước mênh mông và chỉ chín vài hạt mỗi bông nên
không thể gặt như giống lúa trồng mà thu hoạch bằng cách
bơi xuồng vào đồng lúa, dùng hai thanh tre đập ngọn lúa vào
be xuồng cho lúa rụng vào xuồng.
Sau khi đem về người ta ngâm lúa ba hôm rồi phơi
khô thì râu lúa sẽ rụng đi, sau đó đem xay. Hoặc sau khi đem
lúa về, đem phơi xong dùng chày giả nhẹ cho gảy râu, cách
này làm hạt cơm lúa ma dẻo, thơm ngon hơn cách trên. Hạt gạo lúa trời rất cứng cơm, thời gian nấu lâu
hơn nấu gạo thường gấp ba lần. Cơm có màu hồng nhạt, dẻo, rất thơm, ngọt và béo không gạo nào bằng,
nước cơm chắt ra pha thêm mật ong hay đường phèn là thức uống thơm ngon giàu dinh dưỡng.
Hiện nay diện tích lúa ma bị thu hẹp rất nhiều, chỉ còn khoảng 500ha ở Vườn Quốc gia Tràm Chim,
Đồng Tháp. Theo Tiến sĩ Dương văn Ni thì giống lúa ma đã có tên trong bộ gen nguồn quý hiếm của Viện
Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế. Từ gen của những cây lúa ma cao nhỏng gầy nhom này, các nhà khoa học đã áp
dụng công nghệ sinh học cho ra đời nhiều giống lúa thơm cao sản đã và đang trồng trên đồng ruộng Việt
Nam. Ở Brazil, người ta đóng gói gạo lúa ma, mỗi gói chỉ 200g xuất sang Mỹ với giá 7 đô la một gói, tương
ứng 3 500 USD một tấn. ( Ks. La thị Hiền, Lúa ma Đồng Tháp Mười, Hạt ngọc trời ban ).
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để giảng về thái độ đón
nhận Lời Chúa của từng người. Hạt giống Lời Chúa còn cao quý, giá trị gấp bội hạt giống lúa trời hay
lúa ma kỳ diệu.
Hạt giống hướng đạo
Hạt giống Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn con người đến sự sống viên mãn. “Lời Chúa là ngọn
đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 119, 105 ).
Thật vậy, Đức Giêsu khẳng định trước đông đảo dân chúng và các thầy tư tế, Pharisêu, đang nổi
giận tìm cách ám hại Người: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị
xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” ( Ga 5, 24 ).
5
CÙNG SUY NIỆM
Hạt giống Lời Chúa còn là lương thực dưỡng nuôi cho ai muốn sống thật, muốn no thỏa tâm hồn
và bình an trong Chúa. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên
Chúa phán ra” ( Mt 4, 4 ).
Hạt giống thánh hóa
Đức Giêsu còn quả quyết những ai nghe và thực hành Lời Chúa, đều trở nên thân bằng quyến
thuộc của Người: “Ðoạn Người chỉ các môn đệ mình mà phán: Ðây là Mẹ Ta. Ðây là anh em Ta. Vì ai
vâng theo ý Cha Ta ở trên Trời, thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta vậy" ( Mt 12, 50 ).
Hoặc nâng lên phận hèn mọn con người trở thành bạn hữu thân thiết của Người: “Thầy gọi anh
em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” ( Ga 15, 15 ).
Hạt giống trường sinh
Khi thấy nhiều môn đệ rút lui sau mạc khải về nhiệm tích Thánh Thể, Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười
Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” Ông Simon Phêrô liền mạnh dạn tuyên xưng
niềm tin cậy mến: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có lời đem lại sự sống
đời đời” ( Ga 6, 68 ).
Mười một Tông Đồ còn lại sau cuộc tử nạn của Đức Giêsu đều trở thành chứng nhân kiên
cường của Người, cùng hiệp thông vào công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Các ngài đều được đoàn tụ
vĩnh viễn trên Nước Trời, như Đức Giêsu đã hứa: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại
và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" ( Ga 14, 3 ).
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” ( Mt 24, 35 ). Mặc dù trải qua hơn
hai ngàn năm, Lời Chúa luôn mãi tân kỳ, hiện đại, phù hợp, thich ứng mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh,
vì Lời Chúa là sự thật ngàn đời hề suy xuyển, cũng chẳng bao giờ lạc hậu: “Lời Chúa vẫn tồn tại đến
muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng” ( 1Pr 1, 25 ).
Thánh Phêrô còn xác tín hạt giống trường sinh trong thư thứ nhất qua ngòi bút của Silvanus
Silas: “Anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời
Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi. Vì mọi phàm nhân đều như cỏ, và tất cả vinh quang của họ
cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì khô, hoa thì rụng.” ( 1Pr 1, 23 – 24 ).
“Hãy đi rao giảng Phúc Âm…” Để dám nhận một sứ mạng cao cả như thế, Chúa cần “cảm tử.”
Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử từ mọi tầng lớp
Giáo Dân. ( Đường Hy Vọng, số 64 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận và thực hành hạt giống Lời Chúa
với cả tấm lòng nhiệt thành và trung kiên, đừng để những quyến rũ thế gian, ba thù, chim trời,
sỏi đá, gai góc, làm thui chột, lấn át, chết đi mầm sống Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ cầu bầu, che chở chúng con thành tâm sống Lời Chúa, mặc
bao trở ngại, phong ba, thử thách đang đón chờ chúng con. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
GIEO VÀ GẶT
Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc “Gieo và Gặt”
với giai điệu vui tươi, ca từ đậm chất thơ và có ý nghĩa
sâu sắc.
Gieo thành thật, gặt được niềm tin.
Gieo lòng tốt, gặt về thân tình.
Gieo kiên nhẫn, sẽ gặt quang vinh.
Gieo tha thứ, sẽ gặt được an bình.
Gieo dối trá, sẽ ra ngờ vực.
Gieo ích kỷ, sẽ chỉ cô đơn.
Gieo kiêu hãnh, sẽ lãnh đau thương.
Gieo đố kỵ, là ky cóp muộn phiền.
Gieo cay đắng, sẽ tăng hủy diệt.
Gieo biếng lười, ra người buông trôi.
Gieo lo lắng, tay trắng âu lo.
Gieo tội lỗi, suốt đời gặt tội lỗi.
6
Có gieo thì mới có gặt. Gieo giống nào thì gặt giống đó. Thánh Phaolô viết: “Ai gieo giống
nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác
thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự
sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không
sờn lòng” ( Gl 6, 7 – 9 ).
Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt và sinh hoa trái tốt. Chúa Giêsu xác
định: “Xem quả thì biết cây” ( Mt 12, 33; Lc 6, 44 ). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh
trái ngọt. Đời sống tinh thần cần có “hạt giống tâm hồn”. Đời sống tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”.
Tin Mừng hôm nay có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống.
Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành
đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau. Hạt giống được gieo trên
bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy.
Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được ? Trong bụi gai
chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thành cây xanh tốt được ?
Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo
trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác
biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ
thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống mà
bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi
lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
1. Tấm lòng quảng đại của người đi gieo
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất
phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có
bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt
không bỏ rơi một mảnh đất nào, ông quảng đại muốn cho hạt
giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi
người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài.
Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai
cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như
họ thành tâm thiện chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử,
không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về
hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào
tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi
gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó
chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một
mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu
mươi, có hạt ba mươi” ( Mt 13, 23 ). Thiên Chúa vẫn gieo Lời
Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng
Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả,
nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ
thác” ( Is 55, 11 ). Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hồng ân
Thiên Chúa chan hòa như mưa móc: “Thăm trái đất, Ngài tuôn
mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ
bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” ( Tv 65, 10 – 12 ).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối.
Thánh Phaolô hăng say bách hại các Kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt
thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng
vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong
nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của
chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận
Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
2. Hạt giống tiềm ẩn Sự Sống
7
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi
non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm
phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin Mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có
một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc
lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “hạt lúa âm thầm mọc lên” ( x.
Mc 4, 26 – 29 ) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” ( x. Ga 12, 24 ) lại là một hình ảnh
khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong
phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
3. Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào
từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn
phận của đất là không được phụ lòng người
quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự
nhưng Ngài cần con người cộng tác. Thiên Chúa
vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần
phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá
hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta
hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên
Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và
sinh hoa kết quả ( x. 1Cr 3, 5 – 9 ).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của
đời sống người Kitô hữu. Chính niềm hy vọng
đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn,
thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới
một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành,
khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận
lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của
Thiên Chúa ( GLCG # 1724 ).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng
nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng
để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa
sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc
thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống
Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ,
rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp.
Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp ! Ông Tư thấy
không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử
nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta đi gieo hạt giống Lời Chúa, gieo hào phóng, gieo kiên trì, gieo
hy vọng và nhất là gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Gieo bác ái chúng ta sẽ gặt được yêu thương, một
mùa yêu thương tràn ngập đời sống hàng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây
nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời
Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời
mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.Ước gì ngôi nhà cuộc đời chúng con được
xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. ( Mana )
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
8
HÃY LÀ ĐẤT TỐT, ĐỂ HẠT GIỐNG LỜI CHÚA
SINH NHIỀU BÔNG HẠT
Cho đến bây giờ, "mọi thọ tạo đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng
không phải chỉ có các thọ tạo, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta
cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và Ơn Cứu Độ thân xác chúng ta" ( Rm 8, 22 – 23 ).
Hỏi ai trong chúng ta lại không có kinh nghiệm sống ở đời về tương phản giữa khổ đau trong đời
sống thường ngày và vinh quang cũng như hy vọng mà Thánh Phaolô nói đến trong thư gửi Giáo Đoàn
Rôma ( Rm 8 18 – 23 ) ? Giữa "những đau khổ trong hiện tại" chúng ta mang trên mình, và "vinh quang mà
Thiên Chúa sẽ tỏ lộ trong tương lai" ( Rm 8, 18 ).
Hiện tại chúng ta chưa có kinh nghiệm nhiều, nên chúng ta muốn nói như Đức Maria: "Việc đó
xảy ra thế nào được ?" ( Lc 1, 34 ). Phụng Vụ hôm nay sẽ cho chúng ta câu trả lời.
Mặc khải cho biết, khổ đau đi vào thế giới như là hậu quả của tội lỗi "không thể tránh khỏi"; cũng
như trái cấm trong vườn Êđen, vì một lời nói dối, khiến con người chống lại Lời sáng tạo, gây nên sự
hỗn loạn, sau cùng cả và nhân loại bị hủy diệt. Chỉ có Thiên Chúa, Lời sáng tạo, mới có thể can thiệp để
cứu chuộc con người ( x. Rm 8 ) và tái lập trật tự hài hòa đã được thiết lập ngay từ thuở ban đầu. Chúa
phán: "Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý
muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác" ( Is 55, 11 ).
Nhưng Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra là gì vậy ? Thưa là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta, Con một Ngài, Thiên Chúa như người gieo giống gieo Lời ( Con Ngài ) vào thế giới chúng ta,
"Người cho ứ nước luống cày, Mô đất đặt xuống phẳng phiu, Người cho mưa rào đảo nhuyễn, chúc
lành cho giống trổ mầm" ( Tv 64, 11 ); "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống… làm cho đất phì nhiêu, cây
cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn" ( Is 55, 10 ).
Nước ở đây là nước Thánh Thần tưới lên chúng ta để chúng ta sinh được gấp trăm. Chính nơi
Chúa Giêsu phục sinh mà nhân loại được cứu, Người là "Đấng cứu chuộc thế gian ! nơi Ngài đã được
mạc khải một cách mới mẻ và kỳ diệu hơn chân lý căn bản về thế giới thụ tạo, điều mà sách Sáng thế
xác nhận khi lặp đi lặp lại nhiều lần: "Thiên Chúa thấy như thế là tốt lành" ( Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II, Đấng Cứu Chuộc con người, số 8. Ngày 4.3.1979 ).
Nhưng nếu Chúa Giêsu là Đầu đã đạt đến
chặng cuối của hành trình, thì Thân mình là "mọi thọ
tạo rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh
con" ( Rm 8, 22 ) cũng được như vậy. Tuy nhiên, tiền
đề sự phục sinh của Chúa Giêsu đã được trao ban: hạt
giống sự sống đời đời đã ẩn tàng trong tâm hồn các tín
hữu từ ngày họ chịu phép Rửa tội; Dưới tác động của
Chúa Thánh Thần, Lời tái tạo và biến đổi chúng ta.
Thật hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa là Cha vô
cùng nhân hậu; Ngài biết lòng dạ con người phức tạp
và yếu đuối. Vì thế, Ngài gieo cách hào phóng, kể cả vệ
đường, nơi bụi gai và sỏi đá. Chim trời sẽ đến ăn mất,
nhưng đặt hy vọng vào hạt rơi vào đất tốt sinh hoa kết
quả dồi dào, "có hạt được một trăm" ( Mt 13, 23 ).
Thiên Chúa rất đỗi khoan dung, không những mạc khải cho chúng ta tình yêu của Ngài bằng cách
hòa giải với chúng ta nhờ sự chết của Con Ngài khi chúng ta còn là kẻ thù ( x. Rm 5, 10 ), Ngài gieo Lời cứu
độ là chính Con Ngài xuống trên chúng ta, bất kể chúng ta thờ ơ, từ chối, nhưng chắc chắn sẽ có hạt đâm rễ
và mọc lên.
Dụ ngôn này thật an ủi cho những kẻ cứng đầu cứng cổ như chúng ta, và cũng là lời khuyên an
ủi những ai đang chịu trách nhiệm dạy Giáo Lý cho thiếu nhi và giới thành niên.
Còn nỗi khổ nào hơn đối với các bậc làm cha mẹ khi thấy con cái mình từ bỏ Đức Tin ! Nhưng
Đức Tin không thể được truyền theo nhiễm sắc thể hay dòng sữa của mẹ nuôi con, chúng ta có thể
trình bày cho trẻ em về tình bạn của Chúa Giêsu, nhưng không thể áp đặt Đức Tin cho chúng.
Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể: chúng ta hãy vui lòng làm như
Ngài, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn
có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại
với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả ( x. Is 55, 10 – 11 ).
9
Chúng ta cần chuẩn bị một thửa đất tốt để đón nhận hạt giống, và chăm sóc để nó có thể đơm hoa
kết trái. Có người không muốn mình bị thử thách hay gặp khó khăn, người ấy sẽ có ngàn lý do để từ chối.
Nhưng ai "nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả" ( Mt 13, 23 ).
Tất cả đều nghe dụ ngôn, nhưng người hiểu được là người mang nó về nhà, trân trọng như một
tài sản quý giá. Chúng ta sẽ hạnh phúc nếu chúng ta nghe những gì Chúa nói và nghiêm túc hoán cải
theo tiếng Chúa gọi: Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta được sống, "giải thoát khỏi vòng nô lệ sự
hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" ( Rm 8, 21 ), chúng ta sẽ
đơm hoa kết trái.
Trong Năm Phúc Âm Gia Đình, chúng ta cùng nghe lời vị cha chung dạy:
"Tất cả việc Phúc Âm hóa được thiết lập dựa trên sự lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành Lời
Chúa và làm chứng cho Lời Chúa. Thánh Kinh là nguồn mạch của việc Phúc Âm hóa. Vì vậy, chúng ta
phải liên tục được đào luyện trong việc lắng nghe Lời Chúa. Hội Thánh không rao giảng Tin Mừng nếu
không liên tục để cho mình được Phúc Âm hóa…
Việc Phúc Âm hóa đòi hỏi chúng ta phải làm quen với Lời Chúa, và điều này đòi buộc các giáo
phận, các giáo xứ và các nhóm Công Giáo đề ra một chương trình học hỏi Thánh Kinh nghiêm túc và
kiên trì, cũng như thúc đẩy việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện của cá nhân và cộng đồng… " ( Đức
Phanxicô, Niềm Vui Phúc Âm, § 174-175 ).
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe
Lời Thiên Chúa cách sâu đậm và kiên trì. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, là "đất tốt", nơi hạt gống
Lời Chúa có thể đem lại nhiều bông hạt. Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
LÝ GIẢI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Một trong các thử thách mà tôi gặp là chấp
nhận giáo huấn của Giáo Hội về sự hiện hữu của
Hỏa ngục, vì điều này không tương xứng với ý
tưởng về một Thiên Chúa tốt lành. “Thiên Chúa của
tôi là một Thiên Chúa của lòng thương xót, và Ngài
muốn mọi người được cứu độ. Điều đó có trong
Kinh Thánh !” Đó là sự thật, Thiên Chúa muốn mọi
người được cứu độ, nhưng với điều kiện. Gay go
đây ! Không tuân thủ các điều kiện này có thể vào
Hỏa ngục đời đời. Điều này đưa chúng ta trở lại vấn
đề Lòng Chúa Thương Xót. Nhiều người Công Giáo
cho rằng có sự mâu thuẫn giữa Lòng Chúa Thương
Xót và sự hiện hữu của Hỏa Ngục.
Thánh Luca tường thuật chi tiết khi đám đông đến với Chúa Giêsu và hỏi Ngài về những người
được cứu độ, Ngài nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có
nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” ( Lc 13, 24; x. Mt 7, 14 ). Tôi thấy có cái khó trong câu
nói của Chúa Giêsu. Nếu Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ ( 1Tm 2, 4 ) thì tại sao Ngài làm
cửa vào nơi cứu độ quá khó ? Có thể có ba cách trả lời: (1) Thiên Chúa làm cho nó khó dù Ngài muốn
mọi người được cứu độ; (2) Satan làm cho nó khó; (3) Chính chúng ta làm cho nó khó. Câu trả lời nào
ngụ ý của Chúa Giêsu ?
1. Dựa vào những gì chúng ta biết về Thiên Chúa thì cách trả lời thứ nhất vô lý.
Như đã nói, Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ. Hơn nữa, Ngài sai Con Một Ngài đến cứu
độ chúng ta, chứ không kết án chúng ta, dù chúng ta đáng tội chết. Như vậy, khi sai Con Một, Thiên Chúa
trao ban tặng phẩm quý giá nhất để đưa chúng ta về Nước Trời. Thiên Chúa Con là Đấng Vô Cùng, không
thiếu thứ gì. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng Thiên Chúa không thể làm khó các linh hồn trên
đường về Nước Trời.
2. Có thể ma quỷ là thủ phạm
Tuy nhiên, ma quỷ bị đánh bại vì Máu Con Chiên là Đức Kitô, và quyền lực của nó bị chế ngự ( Kh
12, 11; Kh 20, 10; 1 Ga 3, 8; Lc 11, 21 – 22; Mt 16, 18 ). Do đó, ma quỷ không thể ngăn chặn lối vào Nước
Trời vì Thiên Chúa đã làm người và đánh bại nó. Vậy là ma quỷ bị tước đoạt mọi thứ ( x. Lc 11, 22 ). Cách
trả lời này cũng không ổn.
10
3. Tại chúng ta làm hẹp lối vào Nước Trời
Nhưng cách trả lời này không dễ hiểu chút nào. Chúa Giêsu đến cứu độ chúng ta và làm cho
chúng ta mạnh mẽ ( x. Ep 6, 10 – 11; 2Cr 12, 10 ). Nhưng làm sao chúng ta làm cho khó vào Nước Trời
nếu Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta mạnh mẽ ? Câu trả lời rất đơn giản: Vì kiêu ngạo, chúng ta làm
tổn hại khả năng của chúng ta và tự thu hẹp đường vào Nước Trời. Sứ điệp của Đức Kitô là sám hối, vì
Nước Trời đã gần. Sự sám hối này giúp chúng ta vượt qua tính kiêu ngạo ( x. Mt 18, 3 – 5; Lc 9, 48;
1Ga 2, 15 – 16 ). Chỉ đơn giản tin Ngài là Thiên Chúa thì chưa đủ: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
‘Lạy Chúa ! Lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là
Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Chúng ta cũng phải sinh hoa trái với lòng sám hối
( Lc 3, 8 ), nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng làm được như vậy !
Do đó, là sai lầm nghiêm trọng nếu cho rằng giáo huấn về Hỏa Ngục không tương hợp với Lòng
Chúa Thương Xót, hoặc cho rằng các linh hồn bị án phạt đời đời là tại Thiên Chúa. Chỉ tại chúng ta mà
thôi ! Cánh cửa Nước Trời nặng, chúng ta thiếu sức mạnh là tại chúng ta, chứ không tại Thiên Chúa.
Thiên Chúa không đẩy chúng ta xuống Hỏa Ngục vì Ngài yêu thương chúng ta vì chúng ta là tội
nhân, nhưng vì chúng ta không chịu thay đổi theo Hồng ân của Ngài.
Điều này vẫn rắc rối. Không phải ai cũng muốn
hạnh phúc sao ? Không phải ai cũng muốn vào Nước
Trời sao ? Mọi người, dù là Kitô hữu hoặc người vô thần,
đều khao khát hạnh phúc. Không ai lại dám liều mình
chọn lối dẫn tới diệt vong. Vậy tại sao Chúa Giêsu nói
rằng con đường dẫn tới Hỏa Ngục rộng thênh thang ?
Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường vào
Nước Trời: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng
sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy” ( Mt 16, 24 – 25 ).
Điều kiện tiên quyết để theo Ngài vào Nước Trời
là TỪ BỎ MÌNH. Ngài luôn luôn ban cho chúng ta lòng
thương xót, ngay cả khi chúng ta không đáng được
thương xót, với điều kiện là chúng ta đừng từ chối, và lời
hứa của Ngài là chiến thắng cuối cùng của chúng ta: “Kẻ
nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” ( Mt 10,
22; Mt 24, 13 ).
Đó là lý do mà đường vào Hỏa Ngục rộng thênh thang và dễ tìm thấy. Thiên Chúa muốn cứu độ
mọi người, nhưng vấn đề là chúng ta có muốn hay không. Thói xấu không cần tập luyện, nhưng tính tốt
thì phải tập luyện không ngừng. Đó là cửa hẹp để vào Nước Trời.
Sự xét mình sẽ giúp chúng ta xác định được chúng ta đang tìm con đường nào để vào Nước
Trời, rộng rãi và dễ dàng hay chật hẹp và khó khăn. Đây là bốn điểm chính:
– Hằng ngày, tôi có dành thời gian theo dõi chương trình tivi ưa thích ? Tôi có dành thời gian tập
thể dục hoặc vận động ? Tôi có dành thời gian lướt Internet, Facebook, Buzzfeed, Twitter... ? Nhưng tôi
có dành thời gian cầu nguyện ?
– Tôi ưu tiên cho Chúa hay ưu tiên cho những thứ khác ? Tôi có tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật
và các lễ buộc ?
– Hằng ngày, tôi dành bao nhiêu thời gian tập trung vào tài chính, vật chất, các mối quan hệ, chăm
sóc ngoại hình ? Còn tôi dành bao nhiêu thời gian làm vui lòng Chúa và chăm sóc linh hồn mình ?
– Hằng ngày, tôi dành bao nhiêu thời gian suy nghĩ về tình dục, về nét hấp dẫn của mình ? Còn
tôi dùng bao nhiêu thời gian xin Chúa thanh luyện linh hồn mình ?
Tự trả lời thật lòng các câu hỏi trên đây, bạn sẽ biết mình đang đi trên con đường nào để vào Nước
Trời. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa bảo chúng ta phải từ bỏ mình, vác thập giá và vào cửa hẹp. Lòng Chúa
Thương Xót là tặng phẩm vô giá mà Thiên Chúa trao ban để giúp chúng ta từ bỏ mình, vì Ngài sửa dạy
chúng ta với lòng trắc ẩn chứ không khắt khe: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững
được chăng ? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” ( Tv 130, 3 – 4 ).
Lòng Chúa Thương Xót không miễn trừ các khuyết điểm và cứ để chúng vẫn còn, vì Ngài ban
cho chúng ta sự tự do. Điều này KHÔNG có nghĩa là Ngài không yêu thương chúng ta ! Thế nên chúng
ta phải cố gắng “qua cửa hẹp”.
11
Tóm lại, Thiên Chúa không ép chúng ta vào Thiên Đàng nếu chúng ta không muốn. Chúng
ta cũng không thể vào Nước Trời nếu chúng ta bám vào những thứ trên thế gian này. Lòng Chúa
Thương Xót vô hạn, Thiên Chúa ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta tách mình ra khỏi thế
giới này qua việc từ bỏ chính mình, làm cho chúng ta ước muốn Nước Trời và dẫn chúng ta qua cửa
hẹp. Thiên Chúa không ép chúng ta vào Thiên Đàng nếu chúng ta không muốn, vì Ngài giàu lòng
thương xót – và luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài sẽ làm mọi thứ để chúng ta ước muốn Nước
Trời, vì Ngài giàu lòng thương xót.
TRẦM THIÊN THU
chuyển ngữ từ PrayerAndPerspective.com
PHONG CÁCH PHANXICÔ
Bài 13. Phaolô bắt chước Đức Kitô như thế nào ?
Trong giao tiếp thường ngày với nhiều thành phần khác nhau ta
rất thường nghe một phát biểu hình như khá xác đáng, ít ai muốn phản
bác lại vì không muốn làm phật ý nhau, đại để như: “Đạo nào cũng là
đạo. Đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn ngay ở lành, cũng dựa trên luật
nhân quả…” Đối với nhiều người, tôn giáo được đơn giản hóa thành một
lối sống ăn ngay ở lành, tu thân tích đức, do đó mới có quan điểm “đạo
nào cũng giống nhau”. Một số Kitô hữu đứng trước lập luận của đời
thường như vậy cũng không thấy được đâu là nét nổi bật nhất trong
Lòng Tin Kitô của mình. Ngay cả nhiều Giáo Sĩ trên bục giảng hay trong
các bài viết cũng có khuynh hướng diễn giảng Tin Mừng như một lối
sống đạo đức với một số lễ nghi cần chu toàn.
Hàng ngày bên cạnh các tin tức thời sự chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa… các hãng thông tấn
thường đính kèm một loại tin xem ra chẳng ăn nhập tới đời thường của ta, đó là tin thiên văn về các
ngôi sao, hành tinh, lỗ đen, thiên hà xa lắc xa lơ, có khi cách ta hàng tỷ năm ánh sáng.
Để hình dung được một năm ánh sáng xa cỡ nào ta cứ
theo dõi hành trình của tầu thăm dò Voyager 2, được phóng lên
không gian vào ngày 20.8.1977. Đến năm 2016, tức là 39 năm
sau, nó mới đi ra khỏi biên cương của hệ mặt trời, và nếu cứ bay
hoài với vận tốc 55 ngàn cây số giờ, phải đến 81.500 năm sau nó
mới tới được ngôi sao gần nhất là Proxima Centauri, cách mặt
trời 4,2 năm ánh sáng. Nhưng Voyager 2 chỉ hoạt động được đến
năm 2015 thôi. Sau đó khi tất cả nguồn năng lượng đã cạn kiệt,
nó chỉ là một con tầu chết trôi dạt trong khoảng không gian vô tận
không còn liên lạc gì được với trái đất nữa.
Mặc dầu vậy, nhân loại vẫn không ngại tốn kém công sức
tiền của để tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi lớn nhất là trong không
gian vô biên kia có một nơi chốn nào đó cũng có sự sống như trái đất không. Nói cách khác, vũ trụ có
mang một ý nghĩa nào đó về sự sống không ?
Kitô hữu không đi tìm Thiên Chúa trong thiên văn học, đó là lãnh vực riêng của khoa học thực
nghiệm. Đặc điểm của Kitô hữu là đón nhận Đức Kitô là Lời tối thượng mà Thiên Chúa đã mặc khải ra
cho con người.
Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;
nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ
Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh
vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa ( Dt 1, 1 – 3 ).
Cuộc đời của Đức Kitô luôn luôn trở thành một dấu hỏi bỏ ngỏ rất lớn cho mọi tín hữu. Cuộc đời
đó chỉ có vỏn vẹn 33 năm, mà trong 30 năm đầu tiên Người chẳng làm gì nổi bật. Thân bằng quyến
thuộc chỉ nhận ra đây là một chàng thợ mộc tầm thường, con bà Maria, có anh em là Giacôbê, Giôxết,
Giuđa và Simôn. Chị em của Người đều là bà con lối xóm với họ (x. Mc 6,3).
Phong cách sống của Người trong 3 năm cuối đời, khi đi loan báo Tin Mừng cũng rất lạ lùng.
Không có một ở cố định nào cả, chỉ đi lang thang đây đó trong miền Galilê. “Con chồn có hang, chim trời
12
CÙNG NHẬN ĐỊNH
có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8.20). Người thích lui tới những chốn hoang vu. Rồi
bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia (Mc 8,13). Người không hề xây lên một đền thờ nào
hay kêu gọi người khác làm như thế. Việc đền thờ cực thánh Giêrusalem sẽ bị phá hủy đối với Người là
một chuyện đương nhiên phải xẩy đến. Đang khi Đức Giêsu ra khỏi Đền Thờ, thì một trong các môn đệ
nói với Người: “Thưa Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật! Đức Giêsu đáp: “Anh
nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư ? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị
phá đổ” ( Mc 13, 1 – 2 ).
Đặc điểm chung của những người được tuyển chọn để đi theo Người là thất học, thấp hèn, nông
nỗi, bộp chộp và còn tội lỗi nữa.
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô,
và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các
ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Đi một
quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan.
Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các
ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người ( Mt 5, 18 – 21 ).
Người chẳng hề tự tay ghi chép lại một lời dạy bảo nào, cũng không dặn dò các môn đệ phải viết
xuống cẩn thận các lời Người nói ra. Máccô, sách Phúc Âm đầu tiên chỉ được hình thành vào khoảng từ
năm 55 cho tới 70, tức là trên 20 năm sau khi Người về trời. Bản thân Máccô chưa từng được tiếp xúc
với Người khi Người còn sống.
Đối với Người, chỉ có một quan tâm hàng đầu là làm theo ý Cha của Người. Vì tôi tự trời mà
xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý
Đấng đã sai tôi ( Ga 6, 38 ). Làm theo ý Cha là một điều
không dễ dàng gì.
Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu
nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi
phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin
theo ý Cha” ( Mt 26, 39 ).
Tin Mừng của Người được loan báo ra khỏi biên
cương Do Thái một cách lạ lùng không kém. Người chọn
Saolô tức Phaolô, một công dân Rôma chứ không phải là một
người Palestine như các môn đệ khác. Phaolô chưa hề tiếp
xúc với Người khi Người còn sống, Ông không thuộc hàng
ngũ 12 Tông Đồ nòng cốt, mà lại mang tâm địa muốn tận diệt
những Kitô hữu đầu tiên.
Hồi ấy, Hội Thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt
bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác
về các vùng quê miền Giuđê và Samari. Có mấy người sùng
đạo chôn cất ông Têphanô và khóc thương ông thảm thiết.
Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà,
lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục. ( Cv 8, 1 – 3 ). Ông
Saolô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các
hội đường ở Đamát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về
Giêrusalem. Vậy đang khi ông đi đường và đến gần Đamát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời
chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saun, Saun, tại sao ngươi
bắt bớ Ta ?” Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai ?” Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng
ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì ( Cv 9, 1 – 6 ).
Nhưng chính Phaolô lại là người khởi xướng rao giảng cho dân ngoại tức là chúng ta bây giờ.
Ngày Sabát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy,
người Do Thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Bấy giờ ông
Phaolô và ông Banaba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố
lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời
đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi
làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem Ơn Cứu Độ đến tận cùng cõi đất” ( Cv 12, 44 – 47 ).
Dù chưa bao giờ gặp Đức Kitô khi Người còn sống, Phaolô lại là một tác giả quan trọng hàng
đầu góp phần hình thành bộ Tân Ước. 13 trong số các Thư gởi các giáo đoàn đều bắt đầu bằng câu:
“Phaolô, nô lệ của Đức Kitô”. Số chữ do Phaolô viết ra trong bộ Tân Ước chiếm 31,57%, không kể Thư
Do Thái mang tư tưởng Phaolô nhưng các nhà chú giải cho rằng không phải do ông trực tiếp chấp bút.
13
Phaolô còn là đồng tác giả Công Vụ Tông Đồ. Ông có ảnh hưởng rất lớn trên Luca, tác giả sách Tin
Mừng thứ 3. Do đó, có thể cho rằng 50% bộ Tân Ước là thành quả của Phaolô.
Bởi đâu Phaolô lại có được lòng nhiệt thành và hiệu quả rao giảng mãnh liệt như vậy. Ông
thường nói ra bí quyết của mình và khuyên mọi Tín Hữu khác cũng làm như thế: bắt chước Đức Kitô.
"Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô" ( 1Cr 11, 1 ). "Vậy tôi khuyên anh em:
hãy bắt chước tôi" ( 1Cr 4, 16 ). Vậy, "anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được
Người yêu thương" ( Ep 5, 1 ). "Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào
những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em" ( Pl 3, 17 ).
Chúa Kitô cũng cho biết quan hệ giữa Người và Chúa Cha cũng mang tính bắt chước. Đức Giêsu
lên tiếng nói với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì,
ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả
thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy
những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc” ( Ga 5, 19 – 20 ).
Đây là điểm vô cùng lạ lùng nơi Phaolô. Ông không hề gặp Người bao giờ. Đức Kitô có hiện ra
với ông giống như với Tôma để ông này có thể đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Người hay không ( x.
Ga 20, 27 ) thì không ai dám quả quyết. Giả sử Người có hiện ra tỏ tường với ông đi chăng nữa thì cũng
không thoát khỏi thông lệ sau khi trỗi dậy từ cõi chết, thời gian tỏ mình ra của Người cho tất cả môn đệ
thân thiết hết sức vắn vỏi.
Bà Maria Mácđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào
trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía
đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất
Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó,
nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà
Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết
ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về. “Đức Giêsu gọi bà: “Maria !” Bà quay lại và nói bằng tiếng
Hípri: “Rápbuni !” ( nghĩa là "Lạy Thầy" ). Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên
cùng Chúa Cha” ( Ga 20, 11 – 17 ).
Tại sao Phaolô có thể khẳng định là mình đã bắt chước Đức Kitô. Trong khi Đức Kitô sống 30
năm đầu tiên trong âm thầm lặng lẽ tại Nadarét, 3 năm rao giảng cũng chỉ quanh quẩn trong khu vực
Galilê thôi. Thế mà sau khi đón nhận Đức Kitô, ngay lập tức Phaolô đã lên đường rao giảng. Lập tức
ông bắt đầu rao giảng Đức Giêsu trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa ( Cv 8, 20 ).
Trong khi đó, Đức Kitô lại có vẻ bằng lòng với sứ vụ trong phạm vi Do Thái:
Một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình
dưới chân Người. Bà là người Hy Lạp, gốc Phênixi thuộc xứ Xyri. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà.
Người nói với bà: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà
ném cho chó con.” Bà ấy đáp: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những
mảnh vụn của đám trẻ con” ( Mc 7, 25 – 28 ).
Phaolô lại thấy rõ tầm quan trọng sứ vụ cho dân ngoại. Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của
người Do Thái thôi ? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao ? Có chứ ! Người
cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa ( Rm 3, 29 ).
Tại sao Phaolô không hề được gặp Đức Kitô một cách rất thân thiết và cụ thể như các Tông Đồ
khác theo cách mà Gioan đã ghi lại: "Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều
chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự
sống. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng
được hiệp thông với chúng tôi" ( 1 Ga 1, 1 – 3 ).
Đó là tại vì Chúa Giêsu còn có một cách làm cho những người chưa bao giờ nhìn thấy Người
một cách tỏ tường, tức là chúng ta bây giờ, gặp gỡ được Người có khi còn sâu xa và mãnh liệt hơn là ta
đã cùng sống với Người và được chính Người dạy dỗ. "Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi
cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy
đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em" ( Ga 16, 7 ).
Thánh Thần làm cho ta, tuy vẫn là ta đó, ta trong tất cả giới hạn, yếu đuối và ngay cả tội lỗi của
mình, có được tinh thần của Đức Kitô, để ta có thể sống với tâm tình của Người và đối xử với tha
nhân với tấm lòng của Người. Phaolô đã tóm tắt cuộc đời của ông và mọi Kitô hữu như sau: "Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" ( Gl 2, 20 ). Hành trình rao giảng đã
đưa Phaolô đến những miền mới lạ, gặp gỡ những dân tộc khác, có những kinh nghiệm mà bản thân
Đức Kitô không hề có. Sự bắt chước Đức Kitô của Phaolô phải hiểu là Phaolô hoàn toàn sống cuộc
14
đời của ông, ngay cả trong giấc ngủ, với tâm tình và tấm lòng của Đức Kitô. "Dầu thức hay ngủ, chúng
ta cũng sống với Người" ( 1Tx 5, 10 ).
Tại sao Phaolô lại có thể đạt được một tầm cao kết hợp như thế trong khi ông chưa một lần gặp
gỡ Chúa Giêsu khi Người đang sống và thực hiện rất nhiều phép lạ ? Đó là vì Thánh Thần hàng “rên
siết” trong lòng ông.
"Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như
sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận
Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là
cứu chuộc thân xác chúng ta nữa" ( Rm 8, 22 – 23 ).
Do đó, tư tưởng của Phaolô, những suy tư của ông về Ơn Cứu Độ được diễn giảng trong các
thư gởi cho các Giáo Đoàn, dù có văn phong và nội dung không giống như cách rao giảng và các lời
dạy của Đức Kitô, ngay từ ban đầu đã được Hội Thánh tiên khởi trân trọng đón nhận như chính Lời
Chúa ngay cả trước khi các sách Phúc Âm được phổ biến.
• Thư thứ nhất Thêxalonica viết vào năm 51
• Thư Philip vào năm 52 – 54
• Thư Philêmon vào năm 52 – 54
• Thư Côrintô 1 vào năm 53 – 54
• Thư Galát vào năm 55
• Thư Côrintô 2 vào năm 55 – 56
• Thư Rôma vào năm 55 – 58
• Tin Mừng theo Thánh Mátthêu chỉ có trước năm 70.
• Tin Mừng theo Thánh Máccô được viết trước tiên trong khoảng năm 55 – 70.
• Tin Mừng theo Thánh Luca có trước năm 62.
• Tin Mừng theo Thánh Gioan chỉ có từ năm 80 đến 90.
Sự bắt chước Đức Kitô đã lên tới đỉnh cao vào cuối đời của
Phaolô trước khi chịu tử đạo vào năm 68, khi đó ông niềm nở tiếp đón tất
cả mọi người đến với mình.
Suốt hai năm tròn, ông Phaolô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón
tất cả những ai đến với ông. Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về
Chúa Giêsu Kitô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào ( x. Cv
28, 30 – 31 ). Đây cũng chính là điều Đức Kitô đã làm và muốn ta bắt
chước Người.
"Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Galilê. Người
lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng
Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều
bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người
chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được,
người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ
tôn vinh Thiên Chúa của Ísraen" ( Mt 15, 29 – 31 ).
NGUYỄN TRUNG ( Còn tiếp )
CON ĐƯỜNG
“Tìm một con đường, tìm một lối đi, ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi. Lạc loài niềm tin sống
không ngày mai, sống quen không ai cần ai, cứ vui cho trọn hôm nay.” là tâm sự của nhạc sỹ Đức Huy
trong bài “Và Con Tim Đã Vui Trở Lại” khi anh phải bôn ba và tha phương nơi xứ người. Với ca khúc
này, nhạc sỹ Đức Huy như đã nói hộ biết bao con tim đang thao thức tìm kiếm cho mình một con đường
và một lối đi đúng đắn hầu tới được bến bờ hạnh phúc và bình an thật giữa một thế giới có quá nhiều
con đường và lối đi dẫn đến chỗ lầm lạc và khổ đau như ngày nay.
Con đường gắn kết với hành trình sống của từng người chúng ta như máu huyết và hơi thở vậy.
Từ khi chập chững bước đi đầu tiên ở cái buổi bình sinh của đời mình đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta đã
và luôn gắn kết với con đường rồi, thế nên nó trở nên vô cùng thân quen và gần gũi.
15
CÙNG SUY TƯ
Có những con đường ta rất thích đi, đi hoài mà không biết chán, bởi nó gắn kết với ta nhiều kỷ
niệm vui buồn khác nhau của một thời vang bóng nào đó, tựa như con đường đến trường quen thuộc
trong suốt thời học sinh, hay con đường tình mà hai người yêu nhau thường đi dạo ngang qua ấy để
đến điểm hẹn vào những ngày nắng đẹp hay những ngày mưa lãng mạn.
Cũng có những con đường mà hễ nhắc tới là gợi đến trong ta một sự chán chường và buồn sầu
đến vô hạn bởi nó gắn liền với những biến cố gây chấn động cho ta thuở nào, đó chính là con đường
mà người thân ta đã tử nạn nơi ấy bởi tai nạn giao thông, con đường ta gặp rủi ro, con đường ta đưa
tiễn một linh hồn về với lòng đất.
Đã là con đường thì chắc chắn đưa ta đến một đích điểm nào đó, đích điểm ấy quyết định ta
chọn lựa con đường nào để dẫn tới đó. Thế nên, điều ta băn khoăn và luôn trăn trở trong hành trình đi
về đích điểm của ta thật là một hành trình gian nan và cam go. Bởi nếu ta biết đích điểm thì ta mới biết
tìm đến con đường nào dẫn ta tới.
Song điều cay đắng mà đa số nhân loại này, nhất là những người trẻ gặp phải đó là họ lại không
biết đâu là điểm mà mình cần tới trong cuộc đời, thế nên họ cứ lang bang hoài trên những con đường
khác nhau, đi từ hứng thú đến thất vọng, đi từ ngạc nhiên đến tuyệt vọng, đi từ niềm vui đến bất an, đi
từ sung mãn đến bất mãn, đi từ sôi nổi đến chán chường, đi từ hoan lạc đến loạn lạc, đi từ tình yêu đến
tình thù, đi từ sôi động đến bất động, và đi từ sự sống đến sự chết…
Nhiều khi ta biết đích phải đến, song chính vì cái đích ấy chẳng rõ ràng nên ta lại đi vào những
con đường vòng vo, luẩn quẩn, và như một ma trận lại đưa ta đến đích khác với cái mà ta đã chọn dù
nó đã mập mờ, song đích này còn tan nát và mập mờ hơn.
Ta đã dành cả cuộc đời để nỗ lực, để phấn đấu, để yêu
và để nhớ, để thương và để giận, để học và làm, để nhận và
cho, để vui và buồn, để sinh và để dưỡng… thế nhưng cuối
con đường ấy lại là một điều mà ta lại thất vọng khi trong một
khoảnh khắc ánh sáng nào đó ta được biết rằng ta chẳng đi về
đâu cả, ta vẫn cứ đang đi trong cái mê cung kia, và thế là ta
hối hận, ta tiếc nuối, ta sợ hãi, ta lạc lối, ta băn khoăn, cuối
cùng là bỏ mặc con đường.
Trong tác phẩm “Những Lời Dạy Của Don Juan – The
Teachings of Don Juan” nổi tiếng của nhà nhân chủng học
Carlos Castaneda, ông đã được thầy mình là nhà phép thuật
nổi tiếng ở Mexico chỉ cho biết cái khái niệm về con đường.
Qua đó, ông chia sẻ cảm nghiệm một đời của mình về con
đường với Carlos Castaneda:
“Tất cả mọi con đường đều giống như nhau cả: chẳng
dẫn tới đâu hết. Đó là những con đường đưa ta đi qua bụi rậm,
hoặc đi vào bụi rậm. Nơi chính của sống của mình, tôi có thể nói
rằng tôi đã đi qua rất nhiều con đường dài, nhưng giờ thì tôi
cũng chẳng đang ở đâu cả. Giờ tôi mới thấy câu hỏi của thầy tôi
có ý nghĩa. Liệu con đường này có trái tim không ? Nếu nó có,
thì đó là con đường tốt; còn nếu không thì con đường ấy vô ích.
Cả hai con đường đều chẳng đưa ta đến đâu cả; nhưng
một bên có trái tim, còn bên kia thì không. Một con đường cho
ta một hành trình tràn ngập niềm vui; và bao lâu chúng ta đi theo con đường ấy ta sẽ nên một với nó.
Còn con đường kia thì chỉ đem tới cho ta sự nguyền rủa cả đời. Một con đường cho ta sức mạnh; còn
con đường kia làm cho bạn hao mòn.”
Trong bộ phim nhiều tập mà ai cũng biết dựa trên tác phẩm cùng tên của Ngô Thừa Ân – Tây Du
Ký, nếu ai biết tiếng Hoa sẽ nghe bài hát quen thuộc mỗi khi phim được chiếu, trong đó có đoạn nói thế
này: “Thử hỏi con đường ở đâu, xin thưa con đường ở dưới chân ta”. Đây là một cách nói theo nghĩa
đen, còn nghĩa bóng thì đòi buộc ta phải luôn luôn nhìn xuống chân mình, nhìn hướng phía trước và dò
tìm, phân định, để nhận biết mình đang đi về đâu và đích điểm là gì.
Và kết quả của một quá trình đấu tranh không mệt mỏi với không chỉ những lực cản trên
đường đến Tây Thiên, mà cả với chính bản thân mình với muôn vàn ước muốn thấp hèn, khuynh
hướng xấu, ý riêng mình… thầy trò Đường Tăng cũng đã có thể mỉm cười hạnh phúc khi đặt chân đến
Đất Phật và nhận bộ kinh tu luyện thành Phật đem về giúp cho chúng sanh.
Còn trong Kinh Thánh, ta gặp một Thầy Giêsu nhân lành và thánh thiện, chính Ngài đã xác
quyết: “Chính Thầy là con đường, là sự thật, và là sự sống” ( Ga 14, 6a ). Từ đây, qua Ngài trong tư
16
cách Thiên Chúa Làm Người đã đồng hóa Con đường với Ngôi vị – Thiên Chúa, Sự thật với Ngôi vị, và
Sự sống với Ngôi vị.
Không ai trong dòng lịch sử nhân loại đã dám khẳng định ngôi vị của mình với con đường, với
sự thật, và sự sống như chính Ngài đã đầy tình yêu để đồng hóa với chính mình. Từ đây ta có thể hiểu
thứ tự đồng hóa của Ngài thế này “Thầy đây là con đường, con đường hoàn toàn là sự thật, và con
đường này hoàn toàn là sự sống thật, và đưa các con đến sự sống muôn đời trên Nước Trời”.
Lời xác quyết của Thầy Giêsu dẫn ta đến một sự thật toàn vẹn là nếu ta quyết định chọn Ngài thì
ta phải đi trên con đường mà Ngài đã mở ra cho chúng ta, con đường của hy sinh, từ bỏ mình, yêu
thương, bác ái, và đầy thử thách gian nan nhằm tôi luyện ta trở nên giống Ngài hơn để có thể bước vào
Nước Ngài như đã hứa. Nếu ta thường xuyên đi trên Con Đường Thánh này ta sẽ trở nên một với Ngài,
được niềm vui dù cuộc sống có nhiều cái khổ đau, và tràn đầy sức mạnh để lướt thắng hết mọi cám dỗ
ở đời và vinh quang bước vào Nước Ngài như lời Ngài cầu nguyện
“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ
mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong
chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.
Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một
như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như
vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với
con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã
yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.
Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và
những người này đã biết là chính Cha đã sai con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ
biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”
Joseph C. PHAM
DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI
Dọc đường gió bụi hôm nay
Mưa sao lại thấy cay cay mắt mình
Phải chăng nhân thế tội tình
Mưa ơi hãy xóa tội mình trong ta.
Sàigòn qua những ngày nắng nóng khủng khiếp, giờ dịu mát hơn nhiều sau mấy cơn mưa đầu
mùa đổ xuống chan hòa mặt đất, mưa bay phất phới như mở lối vào đời cho lũ trẻ tung tăng vui hè thoải
mái, mưa tẩm ướt đồng ruộng sau bao tháng ngày nắng nóng khô cằn nứt nẻ. Xin cảm tạ ơn Trời, mãi
mãi dâng lời tạ ơn.
Trên đường về chiều nay vẫn còn những khoảng trống bên thềm lộng gió, có hại bụi từ đâu rơi
xuống làm đôi mắt cay cay, đọc tin nhắn điện thoại sao nghe lòng mình đắng cay: “Hai hôm nay em
không về nhà cô ơi ! Ba mẹ chửi nhau nghe mà nhức óc, em tủi thân quá bỏ nhà đến sở việc lưu trú, cô
làm ơn nhắn tin nói ba mẹ dùm nhe”. Một lát trôi qua, điện thoại từ người mẹ em gọi tới: “Tui đâu muốn
cháu nó bỏ nhà ra đi, nó chỉ gửi về tin nhắn điện thoại: Con không chịu nổi cuộc chiến tranh của ba mẹ,
đi lễ đọc kinh hằng ngày mà ba mẹ chửi
nhau thậm tệ cho cả xóm nghe vậy sao ?
Tui nhịn ổng quá nhiều rồi nên giờ không
chịu nổi nữa đành phải xả ra thôi, thứ đàn
ông gì mà độc tài độc đoán…coi tui như
một con ở trong nhà không bằng…”
Em tâm sự: “Thấy ba mẹ gây chiến
nhiều lần như vậy em chán nhà mình quá
à ! Muốn đi tu cho rồi, nhưng liệu chán đời
thì đi tu có lợi gì không đây, em đã tốt
nghiệp ra trường có việc làm lương tháng
ổn định rồi, chẳng thèm phải nhờ vả ổng bà
nữa…” Vì quá thân tình với gia đình em nên
17
CÙNG NGHIỆM SINH
tôi chia sẻ: “Em cứ đi vài ngày cho khuây khỏa rồi cầu nguyện…, sau đó hãy trở về tâm sự với ba mẹ
rằng em rất muốn sự hòa thuận của ba mẹ dành cho nhau và cho các con…”
Với người mẹ tôi chia sẻ bằng chính hoàn cảnh mình: “Xã hội văn minh chúng ta đã tôn trọng
quyền nam nữ bình đẳng, nhưng dù sao đi nữa số đông các ông chồng vẫn luôn đặt mình là gia trưởng,
để bắt chẹt các người vợ đủ thứ chuyện, họ luôn muốn vợ phải phục tùng mọi cái theo ý họ…, vì thế vợ
phải ráng nhịn nhục và khôn khéo trong cách sống mới thoát khỏi gông cùm từ mấy ổng, từ xưa đã có
câu: “Có chồng như gông đeo cổ”.
Là vợ phải ráng nhịn cho êm nhà cửa thôi, “một câu nhịn bằng chín câu lành”, mình cũng đã phải
trầy da xướt vảy mới thực hành được câu nhịn đó, chính vì thế tới giờ mới giữ được mái ấm gia đình
còn tồn tại, không thì đã cháy rụi lâu rồi bạn ơi ! Năm nay là năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình, mong sao
các gia đình công giáo chúng ta biết đem Lời Chúa dạy ra thực hành một cách triệt để, có như thế mới
mong tạo dựng được tổ ấm cho ngôi nhà lạnh giá của mình.”
Trong tiếng nức nở người vợ nói: “Thà ổng không đạo còn hơn, có đạo gì mà chẳng biết sống theo
Lời Chúa dạy, biết vậy ngày đó không thèm lấy ổng cho xong, bày đặt tham gia hội này đoàn kia…, mà về
nhà toàn kiếm chuyện chửi bới mình sao chịu nổi chứ ! Tức quá tui phải la làng lại cho cả xóm biết luôn…”
Chỉ tội nghiệp cho mấy đứa con phải hứng chịu những cuộc cãi vã thô lỗ của ba mẹ, nó không
dám can thiệp, không biết vào phe ai vì cả hai đều là ba mẹ thân yêu của nó, vì thế gây ra buồn chán
nên mới phải bỏ nhà đi…
Mong lắm thay ba mẹ hãy biết suy nghĩ lại…, để sống tốt đẹp với nhau cho con trẻ bớt đau, nhất
là những gia trưởng hãy noi gương Thánh Gia, luôn biết lèo lái con thuyền gia đình bằng tình yêu
thương dịu dàng, có như thế mới về đến bến bờ bình an được.
Dọc đường gió bụi họa tai
Gia đình tổ ấm chung vai gánh gồng
Dựng xây thế hệ tuổi hồng
Tương lai sáng đẹp vầng hồng tỏa lan.
BỒ CÂU TRẮNG
NGÔN NGỮ CỦA TÌNH YÊU
Anh chị em thân mến trong Đức Kitô,
Hai mươi năm trước, Chân Phúc Têrêsa Calcutta đã đứng trước Tổng Thống Hoa Kỳ, trước các
thượng nghị sĩ và các nghị sĩ Quốc Hội, trước các thẩm phán của Toà Án Tối Cao Hoa Kỳ. Mẹ nói về
công việc của Mẹ giữa những người nghèo trên thế giới. Mẹ nói về công lý và lòng thương cảm. Quan
trọng nhất là, Mẹ nói về Tình Yêu.
“Tình Yêu”, Mẹ nói với họ, “phải gây đau đớn. Tôi phải sẵn sàng cho đi bất cứ điều gì đòi hỏi để
không làm hại người khác, và thực ra, là làm điều tốt lành cho họ. Điều này đòi hỏi rằng tôi phải sẵn
sàng cho đi cho đến khi nào tổn thương. Bằng không, sẽ chẳng có tình yêu đích thực nào ở nơi tôi và
tôi mang lại sự bất công, sự bất bình an, cho những người ở xung quanh tôi”.
Sự hy sinh là ngôn ngữ của tình yêu. Tình
yêu lên tiếng trong sự hy sinh của Đức Giêsu
Kitô, Đấng đã tuôn đổ sự sống của Ngài cho
chúng ta trên thập giá. Tình yêu được lên tiếng
trong sự hy sinh của đời sống Kitô hữu, thông
phần vào sự sống, sự chết, và sự phục sinh của
Đức Kitô. Và tình yêu lên tiếng trong sự hy sinh
của các bậc cha mẹ, các mục tử, và bạn hữu.
Chúng ta đang sống trong một thế giới
thiếu tình yêu. Ngày nay, tình yêu quá thường
được hiểu là một kiểu tình cảm lãng mạn hơn là
một cam kết không thể phá vỡ. Nhưng tình cảm
thì không làm thoả mãn. Những thứ thuộc về vật
chất, và sự an nhàn, và thú vui chỉ mang lại niềm
18
CÙNG ĐÓN NHẬN
hạnh phúc chóng qua. Sự thật là tất cả chúng ta đều tìm kiếm một tình yêu thực sự, bởi vì tất cả chúng
ta đều đang tìm kiếm ý nghĩa.
Tình Yêu – tình yêu thực sự – chính là sự hy sinh, sự cứu rỗi, và niềm hy vọng. Tình yêu thực sự
là trọng tâm của một đời sống phong phú, đầy tràn. Chúng ta được tạo dựng cho Tình Yêu thực sự. Và
tất cả mọi điều chúng ta làm – đặc biệt là trong cuộc sống của chúng ta, sự nghiệp của chúng ta, và gia
đình của chúng ta, cần phải được bắt rễ từ trong khả năng của chúng ta cho một tình yêu thực sự, khó
khăn và không suy xuyển.
Thế nhưng ngày nay, tắt một lời về tình yêu, chúng ta bị bỏ mặc mà không có bình an, không có
niềm vui.
Trong đời Linh Mục của mình, tôi đã đứng trước các trung tâm phá thai để giúp đỡ những người
phụ nữ đang phải trải nghiệm chuyện mang thai ngoài ý muốn; tôi đã cầu nguyện với những người già
bị bỏ rơi; và tôi đã chôn những người trẻ là nạn nhân của sự bạo lực. Tôi đã nhìn thấy sự cô lập, sự bất
công, và nỗi buồn đến từ một thế giới thiếu tình yêu. Mẹ Têrêsa tin, như tôi đang tin, rằng đa phần sự
bất công và bất hạnh trên thế giới bắt nguồn từ một thái độ coi thường phép lạ của việc tạo dựng Sự
Sống mới trong cung lòng của các bà mẹ. Ngày nay, nền văn hoá của chúng ta loại trừ Tình Yêu khi nó
loại trừ quà tặng của Sự Sống mới, thông qua việc sử biện pháp ngừa thai.
Mẹ Têrêsa nói rằng: “Khi phá huỷ năng quyền trao ban Sự Sống, thông qua việc ngừa thai, thì
người chồng hoặc người vợ... sẽ phá huỷ quà tặng của Tình Yêu”.
Người chồng và người vợ được tạo nên để trao ban chính bản thân họ cách tự do như là những
quà tặng dành cho nhau trong tình bằng hữu, và để cùng thông phần vào tình yêu trao ban Sự Sống của
Thiên Chúa. Ngài tạo nên hôn nhân là để hiệp nhất và truyền sinh, để kết hợp người chồng và người vợ
bất khả phân ly vào trong sứ mạng của Tình Yêu, và để mang lại một điều gì đó mới từ Tình Yêu
ấy. Việc ngừa thai tước mất sự tự do của những điều khả thể này.
Thiên Chúa tạo nên chúng ta để yêu và được yêu. Ngài tạo nên chúng ta để vui hưởng trong
sức mạnh của tình yêu tính dục để mang lại những con người mới, con cái của Thiên Chúa, được tạo
dựng với linh hồn bất tử. Giáo Hội chúng ta luôn luôn dạy rằng khước từ quà tặng con cái là phá vỡ tình
yêu giữa người chồng và người vợ: nó bóp méo bản chất nên một và truyền sinh của hôn nhân. Việc sử
dụng biện pháp tránh thai phá vỡ ý nghĩa bí tích, thánh thiện, và tình yêu của chính hôn nhân.
Giáo Hội tiếp tục mời gọi các đôi hôn nhân Công Giáo đến với sự hiệp nhất và truyền sinh. Hôn
nhân là một ơn gọi cao cả – để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương – cách tự do, sáng tạo, và rộng
lượng. Chính Thiên Chúa là một cộng đoàn của tình yêu – Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
Hôn nhân Kitô Giáo là một lời mời gọi để noi gương, để biết, và để thông phần vào sự tự do đầy niềm
vui của tình yêu Thiên Chúa, một tiếng vang của Ba Ngôi Chí Thánh.
Vào năm 1991, vị tiền nhiệm của tôi, Đức Giám Mục Glennon P. Flavin, viết rằng: “Sẽ không thể
có hạnh phúc thật trong cuộc sống trừ khi Thiên
Chúa trở thành một phần rất quan trọng của giao
ước hôn nhân của các bạn. Kỳ vọng tìm kiếm
niềm hạnh phúc trong tội lỗi là tìm kiếm sự tốt lành
trong sự dữ... Giữ lấy sự hiện diện của Thiên
Chúa trong đời sống hôn nhân của các bạn, tin
tưởng vào sự khôn ngoan và tình yêu của Ngài, và
tuân giữ các giới luật của Ngài... sẽ đào sâu tình
yêu của các bạn dành cho nhau và sẽ mang lại
cho các bạn sự bình an trong tâm trí vốn là phần
thưởng của một lương tâm ngay thẳng”.
Thiên Chúa hiện diện trong mọi cuộc hôn
nhân, và hiện diện trong mọi cái ôm của đời sống
hôn nhân. Ngài tạo nên tình dục là để người nam
và người nữ có thể phản chiếu Ba Ngôi: hình
thành, trong sự hiệp nhất tính dục của họ, những
gắn bó suốt đời của gia đình. Thiên Chúa đã chọn
để làm cho các đôi bạn trở thành những người cộng tác với Ngài trong việc tạo dựng nên Sự Sống mới,
được tiền định cho vĩnh cửu. Những ai dùng biện pháp tránh thai loại bỏ sức mạnh hiệp nhất của họ và
họ rũ bỏ cơ hội hợp tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng Sự Sống.
Là Giám Mục Giáo Phận Lincoln, tôi lặp lại những lời của Đức Giám Mục Flavin. Các người nam
và người nữ đã kết hôn thân mến: Tôi kêu gọi các bạn hãy khước từ việc sử dụng biện pháp tránh thai
trong đời sống hôn nhân của các bạn. Tôi thách đố các bạn mở lòng ra với kế hoạch yêu thương của
19
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618
Ephata 618

Contenu connexe

Tendances

Tendances (19)

Ephata 622
Ephata 622Ephata 622
Ephata 622
 
Ephata 614
Ephata 614Ephata 614
Ephata 614
 
Ephata 626
Ephata 626Ephata 626
Ephata 626
 
Ephata 628
Ephata 628Ephata 628
Ephata 628
 
So 183
So 183So 183
So 183
 
Ephata 629
Ephata 629Ephata 629
Ephata 629
 
Ephata 604
Ephata 604Ephata 604
Ephata 604
 
Ephata 638
Ephata 638Ephata 638
Ephata 638
 
Mon sup tam linh
Mon sup tam linhMon sup tam linh
Mon sup tam linh
 
Ephata 635
Ephata 635Ephata 635
Ephata 635
 
Thang 10.2011 mail (1)
Thang 10.2011 mail  (1)Thang 10.2011 mail  (1)
Thang 10.2011 mail (1)
 
Ephata 624
Ephata 624Ephata 624
Ephata 624
 
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
 
Nội san Loisusong.net 2013-10.pdf
Nội san Loisusong.net 2013-10.pdfNội san Loisusong.net 2013-10.pdf
Nội san Loisusong.net 2013-10.pdf
 
Ephata 636
Ephata 636Ephata 636
Ephata 636
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Ephata 631
Ephata 631Ephata 631
Ephata 631
 
Ephata 608
Ephata 608Ephata 608
Ephata 608
 
So 179
So 179So 179
So 179
 

Similaire à Ephata 618

Tháng năm BH HDMVGX
Tháng năm BH HDMVGXTháng năm BH HDMVGX
Tháng năm BH HDMVGX
Ha Dat
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
gxduchoa
 
Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010
Nguyen
 
Dan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot quaDan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot qua
Ha Dat
 
Gmd.097.09 HàNg Giả NgườI Giả
Gmd.097.09   HàNg Giả   NgườI GiảGmd.097.09   HàNg Giả   NgườI Giả
Gmd.097.09 HàNg Giả NgườI Giả
medom
 
Gmd.152.10 the chin nguoi kia dau
Gmd.152.10   the chin nguoi kia dauGmd.152.10   the chin nguoi kia dau
Gmd.152.10 the chin nguoi kia dau
an hoa thanh nien
 

Similaire à Ephata 618 (18)

Ephata 637
Ephata 637Ephata 637
Ephata 637
 
Ephata 600
Ephata 600Ephata 600
Ephata 600
 
Tháng năm BH HDMVGX
Tháng năm BH HDMVGXTháng năm BH HDMVGX
Tháng năm BH HDMVGX
 
Ephata 625
Ephata 625Ephata 625
Ephata 625
 
Khi đức tin chiến thắng
Khi đức tin chiến thắng  Khi đức tin chiến thắng
Khi đức tin chiến thắng
 
Ephata 603
Ephata 603Ephata 603
Ephata 603
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
 
Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010
 
3. HINH ANH (Phuchung40nam o THV).ppt
3. HINH ANH (Phuchung40nam o THV).ppt3. HINH ANH (Phuchung40nam o THV).ppt
3. HINH ANH (Phuchung40nam o THV).ppt
 
Dan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot quaDan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot qua
 
Giữ vững mối dây số 13
Giữ vững mối dây số 13Giữ vững mối dây số 13
Giữ vững mối dây số 13
 
Gmd.097.09 HàNg Giả NgườI Giả
Gmd.097.09   HàNg Giả   NgườI GiảGmd.097.09   HàNg Giả   NgườI Giả
Gmd.097.09 HàNg Giả NgườI Giả
 
Ephata 606
Ephata 606Ephata 606
Ephata 606
 
Gmd.152.10 the chin nguoi kia dau
Gmd.152.10   the chin nguoi kia dauGmd.152.10   the chin nguoi kia dau
Gmd.152.10 the chin nguoi kia dau
 
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xótTông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
 
KỶ NIỆM TL ĐẾN VN.docx
KỶ NIỆM TL ĐẾN VN.docxKỶ NIỆM TL ĐẾN VN.docx
KỶ NIỆM TL ĐẾN VN.docx
 
Tâm Bút
Tâm BútTâm Bút
Tâm Bút
 
Tông huấn amoris laetitia của đức phanxicô
Tông huấn amoris laetitia của đức phanxicôTông huấn amoris laetitia của đức phanxicô
Tông huấn amoris laetitia của đức phanxicô
 

Plus de Vu Mai JMV (9)

Ephata 634
Ephata 634Ephata 634
Ephata 634
 
Ephata 633
Ephata 633Ephata 633
Ephata 633
 
Ephata 632
Ephata 632Ephata 632
Ephata 632
 
Ephata 630
Ephata 630Ephata 630
Ephata 630
 
Ephata 627
Ephata 627Ephata 627
Ephata 627
 
Ephata 621
Ephata 621Ephata 621
Ephata 621
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Ephata 610
Ephata 610Ephata 610
Ephata 610
 
Ephata 609
Ephata 609Ephata 609
Ephata 609
 

Ephata 618

  • 1. E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com MÙA TẠ ƠN Cuối niên khóa vào hè, thời gian kết thúc niên học, kết thúc cả học kỳ đi thực tế, kết thúc những năm tháng thực tập mục vụ. Chủng Viện nào cũng xôn xao tổ chức các Lễ Phong Chức Linh Mục, Hội Dòng nào cũng tất bật với các Lễ Khấn, Lễ Thụ Phong. Tháng 6, tháng 7 và tháng 8, đi qua các thành phố, qua các vùng miền có nhiều Nhà Thờ gần nhau san sát, chúng ta dễ gặp hình ảnh những lễ hội, người người áo quần lụa là sang trọng, xe cộ tập nập ra vào, tiệc tùng linh đình hân hoan, cờ xí bay rợp trời, trống kèn inh ỏi. Khi công nghệ tổ chức đám cưới di đến tột đỉnh của sự ồn ào, tốn phí và lắm trò lắm phép để hút tiền của người ta, thì việc tổ chức các Lễ Tạ Ơn cũng được "dàn dựng" hoành tráng không kém. Loa thùng khổng lồ được bắt ra tận đường và người phát thanh nói nhiều, nói linh tinh, ồn ào không thua gì bình luận viên World Cup. Cái tật nói nhiều, nói nhanh, tranh nhau nói, khoe kiến thức vặt và gây náo động ồn ào là căn bệnh lây lan nhanh chóng cho một số kẻ mệnh danh “có khiếu ăn nói” ngang nhiên chiếm diễn đàn “tra tấn” ngưới khác. Đi dự các đám mà bị xếp vào ngồi bàn ngay trước mặt loa coi như phải chịu vào "luyện ngục", cả bữa chỉ còn biết cắm cúi ăn uống, ra về tai lùng bùng suốt mấy ngày. Có những đám tạ ơn tưng bừng hoa lá, kẻ tạ ơn vì những ân huệ nhận được một cách nhưng- không, nhưng rạng rỡ không thua gì những ngôi sao điện ảnh trong ngày nhận giải thưởng do chính công lao của họ. Có những đám tạ ơn của những kẻ tuyên bố sống khó nghèo, thuộc về người nghèo, mừng và tạ ơn vì đã chọn cách sống nghèo, nhưng trớ trêu là tiêu tốn vô cùng cho hàng trăm mâm cỗ. Có những đám tạ ơn khi vừa khởi đầu sứ vụ nhưng được tổ chức y như là một cuộc hoàn thành sứ vụ trong vinh quang tràn ngập quanh mình. Rừng cờ vui, ngập không gian nhạc, suối tràn trể lời chúc tụng, biển dậy sóng lời tung hô và bia rượu bật nắp tưng bừng. Chẳng phải tự nhiên mà các đấng Bề Trên những năm gần đây đã ra nghiêm luật để hạn chế việc tổ chức sa hoa vô bổ này. Có Giáo Phận chỉ cho phép tất cả các tân Linh Mục trong cùng Giáo Phận được tổ chức tạ ơn một lần, trong cùng một ngày, có Giáo Phận quy định mỗi Lễ Tạ Ơn chỉ được ba mươi bàn tiệc, có Giáo 1 NĂM THỨ 14 – SỐ 618 – CHÚA NHẬT 13.7.2014
  • 2. Phận buộc các tân chức chỉ được tổ chức Lễ Tạ Ơn trong vòng 10 ngày, ngày thứ 11 phải trình diện nhiệm sở mới để thi hành nhiệm vụ… Như thế chứng tỏ vấn đề đã được nhìn thấy, các vị có trách nhiệm cũng đã có ý kiến bằng những quy định cụ thể. Thế nhưng về phía bản thân "người tạ ơn" thì vẫn có trăm phương nghìn cách để “lách luật”. Việc tổ chức linh đình được xem như là ý của dân, dân bình thường ai cũng thích, cứ nhìn các gương mặt hớn hở của nhiều người thì biết họ đã thỏa thuê chừng nào, mà các vị có trách nhiệm phải nhận ra là ý dân thì không nên làm ngược lại, chí ít cũng phải lờ đi, xem như không biết, còn vai trò ngôn sứ thì dẹp qua một bên nếu không muốn bị chống đối như các ngôn sứ trong Kinh Thánh hồi xưa. Từ đó có những người rất "cơ hội", họ ủng hộ tổ chức để lấy được “lòng dân”.Thế là những châu những ngọc được nhả, được phun để ca tụng lẫn nhau cho thỏa chí, rồi các đáp từ nối nhau với những lời cám ơn lên tận mây xanh. Câu chuyện và hình ảnh khó nghèo, đơn sơ và chân thành của Đức Phanxicô chỉ để kể trên bục giảng, trong các lớp giáo lý, thêm mắm thêm muối, thêm hoa thêm lá để trang trí mỹ từ trong các bài diễn văn thuộc lòng các công thức. Cái loại "mùi chiên" khó ngửi xin cứ để đấy đã, bây giờ là vui mừng vì… “từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng”. Rời bỏ cái không gian ồn ào xao động, tiếng cười tiếng hát rộn ràng, tôi bước vào Nhà Nguyện hưu dưỡng, nhìn từng vị tu sĩ già đang đau yếu bệnh tật, âm thầm ngồi trên những chiếc xe lăn hay rũ người trên các hàng ghế, lặng lẽ nhìn lên Chúa, đắm mình trong không gian chỉ có riêng cho Chúa, chỉ còn Chúa để tâm sự vui chơi. Già và trẻ, thời gian và không gian, mọi cái không còn quan trọng, không còn ý nghĩa đối với những giây phút thời gian vô cùng chậm chạp trôi qua của đời người. Tôi có một cha giáo mà cái cách dạy của ngài làm tôi không bao giờ quên được. Những năm tháng khó khăn, đầu thập niên 80, tôi được Bề Trên sắp xếp về ở với ngài trong một Họ Đạo nhỏ bé, tôi chọn ngày ngài mừng 25 Linh Mục để đến xứ như muốn nói lên sự trân trọng của tôi dành cho ngài. Chiều hôm ấy đến nhiệm sở, mọi sự vắng lặng, rồi người ta đến dự Lễ, Thánh Lễ rất bình thường như mọi Thánh Lễ, khác một chút là ngài thông báo xin cầu nguyện vì hôm nay kỷ niệm Ngân Khánh của ngài, cuối lễ ngài vào phòng áo đưa ra một bịch kẹo bánh phát cho cả Nhà Thờ cùng ăn, cùng vui. Giờ cơm chiều sau Lễ, chúng tôi hỏi ngài về việc kỷ niệm, ngài ôn tồn chia sẻ, "25 năm là 25 năm bất trung với Chúa, có gì mà vui mừng ? Lẽ ra phải là một ngày tạ tội !” Mới đây ngài mừng 50 năm Linh Mục cũng thế, ngài bảo với tôi: “Xin lỗi Chúa cả đời, em ơi” ! Lm.VĨNH SANG, DCCT, 9.7.2014 MỤC LỤC TÌM BÀI: MÙA TẠ ƠN ( Lm. Vĩnh Sang ) ............................................................................................................. 01 BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA CHO CÁC NẠN NHÂN… ( Bản dịch của Lm. Cao Tấn Tĩnh ) ..... 03 HẠT GIỐNG LỜI CHÚA ( AM. Trần Bình An ) ....................................................................................... 05 GIEO VÀ GẶT ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ....................................................................................... 06 HÃY LÀ ĐẤT TỐT, ĐỂ HẠT GIỐNG LỜI CHÚA... ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ................................. 09 LÝ GIẢI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT ( Bản dịch của Trầm Thiên Thu ) .............................................. 10 PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 13: PHAOLÔ BẮT CHƯỚC ĐỨC KITÔ… ( Nguyễn Trung ) ........... 12 CON ĐƯỜNG ( Joseph C. Pham ) ........................................................................................................... 15 DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI ( Bồ Câu Trắng ) ................................................................................................. 17 NGÔN NGỮ CỦA TÌNH YÊU ( Gm. James Conley, bản dịch của Joseph C. Pham ) .................................. 18 VIỆT NAM LỌT VÀO TOP 5 NƯỚC CÓ TỶ LỆ NẠO PHÁ THAI CAO NHẤT THẾ GIỚI ( Báo Người Việt ) ...... 22 GIÚP NGƯỜI LÀ TỰ CỨU MÌNH ( Vũ Chân ) .......................................................................................... 23 12 ĐIỀU NGẠC NHIÊN VỀ GIÁO DỤC MẦM NON NHẬT BẢN ( Nguyễn Thảo ) ........................................ 24 NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( TTMV DCCT ) .......................... 27 2
  • 3. BÀI GIẢNG LỄ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHO CÁC NẠN NHÂN BỊ GIÁO SĨ LẠM DỤNG TÌNH DỤC "Trước nhan Thiên Chúa và dân của Ngài, tôi xin bày tỏ niềm sầu thương của tôi về tội lỗi và các tội ác trầm trọng lạm dụng tình dục của Giáo Sĩ đã phạm đến anh chị em. Và tôi khiêm tốn xin anh chị em tha thứ". ( Thánh Lễ 7 giờ sáng thứ hai ngày 7.7.2014 ở Nguyện Đường của Nhà Thánh Matta, có sự tham dự của cả một số gia đình cùng với các thành viên của Ủy Ban Tòa Thánh đặc trách Bảo Vệ Vị Thành Niên ). Nơi cảnh tượng Tông Đồ Phêrô thấy Chúa Giêsu xuất hiện sau một cuộc tra vấn kinh hoàng... con mắt của ngài đã chạm phải ánh mắt của Chúa Giêsu và đã khóc... Cảnh tượng ấy hiện lên trong tâm trí của tôi khi tôi nhìn vào anh chị em đây, và tôi nghĩ đến rất nhiều con người nam nữ, trẻ em nam nữ. Tôi cảm thấy ánh mắt của Chúa Giêsu và tôi xin ơn khóc lóc, ơn để Giáo Hội khóc lóc và đền bù cho con cái nam nữ của mình, thành phần đã phản bội sứ vụ của mình, thành phần lạm dụng tình dục những con người vô tội. Hôm nay tôi hết sức biết ơn anh chị em đã đến đây từ những nơi rất xa xôi. Vào lúc này đây có những khi tôi cảm thấy đớn đau và khổ sầu rất sâu xa. Rất nhiều lúc nó được ẩn kín, bị che giấu đi trước một hành động bất chính nào đó không thể nào hiểu nổi cho tới khi ai đó nhận thức được rằng Chúa Giêsu đang nhìn họ và nhìn những người khác như thế... và họ bắt đầu cảm nhận được ánh mắt đó. Một số ít người bắt đầu khóc ấy đã chạm đến lương tâm chúng ta về tội ác này và trọng tội kia. Đó là những gì khiến cho tôi cảm thấy buồn khổ và đau đớn trước sự kiện có một số vị Linh Mục và Giám Mục, bằng việc lạm dụng tình dục các em vị thành niên, đã phạm đến tính chất ngây thơ vô tội của họ cũng như đến ơn gọi Linh Mục của phạm nhân. Nó là một cái gì đó vượt trên cả những hành động đáng khinh ghét. Nó như là một thứ tôn sùng phạm thánh, vì những em trai em gái ấy được trao phó cho đặc sủng Linh Mục để được mang đến cùng Thiên Chúa. Những phạm nhân ấy đã hiến tế những em này cho ngẫu tượng tình dục của mình. Họ tục hóa chính hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng chúng ta đã được dựng nên giống như Ngài. Như tất cả chúng ta đều biết là trẻ thơ, những tấm lòng trẻ dại, rất cởi mở và tin tưởng, theo cách thức riêng của mình trong việc hiểu biết về các mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa và rất mong muốn được lớn lên trong Đức Tin. Hôm nay đây, tấm lòng của Giáo Hội đang nhìn vào đôi mắt của Chúa Giêsu ở nơi những em trai và em gái này mà muốn khóc; Giáo Hội xin được ơn khóc lóc trước những hành vi lạm dụng cực kỳ xấu xa đã lưu lại các vết sẹo cả đời. Tôi biết rằng những vết thương này là nguồn đớn đau da diết sâu xa và thường xuyên về cảm xúc cũng như thiêng liêng, thậm chí đến thất vọng chán chường. Nhiều người đã chịu đựng như thế cũng đã tìm cách giảm bớt bằng đường lối nghiện ngập. Những người khác đã trải qua các thứ khó khăn nơi những mối liên hệ quan trọng, với cha mẹ, vợ chồng và con cái. Nỗi khổ đau ở trong các gia đình đặc biệt là trầm trọng, vì cái tác hại gây ra bởi bị lạm dụng tình dục là những gì ảnh hưởng tới các mối liên hệ trọng yếu về gia đình này. Một số người thậm chí đã phải đương đầu với thảm họa kinh hoàng về cái chết tự tử của một người thân yêu. Các cái chết của những người con cái rất yêu dấu của Thiên Chúa này đã đè nặng trên tâm can và lương tâm của tôi cũng như của toàn thể Giáo Hội. 3 CÙNG HIỆP THÔNG
  • 4. Tôi muốn bày tỏ tình yêu và nỗi khổ tâm thực lòng của tôi với những gia đình ấy. Chúa Giêsu, Đấng bị hành hình và tra vấn đầy hận thù, khi được đưa đến một chỗ khác và đã nhìn ra ngoài. Người nhìn đến một trong những kẻ hành hình Người, nhìn đến con người đã chối bỏ Người và Người đã khiến hắn khóc lóc. Chúng ta hãy van xin ân sủng khóc lóc này cùng với ân sủng thực hiện những bù đắp. Tội lỗi lạm dụng tình dục của Giáo Sĩ phạm đến những em vị thành niên có một tác dụng độc hại trên Đức Tin và Đức Cậy Trông nơi Thiên Chúa. Một số trong anh chị em đã giữ vững Đức Tin, trong khi đó có những người khác cảm nghiệm bị lừa đảo và bỏ rơi đã khiến họ trở thành suy yếu niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Sự hiện diện của anh chị em ở đây chứng tỏ một phép lạ của niềm hy vọng, phép lạ thắng vượt được bóng tối thăm thẳm. Thật sự nó là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa mà hôm nay chúng ta mới có cơ hội gặp gỡ nhau, để tôn thờ Thiên Chúa, để nhìn vào mắt của nhau và để xin ơn hòa giải. Trước nhan Thiên Chúa và Dân của Ngài, tôi xin bày tỏ niềm sầu thương của tôi về tội lỗi và các tội ác trầm trọng lạm dụng tình dục của Giáo Sĩ đã phạm đến anh chị em. Và tôi khiêm tốn xin anh chị em tha thứ. Tôi cũng xin anh chị em tha thứ cả các tội lỗi vì đã không chịu ra tay giải quyết về phía các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, những vị ấy đã không đáp ứng một cách thích đáng trước các tường trình của gia đình nạn nhân hoặc của chính các nạn nhân bị lạm dụng đã tường trình. Điều ấy lại càng gây ra khổ đau hơn nữa nơi những ai bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho các trẻ em vị thành niên khác cũng có thể bị nguy cơ lạm dụng. Mặt khác, lòng can đảm của anh chị em và những người khác khi lên tiếng khi nói lên sự thật, đó chính là việc phục vụ của tình yêu thương, vì đối với chúng tôi, nó đã chiếu rọi ánh sáng vào bóng tối kinh hoàng trong đời sống của Giáo Hội. Không có chỗ đứng trong thừa tác vụ của Giáo Hội cho những ai phạm đến những thứ lạm dụng ấy, và tôi tự hứa rằng sẽ không dung nhượng cho bất cứ tác hại nào gây ra cho một em nhỏ bởi bất cứ cá nhân nào, dù là Giáo Sĩ hay không. Tất cả mọi vị Giám Mục cần phải thi hành thừa tác mục vụ của mình một cách hết sức cẩn thận để giúp bảo trì việc bảo vệ vị thành niên, và các vị sẽ bị trả lẽ về vấn đề này. Những gì Chúa Giêsu nói về những ai gây ra gương mù gương xấu đều được áp dụng cho tất cả chúng ta, đó là tảng đá và biển cả ( xem Mt 18, 6 ). Cũng thế, chúng tôi sẽ tiếp tục tỉnh táo trong việc đào tạo huấn luyện Linh Mục. Tôi tin tưởng vào các phần tử thuộc Ủy Ban Tòa Thánh đặc trách Bảo Vệ Trẻ Em, thành phần mà ở bất cứ miền đất nào họ sống, đều là những bông hoa nhỏ được Thiên Chúa âu yếm ngắm nhìn. Tôi xin được sự nâng đỡ này để giúp tôi bảo đảm rằng chúng ta phác họa những quy chế cùng với những phương sách tốt đẹp hơn trong Giáo Hội hoàn vũ, để bảo vệ các em vị thành niên, cũng như để huấn luyện các nhân sự trong Giáo Hội ngay tại những nơi áp dụng các quy chế và phương sách ấy. Chúng ta cần phải làm hết sức có thể để bảo đảm rằng những tội lỗi này không còn chỗ đứng nữa trong Giáo Hội. Anh chị em thân mến, vì tất cả chúng ta đều là thành phần của Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta được kêu gọi để sống cuộc đời theo tình thương. Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế của chúng ta, là mẫu gương tối hậu về tình thương; dù vô tội, Người cũng đã mặc lấy tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá. Được hòa giải là chính yếu tính nơi căn tính chung của chúng ta là thành phần theo Chúa Giêsu Kitô. Bằng việc trở về cùng Người, được trợ giúp bởi Người Mẹ rất thánh của chúng ta, Vị đã âu sầu đứng dưới chân thập giá, chúng ta hãy xin được ơn hòa giải với toàn thể Dân Chúa. Việc chuyển cầu yêu thương của Đức Mẹ Xót Thương Dịu Hiền là mạch nguồn trợ giúp không thể thiếu trong tiến trình chữa lành của chúng ta. Anh chị em cùng với tất cả những ai bị Giáo Sĩ lạm dụng tình dục đều được Thiên Chúa yêu thương. Tôi nguyện cầu để những vết tích tồn tại của tăm tối đã đụng chạm đến anh chị em được chữa lành bởi vòng tay ôm ấp của Con Trẻ Giêsu và những gì tác hại anh chị em sẽ phải nhường bước cho một Đức Tin và niềm vui mới. 4
  • 5. Tôi xin cám ơn cho cuộc gặp gỡ này. Xin cầu nguyện cho tôi, để đôi mắt của lòng tôi thấy được một cách rõ ràng con đường của tình yêu nhân hậu, và để Thiên Chúa ban cho tôi lòng can đảm kiên trì trên con đường này vì thiện ích của tất cả mọi trẻ em và giới trẻ. Chúa Giêsu ra khỏi một phiên tòa bất công, khỏi một cuộc tra vấn dữ tợn và Người nhìn vào đôi mắt của Tông Đồ Phêrô khiến Phêrô khóc lóc. Chúng ta hãy xin Người hãy nhìn đến chúng ta và hãy để cho chính chúng ta được đoái nhìn và khóc lóc, và xin Người ban cho chúng ta ơn biết hổ thẹn, nhờ đó, như Tông Đồ Phêrô, 40 ngày sau, chúng ta có thể thân thưa rằng: "Thầy biết rằng con yêu mến Thầy", rồi nghe thấy Người nói rằng: "Con hãy trở về mà săn sóc chiên của Thầy". Và tôi xin được thêm như thế này: "Đừng để cho sói lọt vào đàn chiên". Đaminh Maria CAO TẤN TĨNH, BVL, dịch từ http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-homily-at-mass-with-sexual-abuse-victims HẠT GIỐNG LỜI CHÚA Ở Đồng Tháp Mười có một loại lúa gọi là lúa trời, vì lúa tự nhiên mọc trên cánh đồng mênh mông đầy nước. Còn gọi là lúa ma vì mỗi ngày chỉ chín vài ba hạt mỗi bông vào ban đêm, và sẽ rụng ngay khi mặt trời mọc. Muốn thu hoạch thì bơi xuồng vào đồng lúa từ nửa đêm đến sáng. Cây lúa ma thích hợp vùng sình lầy trũng thấp, và có sức sống rất mãnh liệt. Hạt lúa ma có râu dài 3 – 4cm, khi hạt chín rụng xuống, râu này sẽ cắm ngập vào bùn non, ẩn nhẫn nằm đó chờ đến khi mùa mưa bắt đầu đem đủ độ ẩm cho đất thì hạt nẩy mầm. Đến mùa nước nổi, nước dâng cao bao nhiêu thì lúa vẫn vươn đọt và bông cao hơn mặt nước. Thân cây lúa ma cứng, bông lúa ít hạt vì hạt mọc thưa so với bông lúa thường, hạt to hơn, thời gian hạt chín kéo dài từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 10 âm lịch. Vì lúa mọc giữa đồng nước mênh mông và chỉ chín vài hạt mỗi bông nên không thể gặt như giống lúa trồng mà thu hoạch bằng cách bơi xuồng vào đồng lúa, dùng hai thanh tre đập ngọn lúa vào be xuồng cho lúa rụng vào xuồng. Sau khi đem về người ta ngâm lúa ba hôm rồi phơi khô thì râu lúa sẽ rụng đi, sau đó đem xay. Hoặc sau khi đem lúa về, đem phơi xong dùng chày giả nhẹ cho gảy râu, cách này làm hạt cơm lúa ma dẻo, thơm ngon hơn cách trên. Hạt gạo lúa trời rất cứng cơm, thời gian nấu lâu hơn nấu gạo thường gấp ba lần. Cơm có màu hồng nhạt, dẻo, rất thơm, ngọt và béo không gạo nào bằng, nước cơm chắt ra pha thêm mật ong hay đường phèn là thức uống thơm ngon giàu dinh dưỡng. Hiện nay diện tích lúa ma bị thu hẹp rất nhiều, chỉ còn khoảng 500ha ở Vườn Quốc gia Tràm Chim, Đồng Tháp. Theo Tiến sĩ Dương văn Ni thì giống lúa ma đã có tên trong bộ gen nguồn quý hiếm của Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế. Từ gen của những cây lúa ma cao nhỏng gầy nhom này, các nhà khoa học đã áp dụng công nghệ sinh học cho ra đời nhiều giống lúa thơm cao sản đã và đang trồng trên đồng ruộng Việt Nam. Ở Brazil, người ta đóng gói gạo lúa ma, mỗi gói chỉ 200g xuất sang Mỹ với giá 7 đô la một gói, tương ứng 3 500 USD một tấn. ( Ks. La thị Hiền, Lúa ma Đồng Tháp Mười, Hạt ngọc trời ban ). Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để giảng về thái độ đón nhận Lời Chúa của từng người. Hạt giống Lời Chúa còn cao quý, giá trị gấp bội hạt giống lúa trời hay lúa ma kỳ diệu. Hạt giống hướng đạo Hạt giống Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn con người đến sự sống viên mãn. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 119, 105 ). Thật vậy, Đức Giêsu khẳng định trước đông đảo dân chúng và các thầy tư tế, Pharisêu, đang nổi giận tìm cách ám hại Người: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” ( Ga 5, 24 ). 5 CÙNG SUY NIỆM
  • 6. Hạt giống Lời Chúa còn là lương thực dưỡng nuôi cho ai muốn sống thật, muốn no thỏa tâm hồn và bình an trong Chúa. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” ( Mt 4, 4 ). Hạt giống thánh hóa Đức Giêsu còn quả quyết những ai nghe và thực hành Lời Chúa, đều trở nên thân bằng quyến thuộc của Người: “Ðoạn Người chỉ các môn đệ mình mà phán: Ðây là Mẹ Ta. Ðây là anh em Ta. Vì ai vâng theo ý Cha Ta ở trên Trời, thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta vậy" ( Mt 12, 50 ). Hoặc nâng lên phận hèn mọn con người trở thành bạn hữu thân thiết của Người: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” ( Ga 15, 15 ). Hạt giống trường sinh Khi thấy nhiều môn đệ rút lui sau mạc khải về nhiệm tích Thánh Thể, Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” Ông Simon Phêrô liền mạnh dạn tuyên xưng niềm tin cậy mến: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời” ( Ga 6, 68 ). Mười một Tông Đồ còn lại sau cuộc tử nạn của Đức Giêsu đều trở thành chứng nhân kiên cường của Người, cùng hiệp thông vào công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Các ngài đều được đoàn tụ vĩnh viễn trên Nước Trời, như Đức Giêsu đã hứa: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" ( Ga 14, 3 ). “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” ( Mt 24, 35 ). Mặc dù trải qua hơn hai ngàn năm, Lời Chúa luôn mãi tân kỳ, hiện đại, phù hợp, thich ứng mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh, vì Lời Chúa là sự thật ngàn đời hề suy xuyển, cũng chẳng bao giờ lạc hậu: “Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng” ( 1Pr 1, 25 ). Thánh Phêrô còn xác tín hạt giống trường sinh trong thư thứ nhất qua ngòi bút của Silvanus Silas: “Anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi. Vì mọi phàm nhân đều như cỏ, và tất cả vinh quang của họ cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì khô, hoa thì rụng.” ( 1Pr 1, 23 – 24 ). “Hãy đi rao giảng Phúc Âm…” Để dám nhận một sứ mạng cao cả như thế, Chúa cần “cảm tử.” Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử từ mọi tầng lớp Giáo Dân. ( Đường Hy Vọng, số 64 ). Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận và thực hành hạt giống Lời Chúa với cả tấm lòng nhiệt thành và trung kiên, đừng để những quyến rũ thế gian, ba thù, chim trời, sỏi đá, gai góc, làm thui chột, lấn át, chết đi mầm sống Lời Chúa. Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ cầu bầu, che chở chúng con thành tâm sống Lời Chúa, mặc bao trở ngại, phong ba, thử thách đang đón chờ chúng con. Amen. AM. TRẦN BÌNH AN GIEO VÀ GẶT Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc “Gieo và Gặt” với giai điệu vui tươi, ca từ đậm chất thơ và có ý nghĩa sâu sắc. Gieo thành thật, gặt được niềm tin. Gieo lòng tốt, gặt về thân tình. Gieo kiên nhẫn, sẽ gặt quang vinh. Gieo tha thứ, sẽ gặt được an bình. Gieo dối trá, sẽ ra ngờ vực. Gieo ích kỷ, sẽ chỉ cô đơn. Gieo kiêu hãnh, sẽ lãnh đau thương. Gieo đố kỵ, là ky cóp muộn phiền. Gieo cay đắng, sẽ tăng hủy diệt. Gieo biếng lười, ra người buông trôi. Gieo lo lắng, tay trắng âu lo. Gieo tội lỗi, suốt đời gặt tội lỗi. 6
  • 7. Có gieo thì mới có gặt. Gieo giống nào thì gặt giống đó. Thánh Phaolô viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng” ( Gl 6, 7 – 9 ). Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt và sinh hoa trái tốt. Chúa Giêsu xác định: “Xem quả thì biết cây” ( Mt 12, 33; Lc 6, 44 ). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh trái ngọt. Đời sống tinh thần cần có “hạt giống tâm hồn”. Đời sống tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”. Tin Mừng hôm nay có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau. Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy. Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được ? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thành cây xanh tốt được ? Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa. 1. Tấm lòng quảng đại của người đi gieo Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào, ông quảng đại muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiện chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn. Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” ( Mt 13, 23 ). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” ( Is 55, 11 ). Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hồng ân Thiên Chúa chan hòa như mưa móc: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” ( Tv 65, 10 – 12 ). Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các Kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”. 2. Hạt giống tiềm ẩn Sự Sống 7
  • 8. Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai. Hạt giống là ánh sáng, là Tin Mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “hạt lúa âm thầm mọc lên” ( x. Mc 4, 26 – 29 ) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” ( x. Ga 12, 24 ) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên. 3. Niềm hy vọng mùa gặt phong phú Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác. Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người. Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả ( x. 1Cr 3, 5 – 9 ). Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người Kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa. Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa ( GLCG # 1724 ). Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu. Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành. Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp ! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây". Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta đi gieo hạt giống Lời Chúa, gieo hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Gieo bác ái chúng ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập đời sống hàng ngày. Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.Ước gì ngôi nhà cuộc đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. ( Mana ) Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN 8
  • 9. HÃY LÀ ĐẤT TỐT, ĐỂ HẠT GIỐNG LỜI CHÚA SINH NHIỀU BÔNG HẠT Cho đến bây giờ, "mọi thọ tạo đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các thọ tạo, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và Ơn Cứu Độ thân xác chúng ta" ( Rm 8, 22 – 23 ). Hỏi ai trong chúng ta lại không có kinh nghiệm sống ở đời về tương phản giữa khổ đau trong đời sống thường ngày và vinh quang cũng như hy vọng mà Thánh Phaolô nói đến trong thư gửi Giáo Đoàn Rôma ( Rm 8 18 – 23 ) ? Giữa "những đau khổ trong hiện tại" chúng ta mang trên mình, và "vinh quang mà Thiên Chúa sẽ tỏ lộ trong tương lai" ( Rm 8, 18 ). Hiện tại chúng ta chưa có kinh nghiệm nhiều, nên chúng ta muốn nói như Đức Maria: "Việc đó xảy ra thế nào được ?" ( Lc 1, 34 ). Phụng Vụ hôm nay sẽ cho chúng ta câu trả lời. Mặc khải cho biết, khổ đau đi vào thế giới như là hậu quả của tội lỗi "không thể tránh khỏi"; cũng như trái cấm trong vườn Êđen, vì một lời nói dối, khiến con người chống lại Lời sáng tạo, gây nên sự hỗn loạn, sau cùng cả và nhân loại bị hủy diệt. Chỉ có Thiên Chúa, Lời sáng tạo, mới có thể can thiệp để cứu chuộc con người ( x. Rm 8 ) và tái lập trật tự hài hòa đã được thiết lập ngay từ thuở ban đầu. Chúa phán: "Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác" ( Is 55, 11 ). Nhưng Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra là gì vậy ? Thưa là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Con một Ngài, Thiên Chúa như người gieo giống gieo Lời ( Con Ngài ) vào thế giới chúng ta, "Người cho ứ nước luống cày, Mô đất đặt xuống phẳng phiu, Người cho mưa rào đảo nhuyễn, chúc lành cho giống trổ mầm" ( Tv 64, 11 ); "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống… làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn" ( Is 55, 10 ). Nước ở đây là nước Thánh Thần tưới lên chúng ta để chúng ta sinh được gấp trăm. Chính nơi Chúa Giêsu phục sinh mà nhân loại được cứu, Người là "Đấng cứu chuộc thế gian ! nơi Ngài đã được mạc khải một cách mới mẻ và kỳ diệu hơn chân lý căn bản về thế giới thụ tạo, điều mà sách Sáng thế xác nhận khi lặp đi lặp lại nhiều lần: "Thiên Chúa thấy như thế là tốt lành" ( Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đấng Cứu Chuộc con người, số 8. Ngày 4.3.1979 ). Nhưng nếu Chúa Giêsu là Đầu đã đạt đến chặng cuối của hành trình, thì Thân mình là "mọi thọ tạo rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con" ( Rm 8, 22 ) cũng được như vậy. Tuy nhiên, tiền đề sự phục sinh của Chúa Giêsu đã được trao ban: hạt giống sự sống đời đời đã ẩn tàng trong tâm hồn các tín hữu từ ngày họ chịu phép Rửa tội; Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Lời tái tạo và biến đổi chúng ta. Thật hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa là Cha vô cùng nhân hậu; Ngài biết lòng dạ con người phức tạp và yếu đuối. Vì thế, Ngài gieo cách hào phóng, kể cả vệ đường, nơi bụi gai và sỏi đá. Chim trời sẽ đến ăn mất, nhưng đặt hy vọng vào hạt rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả dồi dào, "có hạt được một trăm" ( Mt 13, 23 ). Thiên Chúa rất đỗi khoan dung, không những mạc khải cho chúng ta tình yêu của Ngài bằng cách hòa giải với chúng ta nhờ sự chết của Con Ngài khi chúng ta còn là kẻ thù ( x. Rm 5, 10 ), Ngài gieo Lời cứu độ là chính Con Ngài xuống trên chúng ta, bất kể chúng ta thờ ơ, từ chối, nhưng chắc chắn sẽ có hạt đâm rễ và mọc lên. Dụ ngôn này thật an ủi cho những kẻ cứng đầu cứng cổ như chúng ta, và cũng là lời khuyên an ủi những ai đang chịu trách nhiệm dạy Giáo Lý cho thiếu nhi và giới thành niên. Còn nỗi khổ nào hơn đối với các bậc làm cha mẹ khi thấy con cái mình từ bỏ Đức Tin ! Nhưng Đức Tin không thể được truyền theo nhiễm sắc thể hay dòng sữa của mẹ nuôi con, chúng ta có thể trình bày cho trẻ em về tình bạn của Chúa Giêsu, nhưng không thể áp đặt Đức Tin cho chúng. Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể: chúng ta hãy vui lòng làm như Ngài, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả ( x. Is 55, 10 – 11 ). 9
  • 10. Chúng ta cần chuẩn bị một thửa đất tốt để đón nhận hạt giống, và chăm sóc để nó có thể đơm hoa kết trái. Có người không muốn mình bị thử thách hay gặp khó khăn, người ấy sẽ có ngàn lý do để từ chối. Nhưng ai "nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả" ( Mt 13, 23 ). Tất cả đều nghe dụ ngôn, nhưng người hiểu được là người mang nó về nhà, trân trọng như một tài sản quý giá. Chúng ta sẽ hạnh phúc nếu chúng ta nghe những gì Chúa nói và nghiêm túc hoán cải theo tiếng Chúa gọi: Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta được sống, "giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" ( Rm 8, 21 ), chúng ta sẽ đơm hoa kết trái. Trong Năm Phúc Âm Gia Đình, chúng ta cùng nghe lời vị cha chung dạy: "Tất cả việc Phúc Âm hóa được thiết lập dựa trên sự lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành Lời Chúa và làm chứng cho Lời Chúa. Thánh Kinh là nguồn mạch của việc Phúc Âm hóa. Vì vậy, chúng ta phải liên tục được đào luyện trong việc lắng nghe Lời Chúa. Hội Thánh không rao giảng Tin Mừng nếu không liên tục để cho mình được Phúc Âm hóa… Việc Phúc Âm hóa đòi hỏi chúng ta phải làm quen với Lời Chúa, và điều này đòi buộc các giáo phận, các giáo xứ và các nhóm Công Giáo đề ra một chương trình học hỏi Thánh Kinh nghiêm túc và kiên trì, cũng như thúc đẩy việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện của cá nhân và cộng đồng… " ( Đức Phanxicô, Niềm Vui Phúc Âm, § 174-175 ). Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Thiên Chúa cách sâu đậm và kiên trì. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, là "đất tốt", nơi hạt gống Lời Chúa có thể đem lại nhiều bông hạt. Amen. Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ LÝ GIẢI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT Một trong các thử thách mà tôi gặp là chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội về sự hiện hữu của Hỏa ngục, vì điều này không tương xứng với ý tưởng về một Thiên Chúa tốt lành. “Thiên Chúa của tôi là một Thiên Chúa của lòng thương xót, và Ngài muốn mọi người được cứu độ. Điều đó có trong Kinh Thánh !” Đó là sự thật, Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ, nhưng với điều kiện. Gay go đây ! Không tuân thủ các điều kiện này có thể vào Hỏa ngục đời đời. Điều này đưa chúng ta trở lại vấn đề Lòng Chúa Thương Xót. Nhiều người Công Giáo cho rằng có sự mâu thuẫn giữa Lòng Chúa Thương Xót và sự hiện hữu của Hỏa Ngục. Thánh Luca tường thuật chi tiết khi đám đông đến với Chúa Giêsu và hỏi Ngài về những người được cứu độ, Ngài nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” ( Lc 13, 24; x. Mt 7, 14 ). Tôi thấy có cái khó trong câu nói của Chúa Giêsu. Nếu Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ ( 1Tm 2, 4 ) thì tại sao Ngài làm cửa vào nơi cứu độ quá khó ? Có thể có ba cách trả lời: (1) Thiên Chúa làm cho nó khó dù Ngài muốn mọi người được cứu độ; (2) Satan làm cho nó khó; (3) Chính chúng ta làm cho nó khó. Câu trả lời nào ngụ ý của Chúa Giêsu ? 1. Dựa vào những gì chúng ta biết về Thiên Chúa thì cách trả lời thứ nhất vô lý. Như đã nói, Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ. Hơn nữa, Ngài sai Con Một Ngài đến cứu độ chúng ta, chứ không kết án chúng ta, dù chúng ta đáng tội chết. Như vậy, khi sai Con Một, Thiên Chúa trao ban tặng phẩm quý giá nhất để đưa chúng ta về Nước Trời. Thiên Chúa Con là Đấng Vô Cùng, không thiếu thứ gì. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng Thiên Chúa không thể làm khó các linh hồn trên đường về Nước Trời. 2. Có thể ma quỷ là thủ phạm Tuy nhiên, ma quỷ bị đánh bại vì Máu Con Chiên là Đức Kitô, và quyền lực của nó bị chế ngự ( Kh 12, 11; Kh 20, 10; 1 Ga 3, 8; Lc 11, 21 – 22; Mt 16, 18 ). Do đó, ma quỷ không thể ngăn chặn lối vào Nước Trời vì Thiên Chúa đã làm người và đánh bại nó. Vậy là ma quỷ bị tước đoạt mọi thứ ( x. Lc 11, 22 ). Cách trả lời này cũng không ổn. 10
  • 11. 3. Tại chúng ta làm hẹp lối vào Nước Trời Nhưng cách trả lời này không dễ hiểu chút nào. Chúa Giêsu đến cứu độ chúng ta và làm cho chúng ta mạnh mẽ ( x. Ep 6, 10 – 11; 2Cr 12, 10 ). Nhưng làm sao chúng ta làm cho khó vào Nước Trời nếu Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta mạnh mẽ ? Câu trả lời rất đơn giản: Vì kiêu ngạo, chúng ta làm tổn hại khả năng của chúng ta và tự thu hẹp đường vào Nước Trời. Sứ điệp của Đức Kitô là sám hối, vì Nước Trời đã gần. Sự sám hối này giúp chúng ta vượt qua tính kiêu ngạo ( x. Mt 18, 3 – 5; Lc 9, 48; 1Ga 2, 15 – 16 ). Chỉ đơn giản tin Ngài là Thiên Chúa thì chưa đủ: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! Lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Chúng ta cũng phải sinh hoa trái với lòng sám hối ( Lc 3, 8 ), nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng làm được như vậy ! Do đó, là sai lầm nghiêm trọng nếu cho rằng giáo huấn về Hỏa Ngục không tương hợp với Lòng Chúa Thương Xót, hoặc cho rằng các linh hồn bị án phạt đời đời là tại Thiên Chúa. Chỉ tại chúng ta mà thôi ! Cánh cửa Nước Trời nặng, chúng ta thiếu sức mạnh là tại chúng ta, chứ không tại Thiên Chúa. Thiên Chúa không đẩy chúng ta xuống Hỏa Ngục vì Ngài yêu thương chúng ta vì chúng ta là tội nhân, nhưng vì chúng ta không chịu thay đổi theo Hồng ân của Ngài. Điều này vẫn rắc rối. Không phải ai cũng muốn hạnh phúc sao ? Không phải ai cũng muốn vào Nước Trời sao ? Mọi người, dù là Kitô hữu hoặc người vô thần, đều khao khát hạnh phúc. Không ai lại dám liều mình chọn lối dẫn tới diệt vong. Vậy tại sao Chúa Giêsu nói rằng con đường dẫn tới Hỏa Ngục rộng thênh thang ? Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường vào Nước Trời: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy” ( Mt 16, 24 – 25 ). Điều kiện tiên quyết để theo Ngài vào Nước Trời là TỪ BỎ MÌNH. Ngài luôn luôn ban cho chúng ta lòng thương xót, ngay cả khi chúng ta không đáng được thương xót, với điều kiện là chúng ta đừng từ chối, và lời hứa của Ngài là chiến thắng cuối cùng của chúng ta: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” ( Mt 10, 22; Mt 24, 13 ). Đó là lý do mà đường vào Hỏa Ngục rộng thênh thang và dễ tìm thấy. Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người, nhưng vấn đề là chúng ta có muốn hay không. Thói xấu không cần tập luyện, nhưng tính tốt thì phải tập luyện không ngừng. Đó là cửa hẹp để vào Nước Trời. Sự xét mình sẽ giúp chúng ta xác định được chúng ta đang tìm con đường nào để vào Nước Trời, rộng rãi và dễ dàng hay chật hẹp và khó khăn. Đây là bốn điểm chính: – Hằng ngày, tôi có dành thời gian theo dõi chương trình tivi ưa thích ? Tôi có dành thời gian tập thể dục hoặc vận động ? Tôi có dành thời gian lướt Internet, Facebook, Buzzfeed, Twitter... ? Nhưng tôi có dành thời gian cầu nguyện ? – Tôi ưu tiên cho Chúa hay ưu tiên cho những thứ khác ? Tôi có tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật và các lễ buộc ? – Hằng ngày, tôi dành bao nhiêu thời gian tập trung vào tài chính, vật chất, các mối quan hệ, chăm sóc ngoại hình ? Còn tôi dành bao nhiêu thời gian làm vui lòng Chúa và chăm sóc linh hồn mình ? – Hằng ngày, tôi dành bao nhiêu thời gian suy nghĩ về tình dục, về nét hấp dẫn của mình ? Còn tôi dùng bao nhiêu thời gian xin Chúa thanh luyện linh hồn mình ? Tự trả lời thật lòng các câu hỏi trên đây, bạn sẽ biết mình đang đi trên con đường nào để vào Nước Trời. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa bảo chúng ta phải từ bỏ mình, vác thập giá và vào cửa hẹp. Lòng Chúa Thương Xót là tặng phẩm vô giá mà Thiên Chúa trao ban để giúp chúng ta từ bỏ mình, vì Ngài sửa dạy chúng ta với lòng trắc ẩn chứ không khắt khe: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng ? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” ( Tv 130, 3 – 4 ). Lòng Chúa Thương Xót không miễn trừ các khuyết điểm và cứ để chúng vẫn còn, vì Ngài ban cho chúng ta sự tự do. Điều này KHÔNG có nghĩa là Ngài không yêu thương chúng ta ! Thế nên chúng ta phải cố gắng “qua cửa hẹp”. 11
  • 12. Tóm lại, Thiên Chúa không ép chúng ta vào Thiên Đàng nếu chúng ta không muốn. Chúng ta cũng không thể vào Nước Trời nếu chúng ta bám vào những thứ trên thế gian này. Lòng Chúa Thương Xót vô hạn, Thiên Chúa ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta tách mình ra khỏi thế giới này qua việc từ bỏ chính mình, làm cho chúng ta ước muốn Nước Trời và dẫn chúng ta qua cửa hẹp. Thiên Chúa không ép chúng ta vào Thiên Đàng nếu chúng ta không muốn, vì Ngài giàu lòng thương xót – và luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài sẽ làm mọi thứ để chúng ta ước muốn Nước Trời, vì Ngài giàu lòng thương xót. TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ từ PrayerAndPerspective.com PHONG CÁCH PHANXICÔ Bài 13. Phaolô bắt chước Đức Kitô như thế nào ? Trong giao tiếp thường ngày với nhiều thành phần khác nhau ta rất thường nghe một phát biểu hình như khá xác đáng, ít ai muốn phản bác lại vì không muốn làm phật ý nhau, đại để như: “Đạo nào cũng là đạo. Đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn ngay ở lành, cũng dựa trên luật nhân quả…” Đối với nhiều người, tôn giáo được đơn giản hóa thành một lối sống ăn ngay ở lành, tu thân tích đức, do đó mới có quan điểm “đạo nào cũng giống nhau”. Một số Kitô hữu đứng trước lập luận của đời thường như vậy cũng không thấy được đâu là nét nổi bật nhất trong Lòng Tin Kitô của mình. Ngay cả nhiều Giáo Sĩ trên bục giảng hay trong các bài viết cũng có khuynh hướng diễn giảng Tin Mừng như một lối sống đạo đức với một số lễ nghi cần chu toàn. Hàng ngày bên cạnh các tin tức thời sự chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa… các hãng thông tấn thường đính kèm một loại tin xem ra chẳng ăn nhập tới đời thường của ta, đó là tin thiên văn về các ngôi sao, hành tinh, lỗ đen, thiên hà xa lắc xa lơ, có khi cách ta hàng tỷ năm ánh sáng. Để hình dung được một năm ánh sáng xa cỡ nào ta cứ theo dõi hành trình của tầu thăm dò Voyager 2, được phóng lên không gian vào ngày 20.8.1977. Đến năm 2016, tức là 39 năm sau, nó mới đi ra khỏi biên cương của hệ mặt trời, và nếu cứ bay hoài với vận tốc 55 ngàn cây số giờ, phải đến 81.500 năm sau nó mới tới được ngôi sao gần nhất là Proxima Centauri, cách mặt trời 4,2 năm ánh sáng. Nhưng Voyager 2 chỉ hoạt động được đến năm 2015 thôi. Sau đó khi tất cả nguồn năng lượng đã cạn kiệt, nó chỉ là một con tầu chết trôi dạt trong khoảng không gian vô tận không còn liên lạc gì được với trái đất nữa. Mặc dầu vậy, nhân loại vẫn không ngại tốn kém công sức tiền của để tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi lớn nhất là trong không gian vô biên kia có một nơi chốn nào đó cũng có sự sống như trái đất không. Nói cách khác, vũ trụ có mang một ý nghĩa nào đó về sự sống không ? Kitô hữu không đi tìm Thiên Chúa trong thiên văn học, đó là lãnh vực riêng của khoa học thực nghiệm. Đặc điểm của Kitô hữu là đón nhận Đức Kitô là Lời tối thượng mà Thiên Chúa đã mặc khải ra cho con người. Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa ( Dt 1, 1 – 3 ). Cuộc đời của Đức Kitô luôn luôn trở thành một dấu hỏi bỏ ngỏ rất lớn cho mọi tín hữu. Cuộc đời đó chỉ có vỏn vẹn 33 năm, mà trong 30 năm đầu tiên Người chẳng làm gì nổi bật. Thân bằng quyến thuộc chỉ nhận ra đây là một chàng thợ mộc tầm thường, con bà Maria, có anh em là Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn. Chị em của Người đều là bà con lối xóm với họ (x. Mc 6,3). Phong cách sống của Người trong 3 năm cuối đời, khi đi loan báo Tin Mừng cũng rất lạ lùng. Không có một ở cố định nào cả, chỉ đi lang thang đây đó trong miền Galilê. “Con chồn có hang, chim trời 12 CÙNG NHẬN ĐỊNH
  • 13. có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8.20). Người thích lui tới những chốn hoang vu. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia (Mc 8,13). Người không hề xây lên một đền thờ nào hay kêu gọi người khác làm như thế. Việc đền thờ cực thánh Giêrusalem sẽ bị phá hủy đối với Người là một chuyện đương nhiên phải xẩy đến. Đang khi Đức Giêsu ra khỏi Đền Thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật! Đức Giêsu đáp: “Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư ? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” ( Mc 13, 1 – 2 ). Đặc điểm chung của những người được tuyển chọn để đi theo Người là thất học, thấp hèn, nông nỗi, bộp chộp và còn tội lỗi nữa. Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người ( Mt 5, 18 – 21 ). Người chẳng hề tự tay ghi chép lại một lời dạy bảo nào, cũng không dặn dò các môn đệ phải viết xuống cẩn thận các lời Người nói ra. Máccô, sách Phúc Âm đầu tiên chỉ được hình thành vào khoảng từ năm 55 cho tới 70, tức là trên 20 năm sau khi Người về trời. Bản thân Máccô chưa từng được tiếp xúc với Người khi Người còn sống. Đối với Người, chỉ có một quan tâm hàng đầu là làm theo ý Cha của Người. Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi ( Ga 6, 38 ). Làm theo ý Cha là một điều không dễ dàng gì. Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” ( Mt 26, 39 ). Tin Mừng của Người được loan báo ra khỏi biên cương Do Thái một cách lạ lùng không kém. Người chọn Saolô tức Phaolô, một công dân Rôma chứ không phải là một người Palestine như các môn đệ khác. Phaolô chưa hề tiếp xúc với Người khi Người còn sống, Ông không thuộc hàng ngũ 12 Tông Đồ nòng cốt, mà lại mang tâm địa muốn tận diệt những Kitô hữu đầu tiên. Hồi ấy, Hội Thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giuđê và Samari. Có mấy người sùng đạo chôn cất ông Têphanô và khóc thương ông thảm thiết. Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục. ( Cv 8, 1 – 3 ). Ông Saolô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đamát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem. Vậy đang khi ông đi đường và đến gần Đamát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta ?” Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai ?” Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì ( Cv 9, 1 – 6 ). Nhưng chính Phaolô lại là người khởi xướng rao giảng cho dân ngoại tức là chúng ta bây giờ. Ngày Sabát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do Thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Bấy giờ ông Phaolô và ông Banaba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem Ơn Cứu Độ đến tận cùng cõi đất” ( Cv 12, 44 – 47 ). Dù chưa bao giờ gặp Đức Kitô khi Người còn sống, Phaolô lại là một tác giả quan trọng hàng đầu góp phần hình thành bộ Tân Ước. 13 trong số các Thư gởi các giáo đoàn đều bắt đầu bằng câu: “Phaolô, nô lệ của Đức Kitô”. Số chữ do Phaolô viết ra trong bộ Tân Ước chiếm 31,57%, không kể Thư Do Thái mang tư tưởng Phaolô nhưng các nhà chú giải cho rằng không phải do ông trực tiếp chấp bút. 13
  • 14. Phaolô còn là đồng tác giả Công Vụ Tông Đồ. Ông có ảnh hưởng rất lớn trên Luca, tác giả sách Tin Mừng thứ 3. Do đó, có thể cho rằng 50% bộ Tân Ước là thành quả của Phaolô. Bởi đâu Phaolô lại có được lòng nhiệt thành và hiệu quả rao giảng mãnh liệt như vậy. Ông thường nói ra bí quyết của mình và khuyên mọi Tín Hữu khác cũng làm như thế: bắt chước Đức Kitô. "Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô" ( 1Cr 11, 1 ). "Vậy tôi khuyên anh em: hãy bắt chước tôi" ( 1Cr 4, 16 ). Vậy, "anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương" ( Ep 5, 1 ). "Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em" ( Pl 3, 17 ). Chúa Kitô cũng cho biết quan hệ giữa Người và Chúa Cha cũng mang tính bắt chước. Đức Giêsu lên tiếng nói với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc” ( Ga 5, 19 – 20 ). Đây là điểm vô cùng lạ lùng nơi Phaolô. Ông không hề gặp Người bao giờ. Đức Kitô có hiện ra với ông giống như với Tôma để ông này có thể đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Người hay không ( x. Ga 20, 27 ) thì không ai dám quả quyết. Giả sử Người có hiện ra tỏ tường với ông đi chăng nữa thì cũng không thoát khỏi thông lệ sau khi trỗi dậy từ cõi chết, thời gian tỏ mình ra của Người cho tất cả môn đệ thân thiết hết sức vắn vỏi. Bà Maria Mácđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về. “Đức Giêsu gọi bà: “Maria !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni !” ( nghĩa là "Lạy Thầy" ). Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha” ( Ga 20, 11 – 17 ). Tại sao Phaolô có thể khẳng định là mình đã bắt chước Đức Kitô. Trong khi Đức Kitô sống 30 năm đầu tiên trong âm thầm lặng lẽ tại Nadarét, 3 năm rao giảng cũng chỉ quanh quẩn trong khu vực Galilê thôi. Thế mà sau khi đón nhận Đức Kitô, ngay lập tức Phaolô đã lên đường rao giảng. Lập tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giêsu trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa ( Cv 8, 20 ). Trong khi đó, Đức Kitô lại có vẻ bằng lòng với sứ vụ trong phạm vi Do Thái: Một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà là người Hy Lạp, gốc Phênixi thuộc xứ Xyri. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. Người nói với bà: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.” Bà ấy đáp: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con” ( Mc 7, 25 – 28 ). Phaolô lại thấy rõ tầm quan trọng sứ vụ cho dân ngoại. Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái thôi ? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao ? Có chứ ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa ( Rm 3, 29 ). Tại sao Phaolô không hề được gặp Đức Kitô một cách rất thân thiết và cụ thể như các Tông Đồ khác theo cách mà Gioan đã ghi lại: "Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi" ( 1 Ga 1, 1 – 3 ). Đó là tại vì Chúa Giêsu còn có một cách làm cho những người chưa bao giờ nhìn thấy Người một cách tỏ tường, tức là chúng ta bây giờ, gặp gỡ được Người có khi còn sâu xa và mãnh liệt hơn là ta đã cùng sống với Người và được chính Người dạy dỗ. "Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em" ( Ga 16, 7 ). Thánh Thần làm cho ta, tuy vẫn là ta đó, ta trong tất cả giới hạn, yếu đuối và ngay cả tội lỗi của mình, có được tinh thần của Đức Kitô, để ta có thể sống với tâm tình của Người và đối xử với tha nhân với tấm lòng của Người. Phaolô đã tóm tắt cuộc đời của ông và mọi Kitô hữu như sau: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" ( Gl 2, 20 ). Hành trình rao giảng đã đưa Phaolô đến những miền mới lạ, gặp gỡ những dân tộc khác, có những kinh nghiệm mà bản thân Đức Kitô không hề có. Sự bắt chước Đức Kitô của Phaolô phải hiểu là Phaolô hoàn toàn sống cuộc 14
  • 15. đời của ông, ngay cả trong giấc ngủ, với tâm tình và tấm lòng của Đức Kitô. "Dầu thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người" ( 1Tx 5, 10 ). Tại sao Phaolô lại có thể đạt được một tầm cao kết hợp như thế trong khi ông chưa một lần gặp gỡ Chúa Giêsu khi Người đang sống và thực hiện rất nhiều phép lạ ? Đó là vì Thánh Thần hàng “rên siết” trong lòng ông. "Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa" ( Rm 8, 22 – 23 ). Do đó, tư tưởng của Phaolô, những suy tư của ông về Ơn Cứu Độ được diễn giảng trong các thư gởi cho các Giáo Đoàn, dù có văn phong và nội dung không giống như cách rao giảng và các lời dạy của Đức Kitô, ngay từ ban đầu đã được Hội Thánh tiên khởi trân trọng đón nhận như chính Lời Chúa ngay cả trước khi các sách Phúc Âm được phổ biến. • Thư thứ nhất Thêxalonica viết vào năm 51 • Thư Philip vào năm 52 – 54 • Thư Philêmon vào năm 52 – 54 • Thư Côrintô 1 vào năm 53 – 54 • Thư Galát vào năm 55 • Thư Côrintô 2 vào năm 55 – 56 • Thư Rôma vào năm 55 – 58 • Tin Mừng theo Thánh Mátthêu chỉ có trước năm 70. • Tin Mừng theo Thánh Máccô được viết trước tiên trong khoảng năm 55 – 70. • Tin Mừng theo Thánh Luca có trước năm 62. • Tin Mừng theo Thánh Gioan chỉ có từ năm 80 đến 90. Sự bắt chước Đức Kitô đã lên tới đỉnh cao vào cuối đời của Phaolô trước khi chịu tử đạo vào năm 68, khi đó ông niềm nở tiếp đón tất cả mọi người đến với mình. Suốt hai năm tròn, ông Phaolô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai đến với ông. Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào ( x. Cv 28, 30 – 31 ). Đây cũng chính là điều Đức Kitô đã làm và muốn ta bắt chước Người. "Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Ísraen" ( Mt 15, 29 – 31 ). NGUYỄN TRUNG ( Còn tiếp ) CON ĐƯỜNG “Tìm một con đường, tìm một lối đi, ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi. Lạc loài niềm tin sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai, cứ vui cho trọn hôm nay.” là tâm sự của nhạc sỹ Đức Huy trong bài “Và Con Tim Đã Vui Trở Lại” khi anh phải bôn ba và tha phương nơi xứ người. Với ca khúc này, nhạc sỹ Đức Huy như đã nói hộ biết bao con tim đang thao thức tìm kiếm cho mình một con đường và một lối đi đúng đắn hầu tới được bến bờ hạnh phúc và bình an thật giữa một thế giới có quá nhiều con đường và lối đi dẫn đến chỗ lầm lạc và khổ đau như ngày nay. Con đường gắn kết với hành trình sống của từng người chúng ta như máu huyết và hơi thở vậy. Từ khi chập chững bước đi đầu tiên ở cái buổi bình sinh của đời mình đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta đã và luôn gắn kết với con đường rồi, thế nên nó trở nên vô cùng thân quen và gần gũi. 15 CÙNG SUY TƯ
  • 16. Có những con đường ta rất thích đi, đi hoài mà không biết chán, bởi nó gắn kết với ta nhiều kỷ niệm vui buồn khác nhau của một thời vang bóng nào đó, tựa như con đường đến trường quen thuộc trong suốt thời học sinh, hay con đường tình mà hai người yêu nhau thường đi dạo ngang qua ấy để đến điểm hẹn vào những ngày nắng đẹp hay những ngày mưa lãng mạn. Cũng có những con đường mà hễ nhắc tới là gợi đến trong ta một sự chán chường và buồn sầu đến vô hạn bởi nó gắn liền với những biến cố gây chấn động cho ta thuở nào, đó chính là con đường mà người thân ta đã tử nạn nơi ấy bởi tai nạn giao thông, con đường ta gặp rủi ro, con đường ta đưa tiễn một linh hồn về với lòng đất. Đã là con đường thì chắc chắn đưa ta đến một đích điểm nào đó, đích điểm ấy quyết định ta chọn lựa con đường nào để dẫn tới đó. Thế nên, điều ta băn khoăn và luôn trăn trở trong hành trình đi về đích điểm của ta thật là một hành trình gian nan và cam go. Bởi nếu ta biết đích điểm thì ta mới biết tìm đến con đường nào dẫn ta tới. Song điều cay đắng mà đa số nhân loại này, nhất là những người trẻ gặp phải đó là họ lại không biết đâu là điểm mà mình cần tới trong cuộc đời, thế nên họ cứ lang bang hoài trên những con đường khác nhau, đi từ hứng thú đến thất vọng, đi từ ngạc nhiên đến tuyệt vọng, đi từ niềm vui đến bất an, đi từ sung mãn đến bất mãn, đi từ sôi nổi đến chán chường, đi từ hoan lạc đến loạn lạc, đi từ tình yêu đến tình thù, đi từ sôi động đến bất động, và đi từ sự sống đến sự chết… Nhiều khi ta biết đích phải đến, song chính vì cái đích ấy chẳng rõ ràng nên ta lại đi vào những con đường vòng vo, luẩn quẩn, và như một ma trận lại đưa ta đến đích khác với cái mà ta đã chọn dù nó đã mập mờ, song đích này còn tan nát và mập mờ hơn. Ta đã dành cả cuộc đời để nỗ lực, để phấn đấu, để yêu và để nhớ, để thương và để giận, để học và làm, để nhận và cho, để vui và buồn, để sinh và để dưỡng… thế nhưng cuối con đường ấy lại là một điều mà ta lại thất vọng khi trong một khoảnh khắc ánh sáng nào đó ta được biết rằng ta chẳng đi về đâu cả, ta vẫn cứ đang đi trong cái mê cung kia, và thế là ta hối hận, ta tiếc nuối, ta sợ hãi, ta lạc lối, ta băn khoăn, cuối cùng là bỏ mặc con đường. Trong tác phẩm “Những Lời Dạy Của Don Juan – The Teachings of Don Juan” nổi tiếng của nhà nhân chủng học Carlos Castaneda, ông đã được thầy mình là nhà phép thuật nổi tiếng ở Mexico chỉ cho biết cái khái niệm về con đường. Qua đó, ông chia sẻ cảm nghiệm một đời của mình về con đường với Carlos Castaneda: “Tất cả mọi con đường đều giống như nhau cả: chẳng dẫn tới đâu hết. Đó là những con đường đưa ta đi qua bụi rậm, hoặc đi vào bụi rậm. Nơi chính của sống của mình, tôi có thể nói rằng tôi đã đi qua rất nhiều con đường dài, nhưng giờ thì tôi cũng chẳng đang ở đâu cả. Giờ tôi mới thấy câu hỏi của thầy tôi có ý nghĩa. Liệu con đường này có trái tim không ? Nếu nó có, thì đó là con đường tốt; còn nếu không thì con đường ấy vô ích. Cả hai con đường đều chẳng đưa ta đến đâu cả; nhưng một bên có trái tim, còn bên kia thì không. Một con đường cho ta một hành trình tràn ngập niềm vui; và bao lâu chúng ta đi theo con đường ấy ta sẽ nên một với nó. Còn con đường kia thì chỉ đem tới cho ta sự nguyền rủa cả đời. Một con đường cho ta sức mạnh; còn con đường kia làm cho bạn hao mòn.” Trong bộ phim nhiều tập mà ai cũng biết dựa trên tác phẩm cùng tên của Ngô Thừa Ân – Tây Du Ký, nếu ai biết tiếng Hoa sẽ nghe bài hát quen thuộc mỗi khi phim được chiếu, trong đó có đoạn nói thế này: “Thử hỏi con đường ở đâu, xin thưa con đường ở dưới chân ta”. Đây là một cách nói theo nghĩa đen, còn nghĩa bóng thì đòi buộc ta phải luôn luôn nhìn xuống chân mình, nhìn hướng phía trước và dò tìm, phân định, để nhận biết mình đang đi về đâu và đích điểm là gì. Và kết quả của một quá trình đấu tranh không mệt mỏi với không chỉ những lực cản trên đường đến Tây Thiên, mà cả với chính bản thân mình với muôn vàn ước muốn thấp hèn, khuynh hướng xấu, ý riêng mình… thầy trò Đường Tăng cũng đã có thể mỉm cười hạnh phúc khi đặt chân đến Đất Phật và nhận bộ kinh tu luyện thành Phật đem về giúp cho chúng sanh. Còn trong Kinh Thánh, ta gặp một Thầy Giêsu nhân lành và thánh thiện, chính Ngài đã xác quyết: “Chính Thầy là con đường, là sự thật, và là sự sống” ( Ga 14, 6a ). Từ đây, qua Ngài trong tư 16
  • 17. cách Thiên Chúa Làm Người đã đồng hóa Con đường với Ngôi vị – Thiên Chúa, Sự thật với Ngôi vị, và Sự sống với Ngôi vị. Không ai trong dòng lịch sử nhân loại đã dám khẳng định ngôi vị của mình với con đường, với sự thật, và sự sống như chính Ngài đã đầy tình yêu để đồng hóa với chính mình. Từ đây ta có thể hiểu thứ tự đồng hóa của Ngài thế này “Thầy đây là con đường, con đường hoàn toàn là sự thật, và con đường này hoàn toàn là sự sống thật, và đưa các con đến sự sống muôn đời trên Nước Trời”. Lời xác quyết của Thầy Giêsu dẫn ta đến một sự thật toàn vẹn là nếu ta quyết định chọn Ngài thì ta phải đi trên con đường mà Ngài đã mở ra cho chúng ta, con đường của hy sinh, từ bỏ mình, yêu thương, bác ái, và đầy thử thách gian nan nhằm tôi luyện ta trở nên giống Ngài hơn để có thể bước vào Nước Ngài như đã hứa. Nếu ta thường xuyên đi trên Con Đường Thánh này ta sẽ trở nên một với Ngài, được niềm vui dù cuộc sống có nhiều cái khổ đau, và tràn đầy sức mạnh để lướt thắng hết mọi cám dỗ ở đời và vinh quang bước vào Nước Ngài như lời Ngài cầu nguyện “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con. Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.” Joseph C. PHAM DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI Dọc đường gió bụi hôm nay Mưa sao lại thấy cay cay mắt mình Phải chăng nhân thế tội tình Mưa ơi hãy xóa tội mình trong ta. Sàigòn qua những ngày nắng nóng khủng khiếp, giờ dịu mát hơn nhiều sau mấy cơn mưa đầu mùa đổ xuống chan hòa mặt đất, mưa bay phất phới như mở lối vào đời cho lũ trẻ tung tăng vui hè thoải mái, mưa tẩm ướt đồng ruộng sau bao tháng ngày nắng nóng khô cằn nứt nẻ. Xin cảm tạ ơn Trời, mãi mãi dâng lời tạ ơn. Trên đường về chiều nay vẫn còn những khoảng trống bên thềm lộng gió, có hại bụi từ đâu rơi xuống làm đôi mắt cay cay, đọc tin nhắn điện thoại sao nghe lòng mình đắng cay: “Hai hôm nay em không về nhà cô ơi ! Ba mẹ chửi nhau nghe mà nhức óc, em tủi thân quá bỏ nhà đến sở việc lưu trú, cô làm ơn nhắn tin nói ba mẹ dùm nhe”. Một lát trôi qua, điện thoại từ người mẹ em gọi tới: “Tui đâu muốn cháu nó bỏ nhà ra đi, nó chỉ gửi về tin nhắn điện thoại: Con không chịu nổi cuộc chiến tranh của ba mẹ, đi lễ đọc kinh hằng ngày mà ba mẹ chửi nhau thậm tệ cho cả xóm nghe vậy sao ? Tui nhịn ổng quá nhiều rồi nên giờ không chịu nổi nữa đành phải xả ra thôi, thứ đàn ông gì mà độc tài độc đoán…coi tui như một con ở trong nhà không bằng…” Em tâm sự: “Thấy ba mẹ gây chiến nhiều lần như vậy em chán nhà mình quá à ! Muốn đi tu cho rồi, nhưng liệu chán đời thì đi tu có lợi gì không đây, em đã tốt nghiệp ra trường có việc làm lương tháng ổn định rồi, chẳng thèm phải nhờ vả ổng bà nữa…” Vì quá thân tình với gia đình em nên 17 CÙNG NGHIỆM SINH
  • 18. tôi chia sẻ: “Em cứ đi vài ngày cho khuây khỏa rồi cầu nguyện…, sau đó hãy trở về tâm sự với ba mẹ rằng em rất muốn sự hòa thuận của ba mẹ dành cho nhau và cho các con…” Với người mẹ tôi chia sẻ bằng chính hoàn cảnh mình: “Xã hội văn minh chúng ta đã tôn trọng quyền nam nữ bình đẳng, nhưng dù sao đi nữa số đông các ông chồng vẫn luôn đặt mình là gia trưởng, để bắt chẹt các người vợ đủ thứ chuyện, họ luôn muốn vợ phải phục tùng mọi cái theo ý họ…, vì thế vợ phải ráng nhịn nhục và khôn khéo trong cách sống mới thoát khỏi gông cùm từ mấy ổng, từ xưa đã có câu: “Có chồng như gông đeo cổ”. Là vợ phải ráng nhịn cho êm nhà cửa thôi, “một câu nhịn bằng chín câu lành”, mình cũng đã phải trầy da xướt vảy mới thực hành được câu nhịn đó, chính vì thế tới giờ mới giữ được mái ấm gia đình còn tồn tại, không thì đã cháy rụi lâu rồi bạn ơi ! Năm nay là năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình, mong sao các gia đình công giáo chúng ta biết đem Lời Chúa dạy ra thực hành một cách triệt để, có như thế mới mong tạo dựng được tổ ấm cho ngôi nhà lạnh giá của mình.” Trong tiếng nức nở người vợ nói: “Thà ổng không đạo còn hơn, có đạo gì mà chẳng biết sống theo Lời Chúa dạy, biết vậy ngày đó không thèm lấy ổng cho xong, bày đặt tham gia hội này đoàn kia…, mà về nhà toàn kiếm chuyện chửi bới mình sao chịu nổi chứ ! Tức quá tui phải la làng lại cho cả xóm biết luôn…” Chỉ tội nghiệp cho mấy đứa con phải hứng chịu những cuộc cãi vã thô lỗ của ba mẹ, nó không dám can thiệp, không biết vào phe ai vì cả hai đều là ba mẹ thân yêu của nó, vì thế gây ra buồn chán nên mới phải bỏ nhà đi… Mong lắm thay ba mẹ hãy biết suy nghĩ lại…, để sống tốt đẹp với nhau cho con trẻ bớt đau, nhất là những gia trưởng hãy noi gương Thánh Gia, luôn biết lèo lái con thuyền gia đình bằng tình yêu thương dịu dàng, có như thế mới về đến bến bờ bình an được. Dọc đường gió bụi họa tai Gia đình tổ ấm chung vai gánh gồng Dựng xây thế hệ tuổi hồng Tương lai sáng đẹp vầng hồng tỏa lan. BỒ CÂU TRẮNG NGÔN NGỮ CỦA TÌNH YÊU Anh chị em thân mến trong Đức Kitô, Hai mươi năm trước, Chân Phúc Têrêsa Calcutta đã đứng trước Tổng Thống Hoa Kỳ, trước các thượng nghị sĩ và các nghị sĩ Quốc Hội, trước các thẩm phán của Toà Án Tối Cao Hoa Kỳ. Mẹ nói về công việc của Mẹ giữa những người nghèo trên thế giới. Mẹ nói về công lý và lòng thương cảm. Quan trọng nhất là, Mẹ nói về Tình Yêu. “Tình Yêu”, Mẹ nói với họ, “phải gây đau đớn. Tôi phải sẵn sàng cho đi bất cứ điều gì đòi hỏi để không làm hại người khác, và thực ra, là làm điều tốt lành cho họ. Điều này đòi hỏi rằng tôi phải sẵn sàng cho đi cho đến khi nào tổn thương. Bằng không, sẽ chẳng có tình yêu đích thực nào ở nơi tôi và tôi mang lại sự bất công, sự bất bình an, cho những người ở xung quanh tôi”. Sự hy sinh là ngôn ngữ của tình yêu. Tình yêu lên tiếng trong sự hy sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tuôn đổ sự sống của Ngài cho chúng ta trên thập giá. Tình yêu được lên tiếng trong sự hy sinh của đời sống Kitô hữu, thông phần vào sự sống, sự chết, và sự phục sinh của Đức Kitô. Và tình yêu lên tiếng trong sự hy sinh của các bậc cha mẹ, các mục tử, và bạn hữu. Chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu tình yêu. Ngày nay, tình yêu quá thường được hiểu là một kiểu tình cảm lãng mạn hơn là một cam kết không thể phá vỡ. Nhưng tình cảm thì không làm thoả mãn. Những thứ thuộc về vật chất, và sự an nhàn, và thú vui chỉ mang lại niềm 18 CÙNG ĐÓN NHẬN
  • 19. hạnh phúc chóng qua. Sự thật là tất cả chúng ta đều tìm kiếm một tình yêu thực sự, bởi vì tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm ý nghĩa. Tình Yêu – tình yêu thực sự – chính là sự hy sinh, sự cứu rỗi, và niềm hy vọng. Tình yêu thực sự là trọng tâm của một đời sống phong phú, đầy tràn. Chúng ta được tạo dựng cho Tình Yêu thực sự. Và tất cả mọi điều chúng ta làm – đặc biệt là trong cuộc sống của chúng ta, sự nghiệp của chúng ta, và gia đình của chúng ta, cần phải được bắt rễ từ trong khả năng của chúng ta cho một tình yêu thực sự, khó khăn và không suy xuyển. Thế nhưng ngày nay, tắt một lời về tình yêu, chúng ta bị bỏ mặc mà không có bình an, không có niềm vui. Trong đời Linh Mục của mình, tôi đã đứng trước các trung tâm phá thai để giúp đỡ những người phụ nữ đang phải trải nghiệm chuyện mang thai ngoài ý muốn; tôi đã cầu nguyện với những người già bị bỏ rơi; và tôi đã chôn những người trẻ là nạn nhân của sự bạo lực. Tôi đã nhìn thấy sự cô lập, sự bất công, và nỗi buồn đến từ một thế giới thiếu tình yêu. Mẹ Têrêsa tin, như tôi đang tin, rằng đa phần sự bất công và bất hạnh trên thế giới bắt nguồn từ một thái độ coi thường phép lạ của việc tạo dựng Sự Sống mới trong cung lòng của các bà mẹ. Ngày nay, nền văn hoá của chúng ta loại trừ Tình Yêu khi nó loại trừ quà tặng của Sự Sống mới, thông qua việc sử biện pháp ngừa thai. Mẹ Têrêsa nói rằng: “Khi phá huỷ năng quyền trao ban Sự Sống, thông qua việc ngừa thai, thì người chồng hoặc người vợ... sẽ phá huỷ quà tặng của Tình Yêu”. Người chồng và người vợ được tạo nên để trao ban chính bản thân họ cách tự do như là những quà tặng dành cho nhau trong tình bằng hữu, và để cùng thông phần vào tình yêu trao ban Sự Sống của Thiên Chúa. Ngài tạo nên hôn nhân là để hiệp nhất và truyền sinh, để kết hợp người chồng và người vợ bất khả phân ly vào trong sứ mạng của Tình Yêu, và để mang lại một điều gì đó mới từ Tình Yêu ấy. Việc ngừa thai tước mất sự tự do của những điều khả thể này. Thiên Chúa tạo nên chúng ta để yêu và được yêu. Ngài tạo nên chúng ta để vui hưởng trong sức mạnh của tình yêu tính dục để mang lại những con người mới, con cái của Thiên Chúa, được tạo dựng với linh hồn bất tử. Giáo Hội chúng ta luôn luôn dạy rằng khước từ quà tặng con cái là phá vỡ tình yêu giữa người chồng và người vợ: nó bóp méo bản chất nên một và truyền sinh của hôn nhân. Việc sử dụng biện pháp tránh thai phá vỡ ý nghĩa bí tích, thánh thiện, và tình yêu của chính hôn nhân. Giáo Hội tiếp tục mời gọi các đôi hôn nhân Công Giáo đến với sự hiệp nhất và truyền sinh. Hôn nhân là một ơn gọi cao cả – để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương – cách tự do, sáng tạo, và rộng lượng. Chính Thiên Chúa là một cộng đoàn của tình yêu – Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Hôn nhân Kitô Giáo là một lời mời gọi để noi gương, để biết, và để thông phần vào sự tự do đầy niềm vui của tình yêu Thiên Chúa, một tiếng vang của Ba Ngôi Chí Thánh. Vào năm 1991, vị tiền nhiệm của tôi, Đức Giám Mục Glennon P. Flavin, viết rằng: “Sẽ không thể có hạnh phúc thật trong cuộc sống trừ khi Thiên Chúa trở thành một phần rất quan trọng của giao ước hôn nhân của các bạn. Kỳ vọng tìm kiếm niềm hạnh phúc trong tội lỗi là tìm kiếm sự tốt lành trong sự dữ... Giữ lấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống hôn nhân của các bạn, tin tưởng vào sự khôn ngoan và tình yêu của Ngài, và tuân giữ các giới luật của Ngài... sẽ đào sâu tình yêu của các bạn dành cho nhau và sẽ mang lại cho các bạn sự bình an trong tâm trí vốn là phần thưởng của một lương tâm ngay thẳng”. Thiên Chúa hiện diện trong mọi cuộc hôn nhân, và hiện diện trong mọi cái ôm của đời sống hôn nhân. Ngài tạo nên tình dục là để người nam và người nữ có thể phản chiếu Ba Ngôi: hình thành, trong sự hiệp nhất tính dục của họ, những gắn bó suốt đời của gia đình. Thiên Chúa đã chọn để làm cho các đôi bạn trở thành những người cộng tác với Ngài trong việc tạo dựng nên Sự Sống mới, được tiền định cho vĩnh cửu. Những ai dùng biện pháp tránh thai loại bỏ sức mạnh hiệp nhất của họ và họ rũ bỏ cơ hội hợp tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng Sự Sống. Là Giám Mục Giáo Phận Lincoln, tôi lặp lại những lời của Đức Giám Mục Flavin. Các người nam và người nữ đã kết hôn thân mến: Tôi kêu gọi các bạn hãy khước từ việc sử dụng biện pháp tránh thai trong đời sống hôn nhân của các bạn. Tôi thách đố các bạn mở lòng ra với kế hoạch yêu thương của 19