SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  29
E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com
AN PHONG – NGỌN GIÓ LÀNH
Khi đặt thanh gươm hiệp sĩ của mình
dưới bàn thờ "Đức Bà chuộc kẻ làm tôi", Thánh
An Phong đã quyết định con đường dấn thân
của mình theo một khúc quanh mới, thuộc về
Chúa hoàn toàn để thuộc về người nghèo,
người bị bỏ rơi hơn cả.
Từ giã pháp đình, An Phong cũng từ giã
giấc mơ đấu tranh giành lấy công bằng cho
người nghèo bằng con đường luật pháp. Bỏ
thanh gươm, An Phong từ chối can thiệp vào
xã hội bằng quyền lực. Nhận lấy chiếc áo Giáo
Sĩ, An Phong chọn con đường Tin Mừng.
Chẳng phải khi trở thành Linh Mục hoặc
khi thiết lập DCCT vào năm 1732 thì An Phong
mới có cảm thức về người nghèo, về sự áp bức và về sự công bằng, nhưng ngay khi còn đang đeo đuổi
con đường luật học, An Phong đã đưa ra những quyết tâm thuộc về người nghèo, thuộc về công lý và
công bằng. Quyết tâm không cãi trắng ra đen, chọn lựa người nghèo mà bênh vực, đó là những quyết
tâm của luật sư An Phong nơi pháp đình của vương quốc Napoli.
“Hỡi thế gian, ta đã biết mi”, trên đường rời bỏ pháp đình, An Phong kinh nghiệm được sự giới
hạn của con người. Luật pháp có công minh cách mấy cũng không đủ sức thắng sự dữ. Cái mỉa mai là
luật pháp được biên soạn và ban hành bởi những kẻ cầm quyền thì làm sao lại có thể đứng về phía
người nghèo, người bị áp bức được ? An Phong chọn Tin Mừng là “bộ luật” được biên soạn và ban
hành bởi người nghèo cùng cực. An Phong nhận ra Thiên Chúa hóa thân nơi người nghèo, nên “bộ
luật” này là bộ luật của người nghèo, người đau khổ, người hèn mọn. “Điều gì các ngươi làm cho người
bé mọn nhất đó là làm cho chính Ta” ( Mt 25 ).
Chọn người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả, An Phong dấn thân thuộc trọn vẹn về người nghèo, đồng
thân đồng phận với người nghèo, hòa mình sống kiếp nghèo. Bỏ giới thượng lưu, An Phong bỏ phong cách
quý tộc, chọn lấy nếp sống giản dị, lối cư xử đơn sơ, mộc mạc. Cấm anh em mình ăn nói hoa mỹ, cấm anh
em mình đem kiến thức lòe bịp thiên hạ, An Phong chia sẻ với anh
em cách ăn nói bình dị, chữ nghĩa bình dị, “hãy nói sao cho người
bình dân hiểu” ( Ảnh chụp Đền kính Thánh An Phong tại đường
Merulana ở Roma, ngay bên cạnh là Nhà Dòng Mẹ ).
Bỏ pháp đình, An Phong không hề bỏ kiến thức luật học,
nhưng chọn Tin Mừng, An Phong phả hồn Tin Mừng vào luật
học, viết ra bộ Thần Học Luân Lý. An Phong sử dụng kiến thúc
luật học của mình để đứng về phía người nghèo, người bị áp
bức. Thời ấy, luật đạo luật đời gần như một, lắm mối liên kết
chằng chịt đạo đời rối ren mật thiết. Không chấp nhận quan
niệm mục vụ khắt khe cầm buộc, An Phong lên tiếng nói cho
người nghèo, người bị bỏ rơi, những hối nhân đáng thương hại,
tiếng nói mạnh mẽ không chỉ ngoài xã hội nhưng còn ngay giữa
lòng Nhà Thờ. An Phong trả lại trách nhiệm cho lương tâm, cho
tình thương, cho sự tha thứ.
1
NĂM THỨ 15 – SỐ 621 – CHÚA NHẬT 3.8.2014
An Phong trăn trở và kiên trì cho đến trọn đời, kinh nghiệm nỗi cô đơn trên con đường phục vụ
người nghèo, người bị bỏ rơi, An Phong đã cam kết đi đến cùng cho dù chỉ còn một mình. Nỗi cô đơn
ấy đã đeo bám An Phong cho đến hết cuộc đời, và An Phong cũng trung tín với lời cam kết cho đến hết
hơi thở cuối cùng.
Có rất nhiều luồng gió thổi đến làm rung chuyển thời cuộc, biến hóa nhân sinh, thay cũ đổi mới.
An Phong vẫn làm gió, nhưng khi chọn Tin Mừng, ngọn gió của An Phong là gió lành, ngọn gió lành
không phá hủy, không tiêu diệt, không tàn phá, nhưng xây dựng, làm mát lòng người, làm phát sinh sự
sống và làm cho sự sống thêm dồi dào.
Con cái An Phong có là ngọn gió lành không ?
Lm. VĨNH SANG, DCCT, Lễ Thánh An Phong 2014
MỤC LỤC TÌM BÀI:
AN PHONG – NGỌN GIÓ LÀNH ( Lm. Vĩnh Sang ) .............................................................................. 01
TẤM BÁNH LIÊN ĐỚI ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ......................................................................... 02
KHI CON TIM BỒI HỒI YÊU THƯƠNG ( AM. Trần Bình An ) .............................................................. 03
AI NẤY ĐỀU ĐƯỢC ĂN NO NÊ ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ............................................................ 05
CHÍNH CON PHẢI LO ( M. Hoàng Thị Thùy Trang ) ............................................................................. 06
NHU CẦU CẤP BÁCH ( Trầm Thiên Thu ) ............................................................................................ 07
BỮA TIỆC TÌNH THƯƠNG ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ................................................................... 09
ĐỨC THÁNH CHA BẤT NGỜ ĐẾN ĂN TRƯA VỚI CÔNG NHÂN ( Thanh Sơn ) ................................. 12
ĐỨC THÁNH CHA TIẾP GIA ĐÌNH CHỊ PHỤ NỮ SUDAN BỊ KẾT ÁN TỬ HÌNH ................................ 13
TRƯỜNG HỌC GIA ĐÌNH ( Trầm Thiên Thu ) ...................................................................................... 13
PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 16: Bài ca Hòa Bình ( Nguyễn Trung ) ............................................. 16
PARAGUAY – MỤC VỤ MÙA ĐÔNG 2014 ( Lm. Antôn Trần Xuân Sang ) ........................................... 18
TẠI SAO LẠI ĐI NHÀ THỜ ? ( Biên tập lại từ BTGH ) .......................................................................... 21
THỬ NGHĨ XEM… ( Khuyết Danh ) ...................................................................................................... 22
SAI LẦM THỜI CÒN TRẺ ( Truyện ngắn của Trung Quốc, báo Thế Giới Phụ Nữ ) .............................. 23
TÌNH CHA VÔ BẾN BỜ ( Phan Hạnh sưu tầm ) .................................................................................... 25
NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ........... 27
TẤM BÁNH LIÊN ĐỚI
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về
Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài
học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng
chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một
đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt.
Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng
còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ
bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người
chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn
quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”.
Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi
đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này
chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm
Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang
vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là
một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp
nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu
tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính
anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các
2
CÙNG SUY NIỆM
môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn
bàn tay làm việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình
Chúa không cần những phép tính vĩ mô.
Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh ? Những
tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ.
Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây,
chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con
cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê
cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít
hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu,
là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta
phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có
trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ
Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành
thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho
người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá
cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của
phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu
những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau.
Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim.
Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ
cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay
Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở
ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.
Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT
KHI CON TIM BỒI HỒI YÊU THƯƠNG
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân Đồng Minh, chủ yếu là
Hoa Kỳ thường xuyên oanh tạc các tuyến đường vận tải để tấn công quân Nhật Bản. Kết quả là hệ
thống giao thông ở Đông Dương bị hư hại nặng. Tính vào thời điểm năm 1945 thì đường sắt Xuyên
Đông Dương không còn sử dụng được nữa, và đường Bắc Nam cũng bị phá hoại liên tục. Đường biển
thì quân Đồng Minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ cũng không
thông thương được nữa.
Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng Minh mở rộng tầm oanh
kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn, rồi cuối cùng chỉ ra được đến Nha Trang. Cùng lúc đó
thì lượng gạo tồn kho ở Sàigòn lên cao vì không xuất cảng sang Nhật được, khiến chủ kho phải bán rẻ
dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán tháo cho các xưởng nấu rượu vì gạo ứ đọng sẽ mốc, trong
khi đó, nạn đói lại bắt đầu hoành hành ở ngoài Bắc.
Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những mục tiêu khác cho nhu cầu chiến
tranh của họ. Toàn quyền Jean Decoux từ trước năm 1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang
Nhật theo thỏa thuận với Nhật Bản. Bản thân lực lượng quân quản Nhật cũng thi hành chính sách "Nhổ
lúa trồng đay", do cây đay là nguyên liệu quan trọng cho sản xuất quân nhu.
Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi đó đều nằm trong tay quân
đội Nhật. Người Nhật vì mục đích chiến tranh đã thờ ơ trước thảm họa chết đói hàng loạt của dân bản
địa. Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về nhưng không được cứu đói, đã nằm chết la
liệt quanh đó. Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết ngoài Bắc cũng đã góp
phần cho những động lực tạo ra nạn đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán từ 1 đến 2 triệu người đã
chết vì đói năm 1945 ( Wikipedia ).
Con người trở nên vô cảm, vô nhân, vô đạo, cư xử dã man như loài cầm thú khi bùng nổ chiến
tranh. Những hình ảnh kinh hoàng về nạn đói 1945 tại Bắc Việt còn được trung thực lưu lại qua ống
3
kính của nhiếp ảnh gia Võ An Ninh, như một chứng cứ diệt chủng… Ngày nay, tuy phần nào không còn
đói khát lương thực, nhưng dân Việt vẫn đang đói khát chân lý, công bằng, đạo lý, tình người.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật Đức Giêsu chạnh lòng thương dân
chúng đi theo Người, đang đói khát, bệnh hoạn, tật nguyền. Người không ngừng giảng dạy, chữa lành,
và nuôi dưỡng, biến hóa năm cái bánh và hai con cá cho hơn năm ngàn người no nê dư thừa. Điều này
phản ảnh những khía cạnh Tình Yêu của Thiên Chúa, lẫn của con người đối với Ngài và tha nhân.
Tình yêu phó thác
“Đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà
theo Người” ( Mt 14, 13 ). Những tín hữu Kitô đầu
tiên nồng nàn lửa mến, khao khát tìm thức ăn thiêng
liêng là Lời Chúa, chẳng màng đem theo lương thực,
hay hành trang, khiến Chúa cảm động đoái thương,
cứu chữa. “Ra khỏi thuyền Đức Giêsu trông thấy
một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và
chữa lành các bệnh nhân của họ” ( Mt 14, 14 ).
Kitô hữu yêu mến và tin cậy Chúa là luôn biết
phó thác sinh mạng, bệnh tật, đói khát vào cánh tay
Chúa Quan Phòng che chở, chữa trị và dưỡng nuôi,
để sống đời đời.“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả
những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo.
Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" ( Mt 6, 33 – 34 ).
Cậu bé có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá làm của ăn đi đàng, nhưng phó dâng hết cho
Đức Giêsu. Tấm gương sáng ngời cho Kitô hữu hoàn toàn trông cậy vào Chúa Quan Phòng.
Tin Mừng hôm nay, còn phác họa Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, luôn quan tâm dạy
dỗ, chăm sóc, chỉ đường, chữa bệnh và nuôi dưỡng đàn chiên sống viên mãn.
Tình yêu hỗ tương
Tình yêu tha nhân là tình hỗ tương, liên đới chia sẻ, hiện thực hóa bằng hành động trao tặng, cho
đi, tương thân tương ái, giúp đỡ và phục vụ. “Chính anh em hãy cho họ ăn !” Mệnh lệnh của Đức Giêsu rõ
ràng, đích xác và cụ thể về trách nhiệm chung sống, giúp đỡ nhau, tương trợ, liên kết trong tình yêu.
Không thể đơn giản và lạnh lùng, vô cảm, mạnh ai nấy lo, như“giải tán đám đông, để họ vào làng mạc
mua lấy thức ăn.” Không thế trốn trách trách nhiệm liên đới trong gia đình, Giáo Xứ và xã hội. Nếu không
thì chỉ là tình yêu xảo ngôn, như phường tà đạo vẫn huênh hoang lừa đảo.
Đức Giêsu không một lúc hóa bánh và cá ê hề đầy giỏ, đầy mâm, để mọi người kinh ngạc, thán
phục, tôn vinh. Mà trái lại, phép lạ hóa bánh ra nhiều chỉ xảy ra, khi bánh được trao tận tay nhau. Khi
Đức Giêsu trao các nôn đệ và khi các môn đệ trao lại cho dân chúng. Đó là hình ảnh liên đới, chia sẻ và
yêu thương chân tình, tương tự như xưa, Ngôn Sứ Êlisa đã biến hóa 20 tấm bánh trao tay cho hơn 100
người no nê, dư thừa. ( x. 2V 4, 42 – 44 ).
Hơn nữa, đó cũng là ngụ ý Chúa muốn dạy mọi người: "Anh em đã được cho không, thì hãy cho
không như vậy" ( Mt 10, 8 ). Bởi chưng tất cả mọi sự đều là hồng ân Chúa thương ban.
Tình yêu bội tăng
Trong tin nhắn ngày 10.7.2014, gửi qua Twitter đến mọi người, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc
nhủ: “Đừng ngại nương tựa vào vòng tay che chở của Thiên Chúa; bất cứ điều gì Ngài yêu cầu bạn
cũng sẽ được trả gấp trăm lần.”
Năm tấm bánh và hai con cá của chú bé vô danh kia dâng hiến, đã hóa ra hàng vạn bánh và cá,
cung cấp dư giả cho năm ngàn người đàn ông, không kể phụ nữ và nhi đồng. Tình yêu đã bội tăng gấp
vạn lần. Cho đi một, nhận lại gấp vạn. "Chẳng ai bỏ tất cả vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại
không được gấp trăm, và đời sau được sự sống vĩnh cửu" ( Mc 10, 29 – 30 ).
Tình yêu hiệp nhất
“Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho
môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông” ( Mt 14, 19 ). Với của ăn nuôi thân xác, Đức Giêsu đã thánh hóa,
biến thành mối liên kết từ Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Tông Đồ, Giáo Hội, đến toàn thể Dân Chúa.
Tất cả hiệp nhất trong Nước Chúa, mà cụ thể sau này qua Nhiệm tích Thánh Thể dưỡng nuôi
nhân loại. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là
Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được
sống như vậy" ( Ga 6, 56 – 57 ).
4
“Con phải là “món quà” trong tay Chúa, sẵn sàng để Chúa tặng cho bất kỳ ai. Một món quà mà ai
cũng quý yêu thèm muốn” ( Đường Hy Vọng, số 768 ).
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã nhận năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé kia, đó là tất
cả lương thực của cậu, nay kính xin Chúa nhận lấy tất cả vốn liếng, khả năng, kiến thức hạn hẹp
của chúng con, để Chúa nhân lên, phân phát lại cho tha nhân chung hưởng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa độc nhất là Đức Chúa Con, để
Ngài ban lại cho nhân loại hồng ân cứu độ. Xin Mẹ dạy chúng con luôn biết dâng hiến cả cuộc
đời cho Thiên Chúa, để Ngài tùy nghi sử dụng hữu hiệu. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
AI NẤY ĐỀU ĐƯỢC ĂN NO NÊ
Một thế giới huynh đệ đại đồng là lý tưởng con người hằng mơ ước. Phép lạ Chúa Giêsu hóa
bánh ra nhiều chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá ( Mt 14, 17 ) cho năm ngàn người cùng ngồi trên
một thảm cỏ ăn no hôm nay vẫn thật thức thời.
Những con số cụ thể như: năm chiếc
bánh, hai con cá, năm ngàn người với mười hai
thúng đầy những miếng bánh vụn ( x. Mt 14, 13 –
21 ) thật ấn tượng. Làm sao chúng ta không thể
nghĩ đến những con số khác: có tới trăm ngàn
người thiệt mạng trong các cuộc giao chiến, hàng
trăm triệu euros cho việc chuyển giao một cầu
thủ bóng đá, hàng tỷ người đói hiện nay trên thế
giới. Những con số không biết nói nhưng đã trở
thành lời. Một bên là tiếng hoan hô ngưỡng mộ
trước phép lạ; bên kia là sự khiếp sợ.
Con số "năm chiếc bánh và hai con cá với
năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và
con trẻ" ( Mt 14, 21 ), cho thấy sự mất cân bằng
quá lớn giữa thực phẩm với nhu cầu của con
người. Chúng ta cũng đang phải đối diện với những vấn nạn tương tự về các thảm họa chết người,
chiến tranh và nạn đói, và cảm thấy bối rối, bất lực: chúng ta có thể làm gì ?
Đoạn Tin Mừng này gửi đến chúng ta cách thời sự trong thế giới chúng ta đang sống. Làm sao
không thể nghĩ tới nạn đói đang hoành hành một phần lớn nhân loại ? Ngay cả ở các nước phương Tây,
nhiều người vẫn không có cái tối thiểu để mà sống. Vì vậy, chúng ta cảm thấy nhu cầu rất lớn của nhân
loại mà chúng ta bất lực. Nhiều người đặt câu hỏi: Thiên Chúa đang ở đâu ? Tại sao ngày nay Thiên
Chúa không còn làm như vậy ? Tại sao Người không hoá bánh ra nhiều cho triệu triệu người đang đói
trên mặt đất này ?
Một chi tiết trong bài Tin Mừng có thể giúp chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những vấn nạn trên.
Chúa Giêsu không búng ngón tay để rồi bánh và cá xuất hiện cách ma thuật theo ý muốn. Nhưng Người
hỏi các môn đệ có gì và truyền: "Các con hãy cho họ ăn" ( Mt 14, 16 ); Người kêu gọi các ông chia sẻ
điều các ông có "năm cái bánh và hai con cá " ( Mt 14, 17 ).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Người xin chúng ta chia sẻ những tài nguyên trái đất.
Điều được biết rõ, ít nhất về thức ăn, là trái đất chúng ta có khả năng nâng đỡ hơn một tỷ người nữa
đang ở trên mặt đất này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, "hãy cho họ ăn". Chỉ cần ít mà có một chút tình yêu, tí chút vật
chất để khắc phục nạn đói, thân xác và tâm hồn. Chút ít ấy, chúng ta đặt vào tay Chúa. Thiên Chúa sẽ
thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta nhìn lại phép lạ hóa bánh ra nhiều theo một cách khác. Trước hết,
Người khiêm tốn bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy" ( Mt 14, 18 ), và chấp nhận dùng bánh của
các ông. Sẽ chẳng có gì, nếu các ông không đồng ý cho bánh. Thiên Chúa cần những cử chỉ chia sẻ
của chúng ta để thực hiện những điều cao cả. Do đó, năm cái bánh và hai con cá đã được Chúa Giêsu
dùng để nuôi ngần ấy ngàn người, tất cả đều no nê. Người hoàn toàn tin tưởng ở Chúa Cha. Người biết
rằng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.
5
Một câu hỏi khác được đặt ra: Chúa Giêsu đã nuôi sống đám đông trong một ngày. Nhưng ngày
hôm sau, họ tiếp tục bị đói. Họ tìm thấy mình ở trong một tình trạng khác của khổ đau. Vậy tại sao Chúa
Giêsu không thay đổi tình trạng này ?
Mục đích của Chúa Giêsu không phải là để thay đổi tình thế, cho bằng thay đổi lòng người. Khi
con người thấm nhuần sứ điệp tình yêu Chúa, họ không còn như trước nữa. Điều quan trọng là con
người cho đi những điều tốt nhất là hành vi yêu thương và chia sẻ làm cho cuộc sống có giá trị.
Bánh cần thiết cho cuộc sống, nhưng
chúng ta không bị giới hạn vào thứ bánh vật
chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi xa hơn.
Người muốn nói, Thiên Chúa hiện diện trong
tất cả mọi thực tại và sự kiện trong cuộc đời
chúng ta. Chúng ta đang sống trong tình yêu
của Chúa. Trước đây, Người đã làm phép lạ
hóa bánh ra nhiều. Cử chỉ này là một dấu hiệu
của sự gia tăng tình yêu Chúa vẫn tiếp tục thể
hiện nơi nhân thế. Vì con người, ngoài nhu cầu
vật chất, con người còn đói khát một cái gì hơn
nữa, cần một cái gì hơn nữa. Bánh Giêsu,
Bánh bởi Trời mang lại sự sống đời đời, biến
con người thành các chứng nhân của tình yêu
Thiên chúa đối với từng anh chị em một.
Người trao cho chúng ta, để chúng ta phân
phát cho những ai đói khát tình yêu. Như thế, tình yêu tùy thuộc vào chúng ta và phép lạ của tình yêu
giữa con người với nhau sẽ không bao giờ dừng lại.
Làm sao con người có thể trách cứ Thiên Chúa không cung cấp thức ăn cho mọi người đang khi
mỗi năm người ta tiêu hủy hàng triệu tấn thức ăn mà thông tin đại chúng nói là quá nhiều hầu phòng
chống sự giảm giá thức ăn ? Có giải pháp nào chăng ? Sự phân phối càng tốt thì tình liên đới càng lớn
và sự chia sẻ càng nhiều.
Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Bill Gates
tỷ phú người Mỹ, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40
nước nghèo; Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng tỷ đôla. Chiến tranh tiêu huỷ biết bao tiền của,
bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ lại có nhiều người nghèo đói như ngày nay.
Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế. Sở dĩ như vậy chỉ tại chúng ta giữ chặt
lấy bánh và cá và không muốn chia sẻ với mọi người đó thôi. Thay vì tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống
chạy đua vũ trang, thì con người chế tạo ra bột mì, lương thực, thuốc men để giúp cho đồng loại đỡ khổ
thì tốt biết bao.
Lạy Mẹ Maria, xin mở rộng con tim chúng con, để chúng con biết sống yêu thương và
chia sẻ với anh em đồng loại, hầu xây dựng một xã hội công bằng, huynh đệ đầy ắp tình yêu
thương Chúa. Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
CHÍNH CON PHẢI LO
Không biết từ bao giờ, có lẽ ngay khi mới lọt lòng mẹ, con người đã có nhu cầu sinh tồn, phải ăn
phải uống để mà sống. Cũng vì nhu cầu này, mà nhân loại sa vào vòng tội lỗi. Người ta chém giết nhau
chỉ vì miếng ăn, cái mặc. Và bất hạnh cũng từ đó phát sinh.
Nghèo đói là căn nguyên sinh muôn vàn tội lỗi. Trong những cơn túng quẫn của cuộc đời, lúc ấy
con người mới khao khát có được phép lạ – làm sao cho có được của ăn và không phải đói nghèo, khổ
cực, thiếu thốn.
Của ăn phần xác quan trọng như vậy. Nếu không có nó, con người và vạn vật sao có thể tồn tại.
Nhưng của ăn nuôi linh hồn còn quan trọng hơn. Người ta cần của ăn để sống, nhưng của ăn không là
yếu tố quyết định hạnh phúc. Ngược lại, của ăn tinh thần chính là liều thuốc trường sinh cho họ hạnh
phúc bất diệt.
Của cải vật chất không làm người ta sống mãi, vậy mà ngày ngày có hàng trăm vạn người trên thế
giới qua đi cũng chỉ vì của ăn. Chả được mấy ai vì của ăn tinh thần mà hy sinh chính mạng sống mình cả.
6
Của cải vật chất chỉ làm cho người ta tồn tại và phát triển nhưng không thể khiến con người sống mãi.
Chính của ăn tinh thần mới cho họ hạnh phúc bất diệt. Đó chính là Lời Chúa, là Tình Yêu của Ngài.
Thấu cảm nỗi khó nghèo vất vả, lầm than của nhân loại, Đức Giêsu kêu gọi các Tông Đồ phải
chăm lo cho dân chúng. Ngài yêu cầu đồ đệ đưa đến phần thức ăn bé mọn để làm phép lạ nuôi đám
đông. Hành động ấy không chỉ cứu vớt dân tình khỏi đói, nhưng còn báo hiệu mầu nhiệm Bí Tích Thánh
Thể Ngài thiết lập sau này, hầu thế giới có thể nhờ đó mà được sống.
Là Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ thấu cảm sự đói nghèo của nhân loại, nhưng Ngài còn dẫn
đưa họ đến tầm quan trọng của Của nuôi linh hồn.
Chính Của nuôi ấy mới thực sự cần. Vậy mà chẳng
hiểu sao nhân loại không hay biết hoặc đã biết mà
vẫn cố tình từ khước.
Ngày nay người ta coi trọng của ăn lắm.
Chính sự coi trọng của cải vật chất đã làm cho con
người ngày càng dấn sâu vào vũng lầy đam mê và
tội lỗi. Có ai bảo của ăn không cần thiết đâu, nhưng
nó không là nhất. Điều quý trọng hơn cả chính là có
được sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy
chỉ có thể trổ sinh trong một tâm hồn ngoan ngùy
biết lắng nghe và thực hành Lời của Ngài. Trên hết
là sự sẻ chia, bác ái: “Chính anh em hãy lo cho họ
ăn” ( Mt 14, 16 ).
Từ “vỏn vẹn chỉ có năm cái bánh hai con cá”
( Mt 14, 17 ) mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho “năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” ( Mt
14, 21 ). Thiên Chúa muốn dạy chúng ta phải biết quan tâm, sẻ chia cho người thân cận đói nghèo
chung quanh. Đó là trách vụ thiêng liêng mà không phải ai cũng có thể làm. Không cần gì nhiều, chỉ
cần sự hiện diện, lòng đóng góp tuy nhỏ bé nhưng nếu có tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, ắt sẽ
làm nên phép lạ khôn lường.
Thiên Chúa quyền phép như vậy nhưng không sai Con Một Ngài đến để giải quyết cơm áo gạo
tiền cho nhân loại. Trái lại, Ngài dạy con người phương cách “kiếm gạo kiếm tiền” cho cuộc sống đời
sau chỉ cần biết sẻ chia.
Lạy Chúa, trên con đường ngày ngày đi làm, có biết bao người nghèo khổ sống chung
quanh cần con yêu thương, giúp đỡ. Nghèo vật chất không thiếu mà đói tinh thần cũng quá thừa,
vậy mà con đã đang tâm giả điếc làm ngơ, khép chặt cửa lòng, khoanh tay lãnh đạm trước nhu
cầu được sẻ chia của người khác, trong khi chính bản thân mình được cơm dư, gạo thừa.
Ước gì con có thể nghe được Lời Chúa mỗi ngày: “Chính con hãy lo cho họ ăn” thì diễm
phúc biết chừng nào. Cũng tại người này ỷ nại vào kẻ khác, cho nên nhân loại ngàn năm vẫn
khóc, đói và khát. Ai giàu vẫn phây phây sống, ai nghèo đói mặc ai.
Xin giúp con biết tỉnh ngộ khi thời hạn vẫn còn, mở lòng đón nhận nguồn sống của Thiên
Chúa và rộng tay san sẻ với mọi người sống quanh con. Một khi đã ý thức miếng ăn hằng ngày
con lao nhọc kiếm tìm chật vật vậy nhưng lại chẳng có giá trị thật thì tại sao con không dám bẻ
ra, góp vào sự sống sinh tồn của anh em thân cận cơ chứ ?
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
NHU CẦU CẤP BÁCH
Ăn uống là điều phải học đầu tiên trong đời của mỗi con người: “Học ăn, học nói, học gói, học
mở”. Thật lạ, ngay cả trong kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”, việc ăn uống cũng được coi là “mối
thương” hàng đầu: “Thứ nhất: cho kẻ đói ăn, thứ hai: cho kẻ khát uống”. Điều đó cho thấy rằng việc ăn
uống là nhu cầu cấp bách theo bản năng sinh tồn của con người. Trước tiên, người ta lo sao cho “ăn
no, mặc ấm”, sau đó người ta cố gắng sao cho “ăn ngon, mặc đẹp”.
Có no cái bụng, không phải lo về những điều cơ bản nhất, rồi người ta mới lo những thứ khác.
Quả thật, người ta vẫn thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Khi đói, Thằng Bờm không cần bất
cứ thứ gì khác, dù đó là những thứ sang trọng hoặc quý giá, mà chỉ cần “nắm xôi”. Thế thôi. Người
Anh diễn tả đơn giản: “That’s ALL”. Vâng, chỉ có nắm xôi mới có thể giải quyết nhu cầu cấp bách của
cái bụng lúc đó.
7
Vì biết được nhược điểm của con người như vậy, có những người ác tâm đã lợi dụng người
nghèo đói để bắt họ làm theo ý đồ xấu của mình bằng cách cho họ ăn uống. Miếng ăn là quan trọng,
nhưng miếng ăn cũng có thể là VINH hoặc NHỤC.
Ở đời, chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Quyền lợi cơ bản là “miếng ăn”. Bất ngờ thấy ai
cho mình cái gì thì cũng rất có thể họ muốn nhờ vả mình cái gì đó, chứ đâu dễ gì họ cho mình “ăn
không”. Miếng ăn có điều kiện chứ không vô điều kiện hoặc miễn phí. Theo lẽ thường, nếu có cho ai cái
gì thì người ta chỉ cho những gì thừa, nghĩa là chỉ ở mức “bố thí” chứ chưa được là “công bằng”, đừng
nói chi “bác ái”. Quả thật, “chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa” ( Mc 10, 18; Lc 18, 19 ).
Kinh nghiệm sống đã và đang cho chúng ta biết rõ như vậy.
Thiên Chúa nhân lành mời gọi tất cả mọi người, không trừ ai: “Đến cả đi, hỡi những người đang
khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không
phải trả đồng nào” ( Is 55, 1 ). Cứ đến “mua” mà
không phải trả tiền. Một dạng “mua bán” rất kỳ lạ,
đó là “mua” bằng giá trị của niềm-tin-chân-thành.
Trong cuộc sống đời thường, người ta có
thể bỏ ra bạc triệu hoặc bạc tỷ để mua những thứ
người ta ưa thích, dù ăn được hay không. Có
những món ăn rất đắt, thuộc loại đắt nhất hành tinh.
Ví dụ: Nấm trắng Alba của Ý có giá 160.406
USD/1,5 kg ( khoảng 3,4 tỷ đồng ), trứng cá muối
Almas ở vùng biển Caspian có giá 25.000 USD/hộp
( khoảng 530 triệu đồng ), hoặc dưa lưới Yabari có
giá 22.872 USD/quả ( khoảng 486 triệu đồng ).
Những món này chúng ta có mơ cũng chẳng thấy
được. Cỡ “đại gia” hạng bình thường ở Việt Nam
cũng sẵn sàng uống những chai rượu có giá vài triệu đồng. Người ta biện hộ rằng làm như vậy để “chơi”
cho biết, “chơi” cho thiên hạ “lé mắt”. Dù gì thì cũng thật là lãng phí quá !
Vì thế, Thiên Chúa đặt vấn đề: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả
vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng ?” ( Is 55, 2a ). Lương thực chỉ nuôi sống phần xác chứ
không thể nuôi sống linh hồn, thế mà người ta vẫn dám bỏ ra số tiền lớn để chỉ được thưởng thức
cho khoái khẩu. Điều đó cho thấy ăn là điều thú vị lắm. Người ta chỉ lo đói thể lý mà không sợ đói tinh
thần, đặc biệt là đói linh hồn. Đúng là tự mâu thuẫn và... dại dột quá !
Với lòng nhân hậu, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi: “Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ
được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị” ( Is 55, 2b ). Lời mời gọi đó không chỉ là lời mời gọi
bình thường, mà còn mang tính mệnh lệnh và thực sự có lợi cho người được mời: “Hãy lắng tai và đến
với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề
nhân nghĩa với Đavít” ( Is 55, 3 ).
Thiên Chúa rất hào phóng, luôn ban cho những điều tốt lành cho cả xác và hồn mà lại hoàn toàn
miễn phí. Chúng ta lãnh không ngừng nhận và nhận nhiều mà vẫn vô ơn bội nghĩa, thế nhưng Ngài vẫn
làm ngơ, không chấp. Tại sao? Bản chất Ngài là tốt lành, là yêu thương, là thương xót: “Chúa là Đấng
từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu
với muôn loài Chúa đã dựng nên” ( Tv 145, 8 – 9 ). Thật lạ, Ngài không chỉ nhân hậu với “động vật cấp
cao” là con người, là chúng ta, mà Ngài còn “nhân hậu với muôn loài” mà Ngài đã dựng nên.
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rõ. Có những lúc chúng ta chưa xin, hoặc xin được rồi
mà lại “phủi tay”, kiểu “qua cầu rút ván”, như chuyện “mười người phong hủi được sạch, nhưng chỉ có
một người Samari trở lại cảm ơn Chúa” ( Lc 17, 11 – 18 ), ấy thế mà Ngài vẫn không bỏ đói chúng ta
bữa nào. Chúng ta có thấy mình quá tệ ? Ước gì mỗi chúng ta biết kịp nhận thức như tác giả Thánh
Vịnh: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng
mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” ( Tv 145, 15 – 16 ). Thiên Chúa toàn năng, không gì
là không thể, Ngài vô cùng đại lượng và nhân hậu, nhưng cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong
mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu
khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” ( Tv 145, 17 – 18 ).
Cái NGHÈO luôn đi đôi với cái KHỔ, nhưng cái khổ chưa chắc là tại cái nghèo, vì có những
người giàu mà vẫn khổ. Cái nghèo và cái khổ có thể là MỐI PHÚC đối với người này, nhưng lại có thể
là MỐI HỌA đối với kẻ khác. Có những người “đói ăn vụng, túng làm liều”, nhưng cũng có những kẻ
“nhàn rỗi sinh nông nổi”. Người ta có đủ cách để tự biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Phải
thực sự tin mến Chúa thì mới không bị chao nghiêng trước nghịch cảnh. Để nhận biết mình ở mức độ
8
nào trong hành trình tâm linh, chúng ta hãy tự trả lời thật lòng với câu hỏi của Thánh Phaolô: “Ai có thể
tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy,
bắt bớ, gươm giáo ?” ( Rm 8, 35 ).
Chắc chắn không dễ trả lời. Và đây, Thánh Phaolô hiến kế
cho chúng ta: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ
Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là
sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay
bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô
Giêsu, Chúa chúng ta” ( Rm 8, 37 – 39 ). Đó là biết lo cho cái đói
của linh hồn. Ai sống kiên tâm được như vậy thì thật là đại phúc !
Chúa Giêsu lo chúng ta bị đói cả thể lý lẫn tinh thần. Trình
thuật Tin Mừng hôm nay ( Mt 14, 13 – 21 ) kể lại phép lạ hoá bánh
ra nhiều lần thứ nhất ( cũng được tường thuật ở Mc 6, 30 – 44; Lc
9, 10 – 17; và Ga 6, 1 – 14 ) mà Chúa Giêsu đã làm vì “chạnh lòng
thương” dân chúng.
Nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê ra lệnh chém
đầu vì vua lỡ hứa dại với con gái của bà Hêrôđia, Đức Giêsu lánh
khỏi nơi đó và đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe
biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành vẫn nườm nượp đi bộ
mà theo Ngài. Ra khỏi thuyền, Ngài trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và
chữa lành các bệnh nhân của họ.
Hoàng hôn buông nhạt nắng, chiều gần chạm vào đêm, cái bụng ai cũng đang đánh lôtô, nghĩa
là đến giờ ăn tối rồi. Có lẽ các môn đệ cũng thấy “bụng reo” rồi, nên lại gần thưa với Sư Phụ Giêsu: “Nơi
đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức
ăn” ( Mt 14, 15 ). Nhưng Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14,
16 ). Ui da, “căng” thật đấy ! Có lẽ lúc này nhìn các ông “tội nghiệp” lắm. Họ nhìn nhau, vừa gãi đầu vừa
nói: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” ( Mt 14, 17 ). Mèn ơi, đó là đồ ăn
thằng nhỏ mang đi phòng thân, mà có nhiêu đó thì nhằm nhò gì với đám đông như kiến thế kia chứ ?
Nhưng Sư Phụ Giêsu thản nhiên bảo họ: “Đem lại đây cho Thầy !” ( Mt 14, 18 ). Rồi Ngài truyền
cho dân chúng “ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” ( Mc 6, 39 ). Sau đó, Ngài cầm lấy năm cái bánh
và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và Ngài bảo các
môn đệ phân phát cho dân chúng cùng ăn.
Thánh Mátthêu cho biết chi tiết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa,
người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và
trẻ con” ( Mt 14, 20 – 21 ).
Phép lạ này được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống thể xác dân chúng. Phép lạ vĩ đại nhất và
quan trọng nhất được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống linh hồn chúng ta là Phép Lạ Thánh Thể. Bí
Tích Thánh Thể vừa là thấn lương vừa là linh dược. Phép lạ vĩ đại này hằng ngày vẫn xảy ra khắp nơi
trên thế giới, thế nhưng người ta lại thích đua nhau đi tìm các “sự lạ” khác ở nơi này hoặc nơi nọ. Thật
là mâu thuẫn quá, thế mà vẫn nói rằng “tôi tin”. Đức Tin như vậy có lẽ rất cần “xét lại” lắm đấy !
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Chúa luôn ban cho lương thực nuôi xác dưỡng hồn để
chúng con được sống dồi dào. Xin giúp chúng con sống Đức Tin cụ thể là biết CẦM LẤY tấm-
bánh-cuộc-đời của chúng con, biết TẠ ƠN Ngài, rồi BẺ RA và TRAO CHO tha nhân, nhất là đối
với những người nghèo khổ và hèn mọn, vì nhu cầu của họ rất cấp bách. Như vậy thì chúng
con mới sống Luật Chúa, biết chạnh lòng thương, biết sống yêu thương và thể hiện lòng
thương xót theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu
độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
BỮA TIỆC TÌNH THƯƠNG
Trong chuyến hành hương Thánh Địa tháng 5 vừa rồi, chúng tôi có ghé thăm miền đất
Tabgha với nhiều địa danh quen thuộc được kể trong Phúc Âm. Vùng Tabgha màu mỡ trải dọc theo
hướng Tây Bắc bờ Biển Hồ Galilê. Tên Tabgha bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Heptapegon” nghĩa là “7
con suối” và được thu gọn lại theo tiếng Ả Rập là Tabgha.
9
Theo truyền thống, tại miền đất này đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong sứ vụ của Chúa
Giêsu: Phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều; Chúa giảng Bài Giảng trên núi; sau khi phục sinh, Chúa đã hiện
ra với các môn đệ trên bờ hồ và trao quyền lãnh đạo cho Simon Phêrô…
Chúng tôi đến thăm “Nhà Thờ Bánh Hóa
Nhiều”, giữa một khu vườn rất nhiều cây ôliu và
hoa cỏ xanh tươi xinh đẹp. Ngôi Nhà Thờ nguyên
thủy được xây dựng dưới thời Byzantine, trong
nhiều giai đoạn khác nhau và được trùng tu vào
các thế kỷ sau đó. Nhà Thờ vẫn còn lưu giữ một
sàn nhà khảm đá ( mosaic ) đã được khám phá
tại Thánh Địa. Có lẽ biểu tượng nổi bật nhất, nằm
ngay trên đỉnh của bức tranh phía dưới bàn thờ
chính là 5 chiếc bánh và 2 con cá, kính nhớ việc
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ tại đây.
Người Ba Tư xâm chiếm vùng này và phá
hủy Nhà Thờ vào năm 614. Vương Cung Thánh
Đường mới được xây dựng trên nền cổ của ngôi
Nhà Thờ, vẫn còn giữ nguyên phong cách cũ đồng thời kết hợp hài hòa những nét cổ xưa và hiện đại. Ngày
nay, các thầy Dòng Biển Đức chăm sóc ngôi Nhà Thờ này.
Chúng tôi đọc Phúc Âm câu chuyện phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều và thinh lặng suy niệm. Thánh
Mátthêu ở chương 14 mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả
so sánh và suy nghĩ: bữa tiệc sang trọng với cái đầu của Gioan Tẩy Giả
và bữa tiệc của dân nghèo với 5 chiếc bánh và 2 con cá.
Mt 14, 1 – 12: Tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các
quan khách sang trọng quý phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời: quyền
hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, thức ăn cao lương mỹ vị,
rượu ngon thoả thích, vũ nữ duyên dáng chân dài chân ngắn… và có cả
hận thù ích kỷ, máu đổ đầu rơi.
Mt 14, 13 – 21: Tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo
đói. Họ chẳng có gì ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự
chia sẻ của Chúa Giêsu. Đây là phép lạ của tình thương. Các môn đệ
cũng đóng vai trò quan trọng là cộng tác với Chúa, đi phân phát thức
ăn cho dân chúng. Mọi người chia sẻ cho nhau, bánh và cá cứ thế
mà tiếp tục nhiều lên.
Chúa không làm phép lạ một núi bánh và cá cho mọi người
đến lấy. Chúa làm phép lạ khi mọi người liên đới với nhau, cùng bẻ ra
và trao cho nhau. Bữa ăn hôm đó là một biểu tượng của bữa tiệc
Thánh Thể. Không còn ranh giới, không còn giai cấp, không còn kẻ trên người dưới. Một tinh thần hoà
đồng, tất cả đều là anh chị em trong Chúa Giêsu.
Trong tiệc Thánh Thể, người ta tìm thấy bình an và nguồn hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn.
Người ta tận hưởng hoa trái tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, người ta nhận biết giá trị của bình
an nội tâm do ân sủng Chúa ban đến.
1. Bánh Trường Sinh
Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể: "Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước
mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ" ( Mt 14, 20 ). Trong Tiệc Ly "Ngài cấm lấy
bánh, chúc tụng" ( Mc 14, 22 ). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu ( Lc 24, 30 )
và của Giáo Hội ( Cv 2, 42 ).
Ðược bánh ăn, dân chúng muốn "bắt lấy Ngài tôn lên làm vua" ( Ga 6, 15 ). Họ tiếp nối Satan
cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh "Hãy ra
công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà
Con Người sẽ ban cho các ngươi" ( Ga 6, 27 ).
Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến
với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ).
Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là "Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống
muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" ( Ga 6, 54 ). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh
đến cái chết trên thập giá của Chúa.
10
"Bánh Ta sẽ ban" hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn
sự chết cứu độ của Chúa trên Thập Giá. Giá trị cứu rỗi của cái chết trên Thập Giá được hiện tại hoá luôn
mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo Hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo Hội, qua
Giáo Hội và với Giáo Hội. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta
bẻ ra và trao cho anh em mình.
2. Bánh Lời Chúa:
"Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa
chúng ta" ( Ga 1, 14 ). Lời Thiên Chúa là Lời
Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người
sứ mạng công bố lời Ngài "Thuở xưa nhiều lần
nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng
ta qua các Ngôn Sứ" ( Dt 1, 1 ).
Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong
Giáo Hội hôm nay "Ngài sai các ông đi rao giảng
Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân" ( Lc
9, 2 ). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các
tông đồ "Chúng tôi không thể sao nhãng Lời
Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn" ( Cv 6, 2 ) và
chính Thánh Phaolô kêu lên "khốn cho tôi nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng". Thế là, con người tội
lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá;
con người yếu đuối công bố Lời quyền năng; con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự
quá đổi lớn lao.
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo
đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng "do nhân" ( ex opere
operantis ), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe.
Lời Chúa được công bố khi cử hành Phụng Vụ, đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo Hội ấn định,
được công bố nhân danh Chúa và Giáo Hội bởi Thừa tác viên chính thức. Lời Bí Tích mang hiệu năng
"do sự" ( ex opere operato ), qua các Bí Tích Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao
giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần.
Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời
của người phàm nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng
người vì: "Không ai có thể tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần" ( 1Cr 12, 3 ) và
"Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công" ( Tv 127, 1 ).
Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em ? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều
ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Chúa chứ
không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Ðồng thời cũng phải
trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa
chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm
thường được Thiên Chúa mời gọi làm Ngôn Sứ. Là trách nhiệm vì phải nỗ lực để chu toàn sứ vụ.
3. Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc
của con người. Người ta thường nói: Ðổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng
công lao khó nhọc và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần.
Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời
người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa
bánh và rượu là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc
sống hiện tại của mình.
Ðến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình, nhưng khi
dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình
thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết
quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng
cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.
11
Linh Mục đọc Lời Truyền Phép là Lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh và
rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh
phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận
Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong Đức Tin, trong Lòng
Mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô. "Chính tôi là
Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào
tôi, chẳng khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ). "Tôi là bánh hằng sống từ
trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời" ( Ga 6, 51 ).
Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và
con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và
chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường
cửu của chúng ta. Bởi đó tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích
cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình
thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi:
‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả ?’ Hãy tham dự Thánh lễ, vì
không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời
nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. ( Đường Hy Vọng #
349 ). Bí Tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống
Kitô hữu’ ( GH 11 ), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành
mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình
cứu độ chúng ta’ ( GLCG 1068 ).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác
thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” ( PV 2 ) là cách tốt nhất thể
hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay
quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm
nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen !
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
BẤT NGỜ ĐẾN ĂN TRƯA VỚI CÔNG NHÂN
Hôm nay, thứ sáu 25.7.2014, chủ quán và đầu bếp hoàn toàn ngỡ ngàng khi thấy Đức Thánh Cha
Phanxicô bất ngờ xuất hiện để ăn trưa với các công nhân. Đây là tiệm ăn bình dân dành cho những công
nhân lao động mặc màu áo xanh và những người lao công trong "khu công nghiệp" nhỏ ở Vatican.
"Bỗng dưng vào giờ ăn chúng tôi thấy ngài xuất hiện, tay cầm khay đứng xếp hàng chờ đến nơi
quầy thức ăn để chọn những thứ đã làm sẵn, và chúng tôi đã may mắn
được phục vụ ngài". Anh Paini nói mà giọng anh vẫn còn đầy xúc động
và hồi hộp: "Xin hãy thông cảm cho tôi, vì tôi vẫn còn thấy vui quá, kể lại
mà vẫn còn như run lên vậy… Tôi thấy ngài chọn một đĩa mì ống mà
không có nước sốt, một phần cá Kabeljau, một cuộn mì sợi, một ít rau,
một ít khoai tây chiên, một quả táo, và một chai nước suối loại không có
ga, và ngài tự bưng đến bàn ăn ngồi chung với các công nhân. Ngài
hành động rất tự nhiên bình thường, y như một người lao động…"
Anh Paini cho biết: "Đức Thánh Cha làm cho mọi người cảm
thấy thoải mái. Chúng tôi giới thiệu mình, còn ngài thì hỏi chúng tôi làm
việc thế nào, có thoải mái không ? Chúng tôi kể về những công việc ở
đây, ngài lắng nghe, và ngài đã khen ngợi những công việc chúng tôi
đang phục vụ. Ngài nói: "Công việc này thực sự tốt đẹp vì các quán ăn
và quán cà phê ở khu công nghiệp Vatican đã phục vụ các kỹ thuật
viên, thợ điện, thợ ống nước, thợ tiện, thợ máy, thợ thủ công, mà còn
cả nhân viên của tờ báo Vatican L'Osservatore Romano nữa…"
12
CÙNG HIỆP THÔNG
Ngài còn nói về những di sản của Ý. Trong
những câu chuyện cũng bao gồm cả đá banh và nền
kinh tế các tờ báo của Vatican đã đưa tin. Toàn bộ
thời gian Đức Giáo Hoàng vừa ăn vừa trò chuyện
thoải mái. Người ta đã lấy máy ảnh, điện thoại di động
và iPad của họ và chụp hình. Ngài đã không cảm thấy
bị làm phiền một chút nào cả. Nhiều máy nhấp liên
tục, ngài vẫn mỉm cười và ăn ngon lành.
Sau khoảng 40 phút ăn uống và trò chuyện,
Đức Thánh Cha đã không ở lại cho đến hết giờ ăn
trưa. Claudia Di Giacomo, người đang ngồi sau quầy
thu ngân nói: "Tôi không có can đảm để tính hóa đơn
cho ngài…" Còn Paini thì cho biết chuyến thăm bất ngờ như một tia chớp. Ai có thể nghĩ rằng Đức
Thánh Cha lại đến đây và ăn với chúng tôi ? Đúng là quá bất ngờ ! Tất cả chúng tôi như còn trong mơ,
nhưng nó là một trong những điều tốt đẹp nhất đã xảy ra.
Sau khi mọi người chụp hình chung với ngài một tấm ảnh, ngài chúc bình an cho tất cả mọi
người nơi đây, rồi ra xe có tài xế chờ sẵn của ngài trở lại nơi cư trú ở Domus Sanctae Marthae.
THANH SƠN
ĐỨC THÁNH CHA TIẾP
GIA ĐÌNH CHỊ PHỤ NỮ SUDAN
Bà Ibrahim, người phụ nữ Sudan bị kết án tử hình vì kết
hôn với một Kitô hữu và không chịu cải đạo qua Hồi Giáo, cùng với
gia đình, đã đặt chân an toàn lên đất Ý ngày 24.7.2014 và được
gặp riêng với Đức Thánh Cha Phanxicô.
Phát ngôn viên Vatican là cha Federico Lombardi cho biết
trong cuộc gặp gỡ riêng tư dài nửa giờ, "Đức Thánh Cha đã cám ơn
gia đình bà vì là những nhân chứng sống Đức Tin. Gia đình bà cũng
cảm tạ Ngài đã lưu tâm đến họ, qua lời cầu nguyện và qua các hỗ trợ
mà họ đã nhận được từ chính Đức Giáo Hoàng và từ Giáo Hội."
Qua cử chỉ ưu ái biểu lộ với gia đình bà Ibrahim, cha Federico
Lombardi nói tiếp: "Đức Thánh Cha Phanxicô cho thấy ngài gần gũi
và lo lắng cho tất cả những nạn nhân đang bị cấm đoán và đàn áp vì Đức Tin".
Theo Radio Vatican
TRƯỜNG HỌC GIA ĐÌNH
Khi nhập thể và nhập thế, Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu đã sinh trong một gia đình. Khi đi lễ
đền, Ngài ở lại “lo việc của Chúa Cha” nhưng cha mẹ Ngài không biết, sau ba ngày, Ngài ngoan ngoãn
theo cha mẹ về quê và hằng vâng phục cha mẹ ( Lc 2, 51 ). Điều đó chứng tỏ gia đình là quan trọng và
là trường học đầu tiên của mọi người.
Văn sĩ Charles Dickens ( 1 ) nhận định: “Gia đình là một cái tên, một từ ngữ mạnh mẽ, mạnh hơn
lời của những pháp sư hay tiếng đáp của các linh hồn. Đó là lời nguyện cầu hùng mạnh nhất”. Các nhà
xã hội học coi gia đình là nơi đặt những “viên gạch đầu tiên” trong việc hình thành nhân cách con người.
Điều đó cho thấy gia đình là trường học đầu tiên của mỗi con người.
Quả thật, giáo dục gia đình rất quan trọng, đặc biệt là người mẹ, vì người mẹ gần gũi con cái
ngay từ khi nó mới sinh ra và suốt những tháng năm đầu đời. Nhân cách là tính cách của một con
người, và rồi con người đó có thể tốt hoặc xấu. Vì thế, giáo dục nhân cách rất quan trọng, phải bắt đầu
từ gia đình, nhưng giáo dục gia đình lại là vấn đề rộng lớn. Ở đây chúng ta nói về vai trò của cha mẹ
trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Như đã nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, tức là trường học đầu tiên của bất kỳ con
người nào. Mỗi con người đều được sinh ra từ cha và mẹ. Đứa trẻ luôn gần gũi và lắng nghe những
“âm thanh cuộc sống” đầu tiên từ cha mẹ – đặc biệt là từ người mẹ. Người mẹ hiền lành, dịu dàng, ăn
13
CÙNG HIỆP THÔNG
nói nhẹ nhàng, đứa trẻ đều nhận biết và chịu ảnh hưởng. Ngày xưa, người mẹ ru con bằng những câu
hò, ca dao, điệu lý... nhẹ nhàng và trong sáng. Rất tiếc là ngày nay không phổ biến, nhưng vẫn còn
phần nào những lời “ầu ơ”, “ví dầu”… khi mẹ ru con ngủ. Lời ru không thể nào gắt gỏng hoặc như “dùi
đục chấm mắm cáy”, vì thế mà đứa trẻ vẫn ảnh hưởng sự dịu dàng của lời mẹ ru.
Khi con trẻ chập chững những bước đi
đầu đời, người đầu tiên chỉ dạy cho bé cách đi
đứng, nói năng, không ai khác là cha mẹ. Vì
vậy, cha mẹ là người thầy đầu tiên của con cái.
Điều đó xác định việc giáo dục gia đình vô cùng
quan trọng trong việc hình thành nhân cách của
con cái. Dĩ nhiên, vì lý do nào đó, có những đứa
trẻ thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ
nhưng nó vẫn có thể hình thành nhân cách tốt,
đó là nhờ quá trình tự giáo dục tốt. Nhưng hầu
như sự giáo dục gia đình không tốt thì nhân
cách đứa trẻ ắt có phần khiếm khuyết, đôi khi
hoàn toàn xấu. Do đó, giáo dục gia đình rất
quan trọng đối với mỗi con người, vì còn trẻ
người non dạ, không ai có thể hiểu biết về mình, về xã hội, về cuộc sống... nhưng được gia đình định
hướng và dạy dỗ, nhờ đó mà tích lũy kinh nghiệm và trưởng thành dần theo thời gian.
Ngoài ra, gia đình còn là hành trang “ắt có và đủ” đối với mỗi con người. Trong thời gian đầu đời,
ai cũng được sống với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Lớn lên, những người lập gia đình rồi có con, cháu.
Trong gia đình, mọi người đùm bọc nhau về vật chất, tinh thần, tâm linh... Người trẻ có điều kiện để lớn
khôn, người già có nơi nương tựa, người u buồn được an ủi, người yếu đau được nâng đỡ…
Như vậy, gia đình là một cộng đồng luôn gắn bó với nhau trên từng bước đường của cuộc sống.
Dù là ai, được sống trong tình yêu thương của gia đình là hạnh phúc. Ai không được như vậy thì thật là
nỗi bất hạnh. Trong quá trình sống với gia đình, cùng trao và nhận tình yêu thương, mỗi người lại tiếp
tục tự hoàn thiện mình và tự hoàn thiện nhân cách.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình luôn có mối quan hệ mật thiết với xã hội, đơn giản nhất là
quan hệ với làng xóm, khu phố. Như tục ngữ có câu: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Động từ
“bán” và “mua” ở đây không mang nghĩa “thương mại”, nhưng có ý nói rằng láng giềng gần gũi và cần
thiết lắm. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau”, mình có chuyện gì thì thân nhân ở xa đâu biết
được, chỉ có láng giềng biết. Nói theo Công Giáo, đó là những người lân cận, những người mà Đức
Giêsu đề cao qua dụ ngôn “Người Samari Nhân Hậu” ( Lc 10, 29 – 37 ).
Gia đình cũng là nơi tái tạo con người. Thành viên nào lỗi lầm vẫn được gia đình an ủi, khuyên
nhủ, che chở, bảo vệ, nâng đỡ... Nhờ đó mà người lầm lỗi có thể đứng dậy và làm lại cuộc đời. Mỗi
thành viên gia đình là một người tốt thì xã hội sẽ tốt, đất nước có những công dân tốt, Giáo Hội cũng có
những “chiên ngoan”. Xã hội có nhiều công dân tốt, ắt hẳn đất nước có thể vững mạnh, xã hội có thể
văn minh, cộng đồng ít tệ nạn. Có ít cái xấu sẽ có nhiều cái tốt, con người quan tâm đối xử với nhau
bằng tình thân ái và lòng nhân hậu. Nói vậy có nghĩa là cả xã hội phải thực sự chú tâm tới sự nghiệp
giáo dục, không thể lơ là hoặc “đánh trống bỏ dùi”.
Vì chú trọng số lượng hơn phẩm chất, chạy theo thành tích, không lo “tiên học lễ, hậu học văn”
nên đạo đức mới bị sa sút trầm trọng, đi đâu cũng thấy tội phạm ! Học sinh cần phải được giáo dục về
giao tiếp và ứng xử ngay trong cộng đồng, hội đoàn, đặc biệt phải bắt đầu từ gia đình. Xã hội càng ngày
càng văn minh và tiến bộ, đó là niềm vui. Nhưng cứ đua đòi hoặc chạy đua theo lối sống sa hoa thì dễ
sa đọa, đi đâu cũng thấy treo bảng “văn hóa” nhưng lối sống chẳng thấy gì là văn hóa. Trị bệnh phải trị
tận căn, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc.
Nhiều hiện tượng xã hội mới liên quan vấn đề trẻ em đặt ra những thách thức mới trong việc giáo
dục gia đình: Trẻ em lang thang, trẻ em phạm pháp, trẻ em bị lạm dụng tình dục, trẻ em bị bóc lột sức lao
động, trẻ em quan hệ tình dục sớm, ấu dâm, mại dâm trẻ em, lạm dụng ma tuý, lạm dụng chất có men…
Điều đó đòi hỏi việc quản lý và kiểm soát chặt chẽ của các nhà hữu trách, nhưng vấn đề chính vẫn là phải
giáo dục trước tiên từ gia đình. Một việc không dễ, vì vừa đòi hỏi gia đình phải phát huy hết các sức mạnh,
vừa đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải chung tay góp sức và phải là những tấm gương sáng lẫn
nhau – đặc biệt là đối với trẻ em. Cây phải được uốn từ lúc cây còn nhỏ, con người cũng vậy, phải được
uốn nắn từ nhỏ và ngay tại gia đình, sau đó mới tới nhà trường và xã hội.
Đã có nhiều trường hợp con cái hư, rồi lấy cớ là bận rộn, lo làm ăn. Không thể viện cớ như vậy !
Các cha mẹ khá giả chiều chuộng con cái quá mức, để chúng tự do, muốn gì được nấy, tiêu xài xả láng,
14
cứ tưởng như vậy là yêu con, sai lầm nghiêm trọng. Tục ngữ Việt Nam rất chí lý: “Thương con cho roi
cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Về tâm linh, Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa thương ai thì mới sửa
dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” ( Dt 12, 6 ).
Gia đình nào thường xuyên cãi cọ, mâu thuẫn, xung đột, bạo lực... nhất là các gia đình có cha
mẹ ly hôn hoặc ly thân, con cái bị ảnh hưởng rất nặng về cả tâm lý lẫn sinh lý. Trẻ em không được
chăm sóc, nhất là khi bị tổn thương về tình cảm hoặc tinh thần, nhiều trẻ em đã bỏ nhà đi bụi đời, sống
lang thang, bất cần đời, rồi dễ sa vào tội lỗi và tệ nạn xã hội. Nguyên nhân là chúng mất cái gốc quan
trọng là gia đình, không được dưỡng dục thể
chất và tinh thần để có thể nên người. Trước
thực trạng đó, việc giáo dục trẻ em ở gia đình
càng trở nên cấp bách hơn.
Quả thật, chuẩn mực đạo đức và trình độ
nhận thức của một con người phải được hình
thành từ nhỏ, bắt đầu từ môi trường gia đình.
Việc giáo dục đạo đức dần dần đưa chúng vào
nền nếp gia phong từ những gì nhỏ nhất trong
cuộc sống hằng ngày như thật thà, vị tha, không
vị kỷ, biết giữ lời hứa, lễ phép, nhân hậu, hiền
dịu, hiếu thảo, nhường nhịn... Nói chung là biết
quên mình mà sống vì người khác. Đơn giản
nhất là các động thái nhỏ về ứng xử, lời ăn,
tiếng nói: Chào hỏi, xin phép, xin lỗi, cảm ơn... Đó là phép lịch sự tối thiểu trong phép xã giao. Tục ngữ
Việt Nam đã cảnh báo: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Đừng khinh suất những điều nhỏ !
Sống tốt không chỉ là tránh điều xấu mà còn phải tích cực làm điều thiện. Sống thật thà không chỉ
là không ăn gian, không nói dối, mà còn phải tôn trọng những gì là của người khác: Thấy tiền hoặc vật
dụng của người khác mà không nổi máu tham thì mới là thật thà, chứ không thấy thì có gì mà tham, mà
lấy ? Về tâm linh cũng vậy, có dịp phạm tội mà không phạm thì mới là thánh thiện, chứ không có dịp
phạm tội thì chưa biết ai hơn ai.
Gia đình là vườn ươm mầm đời sống và là nơi tôi luyện các nhân đức của con người. Cha mẹ
không nên khắt khe, nhưng phải cương nghị, thấy con cái sai thì phải nghiêm túc chấn chỉnh ngay,
không được làm ngơ ! Cha mẹ nên hiền từ, nhưng đừng nhu nhược. Cha mẹ nhu nhược cũng “tiếp tay”
cho con cái hư hỏng. Văn sĩ Robert Anson Heinlein khuyên: “Đừng gây bất lợi cho con cái bạn bằng
việc cho chúng cuộc sống dễ dàng”.
Cha mẹ phải là người đầu tiên điều chỉnh con cái, để chúng không chỉ chấp nhận mà còn tích cực
cố gắng sửa đổi ngay. Cha mẹ cũng không được hành động cho thỏa cơn giận, nhưng phải kiên nhẫn, tìm
hiểu, để biết rõ nguyên nhân, để ngày càng thích ứng và sống chan hòa với con cái. Hiện nay, không ít
cha mẹ lo nuôi con về thể lý mà coi thường việc giáo dục tinh thần, lo đầu tư cho việc dạy chữ mà quên
việc dạy người. Có những cha mẹ không chú ý vai trò làm “người thầy đầu tiên” của con cái, phó mặc mọi
việc giáo dục con cho nhà trường. Đó là sai lầm lớn cần chấn chỉnh càng sớm càng tốt !
Giáo dục đa dạng, đơn giản là hai phần chính: Giáo dục thể lý và giáo dục tinh thần. Nhưng có
một phần quan trọng không được bỏ quên, đó là việc giáo dục tâm linh. Mến Chúa thì phải yêu người.
Thánh Gioan giải thích: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là
kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em
mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” ( 1 Ga 2, 4 và 9 ).
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người
ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” ( Mt 12, 50; Mc 3, 35; Lc 8, 21 ). Chỉ có những người như vậy mới thực
sự là thành viên trong Đại Gia Đình Kitô Giáo, Đại Gia Đình của Thiên Chúa.
TRẦM THIÊN THU
CHÚ THÍCH:
( 1 ) Charles John Huffam Dickens ( 1812 – 1870 ) có bút danh là Boz. Ông là tiểu thuyết gia
người Anh nổi tiếng nhất thời đại Nữ hoàng Victoria. Ông được coi là một trong những văn sĩ vĩ đại viết
bằng Anh ngữ, được ca ngợi về khả năng kể chuyện và trí nhớ, được nhiều người ở khắp nơi yêu mến.
Các tác phẩm của ông chủ yếu dành cho thiếu nhi và mang tính chất hiện thực.
( 2 ) Robert Anson Heinlein ( 1907 – 1988 ) là nhà văn khoa học viễn tưởng Mỹ. Ông được coi là
văn sĩ gạo cội trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng, là một trong những tác giả nổi tiếng nhất có ảnh hưởng
nhất và cũng gây nhiều tranh cãi nhất về thể loại này. Ông đã lập ra một chuẩn mực cao đối với sự hợp lý
về khoa học kỹ thuật trong văn học và góp phần thúc đẩy chất lượng chung của thể loại khoa học viễn
15
tưởng. Ông là văn sĩ khoa học viễn tưởng đầu tiên thu hút được sự chú ý của công chúng, đặc biệt trên
những tạp chí chính thống như tờ “The Saturday Evening Post” vào cuối thập niên 1940. Ông cũng là một
trong những tiểu thuyết gia thành công đầu tiên về thể loại khoa học viễn tưởng thời hiện đại.
PHONG CÁCH PHANXICÔ
Bài 16. Bài Ca Hòa Bình
Trong lời tựa tác phẩm St. Francis of Assisi, A Life of Joy ( Thánh
Phanxicô Assisi, Một cuộc đời hân hoan ), Robert Francis Kennedy Jr.
viết rằng ông không thể kể hết các mẫu chuyện tuyệt vời về Phanxicô và
các huynh đệ. Đó cũng là sự lúng túng của bất cứ ai viết về Phanxicô vì
cuộc đời anh rất phong phú và lôi cuốn.
Anh là vị Thánh Công Giáo được toàn nhân loại, không phân biệt
tín ngưỡng, mến mộ nhất. Đa số tín hữu Công Giáo đều có lòng yêu
mến Mẹ Maria nhiều hơn tất cả các Thánh khác, một điều rất chính
đáng. Nhưng các anh chị em Tin Lành, Hồi Giáo, Phật Giáo, Ấn Giáo,
Thần Đạo, ngay cả một số ngời vô thần… đều thành kính nhìn về
Phanxicô như một khuôn mặt sáng ngời nhất đã phản chiếu một cách
diệu kỳ và trung thực nhất chân dung của Đức Kitô.
Mỗi khi Kinh Hòa Bình ( có thể gọi là Bài Ca Hòa Bình vì người
ta thường hát lên hơn là đọc ) cất lên thì muôn cõi lòng đều cảm thấy
dạt dào niềm thôi thúc muốn kiến tạo hòa bình. Nhưng ta chỉ làm được điều này nếu biết cầu xin Chúa
và biết hướng cõi lòng về sự sống đời đời.
Lạy Chúa từ nhân xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi
oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn
lỗi lầm; để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng; để con dọi ánh
sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn
được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy
thiện chí ơn an bình ( Kim Long ).
( Trích ) Kinh Hòa Bình chỉ được phổ biến lần đầu vào năm 1901 với tựa Belle prière a faire
pendant la messe – Lời cầu nguyện cao đẹp dùng trong Thánh Lễ, trong cuốn sách của một linh mục
Pháp, Esther Bouquerel ( 1855 – 1923 ). Lời nguyện này được gởi đến cho Papa Benedict XV vào năm
1915. Sau đó được in bằng tiếng Ý trong tờ Osservatore Romano năm 1916. Năm 1920, một Linh Mục
Phanxicô người Pháp cho in lời nguyện này ở mặt sau tấm hình Thánh Phanxicô và đề tựa Prière pour
la paix – Kinh Hòa Bình nhưng không cho biết ai tác giả. Năm 1937 kinh được dịch sang tiếng Anh bởi
Kirby Page ( 1890 – 1957 ) với ghi chú Phanxicô là tác giả. Từ đó trở đi Bài Ca Hòa Bình được mọi
người không phân biệt tín ngưỡng nồng nhiệt đón nhận. Phanxicô có thể đã không viết Kinh Hòa Bình
nhưng chắc chắn không ai đã sống trọn vẹn với lời kinh hơn Thánh nhân. Nơi đây ta có thể tìm thấy cốt
lõi của Tin Mừng và mọi tinh túy của các tôn giáo lớn trên thế giới. ( Nguồn linh mục Friar Jack Wintz,
OFM. http://www.americancatholic.org/e-News/FriarJack/fj093009.asp )
Tượng thánh Phanxicô đặt tại Assisi trong tư thế ngồi bình lặng cầu nguyện rất giống một thiền
sư Á Đông. Hình chụp của linh mục Jack Wintz, OFM.
Nếu cho rằng con người hèn mọn Phanxicô với lối sống cực kỳ khó nghèo đạm bạc, gần gũi
thiên nhiên, yêu mến muôn loài muôn vật, không hề nuôi một hoài bão lớn lao nào thì chưa thấy hết sự
vĩ đại của anh. Phanxicô đã muốn nên giống Đức Kitô. Đó là khát vọng duy nhất của cuộc đời anh ( và
của mọi Kitô Hữu ).
Theo Phaolô, biết Đức Kitô tức là biết được tất cả sự phong phú của Thiên Chúa: "Để cùng toàn
thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của
16
CÙNG NHẬN ĐỊNH
Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn
của Thiên Chúa" ( Ep 3, 18 – 19 ).
Chúa Giêsu nói về hồng phúc của những người được
nhìn thấy Người: Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo
riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy ! Quả
vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua
chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được
thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được
nghe” ( Lc 10, 23 – 24 ).
Nhưng được nhìn thấy tận mắt và nghe tận tai từ Người,
ngay cả có vú cho Người bú và có dạ cưu mang Người ( x. Lc 11,
27 ), lại không có hồng phúc bằng các thế hệ về sau ( chúng ta
hiện nay ). Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong
nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín.
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.”
Rồi Người bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng
nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con,
lạy Thiên Chúa của con !” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy
mà tin !” ( Ga 20, 26 – 27 ).
Đối với nhiều người, việc tận mắt chứng kiến Đức Kitô chết thảm thương trên thập giá cũng
chẳng hề mang lại một tí ích lợi nào. "Hỡi những người Galát ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em là những
người đã được thấy hình ảnh Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt ?" ( Gl
3, 1 ). Thư Galát được Phaolô viết vào khoảng cuối thập niên 40 đến đầu thập niên 50. Đa số Kitô Hữu
tiên khởi tại Galát đều là người Do Thái và chắc chắn một số người đã có mặt trong cuộc khổ nạn của
Đức Kitô. Do đó những chuyến đi hành hương tốn kém tiền bạc phí phạm thời gian trong khi thờ ơ với
người nghèo tại địa phương, tới những nơi có thánh tích về Chúa Giêsu và Mẹ Maria chưa hẳn là làm
theo ý Chúa muốn.
“Phúc thay những người không thấy mà tin” đã được thể hiện ngay từ thời các Tông Đồ trong
trường hợp của Phaolô. Ông chưa hề gặp gỡ Đức Kitô dù chỉ một lần khi Người còn sống. Thế mà sự
đóng góp của ông quan trọng đến độ khó mà hình dung ra được Kitô Giáo ngày nay mà thiếu vắng khuôn
mặt Phaolô ( xin xem Bài 13 và 14, Phong cách Phanxicô ). Phaolô đã nên giống Đức Kitô đến độ dám
khẳng định: "Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá" ( Gl 2, 19 ).
Nhưng Đức Kitô đã sống cách đây 2.000 năm mà không để lại bất cứ bút tích và hình ảnh nào.
Phaolô, dù đã trở nên giống Người cách mấy, đã sống quá xa thời đại hiện nay. Ta không dễ dàng gì
nhận ra diện mạo Đức Kitô nơi Phaolô.
Phanxicô ( 1182 – 1226 ) chỉ xuất hiện cách chúng ta 800 năm. Vào thời của anh, Hội Thánh đã
trở thành một thế lực tôn giáo và chính trị hùng mạnh lấn áp mọi sinh hoạt xã hội. Ngoài ba cuộc Thập
Tự Chinh, trong đó cuộc Thập Tự Chinh thứ 3 ( 1187 – 1192 ) để chiếm đánh Giêrusalem do Gregory
VIII kêu gọi, còn có các cuộc Thập Tự Chinh khác do các vua Công Giáo tiến đánh các miền ngoại đạo.
Các Tu Viện bề thế được rầm rộ xây dựng. Cuối thế kỷ 12, tức là thời tuổi trẻ của Phanxicô đã
có 500 Tu Viện Biển Đức. Sang thế kỷ 13 ( giai đoạn trưởng thành của Phanxicô ) lại có thêm hàng trăm
Tu Viện mới. Con số này lên tới cao điểm vào thế kỷ 15 với 750 Tu Viện Biển Đức. Các Tu Sĩ có vai trò
rất lớn trong việc phát triển các môn nghệ thuật văn chương, hội họa, âm nhạc, kiến trúc, xây dựng,
canh nông, dược phẩm, chưng cất rượu.
Hội Thánh còn tiến hành các Pháp đình tôn giáo để xét xử những người bị coi là dị giáo. Pháp
đình thứ nhất vào năm 1184 với thông điệp Ad abolendam ( Để Tận Diệt ) do Lucius III ban hành. Sử gia
García Cárcel ước tính các Pháp Đình Tôn Giáo ( nhân danh Đức Kitô ) đã tàn sát 150 ngàn người. Để
minh họa sự sa lầy vào vòng khống chế của quyền lực và giầu sang của Hội Thánh trong giai đoạn
Trung Cổ, ta thấy trong số 52 vị lãnh đạo Hội Thánh từ năm 1305 đến 1750, chỉ có 2 vị được phong
Chân Phước là Urban V ( 1362 – 1370 ) và Innocent XI ( 1676 – 1689 ).
Nhà Thờ có vẻ như đang đánh mất căn tính của mình. Hội Thánh chỉ có thể và phải là Nhà
Thờ ( Đền Thờ ) tức là Thân Thể của Đức Kitô Khổ Nạn – Phục Sinh. Hội Thánh không phải là một tổ
chức quy củ, một cái hội có tính cách tôn giáo nhưng lại có quyền lực ban phát đặc quyền đặc lợi cho
một số người, mà người Việt Nam quen gọi một cách không chính xác Giáo Hội hay Hội Thánh. Các
danh xưng chỉ có ở Việt Nam như Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục, Đức Cha, Đức Ông cũng không
chính xác với bản chất của Nhà Thờ.
17
Phanxicô đã nhìn ra xây dựng lại Nhà Thờ ( trong các ngôn ngữ Âu Châu, người ta chỉ dùng một
chữ để gọi Nhà Thờ ( công trình xây dựng ) và Hội Thánh ( tổ chức Giáo Hội ) không phải là sửa sang
lại một ngôi Thánh Đường nào đó, mà là xây dựng lại Nhiệm Thể Đức Kitô, chỉ khi đó mới có hòa bình
đích thực giữa con người với nhau và với Thiên Chúa. Ta đang thiếu đi một cái gì đó rất quan trọng
khiến cho ta hàng ngày đi qua một cái hẻm Khờ-me mà không bao giờ có được sự cảm thông và
thương xót như của Nguyễn Ngọc Tư trong bài viết Những Cụm Khói Rời.
NGUYỄN TRUNG ( Còn tiếp )
PARAGUAY – MỤC VỤ MÙA ĐÔNG 2014
Mục Vụ Mùa Đông 2014
Sau những ngày World Cup 2014 nóng bỏng với sự thất bại thảm hại của nước chủ nhà Brazil
trong trận bán kết, và chiếc Cup vô địch lại bị “Cỗ Xe Tăng” Đức lấy đi khỏi Nam Mỹ đầy nuối tiếc từ ứng
cử viên nặng kí Argentina, người dân Nam Mỹ bước vào hai tuần nghỉ Đông để tránh cái lạnh thấu
xương vì Nam Mỹ lúc này đang là mùa Đông.
Chúng tôi cũng tranh thủ thời gian này để đưa các em
chủng sinh lúc này cũng được nghỉ Đông tham dự kỳ mục vụ
mùa Đông ở những vùng hẻo lánh mà ở đó người dân đang
khao khát Lời Chúa.
Theo dự tính ban đầu, chúng tôi sẽ đi mục vụ ở một
Giáo Xứ miền quê phía Nam của Paraguay vì nơi đó một anh
em linh mục cùng Dòng phải coi sóc cả trăm Giáo Điểm ở
vùng đất đỏ. Chúng tôi đã khởi hành từ rạng sáng và phải lái
xe đến 8 tiếng đồng hồ liên tục để tới các Giáo Điểm. Tuy
nhiên, trên đường đi thì trời lại mưa rất lớn nên chúng tôi phải
dừng lại để liên lạc xem liệu có vào được không. Người anh
em Linh Mục ở đó trả lời rằng rất khó vào vì đường xình lầy do
mưa lớn và đất đỏ nên trơn trợt và nguy hiểm vì ở đó khi trời mưa bão thì nội bất xuất, ngoại bất nhập,
chỉ có trực thăng mới có thể đi vào để cứu trợ. Chúng tôi đành phải nghỉ tạm ở một Giáo Xứ bên cạnh
quốc lộ để chuyển qua phương án hai.
Sau một đêm ngủ tạm bất đắc dĩ đầy lo lắng ở một Giáo Xứ ven đường, chúng tôi lại khởi hành
để đến vùng Đông Bắc của Paraguay khoảng hơn 10 giờ lái xe nữa, chúng tôi đã đến một Giáo Xứ vùng
quê khác lúc chập tối để cho các em Chủng Sinh tham gia Mục Vụ mùa Đông nhằm tránh đi những ngày
quá rãnh rỗi mà sinh những chuyện không hay vì “nhàn cư vi bất thiện”.
Vùng Nam Mỹ năm nay mưa rất nhiều và người ta gọi đây là hiện tương “El Niño”. Theo Wikipedia
tiếng Việt thì “El Niño” ( phát âm như "eo ni-nhô" ) là hiện tượng trái ngược với “La Niña”, tiếng Tây Ban
Nha: “El Niño” ( bé tra i) và “La Niña” ( bé gái ), là một trong những hiện tượng thời tiết bất thường gây
thảm họa cho con người từ hơn 5000 năm nay. Ngày nay, hiện tượng “El Niño” xuất hiện thường xuyên
hơn và sức tàn phá của nó cũng mãnh liệt hơn. “El Niño” trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Hài Đồng
hay bé trai", có ý nói đến Chúa Giêsu Hài đồng.
Cứ trung bình từ 3 đến 10 năm, ngư dân vùng biển tại
Peru lại phát hiện ra nước biển ấm dần lên vào mùa đông,
khoảng vài tuần trước Lễ Giáng Sinh. Đây chính là một nghịch lý,
nhưng nó vẫn tồn tại có chu kì và kéo theo hiện tượng hơi
nước ở biển bốc lên nhiều hơn, tạo ra những cơn mưa như thác
đổ. Và ngư dân đã gọi hiện tượng này là “El Niño” để đánh dấu
thời điểm xuất phát của nó là gần Giáng Sinh.
Trong khí tượng học người ta còn gọi hiện tượng “El
Niño” là Dao động phương Nam ( Southern oscillation ). Ngày
nay, khoa học đã chứng minh được rằng hiện tượng “El Niño” có
ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu và thuật ngữ “El Niño” dùng để
chỉ hiện tượng nước biển nóng lên.
Trái ngược với “El Niño”, “La Niña” ( phát âm là La Ni-nha ) là hiện tượng thường bắt đầu hình
thành từ tháng ba đến tháng sáu hằng năm, và gây ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng
18
CÙNG DẤN THÂN
hai năm sau. “La Niña” sẽ xảy ra ngay sau khi hiện tượng “El Niño” kết thúc. Hiện tượng “La Niña” ( hay
còn gọi là anti- El Niño hay el Viejo, đối trọng với El Niño ) thuộc dòng biển lạnh làm lạnh nhiệt độ của
những vùng mà nó đi qua.
Một cuộc tranh cãi về ý nghĩa các khái niệm của các nhà tu từ học là tại sao khi trời mưa bão thì
người ta lại dùng khái niệm “El Niño” ( bé trai ) trong khi trời khô hạn lại dùng khái niệm “La Niña” ( bé
gái ) ? Rất nhiều nhà tranh đấu nữ quyền đã phản bác khái niệm trái nghịch này vì cho rằng “La Niña”,
cũng có nghĩa biểu tượng là phồn thực, tươi mát, sinh động, mầu mỡ, dễ thương… Thật sự các khái
niệm trên đây chỉ nói lên hiện tượng biến đổi khí hậu mà thôi.
Trở lại chuyện Mục Vụ mùa Đông với các em Chủng Sinh. Sau một đêm ngon giấc vì đường xá
xa xôi, chúng tôi lại bắt tay vào việc để thăm các Giáo Điểm vùng xa này dù không nằm trong kế hoạch
định sẵn. Cha xứ đã giao cho chúng tôi viếng thăm các cộng đoàn mà cả năm mới có được một Thánh
Lễ. Ở đây trời cũng mưa nhưng đường xá khá hơn vì là đất cát nên dù có bị lụt lội thì đất cát cũng mau
khô ráo hơn. Các em Chủng Sinh chia nhau thành từng nhóm nhỏ để thăm các gia đình và trò chuyện
với họ vì người dân ở đây rất niềm nở tiếp khách và sẵn sàng lắng nghe những người mà họ gọi là Pa’í
( Linh Mục ) hai Pa’írã ( Chủng Sinh ) đến từ nơi xa. Người dân địa phương họ chỉ nói tiếng Guarani nên
các em chủng sinh rất dễ gần vì phần lớn các em đến từ các gia đình miền quê nói tiếng Guarani nhiều
hơn tiếng Tây Ban Nha. Chính nhờ những chuyến đi truyền giáo hàng năm này đã giúp các em có cơ
hội hiểu rõ hơn về người dân nước mình và những gì
họ cần làm cho hành trình tương lai của họ như
những nhà truyền giáo.
Một Nữ Tu thân quen ở Việt Nam khi mới nhận
bài sai truyền giáo ở Tây Nguyên tỏ ra lo lắng vì từ khi
đi tu đến giờ gần 20 năm mà chỉ ở trong Nhà Mẹ, nay
mới được sai đi phục vụ ở xa đã tâm sự với chúng tôi
và chúng tôi có nói với Soeur là đừng quá lo lắng vì
mình đã chấp nhận đi tu là chấp nhận thách đố, giống
như chấp nhận lập gia đình là cũng chấp nhận tất cả
những điều may mắn cũng như rủi ro. Khi chị Nữ Tu
trẻ này đến vùng truyền giáo được một tuần, Soeur
bắt đầu chia sẻ với chúng tôi là rất khâm phục các nhà
truyền giáo khi phải sống xa quê hương với ngôn ngữ, văn hóa bất đồng nhưng đã chấp nhận tất cả.
Soeur nói sẽ cố gắng nhiều hơn nữa để thích ứng với môi trường mới dù có khó khăn nhưng vẫn có
chung một nền văn hóa.
Có hai kỷ niệm vui trong những ngày Mục Vụ này mà chúng tôi muốn chia sẻ. Niềm vui đầu tiên là
chúng tôi làm Lễ Cưới cho một đôi tân hôn mà cô dâu bị câm điếc và là con gái độc nhất của ông trùm họ.
Dù bị câm điếc nhưng cô dâu này thật đẹp và thông minh. Thông thường thì khi làm đám cưới thì đôi tân
hôn phải học thuộc lòng nghi thức thề hứa và trao nhẫn, nhưng bên này chúng tôi thống nhất là vị chủ tế
sẽ dùng nghi thức vấn đáp và những cặp phối ngẫu chỉ việc trả lời mà thôi. Khi chúng tôi hỏi cô dâu câm
điếc này, cô ta nhìn vào khẩu ngữ của tôi và mấp máy đôi môi thì chúng tôi hiểu ngay là cô ta ưng thuận
và hoàn toàn tự do mà không bị ép buộc.
Chúng tôi cũng nhắn nhủ chú rễ và gia đình hai bên luôn cố gắng vun đắp và giúp đôi tân hôn này
có được một gia đình hạnh phúc vững bền vì chuyện hôn nhân hiện nay giữa những người bình thường
đã khó huống chi là giữa một người vừa khiếm ngôn vừa khiếm thính ( câm-điếc ) kết hôn với một người
binh thường với biết bao dị nghị thì khó khăn gấp bội.
Niềm vui thứ hai là trong dịp này chúng tôi cũng cử hành một Thánh Lễ Bổn Mạng cho một Giáo
Điểm. Trời lạnh cóng nhưng chúng tôi cũng cố đến đúng giờ. Vậy mà chẳng có người nào. Đợi một hồi
lâu thì bà trùm họ mới đến và bắt đầu ngồi uống Mate ( trà nóng ) để giết thời giờ trong khi đợi mọi
người đến. Thánh Lễ cũng diễn ra sốt sắng và người ta cũng dâng lễ vật nào là chuối xanh, đậu phộng
và trái cây. Trước khi phép lạnh cuối lễ thì họ cũng nghêu ngao hát và đi mấy vòng quanh xóm để kiệu
Thánh Bổn Mạng. Nhìn thấy người dân đơn sơ, chất phát mà mình cũng muốn trở lại cảnh hai lúa ngày
xưa để có thể làm những gì mình thích mà không sợ bị cho là lố bịch.
Đại Hội Liên Tu Sĩ Toàn Quốc
Cũng trong những ngày nghỉ Đông này, Liên Tu Sĩ Paraguay đã tổ chức Đại Hội lần thứ 55 để
cho tất cả các tu sĩ đang làm việc ở Paraguay có dịp gặp gỡ nhau và chia sẻ với nhau những thách đố,
khó khăn mà họ gặp phải trong đời sống cộng đoàn cũng như mục vụ, và cũng để cập nhập những tin
tức chính thống về tinh hình kinh tế, chính trị, xã hội và Giáo Hội trong một thế giới kỹ trị không ngừng
biến đổi từng ngày khiến người Tu Sĩ không thể dùng chân tại chỗ.
19
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621
Ephata 621

Contenu connexe

Tendances

Unlimited power
Unlimited powerUnlimited power
Unlimited power
dannythong
 
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa GiêsuMẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Ngukita Nguyen
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
gxduchoa
 

Tendances (19)

Ephata 614
Ephata 614Ephata 614
Ephata 614
 
Ephata 619
Ephata 619Ephata 619
Ephata 619
 
Ephata 622
Ephata 622Ephata 622
Ephata 622
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Unlimited power
Unlimited powerUnlimited power
Unlimited power
 
Elizabeth Clare Prophet - Ngọn Lửa Tím - Tiếng Việt
Elizabeth Clare Prophet - Ngọn Lửa Tím - Tiếng ViệtElizabeth Clare Prophet - Ngọn Lửa Tím - Tiếng Việt
Elizabeth Clare Prophet - Ngọn Lửa Tím - Tiếng Việt
 
Ephata 628
Ephata 628Ephata 628
Ephata 628
 
KINH TAM THẾ NHÂN QUẢ
KINH TAM THẾ NHÂN QUẢKINH TAM THẾ NHÂN QUẢ
KINH TAM THẾ NHÂN QUẢ
 
Ephata 624
Ephata 624Ephata 624
Ephata 624
 
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tinMẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
 
Kho sachonline.com thong-diep-cua-nuoc-pdf
Kho sachonline.com thong-diep-cua-nuoc-pdfKho sachonline.com thong-diep-cua-nuoc-pdf
Kho sachonline.com thong-diep-cua-nuoc-pdf
 
Danh thuc con nguoi phi thuong trong ban anthony robbins
Danh thuc con nguoi phi thuong trong ban anthony robbinsDanh thuc con nguoi phi thuong trong ban anthony robbins
Danh thuc con nguoi phi thuong trong ban anthony robbins
 
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đìnhSách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
 
Ephata 626
Ephata 626Ephata 626
Ephata 626
 
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa GiêsuMẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
 
Noi dung cau nguyen taize thang 8
Noi dung cau nguyen taize thang 8Noi dung cau nguyen taize thang 8
Noi dung cau nguyen taize thang 8
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
 
Nhân bản là gì
Nhân bản là gìNhân bản là gì
Nhân bản là gì
 
Mẫu cầu nguyện Taize 2: Về cùng Chúa
Mẫu cầu nguyện Taize 2: Về cùng ChúaMẫu cầu nguyện Taize 2: Về cùng Chúa
Mẫu cầu nguyện Taize 2: Về cùng Chúa
 

En vedette

3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico
3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico
3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico
Ximena Prado
 
democracy-ditto tb
democracy-ditto tbdemocracy-ditto tb
democracy-ditto tb
Kruti Patel
 
Quan E Michael
Quan E MichaelQuan E Michael
Quan E Michael
beto30850
 

En vedette (20)

3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico
3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico
3°MDif-Introcrecimientoydesarrolloeconomico
 
Rol de juegos clausura 2014 fecha 4
Rol de juegos clausura 2014 fecha 4Rol de juegos clausura 2014 fecha 4
Rol de juegos clausura 2014 fecha 4
 
Fascismo
FascismoFascismo
Fascismo
 
Michelangelo
MichelangeloMichelangelo
Michelangelo
 
democracy-ditto tb
democracy-ditto tbdemocracy-ditto tb
democracy-ditto tb
 
Web 2.0 e negócios: Ferramentas e Aplicações inovadoras
Web 2.0 e negócios: Ferramentas e Aplicações inovadorasWeb 2.0 e negócios: Ferramentas e Aplicações inovadoras
Web 2.0 e negócios: Ferramentas e Aplicações inovadoras
 
Quan E Michael
Quan E MichaelQuan E Michael
Quan E Michael
 
Omayma
OmaymaOmayma
Omayma
 
Servicio
ServicioServicio
Servicio
 
Adventures in File Sharing
Adventures in File SharingAdventures in File Sharing
Adventures in File Sharing
 
Ppt2 B [Recuperado]
Ppt2 B [Recuperado]Ppt2 B [Recuperado]
Ppt2 B [Recuperado]
 
2014
20142014
2014
 
Glagolitic Souvenirs
Glagolitic SouvenirsGlagolitic Souvenirs
Glagolitic Souvenirs
 
6870
68706870
6870
 
Apoio a tomada de decisão
Apoio a tomada de decisãoApoio a tomada de decisão
Apoio a tomada de decisão
 
Photos Apartment for Sale Puerto Plata Dominican Republic.ref.vabpop101
Photos Apartment for Sale Puerto Plata Dominican Republic.ref.vabpop101Photos Apartment for Sale Puerto Plata Dominican Republic.ref.vabpop101
Photos Apartment for Sale Puerto Plata Dominican Republic.ref.vabpop101
 
G2 Lixeira Lixo é Vida10
G2   Lixeira Lixo é Vida10G2   Lixeira Lixo é Vida10
G2 Lixeira Lixo é Vida10
 
Rol de juegos fecha 03 clausura 2013
Rol de juegos fecha 03 clausura 2013Rol de juegos fecha 03 clausura 2013
Rol de juegos fecha 03 clausura 2013
 
Hotpotato: Aplicación en la enseñanza del Español. Valeska
Hotpotato: Aplicación en la enseñanza del Español.  ValeskaHotpotato: Aplicación en la enseñanza del Español.  Valeska
Hotpotato: Aplicación en la enseñanza del Español. Valeska
 
Ephata 607
Ephata 607Ephata 607
Ephata 607
 

Similaire à Ephata 621

Nhân quả báo ứng hiện đời
Nhân quả báo ứng hiện đờiNhân quả báo ứng hiện đời
Nhân quả báo ứng hiện đời
Hung Duong
 
Gmd.089.09 Ngon Su Hom Nay
Gmd.089.09   Ngon Su Hom NayGmd.089.09   Ngon Su Hom Nay
Gmd.089.09 Ngon Su Hom Nay
medom
 

Similaire à Ephata 621 (20)

Tâm Bút
Tâm BútTâm Bút
Tâm Bút
 
Nhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doiNhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doi
 
Nhân Quả Công Bằng
Nhân Quả Công BằngNhân Quả Công Bằng
Nhân Quả Công Bằng
 
Nhân quả báo ứng hiện đời
Nhân quả báo ứng hiện đờiNhân quả báo ứng hiện đời
Nhân quả báo ứng hiện đời
 
Nhân quả báo ứng hiện đời.
Nhân quả báo ứng hiện đời.Nhân quả báo ứng hiện đời.
Nhân quả báo ứng hiện đời.
 
487
487487
487
 
Ephata 600
Ephata 600Ephata 600
Ephata 600
 
Một trong các đức tính tốt việt nam VHN
Một trong các đức tính tốt việt nam VHNMột trong các đức tính tốt việt nam VHN
Một trong các đức tính tốt việt nam VHN
 
Ephata 627
Ephata 627Ephata 627
Ephata 627
 
Ephata 608
Ephata 608Ephata 608
Ephata 608
 
Triduo_Gli sguardi di suor Maria Troncatti vtn
Triduo_Gli sguardi di suor Maria Troncatti vtnTriduo_Gli sguardi di suor Maria Troncatti vtn
Triduo_Gli sguardi di suor Maria Troncatti vtn
 
So 117
So 117So 117
So 117
 
So 117
So 117So 117
So 117
 
Nghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honNghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh hon
 
Nghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh honNghe thuat chinh phuc linh hon
Nghe thuat chinh phuc linh hon
 
Ephata 631
Ephata 631Ephata 631
Ephata 631
 
Gmd.089.09 Ngon Su Hom Nay
Gmd.089.09   Ngon Su Hom NayGmd.089.09   Ngon Su Hom Nay
Gmd.089.09 Ngon Su Hom Nay
 
Dao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Dao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠCDao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Dao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
Giao an duc hieu sinh tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao an duc hieu sinh  tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCGiao an duc hieu sinh  tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao an duc hieu sinh tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
Giao an duc hieu sinh tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao an duc hieu sinh  tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCGiao an duc hieu sinh  tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao an duc hieu sinh tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 

Plus de Vu Mai JMV

Plus de Vu Mai JMV (13)

Ephata 638
Ephata 638Ephata 638
Ephata 638
 
Ephata 637
Ephata 637Ephata 637
Ephata 637
 
Ephata 636
Ephata 636Ephata 636
Ephata 636
 
Ephata 635
Ephata 635Ephata 635
Ephata 635
 
Ephata 634
Ephata 634Ephata 634
Ephata 634
 
Ephata 633
Ephata 633Ephata 633
Ephata 633
 
Ephata 632
Ephata 632Ephata 632
Ephata 632
 
Ephata 630
Ephata 630Ephata 630
Ephata 630
 
Ephata 629
Ephata 629Ephata 629
Ephata 629
 
Ephata 625
Ephata 625Ephata 625
Ephata 625
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Ephata 610
Ephata 610Ephata 610
Ephata 610
 
Ephata 609
Ephata 609Ephata 609
Ephata 609
 

Ephata 621

  • 1. E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com AN PHONG – NGỌN GIÓ LÀNH Khi đặt thanh gươm hiệp sĩ của mình dưới bàn thờ "Đức Bà chuộc kẻ làm tôi", Thánh An Phong đã quyết định con đường dấn thân của mình theo một khúc quanh mới, thuộc về Chúa hoàn toàn để thuộc về người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả. Từ giã pháp đình, An Phong cũng từ giã giấc mơ đấu tranh giành lấy công bằng cho người nghèo bằng con đường luật pháp. Bỏ thanh gươm, An Phong từ chối can thiệp vào xã hội bằng quyền lực. Nhận lấy chiếc áo Giáo Sĩ, An Phong chọn con đường Tin Mừng. Chẳng phải khi trở thành Linh Mục hoặc khi thiết lập DCCT vào năm 1732 thì An Phong mới có cảm thức về người nghèo, về sự áp bức và về sự công bằng, nhưng ngay khi còn đang đeo đuổi con đường luật học, An Phong đã đưa ra những quyết tâm thuộc về người nghèo, thuộc về công lý và công bằng. Quyết tâm không cãi trắng ra đen, chọn lựa người nghèo mà bênh vực, đó là những quyết tâm của luật sư An Phong nơi pháp đình của vương quốc Napoli. “Hỡi thế gian, ta đã biết mi”, trên đường rời bỏ pháp đình, An Phong kinh nghiệm được sự giới hạn của con người. Luật pháp có công minh cách mấy cũng không đủ sức thắng sự dữ. Cái mỉa mai là luật pháp được biên soạn và ban hành bởi những kẻ cầm quyền thì làm sao lại có thể đứng về phía người nghèo, người bị áp bức được ? An Phong chọn Tin Mừng là “bộ luật” được biên soạn và ban hành bởi người nghèo cùng cực. An Phong nhận ra Thiên Chúa hóa thân nơi người nghèo, nên “bộ luật” này là bộ luật của người nghèo, người đau khổ, người hèn mọn. “Điều gì các ngươi làm cho người bé mọn nhất đó là làm cho chính Ta” ( Mt 25 ). Chọn người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả, An Phong dấn thân thuộc trọn vẹn về người nghèo, đồng thân đồng phận với người nghèo, hòa mình sống kiếp nghèo. Bỏ giới thượng lưu, An Phong bỏ phong cách quý tộc, chọn lấy nếp sống giản dị, lối cư xử đơn sơ, mộc mạc. Cấm anh em mình ăn nói hoa mỹ, cấm anh em mình đem kiến thức lòe bịp thiên hạ, An Phong chia sẻ với anh em cách ăn nói bình dị, chữ nghĩa bình dị, “hãy nói sao cho người bình dân hiểu” ( Ảnh chụp Đền kính Thánh An Phong tại đường Merulana ở Roma, ngay bên cạnh là Nhà Dòng Mẹ ). Bỏ pháp đình, An Phong không hề bỏ kiến thức luật học, nhưng chọn Tin Mừng, An Phong phả hồn Tin Mừng vào luật học, viết ra bộ Thần Học Luân Lý. An Phong sử dụng kiến thúc luật học của mình để đứng về phía người nghèo, người bị áp bức. Thời ấy, luật đạo luật đời gần như một, lắm mối liên kết chằng chịt đạo đời rối ren mật thiết. Không chấp nhận quan niệm mục vụ khắt khe cầm buộc, An Phong lên tiếng nói cho người nghèo, người bị bỏ rơi, những hối nhân đáng thương hại, tiếng nói mạnh mẽ không chỉ ngoài xã hội nhưng còn ngay giữa lòng Nhà Thờ. An Phong trả lại trách nhiệm cho lương tâm, cho tình thương, cho sự tha thứ. 1 NĂM THỨ 15 – SỐ 621 – CHÚA NHẬT 3.8.2014
  • 2. An Phong trăn trở và kiên trì cho đến trọn đời, kinh nghiệm nỗi cô đơn trên con đường phục vụ người nghèo, người bị bỏ rơi, An Phong đã cam kết đi đến cùng cho dù chỉ còn một mình. Nỗi cô đơn ấy đã đeo bám An Phong cho đến hết cuộc đời, và An Phong cũng trung tín với lời cam kết cho đến hết hơi thở cuối cùng. Có rất nhiều luồng gió thổi đến làm rung chuyển thời cuộc, biến hóa nhân sinh, thay cũ đổi mới. An Phong vẫn làm gió, nhưng khi chọn Tin Mừng, ngọn gió của An Phong là gió lành, ngọn gió lành không phá hủy, không tiêu diệt, không tàn phá, nhưng xây dựng, làm mát lòng người, làm phát sinh sự sống và làm cho sự sống thêm dồi dào. Con cái An Phong có là ngọn gió lành không ? Lm. VĨNH SANG, DCCT, Lễ Thánh An Phong 2014 MỤC LỤC TÌM BÀI: AN PHONG – NGỌN GIÓ LÀNH ( Lm. Vĩnh Sang ) .............................................................................. 01 TẤM BÁNH LIÊN ĐỚI ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ......................................................................... 02 KHI CON TIM BỒI HỒI YÊU THƯƠNG ( AM. Trần Bình An ) .............................................................. 03 AI NẤY ĐỀU ĐƯỢC ĂN NO NÊ ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ............................................................ 05 CHÍNH CON PHẢI LO ( M. Hoàng Thị Thùy Trang ) ............................................................................. 06 NHU CẦU CẤP BÁCH ( Trầm Thiên Thu ) ............................................................................................ 07 BỮA TIỆC TÌNH THƯƠNG ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ................................................................... 09 ĐỨC THÁNH CHA BẤT NGỜ ĐẾN ĂN TRƯA VỚI CÔNG NHÂN ( Thanh Sơn ) ................................. 12 ĐỨC THÁNH CHA TIẾP GIA ĐÌNH CHỊ PHỤ NỮ SUDAN BỊ KẾT ÁN TỬ HÌNH ................................ 13 TRƯỜNG HỌC GIA ĐÌNH ( Trầm Thiên Thu ) ...................................................................................... 13 PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 16: Bài ca Hòa Bình ( Nguyễn Trung ) ............................................. 16 PARAGUAY – MỤC VỤ MÙA ĐÔNG 2014 ( Lm. Antôn Trần Xuân Sang ) ........................................... 18 TẠI SAO LẠI ĐI NHÀ THỜ ? ( Biên tập lại từ BTGH ) .......................................................................... 21 THỬ NGHĨ XEM… ( Khuyết Danh ) ...................................................................................................... 22 SAI LẦM THỜI CÒN TRẺ ( Truyện ngắn của Trung Quốc, báo Thế Giới Phụ Nữ ) .............................. 23 TÌNH CHA VÔ BẾN BỜ ( Phan Hạnh sưu tầm ) .................................................................................... 25 NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ........... 27 TẤM BÁNH LIÊN ĐỚI Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người. Liên đới là biết cảm thương Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi. Liên đới là nhận lấy trách nhiệm Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các 2 CÙNG SUY NIỆM
  • 3. môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc. Liên đới là đóng góp phần của mình Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh ? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung. Liên đới là chia sẻ Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa. Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người. Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen. Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT KHI CON TIM BỒI HỒI YÊU THƯƠNG Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân Đồng Minh, chủ yếu là Hoa Kỳ thường xuyên oanh tạc các tuyến đường vận tải để tấn công quân Nhật Bản. Kết quả là hệ thống giao thông ở Đông Dương bị hư hại nặng. Tính vào thời điểm năm 1945 thì đường sắt Xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa, và đường Bắc Nam cũng bị phá hoại liên tục. Đường biển thì quân Đồng Minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ cũng không thông thương được nữa. Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng Minh mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn, rồi cuối cùng chỉ ra được đến Nha Trang. Cùng lúc đó thì lượng gạo tồn kho ở Sàigòn lên cao vì không xuất cảng sang Nhật được, khiến chủ kho phải bán rẻ dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán tháo cho các xưởng nấu rượu vì gạo ứ đọng sẽ mốc, trong khi đó, nạn đói lại bắt đầu hoành hành ở ngoài Bắc. Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những mục tiêu khác cho nhu cầu chiến tranh của họ. Toàn quyền Jean Decoux từ trước năm 1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang Nhật theo thỏa thuận với Nhật Bản. Bản thân lực lượng quân quản Nhật cũng thi hành chính sách "Nhổ lúa trồng đay", do cây đay là nguyên liệu quan trọng cho sản xuất quân nhu. Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi đó đều nằm trong tay quân đội Nhật. Người Nhật vì mục đích chiến tranh đã thờ ơ trước thảm họa chết đói hàng loạt của dân bản địa. Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về nhưng không được cứu đói, đã nằm chết la liệt quanh đó. Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết ngoài Bắc cũng đã góp phần cho những động lực tạo ra nạn đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán từ 1 đến 2 triệu người đã chết vì đói năm 1945 ( Wikipedia ). Con người trở nên vô cảm, vô nhân, vô đạo, cư xử dã man như loài cầm thú khi bùng nổ chiến tranh. Những hình ảnh kinh hoàng về nạn đói 1945 tại Bắc Việt còn được trung thực lưu lại qua ống 3
  • 4. kính của nhiếp ảnh gia Võ An Ninh, như một chứng cứ diệt chủng… Ngày nay, tuy phần nào không còn đói khát lương thực, nhưng dân Việt vẫn đang đói khát chân lý, công bằng, đạo lý, tình người. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật Đức Giêsu chạnh lòng thương dân chúng đi theo Người, đang đói khát, bệnh hoạn, tật nguyền. Người không ngừng giảng dạy, chữa lành, và nuôi dưỡng, biến hóa năm cái bánh và hai con cá cho hơn năm ngàn người no nê dư thừa. Điều này phản ảnh những khía cạnh Tình Yêu của Thiên Chúa, lẫn của con người đối với Ngài và tha nhân. Tình yêu phó thác “Đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người” ( Mt 14, 13 ). Những tín hữu Kitô đầu tiên nồng nàn lửa mến, khao khát tìm thức ăn thiêng liêng là Lời Chúa, chẳng màng đem theo lương thực, hay hành trang, khiến Chúa cảm động đoái thương, cứu chữa. “Ra khỏi thuyền Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ” ( Mt 14, 14 ). Kitô hữu yêu mến và tin cậy Chúa là luôn biết phó thác sinh mạng, bệnh tật, đói khát vào cánh tay Chúa Quan Phòng che chở, chữa trị và dưỡng nuôi, để sống đời đời.“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" ( Mt 6, 33 – 34 ). Cậu bé có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá làm của ăn đi đàng, nhưng phó dâng hết cho Đức Giêsu. Tấm gương sáng ngời cho Kitô hữu hoàn toàn trông cậy vào Chúa Quan Phòng. Tin Mừng hôm nay, còn phác họa Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, luôn quan tâm dạy dỗ, chăm sóc, chỉ đường, chữa bệnh và nuôi dưỡng đàn chiên sống viên mãn. Tình yêu hỗ tương Tình yêu tha nhân là tình hỗ tương, liên đới chia sẻ, hiện thực hóa bằng hành động trao tặng, cho đi, tương thân tương ái, giúp đỡ và phục vụ. “Chính anh em hãy cho họ ăn !” Mệnh lệnh của Đức Giêsu rõ ràng, đích xác và cụ thể về trách nhiệm chung sống, giúp đỡ nhau, tương trợ, liên kết trong tình yêu. Không thể đơn giản và lạnh lùng, vô cảm, mạnh ai nấy lo, như“giải tán đám đông, để họ vào làng mạc mua lấy thức ăn.” Không thế trốn trách trách nhiệm liên đới trong gia đình, Giáo Xứ và xã hội. Nếu không thì chỉ là tình yêu xảo ngôn, như phường tà đạo vẫn huênh hoang lừa đảo. Đức Giêsu không một lúc hóa bánh và cá ê hề đầy giỏ, đầy mâm, để mọi người kinh ngạc, thán phục, tôn vinh. Mà trái lại, phép lạ hóa bánh ra nhiều chỉ xảy ra, khi bánh được trao tận tay nhau. Khi Đức Giêsu trao các nôn đệ và khi các môn đệ trao lại cho dân chúng. Đó là hình ảnh liên đới, chia sẻ và yêu thương chân tình, tương tự như xưa, Ngôn Sứ Êlisa đã biến hóa 20 tấm bánh trao tay cho hơn 100 người no nê, dư thừa. ( x. 2V 4, 42 – 44 ). Hơn nữa, đó cũng là ngụ ý Chúa muốn dạy mọi người: "Anh em đã được cho không, thì hãy cho không như vậy" ( Mt 10, 8 ). Bởi chưng tất cả mọi sự đều là hồng ân Chúa thương ban. Tình yêu bội tăng Trong tin nhắn ngày 10.7.2014, gửi qua Twitter đến mọi người, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhủ: “Đừng ngại nương tựa vào vòng tay che chở của Thiên Chúa; bất cứ điều gì Ngài yêu cầu bạn cũng sẽ được trả gấp trăm lần.” Năm tấm bánh và hai con cá của chú bé vô danh kia dâng hiến, đã hóa ra hàng vạn bánh và cá, cung cấp dư giả cho năm ngàn người đàn ông, không kể phụ nữ và nhi đồng. Tình yêu đã bội tăng gấp vạn lần. Cho đi một, nhận lại gấp vạn. "Chẳng ai bỏ tất cả vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm, và đời sau được sự sống vĩnh cửu" ( Mc 10, 29 – 30 ). Tình yêu hiệp nhất “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông” ( Mt 14, 19 ). Với của ăn nuôi thân xác, Đức Giêsu đã thánh hóa, biến thành mối liên kết từ Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Tông Đồ, Giáo Hội, đến toàn thể Dân Chúa. Tất cả hiệp nhất trong Nước Chúa, mà cụ thể sau này qua Nhiệm tích Thánh Thể dưỡng nuôi nhân loại. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy" ( Ga 6, 56 – 57 ). 4
  • 5. “Con phải là “món quà” trong tay Chúa, sẵn sàng để Chúa tặng cho bất kỳ ai. Một món quà mà ai cũng quý yêu thèm muốn” ( Đường Hy Vọng, số 768 ). Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã nhận năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé kia, đó là tất cả lương thực của cậu, nay kính xin Chúa nhận lấy tất cả vốn liếng, khả năng, kiến thức hạn hẹp của chúng con, để Chúa nhân lên, phân phát lại cho tha nhân chung hưởng. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa độc nhất là Đức Chúa Con, để Ngài ban lại cho nhân loại hồng ân cứu độ. Xin Mẹ dạy chúng con luôn biết dâng hiến cả cuộc đời cho Thiên Chúa, để Ngài tùy nghi sử dụng hữu hiệu. Amen. AM. TRẦN BÌNH AN AI NẤY ĐỀU ĐƯỢC ĂN NO NÊ Một thế giới huynh đệ đại đồng là lý tưởng con người hằng mơ ước. Phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá ( Mt 14, 17 ) cho năm ngàn người cùng ngồi trên một thảm cỏ ăn no hôm nay vẫn thật thức thời. Những con số cụ thể như: năm chiếc bánh, hai con cá, năm ngàn người với mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn ( x. Mt 14, 13 – 21 ) thật ấn tượng. Làm sao chúng ta không thể nghĩ đến những con số khác: có tới trăm ngàn người thiệt mạng trong các cuộc giao chiến, hàng trăm triệu euros cho việc chuyển giao một cầu thủ bóng đá, hàng tỷ người đói hiện nay trên thế giới. Những con số không biết nói nhưng đã trở thành lời. Một bên là tiếng hoan hô ngưỡng mộ trước phép lạ; bên kia là sự khiếp sợ. Con số "năm chiếc bánh và hai con cá với năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ" ( Mt 14, 21 ), cho thấy sự mất cân bằng quá lớn giữa thực phẩm với nhu cầu của con người. Chúng ta cũng đang phải đối diện với những vấn nạn tương tự về các thảm họa chết người, chiến tranh và nạn đói, và cảm thấy bối rối, bất lực: chúng ta có thể làm gì ? Đoạn Tin Mừng này gửi đến chúng ta cách thời sự trong thế giới chúng ta đang sống. Làm sao không thể nghĩ tới nạn đói đang hoành hành một phần lớn nhân loại ? Ngay cả ở các nước phương Tây, nhiều người vẫn không có cái tối thiểu để mà sống. Vì vậy, chúng ta cảm thấy nhu cầu rất lớn của nhân loại mà chúng ta bất lực. Nhiều người đặt câu hỏi: Thiên Chúa đang ở đâu ? Tại sao ngày nay Thiên Chúa không còn làm như vậy ? Tại sao Người không hoá bánh ra nhiều cho triệu triệu người đang đói trên mặt đất này ? Một chi tiết trong bài Tin Mừng có thể giúp chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những vấn nạn trên. Chúa Giêsu không búng ngón tay để rồi bánh và cá xuất hiện cách ma thuật theo ý muốn. Nhưng Người hỏi các môn đệ có gì và truyền: "Các con hãy cho họ ăn" ( Mt 14, 16 ); Người kêu gọi các ông chia sẻ điều các ông có "năm cái bánh và hai con cá " ( Mt 14, 17 ). Ngày nay Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Người xin chúng ta chia sẻ những tài nguyên trái đất. Điều được biết rõ, ít nhất về thức ăn, là trái đất chúng ta có khả năng nâng đỡ hơn một tỷ người nữa đang ở trên mặt đất này. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, "hãy cho họ ăn". Chỉ cần ít mà có một chút tình yêu, tí chút vật chất để khắc phục nạn đói, thân xác và tâm hồn. Chút ít ấy, chúng ta đặt vào tay Chúa. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta nhìn lại phép lạ hóa bánh ra nhiều theo một cách khác. Trước hết, Người khiêm tốn bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy" ( Mt 14, 18 ), và chấp nhận dùng bánh của các ông. Sẽ chẳng có gì, nếu các ông không đồng ý cho bánh. Thiên Chúa cần những cử chỉ chia sẻ của chúng ta để thực hiện những điều cao cả. Do đó, năm cái bánh và hai con cá đã được Chúa Giêsu dùng để nuôi ngần ấy ngàn người, tất cả đều no nê. Người hoàn toàn tin tưởng ở Chúa Cha. Người biết rằng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể. 5
  • 6. Một câu hỏi khác được đặt ra: Chúa Giêsu đã nuôi sống đám đông trong một ngày. Nhưng ngày hôm sau, họ tiếp tục bị đói. Họ tìm thấy mình ở trong một tình trạng khác của khổ đau. Vậy tại sao Chúa Giêsu không thay đổi tình trạng này ? Mục đích của Chúa Giêsu không phải là để thay đổi tình thế, cho bằng thay đổi lòng người. Khi con người thấm nhuần sứ điệp tình yêu Chúa, họ không còn như trước nữa. Điều quan trọng là con người cho đi những điều tốt nhất là hành vi yêu thương và chia sẻ làm cho cuộc sống có giá trị. Bánh cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng ta không bị giới hạn vào thứ bánh vật chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi xa hơn. Người muốn nói, Thiên Chúa hiện diện trong tất cả mọi thực tại và sự kiện trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta đang sống trong tình yêu của Chúa. Trước đây, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cử chỉ này là một dấu hiệu của sự gia tăng tình yêu Chúa vẫn tiếp tục thể hiện nơi nhân thế. Vì con người, ngoài nhu cầu vật chất, con người còn đói khát một cái gì hơn nữa, cần một cái gì hơn nữa. Bánh Giêsu, Bánh bởi Trời mang lại sự sống đời đời, biến con người thành các chứng nhân của tình yêu Thiên chúa đối với từng anh chị em một. Người trao cho chúng ta, để chúng ta phân phát cho những ai đói khát tình yêu. Như thế, tình yêu tùy thuộc vào chúng ta và phép lạ của tình yêu giữa con người với nhau sẽ không bao giờ dừng lại. Làm sao con người có thể trách cứ Thiên Chúa không cung cấp thức ăn cho mọi người đang khi mỗi năm người ta tiêu hủy hàng triệu tấn thức ăn mà thông tin đại chúng nói là quá nhiều hầu phòng chống sự giảm giá thức ăn ? Có giải pháp nào chăng ? Sự phân phối càng tốt thì tình liên đới càng lớn và sự chia sẻ càng nhiều. Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Bill Gates tỷ phú người Mỹ, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo; Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng tỷ đôla. Chiến tranh tiêu huỷ biết bao tiền của, bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ lại có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế. Sở dĩ như vậy chỉ tại chúng ta giữ chặt lấy bánh và cá và không muốn chia sẻ với mọi người đó thôi. Thay vì tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang, thì con người chế tạo ra bột mì, lương thực, thuốc men để giúp cho đồng loại đỡ khổ thì tốt biết bao. Lạy Mẹ Maria, xin mở rộng con tim chúng con, để chúng con biết sống yêu thương và chia sẻ với anh em đồng loại, hầu xây dựng một xã hội công bằng, huynh đệ đầy ắp tình yêu thương Chúa. Amen. Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ CHÍNH CON PHẢI LO Không biết từ bao giờ, có lẽ ngay khi mới lọt lòng mẹ, con người đã có nhu cầu sinh tồn, phải ăn phải uống để mà sống. Cũng vì nhu cầu này, mà nhân loại sa vào vòng tội lỗi. Người ta chém giết nhau chỉ vì miếng ăn, cái mặc. Và bất hạnh cũng từ đó phát sinh. Nghèo đói là căn nguyên sinh muôn vàn tội lỗi. Trong những cơn túng quẫn của cuộc đời, lúc ấy con người mới khao khát có được phép lạ – làm sao cho có được của ăn và không phải đói nghèo, khổ cực, thiếu thốn. Của ăn phần xác quan trọng như vậy. Nếu không có nó, con người và vạn vật sao có thể tồn tại. Nhưng của ăn nuôi linh hồn còn quan trọng hơn. Người ta cần của ăn để sống, nhưng của ăn không là yếu tố quyết định hạnh phúc. Ngược lại, của ăn tinh thần chính là liều thuốc trường sinh cho họ hạnh phúc bất diệt. Của cải vật chất không làm người ta sống mãi, vậy mà ngày ngày có hàng trăm vạn người trên thế giới qua đi cũng chỉ vì của ăn. Chả được mấy ai vì của ăn tinh thần mà hy sinh chính mạng sống mình cả. 6
  • 7. Của cải vật chất chỉ làm cho người ta tồn tại và phát triển nhưng không thể khiến con người sống mãi. Chính của ăn tinh thần mới cho họ hạnh phúc bất diệt. Đó chính là Lời Chúa, là Tình Yêu của Ngài. Thấu cảm nỗi khó nghèo vất vả, lầm than của nhân loại, Đức Giêsu kêu gọi các Tông Đồ phải chăm lo cho dân chúng. Ngài yêu cầu đồ đệ đưa đến phần thức ăn bé mọn để làm phép lạ nuôi đám đông. Hành động ấy không chỉ cứu vớt dân tình khỏi đói, nhưng còn báo hiệu mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể Ngài thiết lập sau này, hầu thế giới có thể nhờ đó mà được sống. Là Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ thấu cảm sự đói nghèo của nhân loại, nhưng Ngài còn dẫn đưa họ đến tầm quan trọng của Của nuôi linh hồn. Chính Của nuôi ấy mới thực sự cần. Vậy mà chẳng hiểu sao nhân loại không hay biết hoặc đã biết mà vẫn cố tình từ khước. Ngày nay người ta coi trọng của ăn lắm. Chính sự coi trọng của cải vật chất đã làm cho con người ngày càng dấn sâu vào vũng lầy đam mê và tội lỗi. Có ai bảo của ăn không cần thiết đâu, nhưng nó không là nhất. Điều quý trọng hơn cả chính là có được sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy chỉ có thể trổ sinh trong một tâm hồn ngoan ngùy biết lắng nghe và thực hành Lời của Ngài. Trên hết là sự sẻ chia, bác ái: “Chính anh em hãy lo cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ). Từ “vỏn vẹn chỉ có năm cái bánh hai con cá” ( Mt 14, 17 ) mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho “năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” ( Mt 14, 21 ). Thiên Chúa muốn dạy chúng ta phải biết quan tâm, sẻ chia cho người thân cận đói nghèo chung quanh. Đó là trách vụ thiêng liêng mà không phải ai cũng có thể làm. Không cần gì nhiều, chỉ cần sự hiện diện, lòng đóng góp tuy nhỏ bé nhưng nếu có tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, ắt sẽ làm nên phép lạ khôn lường. Thiên Chúa quyền phép như vậy nhưng không sai Con Một Ngài đến để giải quyết cơm áo gạo tiền cho nhân loại. Trái lại, Ngài dạy con người phương cách “kiếm gạo kiếm tiền” cho cuộc sống đời sau chỉ cần biết sẻ chia. Lạy Chúa, trên con đường ngày ngày đi làm, có biết bao người nghèo khổ sống chung quanh cần con yêu thương, giúp đỡ. Nghèo vật chất không thiếu mà đói tinh thần cũng quá thừa, vậy mà con đã đang tâm giả điếc làm ngơ, khép chặt cửa lòng, khoanh tay lãnh đạm trước nhu cầu được sẻ chia của người khác, trong khi chính bản thân mình được cơm dư, gạo thừa. Ước gì con có thể nghe được Lời Chúa mỗi ngày: “Chính con hãy lo cho họ ăn” thì diễm phúc biết chừng nào. Cũng tại người này ỷ nại vào kẻ khác, cho nên nhân loại ngàn năm vẫn khóc, đói và khát. Ai giàu vẫn phây phây sống, ai nghèo đói mặc ai. Xin giúp con biết tỉnh ngộ khi thời hạn vẫn còn, mở lòng đón nhận nguồn sống của Thiên Chúa và rộng tay san sẻ với mọi người sống quanh con. Một khi đã ý thức miếng ăn hằng ngày con lao nhọc kiếm tìm chật vật vậy nhưng lại chẳng có giá trị thật thì tại sao con không dám bẻ ra, góp vào sự sống sinh tồn của anh em thân cận cơ chứ ? M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG NHU CẦU CẤP BÁCH Ăn uống là điều phải học đầu tiên trong đời của mỗi con người: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Thật lạ, ngay cả trong kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”, việc ăn uống cũng được coi là “mối thương” hàng đầu: “Thứ nhất: cho kẻ đói ăn, thứ hai: cho kẻ khát uống”. Điều đó cho thấy rằng việc ăn uống là nhu cầu cấp bách theo bản năng sinh tồn của con người. Trước tiên, người ta lo sao cho “ăn no, mặc ấm”, sau đó người ta cố gắng sao cho “ăn ngon, mặc đẹp”. Có no cái bụng, không phải lo về những điều cơ bản nhất, rồi người ta mới lo những thứ khác. Quả thật, người ta vẫn thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Khi đói, Thằng Bờm không cần bất cứ thứ gì khác, dù đó là những thứ sang trọng hoặc quý giá, mà chỉ cần “nắm xôi”. Thế thôi. Người Anh diễn tả đơn giản: “That’s ALL”. Vâng, chỉ có nắm xôi mới có thể giải quyết nhu cầu cấp bách của cái bụng lúc đó. 7
  • 8. Vì biết được nhược điểm của con người như vậy, có những người ác tâm đã lợi dụng người nghèo đói để bắt họ làm theo ý đồ xấu của mình bằng cách cho họ ăn uống. Miếng ăn là quan trọng, nhưng miếng ăn cũng có thể là VINH hoặc NHỤC. Ở đời, chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Quyền lợi cơ bản là “miếng ăn”. Bất ngờ thấy ai cho mình cái gì thì cũng rất có thể họ muốn nhờ vả mình cái gì đó, chứ đâu dễ gì họ cho mình “ăn không”. Miếng ăn có điều kiện chứ không vô điều kiện hoặc miễn phí. Theo lẽ thường, nếu có cho ai cái gì thì người ta chỉ cho những gì thừa, nghĩa là chỉ ở mức “bố thí” chứ chưa được là “công bằng”, đừng nói chi “bác ái”. Quả thật, “chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa” ( Mc 10, 18; Lc 18, 19 ). Kinh nghiệm sống đã và đang cho chúng ta biết rõ như vậy. Thiên Chúa nhân lành mời gọi tất cả mọi người, không trừ ai: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” ( Is 55, 1 ). Cứ đến “mua” mà không phải trả tiền. Một dạng “mua bán” rất kỳ lạ, đó là “mua” bằng giá trị của niềm-tin-chân-thành. Trong cuộc sống đời thường, người ta có thể bỏ ra bạc triệu hoặc bạc tỷ để mua những thứ người ta ưa thích, dù ăn được hay không. Có những món ăn rất đắt, thuộc loại đắt nhất hành tinh. Ví dụ: Nấm trắng Alba của Ý có giá 160.406 USD/1,5 kg ( khoảng 3,4 tỷ đồng ), trứng cá muối Almas ở vùng biển Caspian có giá 25.000 USD/hộp ( khoảng 530 triệu đồng ), hoặc dưa lưới Yabari có giá 22.872 USD/quả ( khoảng 486 triệu đồng ). Những món này chúng ta có mơ cũng chẳng thấy được. Cỡ “đại gia” hạng bình thường ở Việt Nam cũng sẵn sàng uống những chai rượu có giá vài triệu đồng. Người ta biện hộ rằng làm như vậy để “chơi” cho biết, “chơi” cho thiên hạ “lé mắt”. Dù gì thì cũng thật là lãng phí quá ! Vì thế, Thiên Chúa đặt vấn đề: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng ?” ( Is 55, 2a ). Lương thực chỉ nuôi sống phần xác chứ không thể nuôi sống linh hồn, thế mà người ta vẫn dám bỏ ra số tiền lớn để chỉ được thưởng thức cho khoái khẩu. Điều đó cho thấy ăn là điều thú vị lắm. Người ta chỉ lo đói thể lý mà không sợ đói tinh thần, đặc biệt là đói linh hồn. Đúng là tự mâu thuẫn và... dại dột quá ! Với lòng nhân hậu, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi: “Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị” ( Is 55, 2b ). Lời mời gọi đó không chỉ là lời mời gọi bình thường, mà còn mang tính mệnh lệnh và thực sự có lợi cho người được mời: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đavít” ( Is 55, 3 ). Thiên Chúa rất hào phóng, luôn ban cho những điều tốt lành cho cả xác và hồn mà lại hoàn toàn miễn phí. Chúng ta lãnh không ngừng nhận và nhận nhiều mà vẫn vô ơn bội nghĩa, thế nhưng Ngài vẫn làm ngơ, không chấp. Tại sao? Bản chất Ngài là tốt lành, là yêu thương, là thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” ( Tv 145, 8 – 9 ). Thật lạ, Ngài không chỉ nhân hậu với “động vật cấp cao” là con người, là chúng ta, mà Ngài còn “nhân hậu với muôn loài” mà Ngài đã dựng nên. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rõ. Có những lúc chúng ta chưa xin, hoặc xin được rồi mà lại “phủi tay”, kiểu “qua cầu rút ván”, như chuyện “mười người phong hủi được sạch, nhưng chỉ có một người Samari trở lại cảm ơn Chúa” ( Lc 17, 11 – 18 ), ấy thế mà Ngài vẫn không bỏ đói chúng ta bữa nào. Chúng ta có thấy mình quá tệ ? Ước gì mỗi chúng ta biết kịp nhận thức như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” ( Tv 145, 15 – 16 ). Thiên Chúa toàn năng, không gì là không thể, Ngài vô cùng đại lượng và nhân hậu, nhưng cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” ( Tv 145, 17 – 18 ). Cái NGHÈO luôn đi đôi với cái KHỔ, nhưng cái khổ chưa chắc là tại cái nghèo, vì có những người giàu mà vẫn khổ. Cái nghèo và cái khổ có thể là MỐI PHÚC đối với người này, nhưng lại có thể là MỐI HỌA đối với kẻ khác. Có những người “đói ăn vụng, túng làm liều”, nhưng cũng có những kẻ “nhàn rỗi sinh nông nổi”. Người ta có đủ cách để tự biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Phải thực sự tin mến Chúa thì mới không bị chao nghiêng trước nghịch cảnh. Để nhận biết mình ở mức độ 8
  • 9. nào trong hành trình tâm linh, chúng ta hãy tự trả lời thật lòng với câu hỏi của Thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?” ( Rm 8, 35 ). Chắc chắn không dễ trả lời. Và đây, Thánh Phaolô hiến kế cho chúng ta: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” ( Rm 8, 37 – 39 ). Đó là biết lo cho cái đói của linh hồn. Ai sống kiên tâm được như vậy thì thật là đại phúc ! Chúa Giêsu lo chúng ta bị đói cả thể lý lẫn tinh thần. Trình thuật Tin Mừng hôm nay ( Mt 14, 13 – 21 ) kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất ( cũng được tường thuật ở Mc 6, 30 – 44; Lc 9, 10 – 17; và Ga 6, 1 – 14 ) mà Chúa Giêsu đã làm vì “chạnh lòng thương” dân chúng. Nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê ra lệnh chém đầu vì vua lỡ hứa dại với con gái của bà Hêrôđia, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó và đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành vẫn nườm nượp đi bộ mà theo Ngài. Ra khỏi thuyền, Ngài trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ. Hoàng hôn buông nhạt nắng, chiều gần chạm vào đêm, cái bụng ai cũng đang đánh lôtô, nghĩa là đến giờ ăn tối rồi. Có lẽ các môn đệ cũng thấy “bụng reo” rồi, nên lại gần thưa với Sư Phụ Giêsu: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” ( Mt 14, 15 ). Nhưng Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ). Ui da, “căng” thật đấy ! Có lẽ lúc này nhìn các ông “tội nghiệp” lắm. Họ nhìn nhau, vừa gãi đầu vừa nói: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” ( Mt 14, 17 ). Mèn ơi, đó là đồ ăn thằng nhỏ mang đi phòng thân, mà có nhiêu đó thì nhằm nhò gì với đám đông như kiến thế kia chứ ? Nhưng Sư Phụ Giêsu thản nhiên bảo họ: “Đem lại đây cho Thầy !” ( Mt 14, 18 ). Rồi Ngài truyền cho dân chúng “ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” ( Mc 6, 39 ). Sau đó, Ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và Ngài bảo các môn đệ phân phát cho dân chúng cùng ăn. Thánh Mátthêu cho biết chi tiết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” ( Mt 14, 20 – 21 ). Phép lạ này được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống thể xác dân chúng. Phép lạ vĩ đại nhất và quan trọng nhất được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống linh hồn chúng ta là Phép Lạ Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể vừa là thấn lương vừa là linh dược. Phép lạ vĩ đại này hằng ngày vẫn xảy ra khắp nơi trên thế giới, thế nhưng người ta lại thích đua nhau đi tìm các “sự lạ” khác ở nơi này hoặc nơi nọ. Thật là mâu thuẫn quá, thế mà vẫn nói rằng “tôi tin”. Đức Tin như vậy có lẽ rất cần “xét lại” lắm đấy ! Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Chúa luôn ban cho lương thực nuôi xác dưỡng hồn để chúng con được sống dồi dào. Xin giúp chúng con sống Đức Tin cụ thể là biết CẦM LẤY tấm- bánh-cuộc-đời của chúng con, biết TẠ ƠN Ngài, rồi BẺ RA và TRAO CHO tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ và hèn mọn, vì nhu cầu của họ rất cấp bách. Như vậy thì chúng con mới sống Luật Chúa, biết chạnh lòng thương, biết sống yêu thương và thể hiện lòng thương xót theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen. TRẦM THIÊN THU BỮA TIỆC TÌNH THƯƠNG Trong chuyến hành hương Thánh Địa tháng 5 vừa rồi, chúng tôi có ghé thăm miền đất Tabgha với nhiều địa danh quen thuộc được kể trong Phúc Âm. Vùng Tabgha màu mỡ trải dọc theo hướng Tây Bắc bờ Biển Hồ Galilê. Tên Tabgha bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Heptapegon” nghĩa là “7 con suối” và được thu gọn lại theo tiếng Ả Rập là Tabgha. 9
  • 10. Theo truyền thống, tại miền đất này đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu: Phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều; Chúa giảng Bài Giảng trên núi; sau khi phục sinh, Chúa đã hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ và trao quyền lãnh đạo cho Simon Phêrô… Chúng tôi đến thăm “Nhà Thờ Bánh Hóa Nhiều”, giữa một khu vườn rất nhiều cây ôliu và hoa cỏ xanh tươi xinh đẹp. Ngôi Nhà Thờ nguyên thủy được xây dựng dưới thời Byzantine, trong nhiều giai đoạn khác nhau và được trùng tu vào các thế kỷ sau đó. Nhà Thờ vẫn còn lưu giữ một sàn nhà khảm đá ( mosaic ) đã được khám phá tại Thánh Địa. Có lẽ biểu tượng nổi bật nhất, nằm ngay trên đỉnh của bức tranh phía dưới bàn thờ chính là 5 chiếc bánh và 2 con cá, kính nhớ việc Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ tại đây. Người Ba Tư xâm chiếm vùng này và phá hủy Nhà Thờ vào năm 614. Vương Cung Thánh Đường mới được xây dựng trên nền cổ của ngôi Nhà Thờ, vẫn còn giữ nguyên phong cách cũ đồng thời kết hợp hài hòa những nét cổ xưa và hiện đại. Ngày nay, các thầy Dòng Biển Đức chăm sóc ngôi Nhà Thờ này. Chúng tôi đọc Phúc Âm câu chuyện phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều và thinh lặng suy niệm. Thánh Mátthêu ở chương 14 mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ: bữa tiệc sang trọng với cái đầu của Gioan Tẩy Giả và bữa tiệc của dân nghèo với 5 chiếc bánh và 2 con cá. Mt 14, 1 – 12: Tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quý phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời: quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, thức ăn cao lương mỹ vị, rượu ngon thoả thích, vũ nữ duyên dáng chân dài chân ngắn… và có cả hận thù ích kỷ, máu đổ đầu rơi. Mt 14, 13 – 21: Tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Đây là phép lạ của tình thương. Các môn đệ cũng đóng vai trò quan trọng là cộng tác với Chúa, đi phân phát thức ăn cho dân chúng. Mọi người chia sẻ cho nhau, bánh và cá cứ thế mà tiếp tục nhiều lên. Chúa không làm phép lạ một núi bánh và cá cho mọi người đến lấy. Chúa làm phép lạ khi mọi người liên đới với nhau, cùng bẻ ra và trao cho nhau. Bữa ăn hôm đó là một biểu tượng của bữa tiệc Thánh Thể. Không còn ranh giới, không còn giai cấp, không còn kẻ trên người dưới. Một tinh thần hoà đồng, tất cả đều là anh chị em trong Chúa Giêsu. Trong tiệc Thánh Thể, người ta tìm thấy bình an và nguồn hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn. Người ta tận hưởng hoa trái tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, người ta nhận biết giá trị của bình an nội tâm do ân sủng Chúa ban đến. 1. Bánh Trường Sinh Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể: "Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ" ( Mt 14, 20 ). Trong Tiệc Ly "Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng" ( Mc 14, 22 ). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu ( Lc 24, 30 ) và của Giáo Hội ( Cv 2, 42 ). Ðược bánh ăn, dân chúng muốn "bắt lấy Ngài tôn lên làm vua" ( Ga 6, 15 ). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh "Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi" ( Ga 6, 27 ). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là "Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" ( Ga 6, 54 ). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa. 10
  • 11. "Bánh Ta sẽ ban" hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập Giá. Giá trị cứu rỗi của cái chết trên Thập Giá được hiện tại hoá luôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu. Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo Hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo Hội, qua Giáo Hội và với Giáo Hội. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình. 2. Bánh Lời Chúa: "Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta" ( Ga 1, 14 ). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài "Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn Sứ" ( Dt 1, 1 ). Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo Hội hôm nay "Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân" ( Lc 9, 2 ). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ "Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn" ( Cv 6, 2 ) và chính Thánh Phaolô kêu lên "khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng". Thế là, con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá; con người yếu đuối công bố Lời quyền năng; con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao. Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng "do nhân" ( ex opere operantis ), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành Phụng Vụ, đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo Hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo Hội bởi Thừa tác viên chính thức. Lời Bí Tích mang hiệu năng "do sự" ( ex opere operato ), qua các Bí Tích Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận. Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: "Không ai có thể tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần" ( 1Cr 12, 3 ) và "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công" ( Tv 127, 1 ). Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em ? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Chúa chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Ðồng thời cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn. Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm Ngôn Sứ. Là trách nhiệm vì phải nỗ lực để chu toàn sứ vụ. 3. Bánh Thánh Thể: Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Ðổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của mình. Ðến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn. 11
  • 12. Linh Mục đọc Lời Truyền Phép là Lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến. Người tín hữu được lớn lên trong Đức Tin, trong Lòng Mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô. "Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ). "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời" ( Ga 6, 51 ). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả ?’ Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. ( Đường Hy Vọng # 349 ). Bí Tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ ( GH 11 ), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ ( GLCG 1068 ). Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” ( PV 2 ) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen ! Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ BẤT NGỜ ĐẾN ĂN TRƯA VỚI CÔNG NHÂN Hôm nay, thứ sáu 25.7.2014, chủ quán và đầu bếp hoàn toàn ngỡ ngàng khi thấy Đức Thánh Cha Phanxicô bất ngờ xuất hiện để ăn trưa với các công nhân. Đây là tiệm ăn bình dân dành cho những công nhân lao động mặc màu áo xanh và những người lao công trong "khu công nghiệp" nhỏ ở Vatican. "Bỗng dưng vào giờ ăn chúng tôi thấy ngài xuất hiện, tay cầm khay đứng xếp hàng chờ đến nơi quầy thức ăn để chọn những thứ đã làm sẵn, và chúng tôi đã may mắn được phục vụ ngài". Anh Paini nói mà giọng anh vẫn còn đầy xúc động và hồi hộp: "Xin hãy thông cảm cho tôi, vì tôi vẫn còn thấy vui quá, kể lại mà vẫn còn như run lên vậy… Tôi thấy ngài chọn một đĩa mì ống mà không có nước sốt, một phần cá Kabeljau, một cuộn mì sợi, một ít rau, một ít khoai tây chiên, một quả táo, và một chai nước suối loại không có ga, và ngài tự bưng đến bàn ăn ngồi chung với các công nhân. Ngài hành động rất tự nhiên bình thường, y như một người lao động…" Anh Paini cho biết: "Đức Thánh Cha làm cho mọi người cảm thấy thoải mái. Chúng tôi giới thiệu mình, còn ngài thì hỏi chúng tôi làm việc thế nào, có thoải mái không ? Chúng tôi kể về những công việc ở đây, ngài lắng nghe, và ngài đã khen ngợi những công việc chúng tôi đang phục vụ. Ngài nói: "Công việc này thực sự tốt đẹp vì các quán ăn và quán cà phê ở khu công nghiệp Vatican đã phục vụ các kỹ thuật viên, thợ điện, thợ ống nước, thợ tiện, thợ máy, thợ thủ công, mà còn cả nhân viên của tờ báo Vatican L'Osservatore Romano nữa…" 12 CÙNG HIỆP THÔNG
  • 13. Ngài còn nói về những di sản của Ý. Trong những câu chuyện cũng bao gồm cả đá banh và nền kinh tế các tờ báo của Vatican đã đưa tin. Toàn bộ thời gian Đức Giáo Hoàng vừa ăn vừa trò chuyện thoải mái. Người ta đã lấy máy ảnh, điện thoại di động và iPad của họ và chụp hình. Ngài đã không cảm thấy bị làm phiền một chút nào cả. Nhiều máy nhấp liên tục, ngài vẫn mỉm cười và ăn ngon lành. Sau khoảng 40 phút ăn uống và trò chuyện, Đức Thánh Cha đã không ở lại cho đến hết giờ ăn trưa. Claudia Di Giacomo, người đang ngồi sau quầy thu ngân nói: "Tôi không có can đảm để tính hóa đơn cho ngài…" Còn Paini thì cho biết chuyến thăm bất ngờ như một tia chớp. Ai có thể nghĩ rằng Đức Thánh Cha lại đến đây và ăn với chúng tôi ? Đúng là quá bất ngờ ! Tất cả chúng tôi như còn trong mơ, nhưng nó là một trong những điều tốt đẹp nhất đã xảy ra. Sau khi mọi người chụp hình chung với ngài một tấm ảnh, ngài chúc bình an cho tất cả mọi người nơi đây, rồi ra xe có tài xế chờ sẵn của ngài trở lại nơi cư trú ở Domus Sanctae Marthae. THANH SƠN ĐỨC THÁNH CHA TIẾP GIA ĐÌNH CHỊ PHỤ NỮ SUDAN Bà Ibrahim, người phụ nữ Sudan bị kết án tử hình vì kết hôn với một Kitô hữu và không chịu cải đạo qua Hồi Giáo, cùng với gia đình, đã đặt chân an toàn lên đất Ý ngày 24.7.2014 và được gặp riêng với Đức Thánh Cha Phanxicô. Phát ngôn viên Vatican là cha Federico Lombardi cho biết trong cuộc gặp gỡ riêng tư dài nửa giờ, "Đức Thánh Cha đã cám ơn gia đình bà vì là những nhân chứng sống Đức Tin. Gia đình bà cũng cảm tạ Ngài đã lưu tâm đến họ, qua lời cầu nguyện và qua các hỗ trợ mà họ đã nhận được từ chính Đức Giáo Hoàng và từ Giáo Hội." Qua cử chỉ ưu ái biểu lộ với gia đình bà Ibrahim, cha Federico Lombardi nói tiếp: "Đức Thánh Cha Phanxicô cho thấy ngài gần gũi và lo lắng cho tất cả những nạn nhân đang bị cấm đoán và đàn áp vì Đức Tin". Theo Radio Vatican TRƯỜNG HỌC GIA ĐÌNH Khi nhập thể và nhập thế, Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu đã sinh trong một gia đình. Khi đi lễ đền, Ngài ở lại “lo việc của Chúa Cha” nhưng cha mẹ Ngài không biết, sau ba ngày, Ngài ngoan ngoãn theo cha mẹ về quê và hằng vâng phục cha mẹ ( Lc 2, 51 ). Điều đó chứng tỏ gia đình là quan trọng và là trường học đầu tiên của mọi người. Văn sĩ Charles Dickens ( 1 ) nhận định: “Gia đình là một cái tên, một từ ngữ mạnh mẽ, mạnh hơn lời của những pháp sư hay tiếng đáp của các linh hồn. Đó là lời nguyện cầu hùng mạnh nhất”. Các nhà xã hội học coi gia đình là nơi đặt những “viên gạch đầu tiên” trong việc hình thành nhân cách con người. Điều đó cho thấy gia đình là trường học đầu tiên của mỗi con người. Quả thật, giáo dục gia đình rất quan trọng, đặc biệt là người mẹ, vì người mẹ gần gũi con cái ngay từ khi nó mới sinh ra và suốt những tháng năm đầu đời. Nhân cách là tính cách của một con người, và rồi con người đó có thể tốt hoặc xấu. Vì thế, giáo dục nhân cách rất quan trọng, phải bắt đầu từ gia đình, nhưng giáo dục gia đình lại là vấn đề rộng lớn. Ở đây chúng ta nói về vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay. Như đã nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, tức là trường học đầu tiên của bất kỳ con người nào. Mỗi con người đều được sinh ra từ cha và mẹ. Đứa trẻ luôn gần gũi và lắng nghe những “âm thanh cuộc sống” đầu tiên từ cha mẹ – đặc biệt là từ người mẹ. Người mẹ hiền lành, dịu dàng, ăn 13 CÙNG HIỆP THÔNG
  • 14. nói nhẹ nhàng, đứa trẻ đều nhận biết và chịu ảnh hưởng. Ngày xưa, người mẹ ru con bằng những câu hò, ca dao, điệu lý... nhẹ nhàng và trong sáng. Rất tiếc là ngày nay không phổ biến, nhưng vẫn còn phần nào những lời “ầu ơ”, “ví dầu”… khi mẹ ru con ngủ. Lời ru không thể nào gắt gỏng hoặc như “dùi đục chấm mắm cáy”, vì thế mà đứa trẻ vẫn ảnh hưởng sự dịu dàng của lời mẹ ru. Khi con trẻ chập chững những bước đi đầu đời, người đầu tiên chỉ dạy cho bé cách đi đứng, nói năng, không ai khác là cha mẹ. Vì vậy, cha mẹ là người thầy đầu tiên của con cái. Điều đó xác định việc giáo dục gia đình vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con cái. Dĩ nhiên, vì lý do nào đó, có những đứa trẻ thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ nhưng nó vẫn có thể hình thành nhân cách tốt, đó là nhờ quá trình tự giáo dục tốt. Nhưng hầu như sự giáo dục gia đình không tốt thì nhân cách đứa trẻ ắt có phần khiếm khuyết, đôi khi hoàn toàn xấu. Do đó, giáo dục gia đình rất quan trọng đối với mỗi con người, vì còn trẻ người non dạ, không ai có thể hiểu biết về mình, về xã hội, về cuộc sống... nhưng được gia đình định hướng và dạy dỗ, nhờ đó mà tích lũy kinh nghiệm và trưởng thành dần theo thời gian. Ngoài ra, gia đình còn là hành trang “ắt có và đủ” đối với mỗi con người. Trong thời gian đầu đời, ai cũng được sống với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Lớn lên, những người lập gia đình rồi có con, cháu. Trong gia đình, mọi người đùm bọc nhau về vật chất, tinh thần, tâm linh... Người trẻ có điều kiện để lớn khôn, người già có nơi nương tựa, người u buồn được an ủi, người yếu đau được nâng đỡ… Như vậy, gia đình là một cộng đồng luôn gắn bó với nhau trên từng bước đường của cuộc sống. Dù là ai, được sống trong tình yêu thương của gia đình là hạnh phúc. Ai không được như vậy thì thật là nỗi bất hạnh. Trong quá trình sống với gia đình, cùng trao và nhận tình yêu thương, mỗi người lại tiếp tục tự hoàn thiện mình và tự hoàn thiện nhân cách. Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình luôn có mối quan hệ mật thiết với xã hội, đơn giản nhất là quan hệ với làng xóm, khu phố. Như tục ngữ có câu: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Động từ “bán” và “mua” ở đây không mang nghĩa “thương mại”, nhưng có ý nói rằng láng giềng gần gũi và cần thiết lắm. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau”, mình có chuyện gì thì thân nhân ở xa đâu biết được, chỉ có láng giềng biết. Nói theo Công Giáo, đó là những người lân cận, những người mà Đức Giêsu đề cao qua dụ ngôn “Người Samari Nhân Hậu” ( Lc 10, 29 – 37 ). Gia đình cũng là nơi tái tạo con người. Thành viên nào lỗi lầm vẫn được gia đình an ủi, khuyên nhủ, che chở, bảo vệ, nâng đỡ... Nhờ đó mà người lầm lỗi có thể đứng dậy và làm lại cuộc đời. Mỗi thành viên gia đình là một người tốt thì xã hội sẽ tốt, đất nước có những công dân tốt, Giáo Hội cũng có những “chiên ngoan”. Xã hội có nhiều công dân tốt, ắt hẳn đất nước có thể vững mạnh, xã hội có thể văn minh, cộng đồng ít tệ nạn. Có ít cái xấu sẽ có nhiều cái tốt, con người quan tâm đối xử với nhau bằng tình thân ái và lòng nhân hậu. Nói vậy có nghĩa là cả xã hội phải thực sự chú tâm tới sự nghiệp giáo dục, không thể lơ là hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Vì chú trọng số lượng hơn phẩm chất, chạy theo thành tích, không lo “tiên học lễ, hậu học văn” nên đạo đức mới bị sa sút trầm trọng, đi đâu cũng thấy tội phạm ! Học sinh cần phải được giáo dục về giao tiếp và ứng xử ngay trong cộng đồng, hội đoàn, đặc biệt phải bắt đầu từ gia đình. Xã hội càng ngày càng văn minh và tiến bộ, đó là niềm vui. Nhưng cứ đua đòi hoặc chạy đua theo lối sống sa hoa thì dễ sa đọa, đi đâu cũng thấy treo bảng “văn hóa” nhưng lối sống chẳng thấy gì là văn hóa. Trị bệnh phải trị tận căn, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nhiều hiện tượng xã hội mới liên quan vấn đề trẻ em đặt ra những thách thức mới trong việc giáo dục gia đình: Trẻ em lang thang, trẻ em phạm pháp, trẻ em bị lạm dụng tình dục, trẻ em bị bóc lột sức lao động, trẻ em quan hệ tình dục sớm, ấu dâm, mại dâm trẻ em, lạm dụng ma tuý, lạm dụng chất có men… Điều đó đòi hỏi việc quản lý và kiểm soát chặt chẽ của các nhà hữu trách, nhưng vấn đề chính vẫn là phải giáo dục trước tiên từ gia đình. Một việc không dễ, vì vừa đòi hỏi gia đình phải phát huy hết các sức mạnh, vừa đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải chung tay góp sức và phải là những tấm gương sáng lẫn nhau – đặc biệt là đối với trẻ em. Cây phải được uốn từ lúc cây còn nhỏ, con người cũng vậy, phải được uốn nắn từ nhỏ và ngay tại gia đình, sau đó mới tới nhà trường và xã hội. Đã có nhiều trường hợp con cái hư, rồi lấy cớ là bận rộn, lo làm ăn. Không thể viện cớ như vậy ! Các cha mẹ khá giả chiều chuộng con cái quá mức, để chúng tự do, muốn gì được nấy, tiêu xài xả láng, 14
  • 15. cứ tưởng như vậy là yêu con, sai lầm nghiêm trọng. Tục ngữ Việt Nam rất chí lý: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Về tâm linh, Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” ( Dt 12, 6 ). Gia đình nào thường xuyên cãi cọ, mâu thuẫn, xung đột, bạo lực... nhất là các gia đình có cha mẹ ly hôn hoặc ly thân, con cái bị ảnh hưởng rất nặng về cả tâm lý lẫn sinh lý. Trẻ em không được chăm sóc, nhất là khi bị tổn thương về tình cảm hoặc tinh thần, nhiều trẻ em đã bỏ nhà đi bụi đời, sống lang thang, bất cần đời, rồi dễ sa vào tội lỗi và tệ nạn xã hội. Nguyên nhân là chúng mất cái gốc quan trọng là gia đình, không được dưỡng dục thể chất và tinh thần để có thể nên người. Trước thực trạng đó, việc giáo dục trẻ em ở gia đình càng trở nên cấp bách hơn. Quả thật, chuẩn mực đạo đức và trình độ nhận thức của một con người phải được hình thành từ nhỏ, bắt đầu từ môi trường gia đình. Việc giáo dục đạo đức dần dần đưa chúng vào nền nếp gia phong từ những gì nhỏ nhất trong cuộc sống hằng ngày như thật thà, vị tha, không vị kỷ, biết giữ lời hứa, lễ phép, nhân hậu, hiền dịu, hiếu thảo, nhường nhịn... Nói chung là biết quên mình mà sống vì người khác. Đơn giản nhất là các động thái nhỏ về ứng xử, lời ăn, tiếng nói: Chào hỏi, xin phép, xin lỗi, cảm ơn... Đó là phép lịch sự tối thiểu trong phép xã giao. Tục ngữ Việt Nam đã cảnh báo: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Đừng khinh suất những điều nhỏ ! Sống tốt không chỉ là tránh điều xấu mà còn phải tích cực làm điều thiện. Sống thật thà không chỉ là không ăn gian, không nói dối, mà còn phải tôn trọng những gì là của người khác: Thấy tiền hoặc vật dụng của người khác mà không nổi máu tham thì mới là thật thà, chứ không thấy thì có gì mà tham, mà lấy ? Về tâm linh cũng vậy, có dịp phạm tội mà không phạm thì mới là thánh thiện, chứ không có dịp phạm tội thì chưa biết ai hơn ai. Gia đình là vườn ươm mầm đời sống và là nơi tôi luyện các nhân đức của con người. Cha mẹ không nên khắt khe, nhưng phải cương nghị, thấy con cái sai thì phải nghiêm túc chấn chỉnh ngay, không được làm ngơ ! Cha mẹ nên hiền từ, nhưng đừng nhu nhược. Cha mẹ nhu nhược cũng “tiếp tay” cho con cái hư hỏng. Văn sĩ Robert Anson Heinlein khuyên: “Đừng gây bất lợi cho con cái bạn bằng việc cho chúng cuộc sống dễ dàng”. Cha mẹ phải là người đầu tiên điều chỉnh con cái, để chúng không chỉ chấp nhận mà còn tích cực cố gắng sửa đổi ngay. Cha mẹ cũng không được hành động cho thỏa cơn giận, nhưng phải kiên nhẫn, tìm hiểu, để biết rõ nguyên nhân, để ngày càng thích ứng và sống chan hòa với con cái. Hiện nay, không ít cha mẹ lo nuôi con về thể lý mà coi thường việc giáo dục tinh thần, lo đầu tư cho việc dạy chữ mà quên việc dạy người. Có những cha mẹ không chú ý vai trò làm “người thầy đầu tiên” của con cái, phó mặc mọi việc giáo dục con cho nhà trường. Đó là sai lầm lớn cần chấn chỉnh càng sớm càng tốt ! Giáo dục đa dạng, đơn giản là hai phần chính: Giáo dục thể lý và giáo dục tinh thần. Nhưng có một phần quan trọng không được bỏ quên, đó là việc giáo dục tâm linh. Mến Chúa thì phải yêu người. Thánh Gioan giải thích: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” ( 1 Ga 2, 4 và 9 ). Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” ( Mt 12, 50; Mc 3, 35; Lc 8, 21 ). Chỉ có những người như vậy mới thực sự là thành viên trong Đại Gia Đình Kitô Giáo, Đại Gia Đình của Thiên Chúa. TRẦM THIÊN THU CHÚ THÍCH: ( 1 ) Charles John Huffam Dickens ( 1812 – 1870 ) có bút danh là Boz. Ông là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời đại Nữ hoàng Victoria. Ông được coi là một trong những văn sĩ vĩ đại viết bằng Anh ngữ, được ca ngợi về khả năng kể chuyện và trí nhớ, được nhiều người ở khắp nơi yêu mến. Các tác phẩm của ông chủ yếu dành cho thiếu nhi và mang tính chất hiện thực. ( 2 ) Robert Anson Heinlein ( 1907 – 1988 ) là nhà văn khoa học viễn tưởng Mỹ. Ông được coi là văn sĩ gạo cội trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng, là một trong những tác giả nổi tiếng nhất có ảnh hưởng nhất và cũng gây nhiều tranh cãi nhất về thể loại này. Ông đã lập ra một chuẩn mực cao đối với sự hợp lý về khoa học kỹ thuật trong văn học và góp phần thúc đẩy chất lượng chung của thể loại khoa học viễn 15
  • 16. tưởng. Ông là văn sĩ khoa học viễn tưởng đầu tiên thu hút được sự chú ý của công chúng, đặc biệt trên những tạp chí chính thống như tờ “The Saturday Evening Post” vào cuối thập niên 1940. Ông cũng là một trong những tiểu thuyết gia thành công đầu tiên về thể loại khoa học viễn tưởng thời hiện đại. PHONG CÁCH PHANXICÔ Bài 16. Bài Ca Hòa Bình Trong lời tựa tác phẩm St. Francis of Assisi, A Life of Joy ( Thánh Phanxicô Assisi, Một cuộc đời hân hoan ), Robert Francis Kennedy Jr. viết rằng ông không thể kể hết các mẫu chuyện tuyệt vời về Phanxicô và các huynh đệ. Đó cũng là sự lúng túng của bất cứ ai viết về Phanxicô vì cuộc đời anh rất phong phú và lôi cuốn. Anh là vị Thánh Công Giáo được toàn nhân loại, không phân biệt tín ngưỡng, mến mộ nhất. Đa số tín hữu Công Giáo đều có lòng yêu mến Mẹ Maria nhiều hơn tất cả các Thánh khác, một điều rất chính đáng. Nhưng các anh chị em Tin Lành, Hồi Giáo, Phật Giáo, Ấn Giáo, Thần Đạo, ngay cả một số ngời vô thần… đều thành kính nhìn về Phanxicô như một khuôn mặt sáng ngời nhất đã phản chiếu một cách diệu kỳ và trung thực nhất chân dung của Đức Kitô. Mỗi khi Kinh Hòa Bình ( có thể gọi là Bài Ca Hòa Bình vì người ta thường hát lên hơn là đọc ) cất lên thì muôn cõi lòng đều cảm thấy dạt dào niềm thôi thúc muốn kiến tạo hòa bình. Nhưng ta chỉ làm được điều này nếu biết cầu xin Chúa và biết hướng cõi lòng về sự sống đời đời. Lạy Chúa từ nhân xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm; để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng; để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình ( Kim Long ). ( Trích ) Kinh Hòa Bình chỉ được phổ biến lần đầu vào năm 1901 với tựa Belle prière a faire pendant la messe – Lời cầu nguyện cao đẹp dùng trong Thánh Lễ, trong cuốn sách của một linh mục Pháp, Esther Bouquerel ( 1855 – 1923 ). Lời nguyện này được gởi đến cho Papa Benedict XV vào năm 1915. Sau đó được in bằng tiếng Ý trong tờ Osservatore Romano năm 1916. Năm 1920, một Linh Mục Phanxicô người Pháp cho in lời nguyện này ở mặt sau tấm hình Thánh Phanxicô và đề tựa Prière pour la paix – Kinh Hòa Bình nhưng không cho biết ai tác giả. Năm 1937 kinh được dịch sang tiếng Anh bởi Kirby Page ( 1890 – 1957 ) với ghi chú Phanxicô là tác giả. Từ đó trở đi Bài Ca Hòa Bình được mọi người không phân biệt tín ngưỡng nồng nhiệt đón nhận. Phanxicô có thể đã không viết Kinh Hòa Bình nhưng chắc chắn không ai đã sống trọn vẹn với lời kinh hơn Thánh nhân. Nơi đây ta có thể tìm thấy cốt lõi của Tin Mừng và mọi tinh túy của các tôn giáo lớn trên thế giới. ( Nguồn linh mục Friar Jack Wintz, OFM. http://www.americancatholic.org/e-News/FriarJack/fj093009.asp ) Tượng thánh Phanxicô đặt tại Assisi trong tư thế ngồi bình lặng cầu nguyện rất giống một thiền sư Á Đông. Hình chụp của linh mục Jack Wintz, OFM. Nếu cho rằng con người hèn mọn Phanxicô với lối sống cực kỳ khó nghèo đạm bạc, gần gũi thiên nhiên, yêu mến muôn loài muôn vật, không hề nuôi một hoài bão lớn lao nào thì chưa thấy hết sự vĩ đại của anh. Phanxicô đã muốn nên giống Đức Kitô. Đó là khát vọng duy nhất của cuộc đời anh ( và của mọi Kitô Hữu ). Theo Phaolô, biết Đức Kitô tức là biết được tất cả sự phong phú của Thiên Chúa: "Để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của 16 CÙNG NHẬN ĐỊNH
  • 17. Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa" ( Ep 3, 18 – 19 ). Chúa Giêsu nói về hồng phúc của những người được nhìn thấy Người: Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy ! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” ( Lc 10, 23 – 24 ). Nhưng được nhìn thấy tận mắt và nghe tận tai từ Người, ngay cả có vú cho Người bú và có dạ cưu mang Người ( x. Lc 11, 27 ), lại không có hồng phúc bằng các thế hệ về sau ( chúng ta hiện nay ). Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !” ( Ga 20, 26 – 27 ). Đối với nhiều người, việc tận mắt chứng kiến Đức Kitô chết thảm thương trên thập giá cũng chẳng hề mang lại một tí ích lợi nào. "Hỡi những người Galát ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em là những người đã được thấy hình ảnh Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt ?" ( Gl 3, 1 ). Thư Galát được Phaolô viết vào khoảng cuối thập niên 40 đến đầu thập niên 50. Đa số Kitô Hữu tiên khởi tại Galát đều là người Do Thái và chắc chắn một số người đã có mặt trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Do đó những chuyến đi hành hương tốn kém tiền bạc phí phạm thời gian trong khi thờ ơ với người nghèo tại địa phương, tới những nơi có thánh tích về Chúa Giêsu và Mẹ Maria chưa hẳn là làm theo ý Chúa muốn. “Phúc thay những người không thấy mà tin” đã được thể hiện ngay từ thời các Tông Đồ trong trường hợp của Phaolô. Ông chưa hề gặp gỡ Đức Kitô dù chỉ một lần khi Người còn sống. Thế mà sự đóng góp của ông quan trọng đến độ khó mà hình dung ra được Kitô Giáo ngày nay mà thiếu vắng khuôn mặt Phaolô ( xin xem Bài 13 và 14, Phong cách Phanxicô ). Phaolô đã nên giống Đức Kitô đến độ dám khẳng định: "Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá" ( Gl 2, 19 ). Nhưng Đức Kitô đã sống cách đây 2.000 năm mà không để lại bất cứ bút tích và hình ảnh nào. Phaolô, dù đã trở nên giống Người cách mấy, đã sống quá xa thời đại hiện nay. Ta không dễ dàng gì nhận ra diện mạo Đức Kitô nơi Phaolô. Phanxicô ( 1182 – 1226 ) chỉ xuất hiện cách chúng ta 800 năm. Vào thời của anh, Hội Thánh đã trở thành một thế lực tôn giáo và chính trị hùng mạnh lấn áp mọi sinh hoạt xã hội. Ngoài ba cuộc Thập Tự Chinh, trong đó cuộc Thập Tự Chinh thứ 3 ( 1187 – 1192 ) để chiếm đánh Giêrusalem do Gregory VIII kêu gọi, còn có các cuộc Thập Tự Chinh khác do các vua Công Giáo tiến đánh các miền ngoại đạo. Các Tu Viện bề thế được rầm rộ xây dựng. Cuối thế kỷ 12, tức là thời tuổi trẻ của Phanxicô đã có 500 Tu Viện Biển Đức. Sang thế kỷ 13 ( giai đoạn trưởng thành của Phanxicô ) lại có thêm hàng trăm Tu Viện mới. Con số này lên tới cao điểm vào thế kỷ 15 với 750 Tu Viện Biển Đức. Các Tu Sĩ có vai trò rất lớn trong việc phát triển các môn nghệ thuật văn chương, hội họa, âm nhạc, kiến trúc, xây dựng, canh nông, dược phẩm, chưng cất rượu. Hội Thánh còn tiến hành các Pháp đình tôn giáo để xét xử những người bị coi là dị giáo. Pháp đình thứ nhất vào năm 1184 với thông điệp Ad abolendam ( Để Tận Diệt ) do Lucius III ban hành. Sử gia García Cárcel ước tính các Pháp Đình Tôn Giáo ( nhân danh Đức Kitô ) đã tàn sát 150 ngàn người. Để minh họa sự sa lầy vào vòng khống chế của quyền lực và giầu sang của Hội Thánh trong giai đoạn Trung Cổ, ta thấy trong số 52 vị lãnh đạo Hội Thánh từ năm 1305 đến 1750, chỉ có 2 vị được phong Chân Phước là Urban V ( 1362 – 1370 ) và Innocent XI ( 1676 – 1689 ). Nhà Thờ có vẻ như đang đánh mất căn tính của mình. Hội Thánh chỉ có thể và phải là Nhà Thờ ( Đền Thờ ) tức là Thân Thể của Đức Kitô Khổ Nạn – Phục Sinh. Hội Thánh không phải là một tổ chức quy củ, một cái hội có tính cách tôn giáo nhưng lại có quyền lực ban phát đặc quyền đặc lợi cho một số người, mà người Việt Nam quen gọi một cách không chính xác Giáo Hội hay Hội Thánh. Các danh xưng chỉ có ở Việt Nam như Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục, Đức Cha, Đức Ông cũng không chính xác với bản chất của Nhà Thờ. 17
  • 18. Phanxicô đã nhìn ra xây dựng lại Nhà Thờ ( trong các ngôn ngữ Âu Châu, người ta chỉ dùng một chữ để gọi Nhà Thờ ( công trình xây dựng ) và Hội Thánh ( tổ chức Giáo Hội ) không phải là sửa sang lại một ngôi Thánh Đường nào đó, mà là xây dựng lại Nhiệm Thể Đức Kitô, chỉ khi đó mới có hòa bình đích thực giữa con người với nhau và với Thiên Chúa. Ta đang thiếu đi một cái gì đó rất quan trọng khiến cho ta hàng ngày đi qua một cái hẻm Khờ-me mà không bao giờ có được sự cảm thông và thương xót như của Nguyễn Ngọc Tư trong bài viết Những Cụm Khói Rời. NGUYỄN TRUNG ( Còn tiếp ) PARAGUAY – MỤC VỤ MÙA ĐÔNG 2014 Mục Vụ Mùa Đông 2014 Sau những ngày World Cup 2014 nóng bỏng với sự thất bại thảm hại của nước chủ nhà Brazil trong trận bán kết, và chiếc Cup vô địch lại bị “Cỗ Xe Tăng” Đức lấy đi khỏi Nam Mỹ đầy nuối tiếc từ ứng cử viên nặng kí Argentina, người dân Nam Mỹ bước vào hai tuần nghỉ Đông để tránh cái lạnh thấu xương vì Nam Mỹ lúc này đang là mùa Đông. Chúng tôi cũng tranh thủ thời gian này để đưa các em chủng sinh lúc này cũng được nghỉ Đông tham dự kỳ mục vụ mùa Đông ở những vùng hẻo lánh mà ở đó người dân đang khao khát Lời Chúa. Theo dự tính ban đầu, chúng tôi sẽ đi mục vụ ở một Giáo Xứ miền quê phía Nam của Paraguay vì nơi đó một anh em linh mục cùng Dòng phải coi sóc cả trăm Giáo Điểm ở vùng đất đỏ. Chúng tôi đã khởi hành từ rạng sáng và phải lái xe đến 8 tiếng đồng hồ liên tục để tới các Giáo Điểm. Tuy nhiên, trên đường đi thì trời lại mưa rất lớn nên chúng tôi phải dừng lại để liên lạc xem liệu có vào được không. Người anh em Linh Mục ở đó trả lời rằng rất khó vào vì đường xình lầy do mưa lớn và đất đỏ nên trơn trợt và nguy hiểm vì ở đó khi trời mưa bão thì nội bất xuất, ngoại bất nhập, chỉ có trực thăng mới có thể đi vào để cứu trợ. Chúng tôi đành phải nghỉ tạm ở một Giáo Xứ bên cạnh quốc lộ để chuyển qua phương án hai. Sau một đêm ngủ tạm bất đắc dĩ đầy lo lắng ở một Giáo Xứ ven đường, chúng tôi lại khởi hành để đến vùng Đông Bắc của Paraguay khoảng hơn 10 giờ lái xe nữa, chúng tôi đã đến một Giáo Xứ vùng quê khác lúc chập tối để cho các em Chủng Sinh tham gia Mục Vụ mùa Đông nhằm tránh đi những ngày quá rãnh rỗi mà sinh những chuyện không hay vì “nhàn cư vi bất thiện”. Vùng Nam Mỹ năm nay mưa rất nhiều và người ta gọi đây là hiện tương “El Niño”. Theo Wikipedia tiếng Việt thì “El Niño” ( phát âm như "eo ni-nhô" ) là hiện tượng trái ngược với “La Niña”, tiếng Tây Ban Nha: “El Niño” ( bé tra i) và “La Niña” ( bé gái ), là một trong những hiện tượng thời tiết bất thường gây thảm họa cho con người từ hơn 5000 năm nay. Ngày nay, hiện tượng “El Niño” xuất hiện thường xuyên hơn và sức tàn phá của nó cũng mãnh liệt hơn. “El Niño” trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Hài Đồng hay bé trai", có ý nói đến Chúa Giêsu Hài đồng. Cứ trung bình từ 3 đến 10 năm, ngư dân vùng biển tại Peru lại phát hiện ra nước biển ấm dần lên vào mùa đông, khoảng vài tuần trước Lễ Giáng Sinh. Đây chính là một nghịch lý, nhưng nó vẫn tồn tại có chu kì và kéo theo hiện tượng hơi nước ở biển bốc lên nhiều hơn, tạo ra những cơn mưa như thác đổ. Và ngư dân đã gọi hiện tượng này là “El Niño” để đánh dấu thời điểm xuất phát của nó là gần Giáng Sinh. Trong khí tượng học người ta còn gọi hiện tượng “El Niño” là Dao động phương Nam ( Southern oscillation ). Ngày nay, khoa học đã chứng minh được rằng hiện tượng “El Niño” có ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu và thuật ngữ “El Niño” dùng để chỉ hiện tượng nước biển nóng lên. Trái ngược với “El Niño”, “La Niña” ( phát âm là La Ni-nha ) là hiện tượng thường bắt đầu hình thành từ tháng ba đến tháng sáu hằng năm, và gây ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng 18 CÙNG DẤN THÂN
  • 19. hai năm sau. “La Niña” sẽ xảy ra ngay sau khi hiện tượng “El Niño” kết thúc. Hiện tượng “La Niña” ( hay còn gọi là anti- El Niño hay el Viejo, đối trọng với El Niño ) thuộc dòng biển lạnh làm lạnh nhiệt độ của những vùng mà nó đi qua. Một cuộc tranh cãi về ý nghĩa các khái niệm của các nhà tu từ học là tại sao khi trời mưa bão thì người ta lại dùng khái niệm “El Niño” ( bé trai ) trong khi trời khô hạn lại dùng khái niệm “La Niña” ( bé gái ) ? Rất nhiều nhà tranh đấu nữ quyền đã phản bác khái niệm trái nghịch này vì cho rằng “La Niña”, cũng có nghĩa biểu tượng là phồn thực, tươi mát, sinh động, mầu mỡ, dễ thương… Thật sự các khái niệm trên đây chỉ nói lên hiện tượng biến đổi khí hậu mà thôi. Trở lại chuyện Mục Vụ mùa Đông với các em Chủng Sinh. Sau một đêm ngon giấc vì đường xá xa xôi, chúng tôi lại bắt tay vào việc để thăm các Giáo Điểm vùng xa này dù không nằm trong kế hoạch định sẵn. Cha xứ đã giao cho chúng tôi viếng thăm các cộng đoàn mà cả năm mới có được một Thánh Lễ. Ở đây trời cũng mưa nhưng đường xá khá hơn vì là đất cát nên dù có bị lụt lội thì đất cát cũng mau khô ráo hơn. Các em Chủng Sinh chia nhau thành từng nhóm nhỏ để thăm các gia đình và trò chuyện với họ vì người dân ở đây rất niềm nở tiếp khách và sẵn sàng lắng nghe những người mà họ gọi là Pa’í ( Linh Mục ) hai Pa’írã ( Chủng Sinh ) đến từ nơi xa. Người dân địa phương họ chỉ nói tiếng Guarani nên các em chủng sinh rất dễ gần vì phần lớn các em đến từ các gia đình miền quê nói tiếng Guarani nhiều hơn tiếng Tây Ban Nha. Chính nhờ những chuyến đi truyền giáo hàng năm này đã giúp các em có cơ hội hiểu rõ hơn về người dân nước mình và những gì họ cần làm cho hành trình tương lai của họ như những nhà truyền giáo. Một Nữ Tu thân quen ở Việt Nam khi mới nhận bài sai truyền giáo ở Tây Nguyên tỏ ra lo lắng vì từ khi đi tu đến giờ gần 20 năm mà chỉ ở trong Nhà Mẹ, nay mới được sai đi phục vụ ở xa đã tâm sự với chúng tôi và chúng tôi có nói với Soeur là đừng quá lo lắng vì mình đã chấp nhận đi tu là chấp nhận thách đố, giống như chấp nhận lập gia đình là cũng chấp nhận tất cả những điều may mắn cũng như rủi ro. Khi chị Nữ Tu trẻ này đến vùng truyền giáo được một tuần, Soeur bắt đầu chia sẻ với chúng tôi là rất khâm phục các nhà truyền giáo khi phải sống xa quê hương với ngôn ngữ, văn hóa bất đồng nhưng đã chấp nhận tất cả. Soeur nói sẽ cố gắng nhiều hơn nữa để thích ứng với môi trường mới dù có khó khăn nhưng vẫn có chung một nền văn hóa. Có hai kỷ niệm vui trong những ngày Mục Vụ này mà chúng tôi muốn chia sẻ. Niềm vui đầu tiên là chúng tôi làm Lễ Cưới cho một đôi tân hôn mà cô dâu bị câm điếc và là con gái độc nhất của ông trùm họ. Dù bị câm điếc nhưng cô dâu này thật đẹp và thông minh. Thông thường thì khi làm đám cưới thì đôi tân hôn phải học thuộc lòng nghi thức thề hứa và trao nhẫn, nhưng bên này chúng tôi thống nhất là vị chủ tế sẽ dùng nghi thức vấn đáp và những cặp phối ngẫu chỉ việc trả lời mà thôi. Khi chúng tôi hỏi cô dâu câm điếc này, cô ta nhìn vào khẩu ngữ của tôi và mấp máy đôi môi thì chúng tôi hiểu ngay là cô ta ưng thuận và hoàn toàn tự do mà không bị ép buộc. Chúng tôi cũng nhắn nhủ chú rễ và gia đình hai bên luôn cố gắng vun đắp và giúp đôi tân hôn này có được một gia đình hạnh phúc vững bền vì chuyện hôn nhân hiện nay giữa những người bình thường đã khó huống chi là giữa một người vừa khiếm ngôn vừa khiếm thính ( câm-điếc ) kết hôn với một người binh thường với biết bao dị nghị thì khó khăn gấp bội. Niềm vui thứ hai là trong dịp này chúng tôi cũng cử hành một Thánh Lễ Bổn Mạng cho một Giáo Điểm. Trời lạnh cóng nhưng chúng tôi cũng cố đến đúng giờ. Vậy mà chẳng có người nào. Đợi một hồi lâu thì bà trùm họ mới đến và bắt đầu ngồi uống Mate ( trà nóng ) để giết thời giờ trong khi đợi mọi người đến. Thánh Lễ cũng diễn ra sốt sắng và người ta cũng dâng lễ vật nào là chuối xanh, đậu phộng và trái cây. Trước khi phép lạnh cuối lễ thì họ cũng nghêu ngao hát và đi mấy vòng quanh xóm để kiệu Thánh Bổn Mạng. Nhìn thấy người dân đơn sơ, chất phát mà mình cũng muốn trở lại cảnh hai lúa ngày xưa để có thể làm những gì mình thích mà không sợ bị cho là lố bịch. Đại Hội Liên Tu Sĩ Toàn Quốc Cũng trong những ngày nghỉ Đông này, Liên Tu Sĩ Paraguay đã tổ chức Đại Hội lần thứ 55 để cho tất cả các tu sĩ đang làm việc ở Paraguay có dịp gặp gỡ nhau và chia sẻ với nhau những thách đố, khó khăn mà họ gặp phải trong đời sống cộng đoàn cũng như mục vụ, và cũng để cập nhập những tin tức chính thống về tinh hình kinh tế, chính trị, xã hội và Giáo Hội trong một thế giới kỹ trị không ngừng biến đổi từng ngày khiến người Tu Sĩ không thể dùng chân tại chỗ. 19