SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  30
E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com
MƯỜI NĂM MỘT NHỊP CẦU CỦA LÒNG MẾN
Dạo còn đi dạy Giáo Lý, chúng tôi hay đố các em đa số là dân sống tại Sàigòn: Cầu nào nặng
nhất ? Các em dễ dàng trả lời: Cầu Sắt. Hỏi cầu nào nhẹ nhất ? Quá dễ, Cầu Bông ! Lại hỏi cầu nào…
chua nhất ? Có em cũng nhanh trí đoán ra: Cầu Kiệu, vì củ kiệu thì chua. Cầu nào chóng mặt nhất ? Trả
lời Cầu Quay ( bây giờ, sau 75, người ta bỏ cây cầu này rồi ).
Nhiều em thông minh nên các câu hỏi sau đó tuy khá lắt léo nhưng các em vẫn trả lời ngon ơ:
Cầu nào nóng nhất ? Cầu Nhị Thiên Đường ( vì dầu gió hiệu Nhị Thiên Đường rất nóng ). Cầu nào đen
nhất ? Tưởng bó tay, vậy mà vẫn có em reo lên:
Cầu Chà Và, mấy người Chà Và – phiên âm từ địa
danh Java, bên Indonesia, có nước da đen thật sự !
Thế rồi chúng tôi đố cầu nào lớn nhất thế
giới, nghĩ một lúc có em thông minh trả lời được:
Cầu Vồng ! Lại đố cầu nào ngắn nhất, nhiều câu trả
lời sai, không khí căng lên, rồi bất ngờ có em vẫn
giải được: thưa Cầu… Chì ạ ! Hay quá, đúng là cầu
chì bé tẹo, ngắn tủn, có mấy xăngtimét để nối được
dòng điện trong nhà.
Cuối cùng chúng tôi hỏi các em: Vậy cầu nào
là cầu vừa cao nhất, lớn nhất, dài nhất, rộng nhất mà
lại ngắn nhất, nhanh nhất, tuyệt vời nhất ? Các em
ngẩn người ra một lúc trước một loại cầu gì mà lạ
lùng như thế. Các em ngờ ngợ đoán ra chắc không
phải các cây cầu xây bằng gỗ, đá, gạch, bêtông, nhưng ở đây là đố mẹo, có điều chi đó kỳ diệu thiêng
liêng… Và các em cùng ồ lên: Thưa cha, đó là Cầu Nguyện ạ !
Ấy là chuyện hồi đó lâu lắm rồi, nếu bây giờ có dịp đố các em, đố mọi người, tôi nhớ ra thêm,
còn có thể đố: cầu nào là cầu đẹp nhất, tốt nhất, bền nhất, cần nhất, quý nhất ? Và câu trả lời chúng ta
sẽ có ngay: đó là Cầu Yêu Thương, với hai mố cầu đôi bên là Thiên Chúa và con người, là mỗi người
với mọi người, là sẻ chia và đón lấy, là cho đi và nhận về. Chúng ta gọi chung bằng một tên trân trọng:
Nhịp Cầu Bác Ái.
Thế giới hôm nay người ta xây thêm rất nhiều những cây cầu hiện đại, hoành tráng, có khi nối
được đất liền với những hòn đảo xa, thế nhưng người ta lại bỏ hoang phế những nhịp cầu quan tâm trợ
giúp, không thèm nhìn ngó tới, dù phía bên kia có khi là người đồng bào, là người hàng xóm, thậm chí
là chính người trong gia đình ruột thịt của mình, đang gặp hoạn nạn cùng cực, bất lực trong nước mắt,
không biết gọi ai, cầu cứu ai.
Thế giới hôm nay lại có những thứ vũ khí kinh khủng có thể phá huỷ hàng loạt những cây cầu
chiến lược sinh tử khiến đối phương không còn được tiếp viện hay hết đường tháo chạy, khi ấy người ta
không ngờ cũng lần hồi đánh xập luôn cả những nhịp cầu sự sống, nhịp cầu thân hữu, đồng cảm, nhịp
cầu chạnh lòng thương giữa con người với con người, đào cho sâu thêm vực thẳm của khác biệt giàu
nghèo, cuốc cho rộng thêm khoảng cách của chênh lệch giữa các tầng lớp trong xã hội, khoét cho xót
xa thêm những vết thương của lương tâm con người.
Trong bối cảnh như thế, Nhịp Cầu Bác Ái được nhiều người hẹn nhau, họp nhau xúm lại, cùng
nhau vun đắp, xây dựng, cứ nối dài mãi, vượt qua cả đại dương để con người ân cần tìm gặp con
người, nhất là những mảnh đời tưởng đã mất hy vọng, tưởng đã bị vùi lấp giữa đổ nát hoang tàn của tai
1
NĂM THỨ 15 – SỐ 628 – CHÚA NHẬT 5.10.2014
ương hoạn nạn, của bệnh tật nan y, của hiểm hoạ phá thai, của loạn ly xa quê, của nghèo đói và mù
chữ triền miên…
Quý độc giả lưu ý thấy luôn luôn ở cuối trang báo điện tử Ephata này là những thông tin về
những bệnh nhân nghèo được trợ giúp ở khắp mọi miền đất nước trong tròn 10 năm qua. Tên gọi của
chuyên mục là CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ.
Ắt hẳn cha Trịnh Tuấn Hoàng, Dòng Thánh Phanxicô cùng những anh chị em khởi xướng đi xây
Nhịp Cầu Bác Ái cũng chẳng ngờ công trình mình làm mãi mà chẳng thấy hoàn tất, mười năm rồi chứ
đâu phải ít ! Vâng, sẽ còn phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, sẽ còn phải hứng chịu nhiều oan uổng ngộ
nhận, sẽ còn phải vận dụng thêm nhiều sáng kiến để Nhịp Cầu Yêu Thương của mình thêm vững và
chắc, với dự báo còn phải tiếp tục vươn xa, phóng đi, toả nhánh rộng ra
nhiều hướng hơn nữa.
Và vì là Nhịp Cầu Bác Ái, nhịp cầu của Yêu Thương, nhịp cầu
của Lòng Mến, chúng ta chợt nhớ đến đoạn Lời Chúa của Thánh
Phaolô trong Bài Ca Lòng Mến ( 1Cr 13, 4 – 8 ), những lời vàng rất đáng
để chúng ta khắc lên bảng đồng thật to, gắn trang trọng ngay ở đầu cầu,
để tất cả mọi người khi bắt đầu đi qua cầu, ngay từ mố cầu đều đã có
thể đọc được, ngẫm nghĩ và thấm thía, nằm lòng cho những dấn thân vị
tha và hướng thượng của đời mình:
Lòng Mến thì nhẫn nhục, Lòng Mến thì hiền hậu,
Lòng Mến không ghen tương, Lòng Mến không vênh vang, tự đắc,
Lòng Mến không làm điều bất chính, Lòng Mến không tìm tư lợi,
Lòng Mến không nóng giận, Lòng Mến không nuôi hận thù,
Lòng Mến không mừng khi thấy sự gian ác,
Lòng Mến vui khi thấy điều chân thật.
Lòng Mến tha thứ tất cả, Lòng Mến tin tưởng tất cả,
Lòng Mến hy vọng tất cả, Lòng Mến chịu đựng tất cả.
Lòng Mến không bao giờ mất được…
Lm. Giuse LÊ QUANG UY, DCCT, Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô 2004 – 2014
MỤC LỤC TÌM BÀI:
MƯỜI NĂM MỘT NHỊP CẦU CỦA LÒNG MẾN ( Lm. Giuse Lê Quang Uy ) ......................................... 01
HÃY LÀ CHÍNH MÌNH ( Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa ) ....................................................................... 02
ÁC GIẢ ÁC BÁO ( Trầm Thiên Thu ) ..................................................................................................... 04
MARIA NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ........................................................ 06
NĂM ĐÓA HỒNG TRẮNG DÂNG MẸ ( AM. Trần Bình An ) ................................................................. 07
LẦN HẠT MAI KHÔI ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ............................................................................... 08
NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ VIỆC ĐỐI THOẠI ( Phùng Văn Hóa ) ............................................................ 13
ƠN GỌI ( John A. Hardon – Bản lược dịch Trầm Thiên Thu ) ............................................................... 15
"HỌ KHÔNG THỂ GIẾT HẾT CHÚNG TA" ( Nguyễn Quang Duy ) ....................................................... 19
PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 22: Kitô hữu và Đường Kitô ( Nguyễn Trung ) ................................. 22
BÀI HỌC HẠNH PHÚC TỪ GIÁO HOÀNG PHANXICÔ ( Báo Tuổi Trẻ online ) .................................... 26
DÒNG LỆ VUI MỪNG ( Từ Tredeponline.com ) .................................................................................... 28
NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ........... 28
HÃY LÀ CHÍNH MÌNH
Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế
và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những
người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn
Sứ Isaia ( Is 5 ). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong
khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn Dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến
những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là
người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho,
quản lý thì ra quản lý.
2
CÙNG SUY NIỆM
Nho ra nho
Ngôn Sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng
vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và
chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta
là những cây nho, là những cành nho ( x. Ga
15 ). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân,
tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên
Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính
cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào.
Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các
điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện
sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả
năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời
và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng
phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới
để tăng ra hoa, kết trái.
Đề hấp thụ dinh dưỡng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết
hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa.
Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho
nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thì Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm
mình. Hằng năm cứ đến Mùa Chay Thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta
nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.
Quản lý ra quản lý
Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm
nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu
kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho
phải sai hoa, mọng trái.
Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của
công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước... Theo chiều kích tôn giáo,
thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo
mình. Dù là các mục tử trong Hội Thánh này Hội Thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền
trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi
nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định ( x. Rm 13, 1 ).
Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến
nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh
giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình
sửa sai. Trong lịch sử Dân Chúa xưa, các Ngôn Sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã
sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các Ngôn Sứ thì những người tá điền là nhưng
người quản lý đã bách hại các ngài.
Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một
đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm
cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ.
Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di
họ và trao vườn nho cho những người khác.
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ.
Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn
này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng
đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.
Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho
nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải
bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi ( x. Ga 15, 6 ).
Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ
được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mải mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê
bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất
lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng ( x. Lc 12, 41 – 48 ).
Lm. Giuse NGUYỄN VĂN NGHĨA
3
ÁC GIẢ ÁC BÁO
Chúng ta thường nghe nói luật “Nhân – Quả”. Nhân Quả là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ
nguồn gốc tất yếu của các hiện tượng, trong đó hiện tượng này ( nguyên nhân ) sản sinh ra hiện tượng
khác ( kết quả ). Người Việt cũng có khái niệm Nhân Quả khi nói: “Ở hiền gặp lành” ( tích cực ), “gieo
gió gặt bão” ( tiêu cực ), hoặc “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”,... Người Anh cũng có cách nói
tương tự: “You reap what you sow” ( Bạn gặt những gì bạn gieo ). Có lẽ cũng có thể so sánh luật Nhân
Quả tương tự loại vũ khí Boomerang của thổ dân Úc, ném đi rồi nó lại quay về mình.
Nguyên lý Nhân Quả trong đời sống diễn ra theo quá trình mà
“phần biết” và “phần được biết” chỉ là sự phân lập từ một tổng thể là
“cái biết”, cho nên hiện tượng nó tạo ra sẽ được gọi là “hiện tượng
nội sinh” – một hiện tượng mà Phật học gọi là “kamma” ( nghiệp,
nghiệp chướng ). Theo Phật Giáo, hiện tượng này không do một
đấng quyền năng tối cao hay một thế lực siêu nhiên nào chi phối, nên
“nhân quả” được xem là nguyên lý quan trọng nhất của đời sống,
khi các vấn đề của đời sống được tìm hiểu từ trong bản chất của nó.
Chúng ta cũng nghe nói: “Ác giả ác báo”. Đó là nói tắt của
câu ngạn ngữ Trung Hoa: “Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai”. “Ác
giả” là người xấu, việc ác; “ác báo” là điều ác đáp lại. “Thiện giả” là
người tốt, việc tốt; “thiện lai” là điều lành đáp lại. “Ác giả ác
báo” nghĩa là người làm việc ác thì gặp điều ác báo lại, hoặc việc ác
này sẽ bị việc ác khác báo lại – thường gọi là “quả báo”. Câu này
nêu lên sự ảnh hưởng tương tác của hành động, ngụ ý khuyên
người ta chớ làm việc ác để tránh điều ác, và nên ăn ở hiền lành để
gặp sự lành: “Ở hiền gặp lành”. Người Tây phương còn nói một câu
theo tinh thần của Kinh Thánh: “Kẻ nào đào hố bẫy ai thì kẻ đó sẽ
rơi xuống hố”.
Trình thuật Is 5, 1 – 7 là “Bài Ca Vườn Nho”. Bài ca này chắc hẳn có giai điệu thánh thót, với ca
từ như sau:
Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình.
Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ.
Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng,
Giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho.
Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại.
Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi,
Xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho.
Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm ?
Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại ?
Vậy bây giờ, tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi:
Hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo.
Người gieo trồng luôn muốn điều tốt, thế mà điều xấu lại xảy ra với họ. Người Việt không xa lạ gì
với nông nghiệp, nông dân luôn muốn lúa và hoa màu tốt tươi để có vụ thu hoạch cao, thế mà có khi
mùa màng lại thất bát, thậm chí họ bị trắng tay. Tương tự, có lần Chúa Giêsu cũng đã kể dụ ngôn “lúa
và cỏ lùng” ( Mt 13, 24 – 30 ). Tác giả “Bài Ca Vườn Nho” kể cho người bạn thân nghe biết về vườn nho
của mình. Tác giả ( tức là chủ nhân ) muốn có nho tốt mà lại chỉ thấy nho dại. Thất vọng ê chề, chủ
nhân đành phải chặt phá hàng giậu cho “vườn bị tan hoang” và đập đổ tường cho “vườn bị giày xéo”.
Nước Trời được ví với nhiều thứ, một trong các thứ đó là “vườn nho”. Tác giả Thánh Vịnh cho
biết: “Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng” ( Tv 80, 9 ). Vì là giống tốt
nên “bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành sum sê rợp bá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại
dương, chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả” ( Tv 80, 12 ). Nhưng rồi điều bất thường xảy ra: “Tường rào
nó, vậy sao Ngài phá đổ ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn ! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm
tan hoang” ( Tv 80, 13 – 14 ).
Vường hoang, nhà trống. Chắc chắn không là lỗi của chủ nhân bất cẩn hoặc bỏ mặc, mà vì kẻ
xấu. Đó là chính các tội nhân chúng ta đã làm hư hại Vườn Nho của Thiên Chúa. Nhưng mặc lấy tâm
tình yêu thương của Đấng giàu lòng thương xót, tác giả Thánh Vịnh vẫn chân thành và tha thiết cầu xin:
“Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ,
bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” ( Tv 80, 15 – 16 ).
4
Không chỉ vậy, tác giả Thánh Vịnh còn đại diện cho cả nhân loại mà thề hứa trước Tôn Nhan Thiên
Chúa: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng
tụng danh Ngài. Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
để chúng con được ơn cứu độ” ( Tv 80, 19 – 20 ). Và rồi Thiên Chúa đã thương xót mà bỏ qua tất cả, để
chúng ta lại được làm con cái Ngài và được thừa kế gia nghiệp của Ngài. Chúng ta diễm phúc lắm ! Vậy
chúng ta phải làm gì để tạ ơn Ngài ? Đó là điều mỗi chúng ta phải tự trả lời cho rạch ròi và dứt khoát.
Tuy nhiên, đừng run sợ mà bạt vía kinh hồn, vì Thiên Chúa nhân hiền, không chấp lách chi
đâu, chỉ cần chúng ta biết chân thành nhận lỗi là Ngài ưng nhận ngay. Thánh Phaolô cũng động viên:
“Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và
tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên
Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô
Giêsu” ( Pl 4, 6 – 7 ). Thế thì còn gì bằng, chả lo sợ chi nữa. Chúa mà. Thánh Clara cũng đã từng nói
với các nữ tu: “Đừng sợ ! Hãy tín thác vào Chúa Giêsu !” Nhưng cũng đừng vội thấy vậy mà ỷ lại đấy.
Ỷ lại hoặc ảo tưởng là chết chắc !
Thánh Phaolô dặn dò thêm: “Ngoài ra, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh
tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, xin anh
em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra
thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em” ( Pl 4, 8 – 9 ). Hai cụm từ “hãy để ý” và
“hãy đem ra thực hành” rất quan trọng. Đó cũng là mệnh lệnh, phải nhận thức và ghi nhớ nằm lòng.
Nghe ngắn gọn và đơn giản nhưng lại không dễ dàng thực hiện !
Trình thuật Tin Mừng hôm nay ( Mt 21, 33 – 43 ) là dụ ngôn “Những Tá Điền Sát Nhân” ( tương
đương Mc 12, 1 – 12 và Lc 20, 9 – 19 ). Câu chuyện rất thực tế. Trong đó cũng có vấn đề liên quan lòng
đố kỵ, ganh tị và ghen ghét: “Con gà tức nhau tiếng gáy”.
Một hôm, Chúa
Giêsu bảo người ta hãy
nghe một dụ ngôn khác về
những con người lòng lang
dạ thú: Có gia chủ kia trồng
được một vườn nho; chung
quanh vườn, ông rào giậu;
trong vườn, ông khoét bồn
đạp nho, và xây một tháp
canh. Ông cho tá điền canh
tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến
mùa hái nho, ông sai đầy tớ
đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: Chúng đánh người này, giết người kia,
ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như
vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể người con đó.
Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt
lấy gia tài nó !” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi.
Chúa Giêsu thản nhiên hỏi họ: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia ?” Họ
đồng thanh: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ
đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”. Đức Giêsu vừa cười vừa gật gù vì thấy họ nói đúng, rồi Ngài bảo họ:
“Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá
tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Ngài biết họ là
những kinh sư và thầy thông luật, thuộc Cựu Ước làu làu, dẫn chứng câu mấy rạch ròi, thế nên Ngài
“nhắc khéo” họ về Thánh Vịnh: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường” ( Tv 118, 22 ).
Rồi Ngài kết luận: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa, mà ban
cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” ( Mt 21, 43 ).
Đó cũng là lời Đức Giêsu Kitô đang “nhắc khéo” mỗi chúng ta về cách hành xử với Thiên Chúa
và với tha nhân, đặc biệt là những người “yếu thế” hơn mình, về cả vật chất lẫn tinh thần. “Đá Tảng” đó
là gì hoặc là ai ? Không còn ai trồng khoai đất này, đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết để cứu độ
chúng ta, mà chính tay chúng ta cũng nhúng chàm, mỗi chúng ta cũng là thủ phạm đã giết Con Thiên
Chúa. Chúng ta không trực tiếp đóng đinh Chúa Giêsu, nhưng chúng ta trực tiếp sát hại Ngài khi chúng
ta “giết” tha nhân bằng nhiều loại đinh nhọn và sắc bén: Lời nói, ánh mắt, cử chỉ, thái độ, hành động...
Và chính Chúa Giêsu hôm nay lại một lần nữa cảnh báo mỗi chúng ta: “Ai ngã xuống ĐÁ này, kẻ
ấy sẽ tan xương; ĐÁ này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt” ( Mt 21, 44 ). Thật đáng sợ biết bao ! Đúng
5
là đáng sợ thật, vì Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu không sám hối thì sẽ chết hết” ( Lc 13, 3 ). Ai cũng là
tội nhân, vấn đề hơn thua nhau chỉ là biết nhận lỗi và có sám hối hay không.
Các tư tưởng lớn sẽ có lúc gặp nhau. Các hiền triết cũng có quan niệm giống nhau về khái niệm
“ác giả, ác báo”. Đó là một dạng ý thức hệ. Khổng Tử nói: “Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện
giả, thiên báo chi dĩ họa” – Người làm điều tốt lành thì trời lấy phúc báo đáp lại người đó, kẻ làm điều
không tốt lành thì trời lấy họa báo đáp lại kẻ đó. Trang Tử nhận định: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác tự
giai khởi” – Nếu một ngày không nghĩ đến điều thiện, mọi điều ác sẽ tự dấy lên. Sách “Minh Tâm Bửu
Giám” ghi: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác” – Làm việc thiện sẽ được điều tốt, làm việc ác sẽ gặp
điều xấu. Các hiền triết cũng chỉ là phàm nhân mà họ vẫn có thể nhận biết như vậy, tư tưởng gần gũi với
Đức Kitô, họ đúng là thánh nhân rồi, thật đáng khâm phục và đáng để chúng ta noi gương lắm !
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết nhận mình là kẻ xấu để không ảo tưởng, nhờ đó
mà chúng con biết mở mắt-đức-tin to ra để có thể nhìn thấy cái-xà-tội-lỗi của mình chứ không
nhìn thấy cái rác nơi tha nhân. Xin giúp chúng con biết tích đức chứ không tích ác để hoàn thiện
từng giây phút cho đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng
cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
MARIA,
NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin
kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn
toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho
mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ
kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn
sùng và thực hành Bí Tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón
nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc
cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa,
hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ
Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là
một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp
Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế
Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà Thánh Êlisabét. Đây chính là cuộc
rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng
đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem Ơn Cứu Độ đến cho Thánh Gioan
Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh
Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai
cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả
đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống.
Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu
mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người
biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm
theo” ( Ga 2, 5 ). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa
thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà
nhớ đến Thầy” ( Lc 22, 19 ), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chầu Mình Thánh
Chúa, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi
Sọ và đứng dưới chân Thánh Giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân
mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm
6
Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở
thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi
đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu
Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con.
Nhận Thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp
nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn
trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết
yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một
chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa.
Tuy Năm Thánh Thể đã kết thúc từ lâu, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống Bí
Tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mai Khôi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu
mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo
Hoàng Gioan Phaolô 2 đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mai Khôi,
chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong
kinh Mai Khôi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới Bí Tích Thánh
Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn
phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mai Khôi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho
con bên tòa Chúa. Amen.
Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT
NHỮNG ĐÓA HỒNG TRẮNG DÂNG MẸ
Mừng kính Lễ Mẹ Mai Khôi, con cái Mẹ đồng tâm trìu mến
hướng về Mẹ. Cùng ngợi khen, chúc tụng, cảm tạ Mẹ đã và đang
đoái thương ban mưa hoa hồng ân phúc xuống con cái trông cậy
Mẹ. Hiệp ý cùng triều thần Thiên Quốc, chúng con kính dâng lên
Mẹ năm đóa bạch hồng trong vườn hoa Mầu Nhiệm Vui.
Đóa hồng Khiêm Nhu
Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai. Ta hãy xin cho
được ở khiêm nhượng. Trước vinh dự cao cả cực đại, mà không
phàm nhân nào dám ước mơ, được làm Mẹ Con Thiên Chúa, linh
hồn Mẹ ngợi khen Thiên Chúa, thần trí Mẹ hớn hở vui mừng.
“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi
đời, sẽ khen tôi diễm phúc” ( Lc 1, 48 ). Mẹ sấp mình khiêm tốn
nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, cảm tạ Thiên Chúa đoái thương.
“Mẹ làm gương ẩn dật khiêm cung, nhưng đồng thời Mẹ
luôn luôn hiện diện phục vụ; Mẹ không ra mặt, không lên tiếng, nhưng Mẹ hằng ở gần bên Chúa Giêsu,
sống trọn vẹn cho Chúa và Chúa trong con” ( Đường Hy Vọng, số 926 ).
Đóa hồng Bác Ái
Đức Mẹ đi viếng bà Thánh Isave. Ta hãy xin cho được lòng yêu người.
Dù được chịu thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, được vinh dự cưu mang Đức Chúa Giêsu, Mẹ vẫn
khiêm tốn nghĩ đến tha nhân, thân thiết đến thăm hỏi bà chị họ Isave, cũng đang mang thai Thánh Gioan
Tiền Hô được sáu tháng. Chẳng lo thủ thân, chẳng nề quản mệt nhọc, xa xôi, hiểm trở đường xá, Mẹ
hăng hái ra đi dấn thân vì lòng bác ái, yêu người, mong muốn chia sẻ niềm vui, lẫn nỗi lo với thai phụ
tuổi đã xế bóng, được ơn thánh huyền diệu.
“Mẹ Maria không chỉ nhìn Chúa Giêsu, Mẹ nhìn bà Isave, nhìn Gioan, nhìn đôi tâm hồn ở
Cana… Con hãy có cái nhìn của Mẹ: Nhìn Chúa, nhìn người” ( Đường Hy Vọng, số 948 ).
Đóa hồng Khó Nghèo
Đức Mẹ sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn. Ai mà chẳng
chạnh lòng, khi thấy một thai phụ bụng mang dạ chửa, nặng nề lê gót cùng chồng đi tìm quán trọ tại
Bêlem vào chiều đông giá buốt. Thế mà, bao quán trọ từ chối, vì họ không đủ tiền thuê phòng, vì luộm
thuộm nghèo túng, vì bộ dạng lam lũ thấp kém. Mặc dù người chồng cố gắng nài nỉ hết quán này đến
quán khác, đều chỉ gặp cái lắc đầu lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn xua đuổi.
7
“Mẹ Maria nghèo khó, không tiền, không bạc, có lúc không nhà cửa, không ghế bàn, Mẹ không
biết giảng, nhưng Mẹ có món quà quý nhất để cho Mục tử Bê lem, ba đạo sĩ phương Đông, Simêon và
Anna nơi Đền Thánh. Mẹ đã thinh lặng cho họ Chúa Giêsu, món quà mà chỉ Mẹ có, món quà ấy giảng
thay Mẹ, vì đó Ngôi Lời” ( Đường Hy Vọng, số 932 ).
Đóa hồng Vâng Phục
Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta hãy xin được vâng lời chịu lụy. Mẹ đã hết lòng
thành khẩn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa mầu nhiệm: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ
làm cho tôi như sứ thần nói” (Lc 1, 38). Mẹ đã “Xin vâng” cho đến tận cuối đời, đã chịu lưỡi gươm đâm
thấu tim khi Con Chúa chịu tử nạn, như lời ông Simêon, người công chính, đã tiên tri ( x. Lc 2, 38 ).
“Mấy lời vắn tắt diễn tả cuộc đời Mẹ con; với tâm tình thánh
thiện, hãy ghi vào lòng mà suy niệm và bắt chước: “Này con là tôi
tá”: Ecce. “Con xin vâng”: Fiat. “Linh hồn con ngợi khen Chúa”:
Magnificat. ( Đường Hy Vọng, số 920 ).
Đóa hồng Khiết Tịnh
Đức Mẹ tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta
hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn. Mẹ Maria chính là
trinh nữ đáng cung kính đã được ngôn sứ Isaia loan báo cho nhân
loại.“Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên
con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta"
( Is 7, 14). Mẹ khiết tịnh từ thân xác đến tâm hồn, Mẹ vô nhiễm
không hề vướng tội tổ tông truyền, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng,
luộn trọn tình, trọn nghĩa với Chúa.
“Sự hy sinh toàn hiến của Mẹ càng cao quý, khi Mẹ phó
thác cho Chúa trọn vẹn; đi ngược lại ước nguyện của các thiếu nữ
thời ấy. Mẹ đã quyết sống đồng trinh. Chúa đã ban cho Mẹ cả hai:
Vừa đồng trinh, vừa làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ nhân loại” ( Đường
Hy Vọng, số 933 ).
Lạy Chúa Giêsu, năm đóa hồng trắng là năm nhân đức
mà chính Chúa hằng dạy bảo đoàn chiên, đã được Mẹ Maria
thấm nhuần tuân giữ. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Mẹ để được sống gần gũi Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa hồng trắng tinh tựa tâm hồn thánh
thiện của Mẹ. Kính xin Mẹ giúp chúng con biết ý thức và cố gắng rèn luyện theo những nhân đức
của Mẹ, mỗi khi lần chuỗi Mai Khôi. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
LẦN HẠT MAI KHÔI
Lần Hạt Mai Khôi là lời cầu nguyện của những người bé nhỏ nghèo hèn trước mặt Chúa, ý thức
mình là thân phận của những kẻ lữ hành. Lần Hạt Mai Khôi là sự kết hợp của tất cả các tâm hồn khiêm
hạ, nhìn nhận mình là phần tử trong đại gia đình nhân loại, trong đó cha mẹ hiệp nhất với con cái trong
lời cầu nguyện này.
Lần Hạt Mai Khôi là chiêm niệm giống như các đan sĩ nam nữ thường xuyên ở trong sự thinh
lặng tĩnh mịch, sống lòng bên lòng với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ thế giới.
Chúng ta bắt đầu khiêm tốn từng bước nhịp lần Hạt Mai Khôi. Chúng ta sẽ suy niệm Tin Mừng.
Và gợi lên sự đợi chờ, sự khổ đau, niềm hy vọng của toàn thể nhân loại.
Bắt đầu lần chuỗi. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen.
Kinh Tin Kính, Kinh Lạy Cha, 3 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, cả cuộc đời của Đức Giêsu Con Cha là một chuỗi hành
hương, khởi đầu từ phép rửa tại sông Giođan đến ngày Phục Sinh. Đức Maria, Mẹ Ngài trong niềm tin,
đã đồng hành cùng Con Mẹ, chính Mẹ là môn đệ đầu tiên. Xin Mẹ đồng hành và cầu nguyện với chúng
con trong lúc này đây, ước gì việc suy niệm Kinh Mai Khôi này là chuyến hành hương trong của chúng
con trong đức tin. Chúng con cầu xin Cha, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Hát bài: Mẹ ơi, trước nhan Mẹ…
Thứ nhất thì ngắm: Thiên thần truyền tin cho đức bà chịu thai.
8
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Luca ( Lc 1, 30 – 33 ):
Thiên thần nói với bà: "Maria, đừng sợ ! Vì người đã đắc sủng nơi
Thiên Chúa. Và này, nơi lòng dạ, người sẽ thụ thai, và sinh con, và
người sẽ gọi tên Ngài là Giêsu. Ngài sẽ làm lớn, và được gọi là Con
Ðấng Tối cao, và Chúa Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai Ðavít cha
Ngài; và Ngài sẽ làm vua trên nhà Giacóp cho đến đời đời, và vương
quền của Ngài sẽ vô cùng vô tận !"
Chúng ta suy niệm và chiêm ngắm mầu nhiệm Ngôi Hai Con
Thiên Chúa nhập thể làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.
Thật là ý nghĩa vì đây là dịp tốt để Đức Maria Mẹ chúng ta dẫn dắt
chúng ta tới Chúa Giêsu Con Mẹ. Vì chính Người, Đức Giêsu Kitô, đã
mạc khải cho chúng ta Tình Yêu của Thiên Chúa đối với loài người
và của mỗi người đối với Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta có thể đón
nhận ơn phúc cao cả này.
Quy tụ nhau đây chung quanh Mẹ Maria, chúng cùng cầu
nguyện cho hết thảy chúng ta, đặc biệt cho các bà mẹ đang cưu mang
và sẽ sinh con ý thức được các thai nhi là hình ảnh sống động của Thiên
Chúa, chúng cần phải được bảo vệ giữ gìn, và có quyền sống, vì Con
Thiên Chúa đã làm người để dạy chúng ta điều đó. Xin cho con người ở
mọi nơi mọi thời biết kính trọng và yêu thương nhau.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Mẹ nguồn cậy trông…
Thứ hai thì ngắm: Đức Maria đi viếng bà Thánh Isave.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Luca ( Lc 2, 10 – 11 ): Thiên thần nói với các mục đồng:
"Ðừng sợ ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui hết sức lớn lao, tức là niềm vui cho toàn
dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vì Cứu Chúa, tức là Ðức Kitô Chúa, trong thành của Ðavít.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta chiêm ngắm sự khiêm nhường được tái thiết lập trong chính Ngài.
Đức Giêsu khiêm nhường và hiền lành trong lòng, thương xót, và kiến tạo hòa bình. Thiên Chúa làm
người nơi Đức Giêsu Kitô để cho chúng ta được tham dự vào thần tính của Con Thiên Chúa. Chúng ta
có thể đón nhận với tất cả niềm tin, sự nhập thể này.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho tất cả những ai đang thành tâm thiện chí kiến tạo công lý và hòa
bình trên mặt đất này, chúng ta cùng cầu nguyện cho tất cả những ai đang bị đối xử bất công, những ai
đang bị cầm tù và kết án, để họ được nâng đỡ với tình người, mang ánh sáng Tin Mừng chiếu dọi vào
nơi tăm tối, để giúp họ sinh ra trong đời sống thần linh.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, và những người phục vụ công
ích. Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa chúng ta chiếu dọi vào tâm hồn họ để họ bảo đảm hòa bình và tự
do của các dân các nước. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nạn nhân Kitô giáo đang bị bách hại
và bị đối xử ngược đãi vì Tin Mừng, được bảo vệ đúng với nhân phẩm, quyền tự do của con người và
tự do tôn giáo.
Xin cho họ tiếp tục là chứng nhân cản đảm của Lời Chúa để họ có thể sống và tuyên xưng tự do
đức tin của mình.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Dâng hiến Mẹ
Thứ ba thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Maccô ( Mc 1, 9 – 11 ): Trong những ngày ấy, Ðức Giêsu
bỏ Nadarét, xứ Galilê, và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Ngài
thấy trời xé ra và Thần Khí, như con chim câu, đáp xuống trên Ngài; Và một tiếng phát ra tự trời: "Con là
con chí ái của Ta, kẻ Ta sủng mộ".
Trong ngày Đức Giêsu chịu phép rửa, Đức Chúa Cha đã thánh hiến Đức Giêsu trong Thánh
Thần và sai Ngài đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Phần chúng ta, ngày chúng ta lãnh nhận
Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được mời gọi trở nên những chứng nhân của Chúa Phục Sinh cùng một
Thánh Thần. Chúng ta có thể sống thực sự là con cái Thiên Chúa, giữa lòng Giáo Hội, mở ra sứ mạng
loan báo Tin Mừng.
9
Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người trẻ hôm nay, để họ nhận biết Thiên Chúa và cho tất
cả những ai chưa gặp gỡ Ngài, những ai là nạn nhân của bạo lực, của nghiện ngập và tất cả những
người dối trá.
Chúng ta cùng cầu cho những ai giúp đỡ họ lớn lên trong khiêm tốn, trở nên những chứng nhân
Hy vọng Nước trời cùng với họ. Hiệp thông cùng tất cả các bạn trẻ kitô giáo khắp nơi trên thế giới,
chúng ta cầu cho họ được hiệp nhất cùng nhau trên toàn thể địa cầu.
Ước chi Lời của Bình An, Lời của Tin Mừng chất
vấn họ, chúng ta sẽ phục vụ cho sự quan phòng của Thiên
Chúa hòa giải tất cả mọi người trong Chúa Kitô. Để chúng
ta có thể nên một trong đức tin, trong tình yêu thương và
phục vụ, và là hình ảnh của những môn đệ đầu tiên của
Đức Kitô họ đã nên một lòng một ý với nhau, giờ đây
chúng ta cùng cầu nguyện.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Kính mừng Nữ Vương
Thứ tư thì ngắm: Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước
Trời và kêu goi sám hối.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Máccô ( Mc 1,
14 – 15 ): Sau khi Gioan đã bị nộp, thì Ðức Giêsu đến xứ
Galilê, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: "Thời
buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối
cải và tin vào Tin Mừng".
Thiên Chúa phán và điều đó đang có. Đức Kitô hiện
diện và Nước trời đang đến. Ngày hôm nay, Giáo Hội loan
báo Lời Chúa và Nước Trời ở giữa chúng ta chúng ta có thể
sống và chia sẻ kinh nghiệm với mọi người nam cũng như nữ
mà chúng ta gặp gỡ, để chúng ta gần kề nhau, chia sẻ sự
sống với nhau.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Linh Mục, Phó Tế,
nam nữ Tu Sĩ và cho tất cả mọi người Kitô hữu biết chu toàn sứ mạng trong Giáo Hội. Chúng ta cùng
cầu nguyện cho các Chủng Sinh và những nhà đào tạo. Chúng ta cũng cầu nguyện cho hết thảy những
ai được Thiên Chúa kêu gọi trở nên người phục vụ Lời Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho anh chị
em Kitô hữu chúng ta trên toàn thế giới để họ cùng nhau tuyên xưng một niềm tin vào Chúa Kitô chết và
sống lại vì kính mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Xin Vâng
Thứ năm thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể.
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô ( 1 Cr 11, 23 – 25 ): Vì
chưng, chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều tôi truyền lại cho anh em. Là: Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị
nộp, Ngài đã cầm lấy Bánh, và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và nói: "Này là Mình Ta, vì các ngươi, hãy làm
sự này mà nhớ đến Ta". Cũng vậy về chén, sau khi đã dùng bữa tối xong, Ngài nói: "Chén này là Giao
ước mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta."
Chúa Giêsu đã tự hiến chính thân mình để cứu chuộc chúng ta như Con Chiên vô tội và Thiên
Chúa đã đón nhận như hy tế ngợi khen.
Thế nên, khi chúng ta ăn Mình Ngài bị hiến tế vì chúng ta, thì chúng ta được mạnh sức và khi
chúng ta uống máu Ngài đổ ra vì chúng ta, thì chúng ta được tẩy sạch. Đây là mầu nhiệm đức tin có thể
mở ra cho chúng ta ơn cả nghĩa đầy trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô. Xin Chúa gìn giữ ngài trong tình yêu,
dẫn dắt ngài trong cương vị mục tử, để dân Kitô giáo được luôn luôn phát triển trong đức tin, hiệp nhất
trong bình an.
Chúng ta cũng cầu cho Đức Giám Mục của chúng ta và cho các Giám Mục trên toàn thế giới: để
các ngài dẫn dắt, thánh hóa và cai quản Hội Thánh theo ý Chúa muốn.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Dâng Về Mẹ
10
Thứ Sáu thì ngắm: Đức Giêsu hấp hối trong vườn cây dầu.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu ( Mt 26, 37 – 39 ): Đức Giêsu đem Phêrô và hai
người con của Giêbêđê đi theo, và bắt đầu buồn bã và âu sầu. Bấy giờ Ngài bảo họ: "Hồn Ta buồn
phiền quá đỗi, muốn chết được; các ngươi hãy ở lại đây mà thức với Ta". Tiến xa thêm ít bước, Ngài
sấp mặt xuống mà cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi Con !
Song không phải như ý Con, mà là như ý Cha".
Bước vào cuộc Thương Khó, Đức Kitô tự do tiến gần tới cái chết, Ngài tin tưởng tuyệt đối vào
Thiên Chúa, vì chỉ mình Ngài có thể chiến thắng sự chết và vượt qua cõi chết. Chúng ta là thân phận tội
lỗi phải chết và phải khổ đau. Trong những thử thách đau thương của cuộc đời nơi hành trình dương
thế, chúng ta có thể được Đức Kitô đỡ nâng và thánh hóa nhờ sự Phục Sinh của Ngài.
Chúng ta cùng cầu xin Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng giầu lòng thương xót đoái thương
những ai đang gặp thử thách gian nan: xin Ngài cất khỏi thế giới những lầm lỗi; an ủi những người lao
nhọc, để họ có được niềm vui nâng đỡ và lòng thương xót Chúa trong cảnh khốn cùng.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những ai vất vả và thất vọng. Với niềm tin tưởng, chúng ta
cùng cầu xin Chúa cho chính chúng ta cũng có được sức mạnh, nâng đỡ ủi an, xoa dịu anh chị em
chung quanh chúng ta đang bị khổ đau và bất hạnh.
Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu gia tăng các
nghệ thuật để xây dựng một nền văn hóa bảo vệ và thăng tiến
giá trị nhân bản con người.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Kìa ai rong ruổi
Thứ Bẩy thì ngắm: Đức Giêsu chịu chết trên cây
Thánh Giá.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Gioan ( Ga 19,
28 – 30 ): Sau đó bỏ dinh Caipha, họ điệu Ðức Giêsu đến phủ
đường. Trời đã sáng. Họ không vào phủ đường, kẻo mắc uế
mà không ăn lễ Vượt Qua được. Vậy nên Philatô ra ngoài gặp
họ và nói: "Các người tố cáo ông này về tội gì ?" Họ đáp lại và
nói với ông: "Nếu tên này không làm gì ác, thì chúng tôi đã
không đem nộp cho ngài".
Chúa Giêsu đã yêu chúng ta cho đến tận cùng là thí
mạng sống vì chúng ta, Ngài đã hiến dâng chính thân mình lên
Thiên Chúa Cha cho chúng ta. Nhờ thế, Thánh Giá trở nên cây
phúc trường sinh và nguồn vui của chúng ta. Chúng ta có thể
đạt tới vinh quang nhờ sự Phục Sinh của Chúa Kitô, và được
ghi dấu vào Thánh Giá Chúa Kitô.
Chúng ta cùng cầu xin cho hết mọi người nam cũng như nữ đã qua đời, xin cho họ gặp được Đức
Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại, Ngài đã chết vì họ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho hết thảy mọi người còn
sống cũng như đã qua đời cảm nghiệm được lòng nhân lành của Thiên Chúa.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh quan thầy... chúng ta cùng cầu cho các tôi tớ nam cũng như nữ
đang đồng hành với hết mọi người cho đến lúc lìa thế, xin Chúa hướng dẫn tâm hồn họ theo lòng nhân
hậu Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho hết mọi người trên toàn thế giới, và đặt biệt những người
hữu trách trong các lãnh vực kinh tế cũng như chính trị, để họ luôn tìm cách cải tạo thế giới.
Đức Giáo hoàng đã gửi thông điệp cuối cùng cho "tất cả những người có lòng thiện tâm". Chúng
ta cùng cầu xin Chúa cho chính chúng ta không tìm kiếm xem tài liệu này nối kết cái nhìn của chúng ta
với thế giới, nhưng là cái nhìn của chúng ta với thế giới phải thay đổi làm sao để tình yêu trong chân lý
thực sự là suối nguồn hướng dẫn mọi hành động của chúng ta.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Lạy Mẹ là Ngôi Sao sáng
Thứ Tám thì ngắm: Đức Giêsu sống lại.
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Luca ( Lc 24, 30 – 32 ): Và xảy ra là khi vào bàn với họ,
Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng đoạn bẻ ra Ngài trao cho họ, thì mắt họ mở ra và nhận biết Ngài... nhưng
Ngài đã bỏ họ mà biến rồi. Và họ nói cùng nhau: "Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng lúc dọc
đàng Ngài ngỏ lời với ta, và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta đó sao ?"
11
Nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, bản tính nhân loại được đổi mới, tìm lại được phẩm giá nguyên
thủy mà Thiên Chúa đã phú ban cho chúng ta trong Đức Kitô. Nguyện xin Chúa là Chúa chúng ta dẫn
dắt chúng ta tới nguồn ơn cứu độ tròn đầy đã được khai mở trong mầu nhiệm Phục Sinh và ước chi hết
thảy mọi người trở nên con Thiên Chúa và anh em với nhau trong Đức Kitô.
Chúng ta cùng cầu xin cho hết những ai không cùng tín ngưỡng với chúng ta, cho những nạn
nhân đang bị kỳ thị và những ai mất tính người.
Chúng ta cùng cầu xin cho nhưng ai từ bỏ gia đình và đất nước được mạnh sức để chiến đấu
vì chế độ áp bức. Xin cho họ nhận được sự trợ giúp của người kitô hữu trong việc bảo vệ và giữ gìn
quyền của họ.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các tôn giáo bạn, với đời sống chứng nhân của họ, làm chứng
tỏ tường rằng Danh Thiên Chúa mang lại bình an cho họ.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho hết mọi người thuộc mọi dân tộc, ngôn ngữ, quốc gia sống
yêu thương đùm bọc lẫn nhau, nguyện xin sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là nguồn sống và bình
an cho chúng ta.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Lạy Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa
Thứ Chín thì ngắm: Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Bài trich sách Tông Đồ Công Vụ ( Cv 2, 1 – 4 ): Khi thời gian đã mãn, đến lễ Năm Mươi, mọi
người cùng nhau tề tựu một nơi; thì bỗng xảy đến tự trời một tiếng rào rào như thể do cuồng phong thổi
đến, vang dậy cả nhà, nơi họ đang ngồi. Và họ thấy những lưỡi như thể là lửa, phân tán dần mà đậu
trên mỗi người trong họ. Và hết thảy họ được đầy Thánh Thần, và bắt đầu nói những tiếng lạ, tùy theo
Thần khí ban cho họ phát ngôn.
Nhờ mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa đã thánh hóa Giáo Hội của Chúa
giữa muôn dân để Giáo Hội Chúa được lan rộng khắp nơi, và qua Giáo Hội, ơn Chúa Thánh Thần được
tràn ngập tâm hồn các tín hữu Chúa. Nguyện xin Chúa không ngừng đổ tràn Thánh Thần Chúa xuống
tâm hồn các tín hữu Chúa, để Thánh Thần Chúa thấm nhập vào trong trí khôn mầu nhiệm tình yêu mà
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng những người trẻ tình yêu Thiên Chúa và gieo
vào lòng họ nguồn suối hy vọng, biến họ thành những con người mới.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho toàn thể cộng đoàn Dân
Chúa biết đáp lời mời gọi trở nên Thánh Thiện và thi hành Sứ
Mạng được đỡ nâng, nuôi dưỡng nhờ sự phân định ơn đoàn
sủng và hăng say nhiệt thành đào tạo về phương diện thiêng
liêng và văn hóa.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần quy tụ tất cả
mọi người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ trong cùng một đức tin,
xin Người gìn giữ tất cả những người kitô hữu, để họ trung
thành với đức tin mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Hát bài: Mẹ hoài đứng đó…
Thứ Mười thì ngắm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ
trên Trời.
Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan ( Kh 12, 1 ):
Một dấu lạ vĩ đại hiện ra trên trời: một Bà có mặt trời bao quanh,
chân trên mặt trăng, và đầu có triều thiên mười hai sao.
Nhờ công nghiệp Thập Giá của Đức Kitô, Thiên Chúa đã
ân thưởng Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu Trinh Nữ Rất Thánh Vô
Nhiễm Nguyên tội cả hồn và xác lên trời. Phần chúng ta, chúng
ta cũng được cứu chuộc nhờ Thập Giá của Đức Giêsu Kitô,
chúng ta cũng có thể chiêm ngắm Đức Maria, hình ảnh hoàn
hảo của Giáo Hội, phần tử đầu tiên được cứu chuộc, dưỡng nuôi niềm hy vọng của chúng ta trên hành
trình dương thế.
Giữa lòng Giáo Hội, chúng ta cùng cầu xin cho tất mọi người đang ngày đêm lê bước trên
đường nên thánh; để họ được đón tiếp, được nguyện cầu, được gặp gỡ trong Thiên Chúa; để họ được
lôi kéo bởi vẻ đẹp của Giáo Hội. Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho họ nhiều ân sủng; chúng ta cũng
12
cầu cho những ai đang mỗi ngày lao công để hướng về trời cao, nơi mà chúng ta cũng như họ phải đạt
tới sau cuộc hành trình dương thế này.
Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh...
Kết thúc
Chúa ở cùng anh chị em… Và ở cùng cha. Xin Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha, và Chúa
Con, và Chúa Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em. Amen.
Hát bài: Salve, Regina...
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
( Ephata xin được biên tập một phần )
NGƯỜI CÔNG GIÁO VỚI VIỆC ĐỐI THOẠI
Nghe nói đến đối thoại tôn giáo, người Công
Giáo chúng ta thường có thái độ bàng quan cho đó là
việc của Giáo Hội, của các chuyên gia thần học này nọ.
Tuy nhiên nếu hiểu đối thoại là gặp gỡ trao đổi với
người khác về những vấn đề cùng quan tâm thì đây lại
là bổn phận không thể thoái thác. Thánh Phêrô nói:
“Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn
về niềm hy vọng của anh em” ( 1 Pr 3, 15 ).
Để có thể sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai dù
người đó là vô thần hay khác tôn giáo thì người Công
Giáo chúng ta cần phải sống cái đạo của mình. Càng
sống tốt chừng nào thì đối thoại càng kết quả chừng
đó. Ngược lại, chẳng những không sống đạo mà còn
nghịch đạo nữa thì thậm chí nguy.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài huấn từ nhân dịp gặp gỡ các Giám Mục Á Châu tại Đền Các
Thánh Tử Đạo Haemi ( Hàn Quốc ) ngày 17.8.2014 đã nêu ra ba trở ngại lớn khiến người Công Giáo
không sống đạo tốt. Một là ánh sáng lừa đảo của thuyết Tương Đối là điều che lấp sự rạng ngời của
chân lý và lay chuyển vùng đất dưới chân chúng ta, kéo chúng ta về phía những bãi cát lún cát lầy của
mơ hồ và thất vọng. Hai là sự nông cạn, tức khuynh hướng chạy theo những mốt mới nhất, những tiện
nghi và những trò tiêu khiển thay vì tham gia vào những điều thực sự quan trọng. Ba là nấp sau những
thái độ có vẻ an toàn, những luật lệ và quy tắc có sẵn” ( Nguyệt san Cg & Dt số 236 tháng 8/2014 ).
Huấn từ của Đức Thánh Cha nói với các Giám Mục nhưng cũng là cho tất cả chúng ta, những
người có quan tâm đến vận mệnh Giáo Hội, tại đây, lúc này.
Sở dĩ thuyết Tương Đối có thể che lấp sự rạng ngời của chân lý bởi theo thuyết này thì không có
cái chi là tuyệt đối: Điều đúng cho anh chưa chắc đã đúng cho tôi. Dẫu vậy con đường tâm linh luôn đòi
hỏi tính tuyệt đối. Chính vì vậy Đức Kitô mới đưa ra khẳng định: “Thầy là đường, là sự thật và là sự
sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ). Chúa nói Ngài là con đường duy
nhất đến với Chúa Cha thì đó là chân lý tuyệt đối. Trái lại, nếu ai bảo rằng ngoài Chúa Kitô, cũng có thể
đến được với Chúa Cha thì người đó không có Đức Tin chân thật. Ngày nay trong thời tục hóa người ta
chẳng những không nhìn nhận chân lý Tuyệt Đối nơi Đức Kitô mà còn phủ nhận Đấng Cha bằng một
thứ thần học… giết chết Thiên Chúa ( Théologie de la mort de Dieu ) !
Chính do nơi phủ nhận chân lý tuyệt đối ấy mà con người ngày nay dù sống trong vùng ảnh
hưởng của tôn giáo nhưng Đức Tin không thể đứng vững và tất nhiên sẽ bị lôi kéo về phía những bãi
cát lầy cát lún của mơ hồ và thất vọng. Khi niềm tin chân thật vào Đức Kitô đã mất thì toàn bộ cuộc sống
sẽ rơi vào bại hoại không còn sức sống. Làm sao có thể còn sức sống một khi đã đánh mất con đường
về với Chúa Cha cũng là Chân Bản Tính của mình ? Trở về với Chân Bản Tính, chỉ có con đường tâm
linh ấy mới có thể tạo nên sức sống cho Giáo Hội và cho từng mỗi tín hữu. Ngược lại, đời sống tôn giáo
hoặc chỉ còn là một thứ hình thức hời hợt nông cạn hoặc nấp sau những thái độ có vẻ an toàn cùng với
những quy tắc luật lệ có sẵn v.v…
Bằng một đời sống chỉ vụ hình thức và hời hợt như thế thì làm sao có thể sẵn sàng trả lời cho
những chất vấn về niềm tin của mình ? Nói rằng tin Chúa nhưng có thật là chúng ta tin vào Đức Kitô
13
CÙNG PHÂN TÍCH
Đấng Cứu Độ mình ? Tin Đấng Cứu Độ có nghĩa phải hết lòng tin vào mạc khải của Ngài về Đấng Cha
“Ngoài Cha không ai biết Con, cũng như ngoài Con và người nào Con muốn mạc khải, cũng không ai
biết Cha” ( Lc 10, 22 ). Biết Cha ở đây không phải là cái biết của tri thức thần học nhưng là cái biết của
thực tại "Môsê thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: "Này tôi sẽ đi đến dân Israen nói cùng chúng rằng Đức
Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi, nhưng nếu họ hỏi Tên Ngài là chi thì tôi biết
nói với họ làm sao ?" Đức Chúa Trời phán: "Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu". Rồi Ngài nhắc lại rằng:
"Hãy nói cho dân Israen như vầy: "Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” ( Xh 3, 13 – 14 ).
Cái biết của tri thức thần học thuần túy chỉ là cái biết của khái niệm. Nói cách khác cái biết ấy chỉ
là một ý niệm nào đó về Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa như chính là Ngài. Để có thể đến được
Thiên Chúa như chính là Ngài ( Tự Hữu Hằng Hữu ) thì không thể có con đường nào khác ngoài ra mạc
khải của Đức Kitô về Thiên Chúa nội tại và đây cũng chính là ơn gọi của từng mỗi Kitô Hữu chúng ta.
“Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh cũng như trong sự kêu gọi mình mà anh em đã được gọi đến một
hy vọng một Chúa, một Đức Tin, một phép rửa, một Đức Chúa Trời là Cha của mọi người. Ngài vượt
trên mọi người, suốt qua mọi người và ở trong mọi người” ( Ep 4, 4 – 6 ).
Hàng ngày chúng ta vẫn đọc Kinh Lạy Cha không biết bao nhiêu là lần. Thế nhưng đó có thể chỉ
là những lời ngoài môi ngoài miệng mà không hề có cảm nghiệm gì về Người Cha Thiên Chúa của
mình. Thiên Chúa là Cha, điều ấy nói lên một chân lý vô cùng cao cả nhưng cũng thật gần gũi: Tất cả
chúng ta không phân biệt chủng tộc giai cấp hay tôn giáo, đều là Con của Ngài, từ Ngài mà sinh. Từ khi
lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, hết thảy Kitô Hữu đều có ơn gọi làm Con Chúa.
Làm Con Chúa cũng có nghĩa chúng ta cần phải trở về với căn tính đích thực của mình. Trở về
với căn tính là về cái nơi mà mình phát xuất. Nơi phát xuất ấy Đức Kitô có khi gọi là Đấng Cha, có khi
gọi là Nước Trời. Dù dưới bất cứ danh xưng nào thì đó cũng để ám chỉ cho một thực tại hằng hữu siêu
việt mà thế giới hiện tượng không thể cảm nhận bằng giác quan cũng như suy luận. Thực tại ấy Thánh
Phaolô gọi là niềm hy vọng: “Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng, nhưng sự hy vọng đã thấy được
thì chẳng phải là hy vọng, vì có ai lại hy vọng điều mình đã thấy rồi ư ? Song nếu chúng ta hy vọng điều
mình chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông” ( Rm 8, 24 – 25 ).
Hy vọng vào điều chưa thấy và điều
chưa thấy, đó chính là Nước Thiên Đàng. Tin
có Thiên Đàng có Hỏa Ngục có sự thưởng
phạt vô cùng là niềm tin cố hữu của người
Công Giáo. Thế nhưng niềm tin ấy trong thời
tục hóa này dường như đang bị lung lay ?
Người ta lý luận rằng làm gì có cái chuyện
lên hay xuống. Nói là lên Thiên Đàng chẳng
lẽ Thiên Đàng lại ở tít trên cõi trời mây kia.
Còn Hỏa ngục thì ở sâu tuốt dưới lòng đất
này sao ? Trước đây người ta có thể tin vào
những lời giảng dạy về Thiên Đàng về Hỏa
ngục theo cái nghĩa không gian vật lý như thế,
nhưng bây giờ trong thời khoa học vật lý vũ trụ
thì không thể như thế được.
Đối với người có đạo, dù có tin như
thế cũng chẳng sao nhưng với giới triết gia
hay khoa học gia thì đây quả là vấn đề hết sức nan giải. Đức Tin tôn giáo hoàn toàn không phải mù
quáng nhưng nó cũng cần được giải thích. Chúng ta tin có Thiên Đàng tức hy vọng vào điều chưa thấy
nhưng niềm hy vọng ấy phải chăng chỉ là ảo vọng ?
Friedrich Nietzsche ( 1844 – 1900 ) ông tổ của triết học Hiện Sinh đã nêu ra những nguyên nhân
phát sinh tôn giáo: “Đau khổ và bất lực, đó là căn nguyên đã sinh ra những đời sau. Đó là hạnh phúc của
những con người quá ư đau khổ. Sự mệt nhọc muốn nhảy một cái đến tận cùng. Chính sự mệt nhọc này đã
tạo nên các thần linh và các Thiên Đàng đời sau. Chính những kẻ bệnh tật và những kẻ ốm yếu đã khinh
chê thân xác và trái đất này. Họ đã tạo ra những sự trên trời.” ( Trần Thái Đỉnh – Triết Học Hiện Sinh ).
Sau triết Hiện Sinh là chủ nghĩa Duy Vật Vô Thần, Karl Mác nặng lời phê phán tôn giáo, cho nó
chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng bị áp bức… Phân tâm học của Sigmund Freud ( 1856 – 1939 )
phân tích quan niệm “Người Cha” của Kitô giáo và cho rằng “Người Cha” này là sản phẩm của ảo vọng
muốn được che chở tuyệt đối cũng như từ cảm thức tội lỗi phát sinh từ mặc cảm Oedipe, nghĩa là từ ý
thức về nhu cầu muốn được tha thứ v.v…
14
Trước những luận điểm gay gắt có tính chất vấn Đức Tin như thế, chúng ta cần trả lời ra sao ?
Phải chăng là thái độ im lặng, coi đó mặc kệ như tiếng chó sủa, còn kẻ lữ hành cứ đi ( Ngạn ngữ Ả
Rập ) ? Có điều nên nhớ những phê phán ấy đã gây nên ảnh hưởng vô cùng nặng nề đến đủ thứ thần
học, nhất là Thần Học Giải Phóng, và gần đây lại còn thấy cái gọi là Thần Học Tiện Dân ( Minjung ) của
Hàn Quốc nữa ! Không thể im lặng, vậy phải biết trả lời ra sao và bằng cách nào ?
Theo Thánh Phêrô thì: “Phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay
chính khiến những kẻ phỉ báng anh em phải xấu hổ vì những điều họ vu khống, bởi lẽ thà chịu khổ vì
làm việc lành nếu đó là Thánh Ý Chúa còn hơn là vì làm điều ác” ( 1Pr 3, 16 – 17 ). Dùng lý luận để đáp
trả lý luận thì cũng chẳng khác nào đổ dầu vào lửa, càng làm cho lửa bốc cao. Lý trí theo triết học Kant
thuần túy đó chỉ là “Cái Tôi Tưởng” ( Que Je Pense ): Tôi cho, tôi nghĩ, tôi quan niệm v.v… nó phải thế
này thế khác v.v…
Bao lâu còn dựa trên những “Cái Tôi Tưởng” như thế thì không bao giờ có thể thành công trong
đối thoại. Trái lại, để đi vào đối thoại thực sự thì nhất thiết cần phải bỏ “Cái Tôi” đi và đây cũng chính là
điều Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô”. Chỉ khi nào ăn ở
ngay thẳng trong Đức Kitô thì việc đối thoại mới kết quả, vì chưng chỉ có Ngài mới đem lại Sự Thật: “Sự
Thật sẽ giải thoát anh em” ( Ga 8, 32 ).
PHÙNG VĂN HÓA, 10.2014
ƠN GỌI
Không có gì lạ đối với bất cứ ai đã quen với quang
cảnh ở các quốc gia như Hoa Kỳ, có hai khái niệm rất
khác nhau về đời sống tôn giáo được thể hiện rộng rãi.
Một nhãn quan coi đời sống tu trì có nguồn gốc
sâu xa trong lịch sử, tính từ những người sáng lập các
cộng đoàn hiện có, qua các nhân vật quan trọng của
Công Giáo như các Thánh Inhaxiô, Đa Minh, Phanxicô,
Bênêđictô, Vinh Sơn Phaolô, Frances de Chantal và
Angela Merici. Vẫn có sự nối tiếp về truyền thống nguyên
vẹn của Kitô giáo Công Giáo, ngay từ các Tông Đồ đầu tiên theo tiếng gọi của Đức Kitô để sống đức
Nghèo Khó, Khiết Tịnh và Vâng Lời.
Theo quan điểm này, rõ ràng đời sống tu trì có một quá khứ lâu dài, thích nghi với mọi thời đại.
Sự hiện hữu hiện nay có một tương lai chắc chắn vì nó được xây dựng trên nền tảng suốt hơn 20 thế kỷ
của Kitô Giáo. Do đó, đời sống tu trì được nâng đỡ bởi cùng một tinh thần của Đức Kitô vẫn duy trì Giáo
Hội của Ngài, dù ngày nay có canh tân nhưng vẫn là một, bất kể thời gian và mọi thứ tàn phá.
Một nhãn quan khác về đời sống tu trì không chỉ khác mà còn tương phản. Nó sẵn sàng chấp
nhận quá khứ, và gọi là “quá khứ vinh quang”. Nhưng ngày nay, thời hoàng kim đó không còn, mà chỉ
còn là điều mong ước.
Theo đó, đời sống tu trì thực sự không có quá khứ theo dạng kiểu mẫu của hiện tại, nhưng là
tương lai tạm thời và không chắc. Đó là một phần của sự mặc khải liên tiếp mà Thần Khí Thiên Chúa
mà ngày nay chỉ thấy mờ nhạt, và có thể sẽ dần dần “mở ra” khi thế giới ngày nay đi xuyên qua lớp
sương mù của các ý thức hệ xung khắc đang bao phủ Tây phương như đám mây đen.
Theo tiền đề đó, không cần phải nói rằng khái niệm này vẫn có thể dùng thuật ngữ “đời sống tu
trì”, và giữ lại nhiều từ ngữ mà ngày xưa đã dùng – nhưng ngữ nghĩa đã thay đổi.
Do đó, ý nghĩa của ơn gọi tu trì cũng thay đổi nhiều. Nếu mỗi ơn gọi ( hoặc sự hướng nghiệp ) là
sự đáp lại tiếng gọi từ nội tâm, sự đáp lại đó được xác định bằng ý niệm của người đó về những gì
được nâng đỡ. Chẳng hạn, sự đáp lại của tôi là muốn trở thành bác sĩ, hiểu theo cách nào đó là “nghề
thuốc”. Theo cách này, đó là vấn đề tiêu chuẩn được các trường y dược đòi hỏi ở những người thỉnh
cầu. Điều cuối cùng họ muốn là một con người chưa rõ về nghề nghiệp mà người đó mong muốn.
Có lợi khi biết các quan điểm đối lập về đời sống tu trì và ơn gọi. Sự phân tích sẽ cho thấy điều gì đó.
Phía sau mỗi quan điểm đều có khái niệm khác về Giáo Hội. Điều đó cũng cho thấy những gì mà nhiều
người vẫn không tin là thật, rằng chúng ta đối diện với những gì còn hơn là ngữ nghĩa học ( semantics ),
thậm chí còn hơn là quen thuộc, và hiện nay, các tính từ có nghĩa xấu như “bảo thủ” và “phóng khoáng”,
hoặc “tĩnh” và “động”, vẫn có điều gợi ý.
Mục đích của tôi đặc biệt hơn. Đó là nói thẳng ra rằng chỉ có một khái niệm xác thực về đời sống
tu trì, nghĩa là khái niệm thứ nhất, có nguồn gốc là thiêng liêng, vì Đức Kitô đã thực hiện cách sống này,
15
và ngày nay, Ngài vẫn mời gọi cả nam và nữ đi theo Ngài và sống như Ngài đã sống: Sống theo lời
khuyên Phúc Âm ( evangelical counsels ).
Chúng ta trở lại vấn đề tảo luận: “Ơn gọi tu trì”. Kế hoạch của tôi là phản ánh các phương diện
của vấn đề này: Điều này có ý nghĩa gì ? Ngụ ý thần học là gì ? Và điều gì là hệ quả thực tế, thậm chí là
phê phán, khi thúc đẩy ơn gọi tu trì ?
Ý NGHĨA
When we affirm that a religious vocation is of divine origin we exclude, on principle, the claim that
religious life – to which vocations respond – is merely the product of human genius.
Một số người bảo chúng ta tin rằng đời sống tu trì có trong Giáo Hội trễ hơn sự phát triển của
văn minh Kitô Giáo. Chúng ta được biết nhiều điều. Cuối thế kỷ 2 và 3, một số Kitô hữu muốn thoát khỏi
sự bách hại và sự vô luân của các thành phố ở Rôma, Alexandria và Antioch, nên họ đã trốn vào hoang
địa và lập thành các cộng đoàn để họ sống an toàn, khỏi bị sự cám dỗ và sự đe dọa của chủ nghĩa
ngoại giáo suy đồi. Chúng ta chắc rằng Thánh Bênêđictô đã làm điều tương tự khi trốn khỏi cuộc xâm
lược man rợ trong thời của ngài.
Cũng vậy, Thánh Phanxicô là một nhà thần bí ( mystic )
chống lại sự sa hoa phản Kitô Giáo trong thời của ngài. Thế kỷ
XVI, Giáo Hội cần người lãnh đạo quân đội để bảo vệ Giáo
Hoàng và chống lại sự xâm nhập của Tin Lành. Ngay sau đó,
cuộc Cải Cách Đối Lập ( Counter Reformation ) kêu gọi thành
lập các trường học Công Giáo. Với sư hòa giải của Bắc Mỹ và
Nam Mỹ, và mới đây là thuộc địa Á châu và Phi châu – người
lao động nghèo ở các trại và các nhà cho người già, các nơi học
tập và chăm sóc người khuyết tật.
Trong mỗi trường hợp, người lãnh đạo uy tín đã thành
lập một tổ chức để thỏa mãn nhu cầu của thời đại. Chắc chắn
được gợi hứng bởi đức ái Kitô giáo, các thành viên được tuyển
mộ để đáp ứng nhu cầu hiển nhiên, và rồi một cộng đoàn khác
được thành lập rất nhanh.
Chỉ có vậy thôi sao ? Đúng, chỉ có vậy chứ không có gì
hơn. Tôi không chối rằng trong nhiều trường hợp, đối với những
gì ngày nay chúng ta đang trả giá mắc, các ngành nghề được
tuyển chọn khi chính phủ tuyển mộ người cho quân đội để thỏa
mãn chỉ tiêu nào đó về giáo viên, y tá, nhân viên từ thiện, người
quản lý các tổ chức,...
Nhưng sự lạm dụng không là tiêu chuẩn để hiểu ý nghĩa.
Khi Giáo luật được biên soạn năm 1917, và Bộ luật này đã chuẩn
bị chi tiết về đời sống tu trì – để ngăn ngừa hoặc làm giảm các sai
lỗi tương tự – không vạch ra tiêu chuẩn chính về ơn gọi tu trì. Tiêu chuẩn đã có trong Phúc Âm, và do đó
phải theo nguồn gốc, như Hiến pháp Giáo Hội đối với “giáo huấn và mẫu gương của Chúa”.
Chúa Giêsu Kitô là Tu sĩ đầu tiên. Đời sống và giáo huấn của Ngài đã gợi hứng nhiều người từ
khi Giáo Hội sơ khai, họ bán tất cả những gì họ có và cho người nghèo, rồi đi theo Chúa, họ khước từ
quyền kết hôn và quyền thừa kế, vui vẻ vâng phục những người hướng dẫn họ nhận ra tiếng Chúa gọi.
Khoảng năm 100, không ai nói rằng có những dòng tu phát triển mạnh hơn so với ngày nay.
Nhưng với cùng dấu hiệu, ngày nay không được diễn tả đầy đủ hoặc được hiểu rõ ràng. Cũng có điều
tương tự khi phát triển giáo lý. Thánh Thể, quyền tối cao của Giáo Hoàng, đời sống ân sủng sâu sắc và
mức độ thích hợp không chỉ có hồi năm 100, năm 700, hoặc thậm chí là năm 1900.
Tuy nhiên, nói vậy không là vấn đề, điều đó xác nhận rằng bản chất và các yếu tố cần thiết của
các mầu nhiệm chính trong Kitô giáo và chắc chắn được Đức Kitô mặc khải, do đó đã hiện hữu trong
lòng Giáo Hội từ thời các Tông Đồ.
NGỤ Ý THẦN HỌC
Khi chúng ta chân nhận rằng tinh hoa của đời sống tu trì là một phần trong sự mặc khải Kitô
giáo, với vô số ngụ ý thần học theo sau, ở đây tôi chỉ chọn ba điều: Các ngụ ý về Kitô học, Giáo Hội học,
và Thần Học Khổ hạnh ( Christology, Ecclesiology, Ascetical Theology ). Trong các vấn đề cơ bản mà
các nhà Kitô học đặt ra là vấn đề đã được tóm lược trong tác phẩm nổi tiếng của Thánh Anselmô, tác
phẩm “Cur Deus Homo !” ( Tại sao Thiên Chúa làm người ).
16
Xin trả lời ngay lập tức rằng Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại, giải thoát họ khỏi
tội lỗi và kéo họ ra khỏi bóng tối. Nhưng nếu người ta chưa thỏa mãn, họ nói: “Thế thôi ư ?” Chúng ta
phải nói rằng Thiên Chúa làm người không chỉ cứu độ thế giới bằng cách thánh hóa, không chỉ
giải thoát các tội nhân chúng ta khỏi tội lỗi, mà còn dẫn chúng ta tới nguồn thánh thiện nhờ kết
hợp với Ngài.
Tương tự, chúng ta phải nói rằng Đức Kitô đã thiết lập Giáo Hội không chỉ là phương cách cứu
độ, mà còn là phương cách thánh hóa. Nói cách khác, Ngài muốn các tín hữu của Ngài không chỉ được
giải thoát khỏi cái ác mà còn được nâng tới sự hoàn hảo. Qua Giáo Hội, Ngài cung cấp cho các tín hữu
cách nên thánh trong đời sống riêng, để người khác thấy gương của họ mà theo, và người khác được
giúp đỡ để đạt tới sự thánh thiện bằng cách thực hành các nhân đức.
Thánh Phaolô có lời khuyên mạnh mẽ: “Hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô” ( 1 Cr 11,
1 ). Một mệnh lệnh ngắn gọn nhưng tóm lược đời sống tu trì, do đó động lực chính phải thu hút ơn gọi tu
trì. Hơn nữa, ơn gọi không đưa tới sự thánh thiện bình thường, mà tới sự từ bỏ mình hoàn toàn, thề
hứa suốt đời – gọi là khấn trọng hoặc vĩnh thệ. Đó là sự hy sinh hoàn toàn qua ba lời khấn ( vâng lời,
khó nghèo, khiết tịnh ), phục vụ hoàn toàn vì người khác để thánh hóa thế giới.
Nếu chúng ta lầm lẫn ơn gọi nên thánh này với ơn gọi mọi Kitô hữu nên giống Đức Kitô, chúng
ta quên bài học về ơn gọi tuyển chọn của Thiên Chúa, từ thời Tổ Phụ Ápraham, đối với một số người
được chọn làm khí cụ của ân sủng đối với những người khác. Từ chối sự tuyển chọn này là trở thành
nạn nhân của chủ nghĩa quân bình cách mạng ( revolutionary egalitarianism ), tìm cách làm giảm các
điều kỳ diệu và sự phụ thuộc lẫn nhau về xã hội ( social interdependence ) của những người trong thế
giới của Thiên Chúa đối với sự không tưởng về xã hội không giai cấp của huyền thoại chủ nghĩa Mácxít
( classless Utopia of a Marxist mythology ).
QUAN ĐIỂM GIÁO HỘI
Mọi thứ khác là phụ, như hiện nay chúng ta được biết, tệ hơn là không dùng khi thiếu quan tâm.
Một Tu Sĩ có thể có các công việc khác và tham gia nhiều hoạt động tông đồ. Ơn gọi của người đó là
NÊN THÁNH. Từ quan điểm Giáo Hội, nguồn gốc đời sống tu trì ngụ ý rằng sự duy trì và cách hiểu, sự
phê chuẩn và quy tắc của đời sống này thuộc về Giáo Hội và Tòa Thánh.
Đây không là sự quan sát bình thường. Một công nghị mới đây nói: “Lời khuyên là tặng phẩm từ
trời mà Giáo Hội đón nhận từ Thiên Chúa, luôn an toàn với sự giúp đỡ của ân sủng”. Sự bảo đảm của ân
sủng này khi nuôi dưỡng và duy trì ơn gọi tu trì phải được chấp nhận về vấn đề này theo hướng dẫn của
Giáo Hội. Chưa bao giờ có sự vâng lời đối với các chỉ thị của Giáo Hội lại rõ ràng và quan trọng hơn.
Các bề trên của các dòng tu được mời gọi có thể so sánh với trách nhiệm nặng nề như các giám
mục trong Giáo Hội Công Giáo. Các bề trên cũng đang được thử thách, nhất là việc trung thành với
Giáo Hội – nghĩa là phù hợp – đối với các nguyên tắc của Giáo Hội được Công Đồng Vatican II đưa ra,
và sự ủy thác mà Đức giáo hoàng dùng để hướng dẫn Giáo Hội. Điều đó không mới lạ hoặc bất thường,
nghĩa là để làm chứng nhân trên thế gian về Thiên Chúa Ba Ngôi.
NHU CẦU HƯỚNG DẪN
Vì sự đa dạng hiệu quả này rất quý giá, cần có những
người thề hứa để duy trì Giáo Hội. Cũng vậy, trong các cộng
đoàn không có hai người giống nhau, và chính sự xác định của
mỗi người là riêng biệt. Chúng ta cũng không phải chờ các tâm
lý gia cho biết về điều đó.
Nhưng vì tính cá nhân rất quý giá, cần có những người
thề hứa để tránh vị kỷ thái quá. Một điều mỉa mai ngày nay là
Rôma có hơn một người người bảo vệ tính đa dạng trong các
gia đình và các cộng đoàn, đó là người bảo vệ tính cá nhân.
Điều gì là nguồn gốc của đời sống tu trì ngụ ý trong lĩnh
vực thần học khổ hạnh ? Ngụ ý quan trọng nhất là ơn gọi trong
tình trạng của đời sống. Thiên Chúa kêu gọi thì Ngài cũng ban ân
sủng để duy trì ơn gọi. Nhiều người khởi hành từ tu viện và đời
sống tu trì. Không có điều như vậy xảy ra, ít là từ thế kỷ 16, và có
thể không bao giờ có trong Kitô giáo trước đó.
Hình ảnh đó đã không còn trong đầu của hàng triệu
người. Thay vì ổn định thì lại không ổn định. Thay vì vĩnh viễn, ấn
tượng còn lại nơi các tín hữu là các lời khấn của các tu sĩ. Vấn đề
17
quá phức tạp khi xem xét các chi tiết. Sự không vững bền này là khái niệm sai lầm cho rằng đời sống tu trì
là sự lầm lẫn.
Thế giới ngày nay được mô tả bằng sự thay đổi nhanh đến chóng mặt. Ngay cả cách nói về “lối
sống” cũng là triệu chứng của khuynh hướng chung. Lối sống thay đổi có lý do. Vì vậy, đời sống của
con người cũng bất ổn, ai dám sống khác thì bị coi là “cấp tiến” hoặc “phản động”. Sự thật được Thiên
Chúa mặc khải thì bất biến. Thực sự có những người được kêu gọi theo Thầy chí thánh Giêsu để sống
theo các lời khuyên Phúc Âm.
Có một hệ lụy thực tế, hệ lụy tất yếu đối với đời sống tu trì có nguồn gốc linh thiêng, do đó ơn gọi
tu trì đến từ Thiên Chúa, Đấng làm người để sống lời khuyên Phúc Âm và muốn những người khác
cũng sống như vậy. Họ được tuyển chọn, được đào tạo để phục vụ chứ không để được phục vụ ( Mt
20, 28; Mc 10, 45 ).
TUYỂN CHỌN
Chúa Giêsu xác định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và
cắt cử anh em để anh em ra đi” ( Ga 15, 16 ). Đó là cách diễn tả bất ngờ về mầu nhiệm ơn gọi. Trong
thực tế, điều đó có nghĩa là chúng ta phải hiểu rõ hơn rằng chúng ta hành động theo lời mời gọi của
Thiên Chúa, chính Ngài tuyển chọn những người sống theo cách này.
Dấu hiệu ơn gọi là có Đức Tin mạnh mẽ và đúng đắn – như Ápraham được Thiên Chúa kêu
gọi. Đức Tin đó đơn giản và rõ ràng, được tôi luyện trong đau khổ, hoàn toàn tin vào sự quan phòng
của Thiên Chúa, và chỉ hành động theo Thánh Ý Ngài. Thay vì tìm kiếm những người có mức cao về
Chỉ Số Thông Minh ( I.Q. – Intelligence Quotient ) cao, hãy tìm những người có mức cao về Chỉ Số
Đức Tin ( F.Q. – Faith Quotient ).
Chỉ Số Đức Tin là tặng phẩm quý giá, sẵn sàng trung tín và hy sinh. Khi Thiên Chúa chọn, Ngài
cũng ban ân sủng để có thể vác thập giá theo Đức Kitô.
ĐÀO TẠO
Chúa Giêsu đã quan tâm: “Lúa
chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy
anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra
gặt lúa về” ( Mt 9, 37 ). Tương quan
với việc tìm kiếm điều đúng để nhận
biết ơn gọi đích thực, cần có sự đào
tạo về siêu nhiên để người được gọi
sống đúng đời sống tu trì. Trong đó,
đào tạo cầu nguyện là điều cơ bản
nhất. Nhờ đó, chúng ta có thể hy vọng
một tương lai tốt đẹp về ơn gọi.
Tuy nhiên, họ có môi trường
cầu nguyện ? Họ có thấy những tấm
gương cầu nguyện ? Họ có được
hướng dẫn đúng cách cầu nguyện ?
Cầu nguyện là nghệ thuật giao tiếp với Thiên Chúa, nói đơn giản là cách nói chuyện với Thiên
Chúa. Không khí cầu nguyện là môi trường tĩnh lặng đủ để có thể tập trung, không bị chia trí. Nói theo văn
hoa, đó là sự hiểu biết về đức ái. “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Gương sáng luôn rất quan trọng.
Có nhiều cách cầu nguyện, nhưng hướng dẫn phải đúng cách để giúp người ta biết cách tâm sự
với Thiên Chúa một cách thân mật và hiệu quả. Cầu nguyện là một nhân đức. Cầu nguyện làm chúng ta
nên thánh, phù hợp với Ý Chúa, vì Ngài muốn mọi người nên thánh ( x. Mt 5, 48 ).
CẤU TRÚC
Thoạt đầu, chúng ta thấy có vẻ không phù hợp để nói về “cấu trúc” trong việc liên kết ơn gọi tu
trì, thậm chí còn có vẻ đối lập.
Quan điểm thứ nhất lưỡng lự cho rằng đời sống tu trì có nền tảng trong Phúc Âm, trong mọi thời
của Giáo Hội, và là phần quan trọng trong truyền thống Kitô giáo. Quan điểm thứ hai xác định những gì
quan điểm thứ nhất bác bỏ. Cả hai quan điểm đều cho rằng ơn gọi tu trì xuất phát từ Thiên Chúa. Đó có
phải là một cộng đoàn có cấu trúc, có bề trên và tu luật ?
Đời sống tu trì là một dạng vườn nho của Chúa, hữu hình, có tổ chức và có trận tự. Trong số các
phụ nữ liễu yếu đào tơ vẫn có người hướng dẫn. Đó là các phụ nữ như Thánh Teresa Avila, Julie Billiart,
18
Sophie Barat và Francesca Cabrini. Họ là những người sáng lập các viện cứu tế cho những người cần
được quan tâm ( thể lý và tâm linh ). Chính họ đã tạo nên những kỳ công cho Giáo Hội Công Giáo.
PHỤC VỤ
Chúng ta có còn một phương diện nữa về hệ quả thực tế trong việc hiểu biết ơn gọi tu trì có
nguồn gốc từ Phúc Âm. Đó là “sự phục vụ” và chính đặc tính của việc tông đồ của các cộng đoàn tu.
Mỗi người đều được Chúa Thánh Thần tác động hoặc linh hứng, được chuẩn bị bằng bản chất
và ân sủng để tìm kiếm việc tông đồ và việc riêng, mọi việc đều vì lợi ích cho to dân Chúa.
Có thể kiểm nghiệm lý thuyết này trên nền tảng lý thuyết. Nhưng để thuyết phục hơn, có thể xem
đặc tính của việc tông đồ từ thời các Thánh Tông Đồ, từ thời khai sinh Kitô giáo. Năm 1000, có 100
Giáo Phận đã được thành lập dọc duyên hải Địa Trung Hải. Khi vua Henry 8 áp bức các Tu Viện ở Anh
quốc, hơn 2.000 trường học Công Giáo dành cho trẻ em cũng bị cấm hoạt động. Khi Cộng Sản chiếm
Hungary và Tiệp Khắc ( nay là Cộng hòa Séc và Slovakia ), mục đích đầu tiên của họ là phá hủy các cơ
sở Công Giáo được các Tu Sĩ nam nữ điều hành.
KHÔNG AI “SAI” CHÍNH MÌNH
Sự thật cho biết rằng các giáo phận của Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức trong thế giới
Công Giáo không hiện hữu hoặc phát triển mạnh – hoặc là đối tượng đối lập với Chủ Nghĩa Duy Vật
Mácxít. Công Giáo Rôma có ý tưởng rất rõ ràng về bản chất ơn gọi là phục vụ Giáo Hội, dĩ nhiên
được Đức Kitô ủy thác, nhưng sự ủy thác này bao gồm yếu tố “được sai đi”. Đó là nhận một sứ vụ từ
những người có quyền nhân danh Đức Kitô, trừ phi chúng ta xuyên tạc ý nghĩa của từ ngữ, vì “không
ai có thể tự sai mình”.
Do đó, mỗi ơn gọi tu trì đều bao gồm ân sủng của sự khiêm nhường vâng lời đối với những
người đại diện Giáo Hội. Họ không phân công ngẫu nhiên hoặc bừa bãi, hoặc không quan tâm khả năng
và sự ưu tiên của những người họ “giao nhiệm vụ”. Nhưng họ sai phái như mọi chứng cớ của Phúc Âm
bảo đảm với chúng ta rằng Đức Kitô đã sai những người mà Ngài đã kêu gọi. Cũng như ơn gọi, sứ vụ
có nguồn gốc Thiên Chúa.
VĨ NGÔN
Xin được khép lại bài viết ngắn này. Những năm sắp tới sẽ rõ ràng hơn bây giờ, tùy mức độ tin
tưởng rằng ơn gọi tu trì do từ Thiên Chúa. Từ Thiên Chúa, Đấng làm người để trở nên Linh Mục và Tu
Sĩ. Thiên Chúa làm người tiếp tục gợi hứng rất nhiều người theo con đường nên thánh của Ngài và
phục vụ nhân loại. Từ Thiên Chúa làm người, ân sủng nâng đỡ những người nói sự thật khi rằng ơn gọi
là “hạt giống từ trời”. Kinh nghiệm đã chứng tỏ rằng hạt giống này khả dĩ sinh hoa kết trái khi được tiếp
nhận trong niềm tin và được hỗ trợ bằng tình yêu thương.
Lm JOHN A. HARDON, Dòng Tên
Bản lược dịch của TRẦM THIÊN THU, từ TheRealPresence.org
“HỌ KHÔNG THỂ GIẾT HẾT CHÚNG TA”
Giữa trung tâm thương mãi Hồng Kông, một
khẩu hiệu thật lớn đến năm thước mỗi bề được hằng
trăm bạn trẻ giương cao "They can't kill us all", tạm
dịch là "Họ không thể giết hết chúng ta". Các bạn trẻ
cũng thường xuyên hô vang: "Họ không thể giết hết
chúng ta" để nói lên quyết tâm đấu tranh cho quyền
lợi chính đáng của mình.
Hồng Kông một lãnh thổ thuộc Anh Quốc từ
năm 1842 đã chuyển giao cho Trung Quốc năm
1997 với quy định dân chúng Hồng Kông được
hưởng quy chế tự trị ít nhất 50 năm hay đến năm
2047. Trong vòng 150 dưới sự quản lý của người
ngọai quốc, người dân Hồng Kông được cho là chỉ
biết kiếm tiền, chỉ sống vì tiền và ở đây tiền là tất cả. Nay thì tất cả đã đổi khác.
Diễn Biến
19
CÙNG THÔNG TIN
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628
Ephata 628

Contenu connexe

Tendances

ôN tập các kinh xưng tội
ôN tập các kinh xưng tộiôN tập các kinh xưng tội
ôN tập các kinh xưng tộiCngTrn675453
 
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đìnhSách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đìnhgxduchoa
 
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tinMẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tingxduchoa
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đigxduchoa
 
Mẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho Ngài
Mẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho NgàiMẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho Ngài
Mẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho Ngàigxduchoa
 
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa GiêsuMẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa GiêsuNgukita Nguyen
 
Mẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đến
Mẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đếnMẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đến
Mẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đếngxduchoa
 
5 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_0420145 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_042014gxduchoa
 

Tendances (18)

Ephata 622
Ephata 622Ephata 622
Ephata 622
 
Ephata 611
Ephata 611Ephata 611
Ephata 611
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Ephata 614
Ephata 614Ephata 614
Ephata 614
 
Ephata 626
Ephata 626Ephata 626
Ephata 626
 
Ephata 604
Ephata 604Ephata 604
Ephata 604
 
Ephata 629
Ephata 629Ephata 629
Ephata 629
 
So 175
So 175So 175
So 175
 
ôN tập các kinh xưng tội
ôN tập các kinh xưng tộiôN tập các kinh xưng tội
ôN tập các kinh xưng tội
 
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đìnhSách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
Sách Chặng đàng Thánh Giá - chủ đề gia đình
 
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tinMẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
Mẫu cầu nguyện Taize 6: Sức mạnh cùa lòng tin
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
 
So 174
So 174So 174
So 174
 
Mẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho Ngài
Mẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho NgàiMẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho Ngài
Mẫu cầu nguyện Taize 3: Tận hiến cho Ngài
 
So 183
So 183So 183
So 183
 
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa GiêsuMẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taizé - Mẫu 1: Theo Chúa Giêsu
 
Mẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đến
Mẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đếnMẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đến
Mẫu cầu nguyện Taize 4: Chờ Chúa đến
 
5 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_0420145 phut loi_chua_042014
5 phut loi_chua_042014
 

En vedette

จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่
จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่
จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่โรงพยาบาลสารภี
 
Creating Communities of Interest Around Museum Collections Intro
Creating Communities of Interest Around Museum Collections IntroCreating Communities of Interest Around Museum Collections Intro
Creating Communities of Interest Around Museum Collections IntroEffie Kapsalis
 
Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3
Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3
Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3Boskamp & Willems - Advocaten
 
учебный проект
учебный проектучебный проект
учебный проектCDO3
 
Presentation1
Presentation1Presentation1
Presentation1suchana
 
Sifat komunikator
Sifat komunikatorSifat komunikator
Sifat komunikatorPJIK12
 
Are any threats at the ecosystem of Parnitha?
Are any threats at the ecosystem of Parnitha?  Are any threats at the ecosystem of Parnitha?
Are any threats at the ecosystem of Parnitha? Eleni Kabaraki
 
Antreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabile
Antreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabileAntreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabile
Antreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabileRamona Muntean
 
Occupational rehabilitation in the adf hayter
Occupational rehabilitation in the adf  hayterOccupational rehabilitation in the adf  hayter
Occupational rehabilitation in the adf hayterLeishman Associates
 
Your Vision Advertising Presentation 2010
Your Vision Advertising Presentation 2010Your Vision Advertising Presentation 2010
Your Vision Advertising Presentation 2010Samson Bezmyatezhny
 
Horákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulás
Horákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulásHorákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulás
Horákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulásKaczur Tímea
 
Presentatie Verkeerskunde Congres 2010
Presentatie Verkeerskunde Congres 2010Presentatie Verkeerskunde Congres 2010
Presentatie Verkeerskunde Congres 2010joephintzen
 
TBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social media
TBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social mediaTBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social media
TBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social mediaTransformational Business Network
 
Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»: основные результаты и вопросы дл...
Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»:основные результаты и вопросы дл...Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»:основные результаты и вопросы дл...
Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»: основные результаты и вопросы дл...cardiodrug
 

En vedette (19)

จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่
จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่
จริยธรรมสำหรับบุคลากรสาธารณสุขเชียงใหม่
 
Creating Communities of Interest Around Museum Collections Intro
Creating Communities of Interest Around Museum Collections IntroCreating Communities of Interest Around Museum Collections Intro
Creating Communities of Interest Around Museum Collections Intro
 
ㅗ허
ㅗ허ㅗ허
ㅗ허
 
Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3
Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3
Periodieke nieuwsbrief van boskamp en willems advocaten editie 3
 
учебный проект
учебный проектучебный проект
учебный проект
 
Presentation1
Presentation1Presentation1
Presentation1
 
Sifat komunikator
Sifat komunikatorSifat komunikator
Sifat komunikator
 
Businesswise Dec 2009
Businesswise Dec 2009Businesswise Dec 2009
Businesswise Dec 2009
 
Are any threats at the ecosystem of Parnitha?
Are any threats at the ecosystem of Parnitha?  Are any threats at the ecosystem of Parnitha?
Are any threats at the ecosystem of Parnitha?
 
Antreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabile
Antreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabileAntreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabile
Antreprenor pentru succes: Despre finantari nerambursabile
 
Afwegingskader IT-Sourcing V01 00
Afwegingskader IT-Sourcing V01 00Afwegingskader IT-Sourcing V01 00
Afwegingskader IT-Sourcing V01 00
 
Occupational rehabilitation in the adf hayter
Occupational rehabilitation in the adf  hayterOccupational rehabilitation in the adf  hayter
Occupational rehabilitation in the adf hayter
 
Your Vision Advertising Presentation 2010
Your Vision Advertising Presentation 2010Your Vision Advertising Presentation 2010
Your Vision Advertising Presentation 2010
 
Horákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulás
Horákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulásHorákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulás
Horákné Kaczur Tímea - Új média és az elektronikus tanulás
 
Presentatie Verkeerskunde Congres 2010
Presentatie Verkeerskunde Congres 2010Presentatie Verkeerskunde Congres 2010
Presentatie Verkeerskunde Congres 2010
 
TBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social media
TBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social mediaTBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social media
TBN MDC '10 - Jerry, Harrison - TBN Update, website & social media
 
Портфоліо Софiї
Портфоліо СофiїПортфоліо Софiї
Портфоліо Софiї
 
Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»: основные результаты и вопросы дл...
Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»:основные результаты и вопросы дл...Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»:основные результаты и вопросы дл...
Регистр инсульта на базе стационара «ЛИС-2»: основные результаты и вопросы дл...
 
Travels
TravelsTravels
Travels
 

Similaire à Ephata 628

Dan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot quaDan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot quaHa Dat
 
Mẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa GiêsuMẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa Giêsugxduchoa
 
Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010Nguyen
 
Toi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmc
Toi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmcToi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmc
Toi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmcThịnh Vũ
 
Những bí ẩn cuộc đời- Dale carnegie
Những bí ẩn cuộc đời- Dale carnegieNhững bí ẩn cuộc đời- Dale carnegie
Những bí ẩn cuộc đời- Dale carnegieOanh Huỳnh Thúy
 
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xótTông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xótphanthitrucgiang82
 
Khi đức tin chiến thắng
Khi đức tin chiến thắng  Khi đức tin chiến thắng
Khi đức tin chiến thắng Xephang Daihoc
 

Similaire à Ephata 628 (20)

Ephata 631
Ephata 631Ephata 631
Ephata 631
 
Dan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot quaDan tuan thanh tam nhat vuot qua
Dan tuan thanh tam nhat vuot qua
 
Ephata 636
Ephata 636Ephata 636
Ephata 636
 
Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.
 
Mẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa GiêsuMẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa Giêsu
Mẫu cầu nguyện Taize 1: Theo Chúa Giêsu
 
Ephata 603
Ephata 603Ephata 603
Ephata 603
 
Ephata 635
Ephata 635Ephata 635
Ephata 635
 
Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010Ttdc 2 2010
Ttdc 2 2010
 
Ephata 621
Ephata 621Ephata 621
Ephata 621
 
So 185
So 185So 185
So 185
 
Ephata 637
Ephata 637Ephata 637
Ephata 637
 
Thang 10.2011 mail (1)
Thang 10.2011 mail  (1)Thang 10.2011 mail  (1)
Thang 10.2011 mail (1)
 
Toi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmc
Toi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmcToi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmc
Toi theo-dao-chua, lm. doan quang, cmc
 
Những bí ẩn cuộc đời- Dale carnegie
Những bí ẩn cuộc đời- Dale carnegieNhững bí ẩn cuộc đời- Dale carnegie
Những bí ẩn cuộc đời- Dale carnegie
 
Ephata 638
Ephata 638Ephata 638
Ephata 638
 
Ephata 608
Ephata 608Ephata 608
Ephata 608
 
Thượng đế giảng chân lý
Thượng đế giảng chân lýThượng đế giảng chân lý
Thượng đế giảng chân lý
 
Ephata 600
Ephata 600Ephata 600
Ephata 600
 
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xótTông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
Tông sắc công bố năm thánh về lòng thương xót
 
Khi đức tin chiến thắng
Khi đức tin chiến thắng  Khi đức tin chiến thắng
Khi đức tin chiến thắng
 

Plus de Vu Mai JMV

Plus de Vu Mai JMV (10)

Ephata 634
Ephata 634Ephata 634
Ephata 634
 
Ephata 633
Ephata 633Ephata 633
Ephata 633
 
Ephata 632
Ephata 632Ephata 632
Ephata 632
 
Ephata 630
Ephata 630Ephata 630
Ephata 630
 
Ephata 627
Ephata 627Ephata 627
Ephata 627
 
Ephata 625
Ephata 625Ephata 625
Ephata 625
 
Ephata 624
Ephata 624Ephata 624
Ephata 624
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Ephata 610
Ephata 610Ephata 610
Ephata 610
 
Ephata 609
Ephata 609Ephata 609
Ephata 609
 

Ephata 628

  • 1. E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com MƯỜI NĂM MỘT NHỊP CẦU CỦA LÒNG MẾN Dạo còn đi dạy Giáo Lý, chúng tôi hay đố các em đa số là dân sống tại Sàigòn: Cầu nào nặng nhất ? Các em dễ dàng trả lời: Cầu Sắt. Hỏi cầu nào nhẹ nhất ? Quá dễ, Cầu Bông ! Lại hỏi cầu nào… chua nhất ? Có em cũng nhanh trí đoán ra: Cầu Kiệu, vì củ kiệu thì chua. Cầu nào chóng mặt nhất ? Trả lời Cầu Quay ( bây giờ, sau 75, người ta bỏ cây cầu này rồi ). Nhiều em thông minh nên các câu hỏi sau đó tuy khá lắt léo nhưng các em vẫn trả lời ngon ơ: Cầu nào nóng nhất ? Cầu Nhị Thiên Đường ( vì dầu gió hiệu Nhị Thiên Đường rất nóng ). Cầu nào đen nhất ? Tưởng bó tay, vậy mà vẫn có em reo lên: Cầu Chà Và, mấy người Chà Và – phiên âm từ địa danh Java, bên Indonesia, có nước da đen thật sự ! Thế rồi chúng tôi đố cầu nào lớn nhất thế giới, nghĩ một lúc có em thông minh trả lời được: Cầu Vồng ! Lại đố cầu nào ngắn nhất, nhiều câu trả lời sai, không khí căng lên, rồi bất ngờ có em vẫn giải được: thưa Cầu… Chì ạ ! Hay quá, đúng là cầu chì bé tẹo, ngắn tủn, có mấy xăngtimét để nối được dòng điện trong nhà. Cuối cùng chúng tôi hỏi các em: Vậy cầu nào là cầu vừa cao nhất, lớn nhất, dài nhất, rộng nhất mà lại ngắn nhất, nhanh nhất, tuyệt vời nhất ? Các em ngẩn người ra một lúc trước một loại cầu gì mà lạ lùng như thế. Các em ngờ ngợ đoán ra chắc không phải các cây cầu xây bằng gỗ, đá, gạch, bêtông, nhưng ở đây là đố mẹo, có điều chi đó kỳ diệu thiêng liêng… Và các em cùng ồ lên: Thưa cha, đó là Cầu Nguyện ạ ! Ấy là chuyện hồi đó lâu lắm rồi, nếu bây giờ có dịp đố các em, đố mọi người, tôi nhớ ra thêm, còn có thể đố: cầu nào là cầu đẹp nhất, tốt nhất, bền nhất, cần nhất, quý nhất ? Và câu trả lời chúng ta sẽ có ngay: đó là Cầu Yêu Thương, với hai mố cầu đôi bên là Thiên Chúa và con người, là mỗi người với mọi người, là sẻ chia và đón lấy, là cho đi và nhận về. Chúng ta gọi chung bằng một tên trân trọng: Nhịp Cầu Bác Ái. Thế giới hôm nay người ta xây thêm rất nhiều những cây cầu hiện đại, hoành tráng, có khi nối được đất liền với những hòn đảo xa, thế nhưng người ta lại bỏ hoang phế những nhịp cầu quan tâm trợ giúp, không thèm nhìn ngó tới, dù phía bên kia có khi là người đồng bào, là người hàng xóm, thậm chí là chính người trong gia đình ruột thịt của mình, đang gặp hoạn nạn cùng cực, bất lực trong nước mắt, không biết gọi ai, cầu cứu ai. Thế giới hôm nay lại có những thứ vũ khí kinh khủng có thể phá huỷ hàng loạt những cây cầu chiến lược sinh tử khiến đối phương không còn được tiếp viện hay hết đường tháo chạy, khi ấy người ta không ngờ cũng lần hồi đánh xập luôn cả những nhịp cầu sự sống, nhịp cầu thân hữu, đồng cảm, nhịp cầu chạnh lòng thương giữa con người với con người, đào cho sâu thêm vực thẳm của khác biệt giàu nghèo, cuốc cho rộng thêm khoảng cách của chênh lệch giữa các tầng lớp trong xã hội, khoét cho xót xa thêm những vết thương của lương tâm con người. Trong bối cảnh như thế, Nhịp Cầu Bác Ái được nhiều người hẹn nhau, họp nhau xúm lại, cùng nhau vun đắp, xây dựng, cứ nối dài mãi, vượt qua cả đại dương để con người ân cần tìm gặp con người, nhất là những mảnh đời tưởng đã mất hy vọng, tưởng đã bị vùi lấp giữa đổ nát hoang tàn của tai 1 NĂM THỨ 15 – SỐ 628 – CHÚA NHẬT 5.10.2014
  • 2. ương hoạn nạn, của bệnh tật nan y, của hiểm hoạ phá thai, của loạn ly xa quê, của nghèo đói và mù chữ triền miên… Quý độc giả lưu ý thấy luôn luôn ở cuối trang báo điện tử Ephata này là những thông tin về những bệnh nhân nghèo được trợ giúp ở khắp mọi miền đất nước trong tròn 10 năm qua. Tên gọi của chuyên mục là CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ. Ắt hẳn cha Trịnh Tuấn Hoàng, Dòng Thánh Phanxicô cùng những anh chị em khởi xướng đi xây Nhịp Cầu Bác Ái cũng chẳng ngờ công trình mình làm mãi mà chẳng thấy hoàn tất, mười năm rồi chứ đâu phải ít ! Vâng, sẽ còn phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, sẽ còn phải hứng chịu nhiều oan uổng ngộ nhận, sẽ còn phải vận dụng thêm nhiều sáng kiến để Nhịp Cầu Yêu Thương của mình thêm vững và chắc, với dự báo còn phải tiếp tục vươn xa, phóng đi, toả nhánh rộng ra nhiều hướng hơn nữa. Và vì là Nhịp Cầu Bác Ái, nhịp cầu của Yêu Thương, nhịp cầu của Lòng Mến, chúng ta chợt nhớ đến đoạn Lời Chúa của Thánh Phaolô trong Bài Ca Lòng Mến ( 1Cr 13, 4 – 8 ), những lời vàng rất đáng để chúng ta khắc lên bảng đồng thật to, gắn trang trọng ngay ở đầu cầu, để tất cả mọi người khi bắt đầu đi qua cầu, ngay từ mố cầu đều đã có thể đọc được, ngẫm nghĩ và thấm thía, nằm lòng cho những dấn thân vị tha và hướng thượng của đời mình: Lòng Mến thì nhẫn nhục, Lòng Mến thì hiền hậu, Lòng Mến không ghen tương, Lòng Mến không vênh vang, tự đắc, Lòng Mến không làm điều bất chính, Lòng Mến không tìm tư lợi, Lòng Mến không nóng giận, Lòng Mến không nuôi hận thù, Lòng Mến không mừng khi thấy sự gian ác, Lòng Mến vui khi thấy điều chân thật. Lòng Mến tha thứ tất cả, Lòng Mến tin tưởng tất cả, Lòng Mến hy vọng tất cả, Lòng Mến chịu đựng tất cả. Lòng Mến không bao giờ mất được… Lm. Giuse LÊ QUANG UY, DCCT, Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô 2004 – 2014 MỤC LỤC TÌM BÀI: MƯỜI NĂM MỘT NHỊP CẦU CỦA LÒNG MẾN ( Lm. Giuse Lê Quang Uy ) ......................................... 01 HÃY LÀ CHÍNH MÌNH ( Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa ) ....................................................................... 02 ÁC GIẢ ÁC BÁO ( Trầm Thiên Thu ) ..................................................................................................... 04 MARIA NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ........................................................ 06 NĂM ĐÓA HỒNG TRẮNG DÂNG MẸ ( AM. Trần Bình An ) ................................................................. 07 LẦN HẠT MAI KHÔI ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ............................................................................... 08 NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ VIỆC ĐỐI THOẠI ( Phùng Văn Hóa ) ............................................................ 13 ƠN GỌI ( John A. Hardon – Bản lược dịch Trầm Thiên Thu ) ............................................................... 15 "HỌ KHÔNG THỂ GIẾT HẾT CHÚNG TA" ( Nguyễn Quang Duy ) ....................................................... 19 PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 22: Kitô hữu và Đường Kitô ( Nguyễn Trung ) ................................. 22 BÀI HỌC HẠNH PHÚC TỪ GIÁO HOÀNG PHANXICÔ ( Báo Tuổi Trẻ online ) .................................... 26 DÒNG LỆ VUI MỪNG ( Từ Tredeponline.com ) .................................................................................... 28 NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ........... 28 HÃY LÀ CHÍNH MÌNH Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn Sứ Isaia ( Is 5 ). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn Dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý. 2 CÙNG SUY NIỆM
  • 3. Nho ra nho Ngôn Sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho ( x. Ga 15 ). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái. Đề hấp thụ dinh dưỡng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thì Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến Mùa Chay Thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh. Quản lý ra quản lý Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mọng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước... Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội Thánh này Hội Thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định ( x. Rm 13, 1 ). Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử Dân Chúa xưa, các Ngôn Sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các Ngôn Sứ thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài. Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác. Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm. Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi ( x. Ga 15, 6 ). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mải mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng ( x. Lc 12, 41 – 48 ). Lm. Giuse NGUYỄN VĂN NGHĨA 3
  • 4. ÁC GIẢ ÁC BÁO Chúng ta thường nghe nói luật “Nhân – Quả”. Nhân Quả là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ nguồn gốc tất yếu của các hiện tượng, trong đó hiện tượng này ( nguyên nhân ) sản sinh ra hiện tượng khác ( kết quả ). Người Việt cũng có khái niệm Nhân Quả khi nói: “Ở hiền gặp lành” ( tích cực ), “gieo gió gặt bão” ( tiêu cực ), hoặc “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”,... Người Anh cũng có cách nói tương tự: “You reap what you sow” ( Bạn gặt những gì bạn gieo ). Có lẽ cũng có thể so sánh luật Nhân Quả tương tự loại vũ khí Boomerang của thổ dân Úc, ném đi rồi nó lại quay về mình. Nguyên lý Nhân Quả trong đời sống diễn ra theo quá trình mà “phần biết” và “phần được biết” chỉ là sự phân lập từ một tổng thể là “cái biết”, cho nên hiện tượng nó tạo ra sẽ được gọi là “hiện tượng nội sinh” – một hiện tượng mà Phật học gọi là “kamma” ( nghiệp, nghiệp chướng ). Theo Phật Giáo, hiện tượng này không do một đấng quyền năng tối cao hay một thế lực siêu nhiên nào chi phối, nên “nhân quả” được xem là nguyên lý quan trọng nhất của đời sống, khi các vấn đề của đời sống được tìm hiểu từ trong bản chất của nó. Chúng ta cũng nghe nói: “Ác giả ác báo”. Đó là nói tắt của câu ngạn ngữ Trung Hoa: “Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai”. “Ác giả” là người xấu, việc ác; “ác báo” là điều ác đáp lại. “Thiện giả” là người tốt, việc tốt; “thiện lai” là điều lành đáp lại. “Ác giả ác báo” nghĩa là người làm việc ác thì gặp điều ác báo lại, hoặc việc ác này sẽ bị việc ác khác báo lại – thường gọi là “quả báo”. Câu này nêu lên sự ảnh hưởng tương tác của hành động, ngụ ý khuyên người ta chớ làm việc ác để tránh điều ác, và nên ăn ở hiền lành để gặp sự lành: “Ở hiền gặp lành”. Người Tây phương còn nói một câu theo tinh thần của Kinh Thánh: “Kẻ nào đào hố bẫy ai thì kẻ đó sẽ rơi xuống hố”. Trình thuật Is 5, 1 – 7 là “Bài Ca Vườn Nho”. Bài ca này chắc hẳn có giai điệu thánh thót, với ca từ như sau: Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình. Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, Giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi, Xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho. Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm ? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại ? Vậy bây giờ, tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: Hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo. Người gieo trồng luôn muốn điều tốt, thế mà điều xấu lại xảy ra với họ. Người Việt không xa lạ gì với nông nghiệp, nông dân luôn muốn lúa và hoa màu tốt tươi để có vụ thu hoạch cao, thế mà có khi mùa màng lại thất bát, thậm chí họ bị trắng tay. Tương tự, có lần Chúa Giêsu cũng đã kể dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” ( Mt 13, 24 – 30 ). Tác giả “Bài Ca Vườn Nho” kể cho người bạn thân nghe biết về vườn nho của mình. Tác giả ( tức là chủ nhân ) muốn có nho tốt mà lại chỉ thấy nho dại. Thất vọng ê chề, chủ nhân đành phải chặt phá hàng giậu cho “vườn bị tan hoang” và đập đổ tường cho “vườn bị giày xéo”. Nước Trời được ví với nhiều thứ, một trong các thứ đó là “vườn nho”. Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng” ( Tv 80, 9 ). Vì là giống tốt nên “bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành sum sê rợp bá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại dương, chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả” ( Tv 80, 12 ). Nhưng rồi điều bất thường xảy ra: “Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn ! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang” ( Tv 80, 13 – 14 ). Vường hoang, nhà trống. Chắc chắn không là lỗi của chủ nhân bất cẩn hoặc bỏ mặc, mà vì kẻ xấu. Đó là chính các tội nhân chúng ta đã làm hư hại Vườn Nho của Thiên Chúa. Nhưng mặc lấy tâm tình yêu thương của Đấng giàu lòng thương xót, tác giả Thánh Vịnh vẫn chân thành và tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” ( Tv 80, 15 – 16 ). 4
  • 5. Không chỉ vậy, tác giả Thánh Vịnh còn đại diện cho cả nhân loại mà thề hứa trước Tôn Nhan Thiên Chúa: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài. Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ” ( Tv 80, 19 – 20 ). Và rồi Thiên Chúa đã thương xót mà bỏ qua tất cả, để chúng ta lại được làm con cái Ngài và được thừa kế gia nghiệp của Ngài. Chúng ta diễm phúc lắm ! Vậy chúng ta phải làm gì để tạ ơn Ngài ? Đó là điều mỗi chúng ta phải tự trả lời cho rạch ròi và dứt khoát. Tuy nhiên, đừng run sợ mà bạt vía kinh hồn, vì Thiên Chúa nhân hiền, không chấp lách chi đâu, chỉ cần chúng ta biết chân thành nhận lỗi là Ngài ưng nhận ngay. Thánh Phaolô cũng động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” ( Pl 4, 6 – 7 ). Thế thì còn gì bằng, chả lo sợ chi nữa. Chúa mà. Thánh Clara cũng đã từng nói với các nữ tu: “Đừng sợ ! Hãy tín thác vào Chúa Giêsu !” Nhưng cũng đừng vội thấy vậy mà ỷ lại đấy. Ỷ lại hoặc ảo tưởng là chết chắc ! Thánh Phaolô dặn dò thêm: “Ngoài ra, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em” ( Pl 4, 8 – 9 ). Hai cụm từ “hãy để ý” và “hãy đem ra thực hành” rất quan trọng. Đó cũng là mệnh lệnh, phải nhận thức và ghi nhớ nằm lòng. Nghe ngắn gọn và đơn giản nhưng lại không dễ dàng thực hiện ! Trình thuật Tin Mừng hôm nay ( Mt 21, 33 – 43 ) là dụ ngôn “Những Tá Điền Sát Nhân” ( tương đương Mc 12, 1 – 12 và Lc 20, 9 – 19 ). Câu chuyện rất thực tế. Trong đó cũng có vấn đề liên quan lòng đố kỵ, ganh tị và ghen ghét: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Một hôm, Chúa Giêsu bảo người ta hãy nghe một dụ ngôn khác về những con người lòng lang dạ thú: Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể người con đó. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó !” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Chúa Giêsu thản nhiên hỏi họ: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia ?” Họ đồng thanh: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”. Đức Giêsu vừa cười vừa gật gù vì thấy họ nói đúng, rồi Ngài bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Ngài biết họ là những kinh sư và thầy thông luật, thuộc Cựu Ước làu làu, dẫn chứng câu mấy rạch ròi, thế nên Ngài “nhắc khéo” họ về Thánh Vịnh: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường” ( Tv 118, 22 ). Rồi Ngài kết luận: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” ( Mt 21, 43 ). Đó cũng là lời Đức Giêsu Kitô đang “nhắc khéo” mỗi chúng ta về cách hành xử với Thiên Chúa và với tha nhân, đặc biệt là những người “yếu thế” hơn mình, về cả vật chất lẫn tinh thần. “Đá Tảng” đó là gì hoặc là ai ? Không còn ai trồng khoai đất này, đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết để cứu độ chúng ta, mà chính tay chúng ta cũng nhúng chàm, mỗi chúng ta cũng là thủ phạm đã giết Con Thiên Chúa. Chúng ta không trực tiếp đóng đinh Chúa Giêsu, nhưng chúng ta trực tiếp sát hại Ngài khi chúng ta “giết” tha nhân bằng nhiều loại đinh nhọn và sắc bén: Lời nói, ánh mắt, cử chỉ, thái độ, hành động... Và chính Chúa Giêsu hôm nay lại một lần nữa cảnh báo mỗi chúng ta: “Ai ngã xuống ĐÁ này, kẻ ấy sẽ tan xương; ĐÁ này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt” ( Mt 21, 44 ). Thật đáng sợ biết bao ! Đúng 5
  • 6. là đáng sợ thật, vì Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu không sám hối thì sẽ chết hết” ( Lc 13, 3 ). Ai cũng là tội nhân, vấn đề hơn thua nhau chỉ là biết nhận lỗi và có sám hối hay không. Các tư tưởng lớn sẽ có lúc gặp nhau. Các hiền triết cũng có quan niệm giống nhau về khái niệm “ác giả, ác báo”. Đó là một dạng ý thức hệ. Khổng Tử nói: “Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa” – Người làm điều tốt lành thì trời lấy phúc báo đáp lại người đó, kẻ làm điều không tốt lành thì trời lấy họa báo đáp lại kẻ đó. Trang Tử nhận định: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác tự giai khởi” – Nếu một ngày không nghĩ đến điều thiện, mọi điều ác sẽ tự dấy lên. Sách “Minh Tâm Bửu Giám” ghi: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác” – Làm việc thiện sẽ được điều tốt, làm việc ác sẽ gặp điều xấu. Các hiền triết cũng chỉ là phàm nhân mà họ vẫn có thể nhận biết như vậy, tư tưởng gần gũi với Đức Kitô, họ đúng là thánh nhân rồi, thật đáng khâm phục và đáng để chúng ta noi gương lắm ! Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết nhận mình là kẻ xấu để không ảo tưởng, nhờ đó mà chúng con biết mở mắt-đức-tin to ra để có thể nhìn thấy cái-xà-tội-lỗi của mình chứ không nhìn thấy cái rác nơi tha nhân. Xin giúp chúng con biết tích đức chứ không tích ác để hoàn thiện từng giây phút cho đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen. TRẦM THIÊN THU MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành Bí Tích Thánh Thể. Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu. Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa. Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà Thánh Êlisabét. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem Ơn Cứu Độ đến cho Thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng. Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta. Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” ( Ga 2, 5 ). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” ( Lc 22, 19 ), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chầu Mình Thánh Chúa, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon. Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân Thánh Giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm 6
  • 7. Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân. Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận Thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy Năm Thánh Thể đã kết thúc từ lâu, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống Bí Tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mai Khôi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mai Khôi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mai Khôi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới Bí Tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy. Lạy Mẹ Mai Khôi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen. Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT NHỮNG ĐÓA HỒNG TRẮNG DÂNG MẸ Mừng kính Lễ Mẹ Mai Khôi, con cái Mẹ đồng tâm trìu mến hướng về Mẹ. Cùng ngợi khen, chúc tụng, cảm tạ Mẹ đã và đang đoái thương ban mưa hoa hồng ân phúc xuống con cái trông cậy Mẹ. Hiệp ý cùng triều thần Thiên Quốc, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa bạch hồng trong vườn hoa Mầu Nhiệm Vui. Đóa hồng Khiêm Nhu Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai. Ta hãy xin cho được ở khiêm nhượng. Trước vinh dự cao cả cực đại, mà không phàm nhân nào dám ước mơ, được làm Mẹ Con Thiên Chúa, linh hồn Mẹ ngợi khen Thiên Chúa, thần trí Mẹ hớn hở vui mừng. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” ( Lc 1, 48 ). Mẹ sấp mình khiêm tốn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, cảm tạ Thiên Chúa đoái thương. “Mẹ làm gương ẩn dật khiêm cung, nhưng đồng thời Mẹ luôn luôn hiện diện phục vụ; Mẹ không ra mặt, không lên tiếng, nhưng Mẹ hằng ở gần bên Chúa Giêsu, sống trọn vẹn cho Chúa và Chúa trong con” ( Đường Hy Vọng, số 926 ). Đóa hồng Bác Ái Đức Mẹ đi viếng bà Thánh Isave. Ta hãy xin cho được lòng yêu người. Dù được chịu thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, được vinh dự cưu mang Đức Chúa Giêsu, Mẹ vẫn khiêm tốn nghĩ đến tha nhân, thân thiết đến thăm hỏi bà chị họ Isave, cũng đang mang thai Thánh Gioan Tiền Hô được sáu tháng. Chẳng lo thủ thân, chẳng nề quản mệt nhọc, xa xôi, hiểm trở đường xá, Mẹ hăng hái ra đi dấn thân vì lòng bác ái, yêu người, mong muốn chia sẻ niềm vui, lẫn nỗi lo với thai phụ tuổi đã xế bóng, được ơn thánh huyền diệu. “Mẹ Maria không chỉ nhìn Chúa Giêsu, Mẹ nhìn bà Isave, nhìn Gioan, nhìn đôi tâm hồn ở Cana… Con hãy có cái nhìn của Mẹ: Nhìn Chúa, nhìn người” ( Đường Hy Vọng, số 948 ). Đóa hồng Khó Nghèo Đức Mẹ sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn. Ai mà chẳng chạnh lòng, khi thấy một thai phụ bụng mang dạ chửa, nặng nề lê gót cùng chồng đi tìm quán trọ tại Bêlem vào chiều đông giá buốt. Thế mà, bao quán trọ từ chối, vì họ không đủ tiền thuê phòng, vì luộm thuộm nghèo túng, vì bộ dạng lam lũ thấp kém. Mặc dù người chồng cố gắng nài nỉ hết quán này đến quán khác, đều chỉ gặp cái lắc đầu lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn xua đuổi. 7
  • 8. “Mẹ Maria nghèo khó, không tiền, không bạc, có lúc không nhà cửa, không ghế bàn, Mẹ không biết giảng, nhưng Mẹ có món quà quý nhất để cho Mục tử Bê lem, ba đạo sĩ phương Đông, Simêon và Anna nơi Đền Thánh. Mẹ đã thinh lặng cho họ Chúa Giêsu, món quà mà chỉ Mẹ có, món quà ấy giảng thay Mẹ, vì đó Ngôi Lời” ( Đường Hy Vọng, số 932 ). Đóa hồng Vâng Phục Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta hãy xin được vâng lời chịu lụy. Mẹ đã hết lòng thành khẩn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa mầu nhiệm: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói” (Lc 1, 38). Mẹ đã “Xin vâng” cho đến tận cuối đời, đã chịu lưỡi gươm đâm thấu tim khi Con Chúa chịu tử nạn, như lời ông Simêon, người công chính, đã tiên tri ( x. Lc 2, 38 ). “Mấy lời vắn tắt diễn tả cuộc đời Mẹ con; với tâm tình thánh thiện, hãy ghi vào lòng mà suy niệm và bắt chước: “Này con là tôi tá”: Ecce. “Con xin vâng”: Fiat. “Linh hồn con ngợi khen Chúa”: Magnificat. ( Đường Hy Vọng, số 920 ). Đóa hồng Khiết Tịnh Đức Mẹ tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn. Mẹ Maria chính là trinh nữ đáng cung kính đã được ngôn sứ Isaia loan báo cho nhân loại.“Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" ( Is 7, 14). Mẹ khiết tịnh từ thân xác đến tâm hồn, Mẹ vô nhiễm không hề vướng tội tổ tông truyền, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng, luộn trọn tình, trọn nghĩa với Chúa. “Sự hy sinh toàn hiến của Mẹ càng cao quý, khi Mẹ phó thác cho Chúa trọn vẹn; đi ngược lại ước nguyện của các thiếu nữ thời ấy. Mẹ đã quyết sống đồng trinh. Chúa đã ban cho Mẹ cả hai: Vừa đồng trinh, vừa làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ nhân loại” ( Đường Hy Vọng, số 933 ). Lạy Chúa Giêsu, năm đóa hồng trắng là năm nhân đức mà chính Chúa hằng dạy bảo đoàn chiên, đã được Mẹ Maria thấm nhuần tuân giữ. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Mẹ để được sống gần gũi Chúa luôn. Lạy Mẹ Maria, chúng con kính dâng lên Mẹ năm đóa hồng trắng tinh tựa tâm hồn thánh thiện của Mẹ. Kính xin Mẹ giúp chúng con biết ý thức và cố gắng rèn luyện theo những nhân đức của Mẹ, mỗi khi lần chuỗi Mai Khôi. Amen. AM. TRẦN BÌNH AN LẦN HẠT MAI KHÔI Lần Hạt Mai Khôi là lời cầu nguyện của những người bé nhỏ nghèo hèn trước mặt Chúa, ý thức mình là thân phận của những kẻ lữ hành. Lần Hạt Mai Khôi là sự kết hợp của tất cả các tâm hồn khiêm hạ, nhìn nhận mình là phần tử trong đại gia đình nhân loại, trong đó cha mẹ hiệp nhất với con cái trong lời cầu nguyện này. Lần Hạt Mai Khôi là chiêm niệm giống như các đan sĩ nam nữ thường xuyên ở trong sự thinh lặng tĩnh mịch, sống lòng bên lòng với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ thế giới. Chúng ta bắt đầu khiêm tốn từng bước nhịp lần Hạt Mai Khôi. Chúng ta sẽ suy niệm Tin Mừng. Và gợi lên sự đợi chờ, sự khổ đau, niềm hy vọng của toàn thể nhân loại. Bắt đầu lần chuỗi. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen. Kinh Tin Kính, Kinh Lạy Cha, 3 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, cả cuộc đời của Đức Giêsu Con Cha là một chuỗi hành hương, khởi đầu từ phép rửa tại sông Giođan đến ngày Phục Sinh. Đức Maria, Mẹ Ngài trong niềm tin, đã đồng hành cùng Con Mẹ, chính Mẹ là môn đệ đầu tiên. Xin Mẹ đồng hành và cầu nguyện với chúng con trong lúc này đây, ước gì việc suy niệm Kinh Mai Khôi này là chuyến hành hương trong của chúng con trong đức tin. Chúng con cầu xin Cha, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen. Hát bài: Mẹ ơi, trước nhan Mẹ… Thứ nhất thì ngắm: Thiên thần truyền tin cho đức bà chịu thai. 8
  • 9. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Luca ( Lc 1, 30 – 33 ): Thiên thần nói với bà: "Maria, đừng sợ ! Vì người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa. Và này, nơi lòng dạ, người sẽ thụ thai, và sinh con, và người sẽ gọi tên Ngài là Giêsu. Ngài sẽ làm lớn, và được gọi là Con Ðấng Tối cao, và Chúa Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai Ðavít cha Ngài; và Ngài sẽ làm vua trên nhà Giacóp cho đến đời đời, và vương quền của Ngài sẽ vô cùng vô tận !" Chúng ta suy niệm và chiêm ngắm mầu nhiệm Ngôi Hai Con Thiên Chúa nhập thể làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Thật là ý nghĩa vì đây là dịp tốt để Đức Maria Mẹ chúng ta dẫn dắt chúng ta tới Chúa Giêsu Con Mẹ. Vì chính Người, Đức Giêsu Kitô, đã mạc khải cho chúng ta Tình Yêu của Thiên Chúa đối với loài người và của mỗi người đối với Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta có thể đón nhận ơn phúc cao cả này. Quy tụ nhau đây chung quanh Mẹ Maria, chúng cùng cầu nguyện cho hết thảy chúng ta, đặc biệt cho các bà mẹ đang cưu mang và sẽ sinh con ý thức được các thai nhi là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, chúng cần phải được bảo vệ giữ gìn, và có quyền sống, vì Con Thiên Chúa đã làm người để dạy chúng ta điều đó. Xin cho con người ở mọi nơi mọi thời biết kính trọng và yêu thương nhau. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Mẹ nguồn cậy trông… Thứ hai thì ngắm: Đức Maria đi viếng bà Thánh Isave. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Luca ( Lc 2, 10 – 11 ): Thiên thần nói với các mục đồng: "Ðừng sợ ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui hết sức lớn lao, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vì Cứu Chúa, tức là Ðức Kitô Chúa, trong thành của Ðavít. Trong Chúa Giêsu, chúng ta chiêm ngắm sự khiêm nhường được tái thiết lập trong chính Ngài. Đức Giêsu khiêm nhường và hiền lành trong lòng, thương xót, và kiến tạo hòa bình. Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô để cho chúng ta được tham dự vào thần tính của Con Thiên Chúa. Chúng ta có thể đón nhận với tất cả niềm tin, sự nhập thể này. Chúng ta cùng cầu nguyện cho tất cả những ai đang thành tâm thiện chí kiến tạo công lý và hòa bình trên mặt đất này, chúng ta cùng cầu nguyện cho tất cả những ai đang bị đối xử bất công, những ai đang bị cầm tù và kết án, để họ được nâng đỡ với tình người, mang ánh sáng Tin Mừng chiếu dọi vào nơi tăm tối, để giúp họ sinh ra trong đời sống thần linh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, và những người phục vụ công ích. Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa chúng ta chiếu dọi vào tâm hồn họ để họ bảo đảm hòa bình và tự do của các dân các nước. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nạn nhân Kitô giáo đang bị bách hại và bị đối xử ngược đãi vì Tin Mừng, được bảo vệ đúng với nhân phẩm, quyền tự do của con người và tự do tôn giáo. Xin cho họ tiếp tục là chứng nhân cản đảm của Lời Chúa để họ có thể sống và tuyên xưng tự do đức tin của mình. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Dâng hiến Mẹ Thứ ba thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Maccô ( Mc 1, 9 – 11 ): Trong những ngày ấy, Ðức Giêsu bỏ Nadarét, xứ Galilê, và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Ngài thấy trời xé ra và Thần Khí, như con chim câu, đáp xuống trên Ngài; Và một tiếng phát ra tự trời: "Con là con chí ái của Ta, kẻ Ta sủng mộ". Trong ngày Đức Giêsu chịu phép rửa, Đức Chúa Cha đã thánh hiến Đức Giêsu trong Thánh Thần và sai Ngài đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Phần chúng ta, ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được mời gọi trở nên những chứng nhân của Chúa Phục Sinh cùng một Thánh Thần. Chúng ta có thể sống thực sự là con cái Thiên Chúa, giữa lòng Giáo Hội, mở ra sứ mạng loan báo Tin Mừng. 9
  • 10. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người trẻ hôm nay, để họ nhận biết Thiên Chúa và cho tất cả những ai chưa gặp gỡ Ngài, những ai là nạn nhân của bạo lực, của nghiện ngập và tất cả những người dối trá. Chúng ta cùng cầu cho những ai giúp đỡ họ lớn lên trong khiêm tốn, trở nên những chứng nhân Hy vọng Nước trời cùng với họ. Hiệp thông cùng tất cả các bạn trẻ kitô giáo khắp nơi trên thế giới, chúng ta cầu cho họ được hiệp nhất cùng nhau trên toàn thể địa cầu. Ước chi Lời của Bình An, Lời của Tin Mừng chất vấn họ, chúng ta sẽ phục vụ cho sự quan phòng của Thiên Chúa hòa giải tất cả mọi người trong Chúa Kitô. Để chúng ta có thể nên một trong đức tin, trong tình yêu thương và phục vụ, và là hình ảnh của những môn đệ đầu tiên của Đức Kitô họ đã nên một lòng một ý với nhau, giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Kính mừng Nữ Vương Thứ tư thì ngắm: Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu goi sám hối. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Máccô ( Mc 1, 14 – 15 ): Sau khi Gioan đã bị nộp, thì Ðức Giêsu đến xứ Galilê, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng". Thiên Chúa phán và điều đó đang có. Đức Kitô hiện diện và Nước trời đang đến. Ngày hôm nay, Giáo Hội loan báo Lời Chúa và Nước Trời ở giữa chúng ta chúng ta có thể sống và chia sẻ kinh nghiệm với mọi người nam cũng như nữ mà chúng ta gặp gỡ, để chúng ta gần kề nhau, chia sẻ sự sống với nhau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Linh Mục, Phó Tế, nam nữ Tu Sĩ và cho tất cả mọi người Kitô hữu biết chu toàn sứ mạng trong Giáo Hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Chủng Sinh và những nhà đào tạo. Chúng ta cũng cầu nguyện cho hết thảy những ai được Thiên Chúa kêu gọi trở nên người phục vụ Lời Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho anh chị em Kitô hữu chúng ta trên toàn thế giới để họ cùng nhau tuyên xưng một niềm tin vào Chúa Kitô chết và sống lại vì kính mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Xin Vâng Thứ năm thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể. Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô ( 1 Cr 11, 23 – 25 ): Vì chưng, chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều tôi truyền lại cho anh em. Là: Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm lấy Bánh, và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và nói: "Này là Mình Ta, vì các ngươi, hãy làm sự này mà nhớ đến Ta". Cũng vậy về chén, sau khi đã dùng bữa tối xong, Ngài nói: "Chén này là Giao ước mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta." Chúa Giêsu đã tự hiến chính thân mình để cứu chuộc chúng ta như Con Chiên vô tội và Thiên Chúa đã đón nhận như hy tế ngợi khen. Thế nên, khi chúng ta ăn Mình Ngài bị hiến tế vì chúng ta, thì chúng ta được mạnh sức và khi chúng ta uống máu Ngài đổ ra vì chúng ta, thì chúng ta được tẩy sạch. Đây là mầu nhiệm đức tin có thể mở ra cho chúng ta ơn cả nghĩa đầy trong đời sống của mỗi người chúng ta. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô. Xin Chúa gìn giữ ngài trong tình yêu, dẫn dắt ngài trong cương vị mục tử, để dân Kitô giáo được luôn luôn phát triển trong đức tin, hiệp nhất trong bình an. Chúng ta cũng cầu cho Đức Giám Mục của chúng ta và cho các Giám Mục trên toàn thế giới: để các ngài dẫn dắt, thánh hóa và cai quản Hội Thánh theo ý Chúa muốn. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Dâng Về Mẹ 10
  • 11. Thứ Sáu thì ngắm: Đức Giêsu hấp hối trong vườn cây dầu. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu ( Mt 26, 37 – 39 ): Đức Giêsu đem Phêrô và hai người con của Giêbêđê đi theo, và bắt đầu buồn bã và âu sầu. Bấy giờ Ngài bảo họ: "Hồn Ta buồn phiền quá đỗi, muốn chết được; các ngươi hãy ở lại đây mà thức với Ta". Tiến xa thêm ít bước, Ngài sấp mặt xuống mà cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi Con ! Song không phải như ý Con, mà là như ý Cha". Bước vào cuộc Thương Khó, Đức Kitô tự do tiến gần tới cái chết, Ngài tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì chỉ mình Ngài có thể chiến thắng sự chết và vượt qua cõi chết. Chúng ta là thân phận tội lỗi phải chết và phải khổ đau. Trong những thử thách đau thương của cuộc đời nơi hành trình dương thế, chúng ta có thể được Đức Kitô đỡ nâng và thánh hóa nhờ sự Phục Sinh của Ngài. Chúng ta cùng cầu xin Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng giầu lòng thương xót đoái thương những ai đang gặp thử thách gian nan: xin Ngài cất khỏi thế giới những lầm lỗi; an ủi những người lao nhọc, để họ có được niềm vui nâng đỡ và lòng thương xót Chúa trong cảnh khốn cùng. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những ai vất vả và thất vọng. Với niềm tin tưởng, chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chính chúng ta cũng có được sức mạnh, nâng đỡ ủi an, xoa dịu anh chị em chung quanh chúng ta đang bị khổ đau và bất hạnh. Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu gia tăng các nghệ thuật để xây dựng một nền văn hóa bảo vệ và thăng tiến giá trị nhân bản con người. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Kìa ai rong ruổi Thứ Bẩy thì ngắm: Đức Giêsu chịu chết trên cây Thánh Giá. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Gioan ( Ga 19, 28 – 30 ): Sau đó bỏ dinh Caipha, họ điệu Ðức Giêsu đến phủ đường. Trời đã sáng. Họ không vào phủ đường, kẻo mắc uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Vậy nên Philatô ra ngoài gặp họ và nói: "Các người tố cáo ông này về tội gì ?" Họ đáp lại và nói với ông: "Nếu tên này không làm gì ác, thì chúng tôi đã không đem nộp cho ngài". Chúa Giêsu đã yêu chúng ta cho đến tận cùng là thí mạng sống vì chúng ta, Ngài đã hiến dâng chính thân mình lên Thiên Chúa Cha cho chúng ta. Nhờ thế, Thánh Giá trở nên cây phúc trường sinh và nguồn vui của chúng ta. Chúng ta có thể đạt tới vinh quang nhờ sự Phục Sinh của Chúa Kitô, và được ghi dấu vào Thánh Giá Chúa Kitô. Chúng ta cùng cầu xin cho hết mọi người nam cũng như nữ đã qua đời, xin cho họ gặp được Đức Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại, Ngài đã chết vì họ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho hết thảy mọi người còn sống cũng như đã qua đời cảm nghiệm được lòng nhân lành của Thiên Chúa. Nhờ lời chuyển cầu của thánh quan thầy... chúng ta cùng cầu cho các tôi tớ nam cũng như nữ đang đồng hành với hết mọi người cho đến lúc lìa thế, xin Chúa hướng dẫn tâm hồn họ theo lòng nhân hậu Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho hết mọi người trên toàn thế giới, và đặt biệt những người hữu trách trong các lãnh vực kinh tế cũng như chính trị, để họ luôn tìm cách cải tạo thế giới. Đức Giáo hoàng đã gửi thông điệp cuối cùng cho "tất cả những người có lòng thiện tâm". Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chính chúng ta không tìm kiếm xem tài liệu này nối kết cái nhìn của chúng ta với thế giới, nhưng là cái nhìn của chúng ta với thế giới phải thay đổi làm sao để tình yêu trong chân lý thực sự là suối nguồn hướng dẫn mọi hành động của chúng ta. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Lạy Mẹ là Ngôi Sao sáng Thứ Tám thì ngắm: Đức Giêsu sống lại. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Luca ( Lc 24, 30 – 32 ): Và xảy ra là khi vào bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng đoạn bẻ ra Ngài trao cho họ, thì mắt họ mở ra và nhận biết Ngài... nhưng Ngài đã bỏ họ mà biến rồi. Và họ nói cùng nhau: "Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng lúc dọc đàng Ngài ngỏ lời với ta, và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta đó sao ?" 11
  • 12. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, bản tính nhân loại được đổi mới, tìm lại được phẩm giá nguyên thủy mà Thiên Chúa đã phú ban cho chúng ta trong Đức Kitô. Nguyện xin Chúa là Chúa chúng ta dẫn dắt chúng ta tới nguồn ơn cứu độ tròn đầy đã được khai mở trong mầu nhiệm Phục Sinh và ước chi hết thảy mọi người trở nên con Thiên Chúa và anh em với nhau trong Đức Kitô. Chúng ta cùng cầu xin cho hết những ai không cùng tín ngưỡng với chúng ta, cho những nạn nhân đang bị kỳ thị và những ai mất tính người. Chúng ta cùng cầu xin cho nhưng ai từ bỏ gia đình và đất nước được mạnh sức để chiến đấu vì chế độ áp bức. Xin cho họ nhận được sự trợ giúp của người kitô hữu trong việc bảo vệ và giữ gìn quyền của họ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các tôn giáo bạn, với đời sống chứng nhân của họ, làm chứng tỏ tường rằng Danh Thiên Chúa mang lại bình an cho họ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho hết mọi người thuộc mọi dân tộc, ngôn ngữ, quốc gia sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau, nguyện xin sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là nguồn sống và bình an cho chúng ta. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Lạy Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa Thứ Chín thì ngắm: Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Bài trich sách Tông Đồ Công Vụ ( Cv 2, 1 – 4 ): Khi thời gian đã mãn, đến lễ Năm Mươi, mọi người cùng nhau tề tựu một nơi; thì bỗng xảy đến tự trời một tiếng rào rào như thể do cuồng phong thổi đến, vang dậy cả nhà, nơi họ đang ngồi. Và họ thấy những lưỡi như thể là lửa, phân tán dần mà đậu trên mỗi người trong họ. Và hết thảy họ được đầy Thánh Thần, và bắt đầu nói những tiếng lạ, tùy theo Thần khí ban cho họ phát ngôn. Nhờ mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa đã thánh hóa Giáo Hội của Chúa giữa muôn dân để Giáo Hội Chúa được lan rộng khắp nơi, và qua Giáo Hội, ơn Chúa Thánh Thần được tràn ngập tâm hồn các tín hữu Chúa. Nguyện xin Chúa không ngừng đổ tràn Thánh Thần Chúa xuống tâm hồn các tín hữu Chúa, để Thánh Thần Chúa thấm nhập vào trong trí khôn mầu nhiệm tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Nguyện xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng những người trẻ tình yêu Thiên Chúa và gieo vào lòng họ nguồn suối hy vọng, biến họ thành những con người mới. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho toàn thể cộng đoàn Dân Chúa biết đáp lời mời gọi trở nên Thánh Thiện và thi hành Sứ Mạng được đỡ nâng, nuôi dưỡng nhờ sự phân định ơn đoàn sủng và hăng say nhiệt thành đào tạo về phương diện thiêng liêng và văn hóa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần quy tụ tất cả mọi người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ trong cùng một đức tin, xin Người gìn giữ tất cả những người kitô hữu, để họ trung thành với đức tin mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Hát bài: Mẹ hoài đứng đó… Thứ Mười thì ngắm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên Trời. Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan ( Kh 12, 1 ): Một dấu lạ vĩ đại hiện ra trên trời: một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng, và đầu có triều thiên mười hai sao. Nhờ công nghiệp Thập Giá của Đức Kitô, Thiên Chúa đã ân thưởng Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu Trinh Nữ Rất Thánh Vô Nhiễm Nguyên tội cả hồn và xác lên trời. Phần chúng ta, chúng ta cũng được cứu chuộc nhờ Thập Giá của Đức Giêsu Kitô, chúng ta cũng có thể chiêm ngắm Đức Maria, hình ảnh hoàn hảo của Giáo Hội, phần tử đầu tiên được cứu chuộc, dưỡng nuôi niềm hy vọng của chúng ta trên hành trình dương thế. Giữa lòng Giáo Hội, chúng ta cùng cầu xin cho tất mọi người đang ngày đêm lê bước trên đường nên thánh; để họ được đón tiếp, được nguyện cầu, được gặp gỡ trong Thiên Chúa; để họ được lôi kéo bởi vẻ đẹp của Giáo Hội. Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho họ nhiều ân sủng; chúng ta cũng 12
  • 13. cầu cho những ai đang mỗi ngày lao công để hướng về trời cao, nơi mà chúng ta cũng như họ phải đạt tới sau cuộc hành trình dương thế này. Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh... Kết thúc Chúa ở cùng anh chị em… Và ở cùng cha. Xin Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em. Amen. Hát bài: Salve, Regina... Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ ( Ephata xin được biên tập một phần ) NGƯỜI CÔNG GIÁO VỚI VIỆC ĐỐI THOẠI Nghe nói đến đối thoại tôn giáo, người Công Giáo chúng ta thường có thái độ bàng quan cho đó là việc của Giáo Hội, của các chuyên gia thần học này nọ. Tuy nhiên nếu hiểu đối thoại là gặp gỡ trao đổi với người khác về những vấn đề cùng quan tâm thì đây lại là bổn phận không thể thoái thác. Thánh Phêrô nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” ( 1 Pr 3, 15 ). Để có thể sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai dù người đó là vô thần hay khác tôn giáo thì người Công Giáo chúng ta cần phải sống cái đạo của mình. Càng sống tốt chừng nào thì đối thoại càng kết quả chừng đó. Ngược lại, chẳng những không sống đạo mà còn nghịch đạo nữa thì thậm chí nguy. Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài huấn từ nhân dịp gặp gỡ các Giám Mục Á Châu tại Đền Các Thánh Tử Đạo Haemi ( Hàn Quốc ) ngày 17.8.2014 đã nêu ra ba trở ngại lớn khiến người Công Giáo không sống đạo tốt. Một là ánh sáng lừa đảo của thuyết Tương Đối là điều che lấp sự rạng ngời của chân lý và lay chuyển vùng đất dưới chân chúng ta, kéo chúng ta về phía những bãi cát lún cát lầy của mơ hồ và thất vọng. Hai là sự nông cạn, tức khuynh hướng chạy theo những mốt mới nhất, những tiện nghi và những trò tiêu khiển thay vì tham gia vào những điều thực sự quan trọng. Ba là nấp sau những thái độ có vẻ an toàn, những luật lệ và quy tắc có sẵn” ( Nguyệt san Cg & Dt số 236 tháng 8/2014 ). Huấn từ của Đức Thánh Cha nói với các Giám Mục nhưng cũng là cho tất cả chúng ta, những người có quan tâm đến vận mệnh Giáo Hội, tại đây, lúc này. Sở dĩ thuyết Tương Đối có thể che lấp sự rạng ngời của chân lý bởi theo thuyết này thì không có cái chi là tuyệt đối: Điều đúng cho anh chưa chắc đã đúng cho tôi. Dẫu vậy con đường tâm linh luôn đòi hỏi tính tuyệt đối. Chính vì vậy Đức Kitô mới đưa ra khẳng định: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ). Chúa nói Ngài là con đường duy nhất đến với Chúa Cha thì đó là chân lý tuyệt đối. Trái lại, nếu ai bảo rằng ngoài Chúa Kitô, cũng có thể đến được với Chúa Cha thì người đó không có Đức Tin chân thật. Ngày nay trong thời tục hóa người ta chẳng những không nhìn nhận chân lý Tuyệt Đối nơi Đức Kitô mà còn phủ nhận Đấng Cha bằng một thứ thần học… giết chết Thiên Chúa ( Théologie de la mort de Dieu ) ! Chính do nơi phủ nhận chân lý tuyệt đối ấy mà con người ngày nay dù sống trong vùng ảnh hưởng của tôn giáo nhưng Đức Tin không thể đứng vững và tất nhiên sẽ bị lôi kéo về phía những bãi cát lầy cát lún của mơ hồ và thất vọng. Khi niềm tin chân thật vào Đức Kitô đã mất thì toàn bộ cuộc sống sẽ rơi vào bại hoại không còn sức sống. Làm sao có thể còn sức sống một khi đã đánh mất con đường về với Chúa Cha cũng là Chân Bản Tính của mình ? Trở về với Chân Bản Tính, chỉ có con đường tâm linh ấy mới có thể tạo nên sức sống cho Giáo Hội và cho từng mỗi tín hữu. Ngược lại, đời sống tôn giáo hoặc chỉ còn là một thứ hình thức hời hợt nông cạn hoặc nấp sau những thái độ có vẻ an toàn cùng với những quy tắc luật lệ có sẵn v.v… Bằng một đời sống chỉ vụ hình thức và hời hợt như thế thì làm sao có thể sẵn sàng trả lời cho những chất vấn về niềm tin của mình ? Nói rằng tin Chúa nhưng có thật là chúng ta tin vào Đức Kitô 13 CÙNG PHÂN TÍCH
  • 14. Đấng Cứu Độ mình ? Tin Đấng Cứu Độ có nghĩa phải hết lòng tin vào mạc khải của Ngài về Đấng Cha “Ngoài Cha không ai biết Con, cũng như ngoài Con và người nào Con muốn mạc khải, cũng không ai biết Cha” ( Lc 10, 22 ). Biết Cha ở đây không phải là cái biết của tri thức thần học nhưng là cái biết của thực tại "Môsê thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: "Này tôi sẽ đi đến dân Israen nói cùng chúng rằng Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi, nhưng nếu họ hỏi Tên Ngài là chi thì tôi biết nói với họ làm sao ?" Đức Chúa Trời phán: "Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu". Rồi Ngài nhắc lại rằng: "Hãy nói cho dân Israen như vầy: "Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” ( Xh 3, 13 – 14 ). Cái biết của tri thức thần học thuần túy chỉ là cái biết của khái niệm. Nói cách khác cái biết ấy chỉ là một ý niệm nào đó về Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa như chính là Ngài. Để có thể đến được Thiên Chúa như chính là Ngài ( Tự Hữu Hằng Hữu ) thì không thể có con đường nào khác ngoài ra mạc khải của Đức Kitô về Thiên Chúa nội tại và đây cũng chính là ơn gọi của từng mỗi Kitô Hữu chúng ta. “Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh cũng như trong sự kêu gọi mình mà anh em đã được gọi đến một hy vọng một Chúa, một Đức Tin, một phép rửa, một Đức Chúa Trời là Cha của mọi người. Ngài vượt trên mọi người, suốt qua mọi người và ở trong mọi người” ( Ep 4, 4 – 6 ). Hàng ngày chúng ta vẫn đọc Kinh Lạy Cha không biết bao nhiêu là lần. Thế nhưng đó có thể chỉ là những lời ngoài môi ngoài miệng mà không hề có cảm nghiệm gì về Người Cha Thiên Chúa của mình. Thiên Chúa là Cha, điều ấy nói lên một chân lý vô cùng cao cả nhưng cũng thật gần gũi: Tất cả chúng ta không phân biệt chủng tộc giai cấp hay tôn giáo, đều là Con của Ngài, từ Ngài mà sinh. Từ khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, hết thảy Kitô Hữu đều có ơn gọi làm Con Chúa. Làm Con Chúa cũng có nghĩa chúng ta cần phải trở về với căn tính đích thực của mình. Trở về với căn tính là về cái nơi mà mình phát xuất. Nơi phát xuất ấy Đức Kitô có khi gọi là Đấng Cha, có khi gọi là Nước Trời. Dù dưới bất cứ danh xưng nào thì đó cũng để ám chỉ cho một thực tại hằng hữu siêu việt mà thế giới hiện tượng không thể cảm nhận bằng giác quan cũng như suy luận. Thực tại ấy Thánh Phaolô gọi là niềm hy vọng: “Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng, nhưng sự hy vọng đã thấy được thì chẳng phải là hy vọng, vì có ai lại hy vọng điều mình đã thấy rồi ư ? Song nếu chúng ta hy vọng điều mình chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông” ( Rm 8, 24 – 25 ). Hy vọng vào điều chưa thấy và điều chưa thấy, đó chính là Nước Thiên Đàng. Tin có Thiên Đàng có Hỏa Ngục có sự thưởng phạt vô cùng là niềm tin cố hữu của người Công Giáo. Thế nhưng niềm tin ấy trong thời tục hóa này dường như đang bị lung lay ? Người ta lý luận rằng làm gì có cái chuyện lên hay xuống. Nói là lên Thiên Đàng chẳng lẽ Thiên Đàng lại ở tít trên cõi trời mây kia. Còn Hỏa ngục thì ở sâu tuốt dưới lòng đất này sao ? Trước đây người ta có thể tin vào những lời giảng dạy về Thiên Đàng về Hỏa ngục theo cái nghĩa không gian vật lý như thế, nhưng bây giờ trong thời khoa học vật lý vũ trụ thì không thể như thế được. Đối với người có đạo, dù có tin như thế cũng chẳng sao nhưng với giới triết gia hay khoa học gia thì đây quả là vấn đề hết sức nan giải. Đức Tin tôn giáo hoàn toàn không phải mù quáng nhưng nó cũng cần được giải thích. Chúng ta tin có Thiên Đàng tức hy vọng vào điều chưa thấy nhưng niềm hy vọng ấy phải chăng chỉ là ảo vọng ? Friedrich Nietzsche ( 1844 – 1900 ) ông tổ của triết học Hiện Sinh đã nêu ra những nguyên nhân phát sinh tôn giáo: “Đau khổ và bất lực, đó là căn nguyên đã sinh ra những đời sau. Đó là hạnh phúc của những con người quá ư đau khổ. Sự mệt nhọc muốn nhảy một cái đến tận cùng. Chính sự mệt nhọc này đã tạo nên các thần linh và các Thiên Đàng đời sau. Chính những kẻ bệnh tật và những kẻ ốm yếu đã khinh chê thân xác và trái đất này. Họ đã tạo ra những sự trên trời.” ( Trần Thái Đỉnh – Triết Học Hiện Sinh ). Sau triết Hiện Sinh là chủ nghĩa Duy Vật Vô Thần, Karl Mác nặng lời phê phán tôn giáo, cho nó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng bị áp bức… Phân tâm học của Sigmund Freud ( 1856 – 1939 ) phân tích quan niệm “Người Cha” của Kitô giáo và cho rằng “Người Cha” này là sản phẩm của ảo vọng muốn được che chở tuyệt đối cũng như từ cảm thức tội lỗi phát sinh từ mặc cảm Oedipe, nghĩa là từ ý thức về nhu cầu muốn được tha thứ v.v… 14
  • 15. Trước những luận điểm gay gắt có tính chất vấn Đức Tin như thế, chúng ta cần trả lời ra sao ? Phải chăng là thái độ im lặng, coi đó mặc kệ như tiếng chó sủa, còn kẻ lữ hành cứ đi ( Ngạn ngữ Ả Rập ) ? Có điều nên nhớ những phê phán ấy đã gây nên ảnh hưởng vô cùng nặng nề đến đủ thứ thần học, nhất là Thần Học Giải Phóng, và gần đây lại còn thấy cái gọi là Thần Học Tiện Dân ( Minjung ) của Hàn Quốc nữa ! Không thể im lặng, vậy phải biết trả lời ra sao và bằng cách nào ? Theo Thánh Phêrô thì: “Phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay chính khiến những kẻ phỉ báng anh em phải xấu hổ vì những điều họ vu khống, bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành nếu đó là Thánh Ý Chúa còn hơn là vì làm điều ác” ( 1Pr 3, 16 – 17 ). Dùng lý luận để đáp trả lý luận thì cũng chẳng khác nào đổ dầu vào lửa, càng làm cho lửa bốc cao. Lý trí theo triết học Kant thuần túy đó chỉ là “Cái Tôi Tưởng” ( Que Je Pense ): Tôi cho, tôi nghĩ, tôi quan niệm v.v… nó phải thế này thế khác v.v… Bao lâu còn dựa trên những “Cái Tôi Tưởng” như thế thì không bao giờ có thể thành công trong đối thoại. Trái lại, để đi vào đối thoại thực sự thì nhất thiết cần phải bỏ “Cái Tôi” đi và đây cũng chính là điều Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô”. Chỉ khi nào ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô thì việc đối thoại mới kết quả, vì chưng chỉ có Ngài mới đem lại Sự Thật: “Sự Thật sẽ giải thoát anh em” ( Ga 8, 32 ). PHÙNG VĂN HÓA, 10.2014 ƠN GỌI Không có gì lạ đối với bất cứ ai đã quen với quang cảnh ở các quốc gia như Hoa Kỳ, có hai khái niệm rất khác nhau về đời sống tôn giáo được thể hiện rộng rãi. Một nhãn quan coi đời sống tu trì có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, tính từ những người sáng lập các cộng đoàn hiện có, qua các nhân vật quan trọng của Công Giáo như các Thánh Inhaxiô, Đa Minh, Phanxicô, Bênêđictô, Vinh Sơn Phaolô, Frances de Chantal và Angela Merici. Vẫn có sự nối tiếp về truyền thống nguyên vẹn của Kitô giáo Công Giáo, ngay từ các Tông Đồ đầu tiên theo tiếng gọi của Đức Kitô để sống đức Nghèo Khó, Khiết Tịnh và Vâng Lời. Theo quan điểm này, rõ ràng đời sống tu trì có một quá khứ lâu dài, thích nghi với mọi thời đại. Sự hiện hữu hiện nay có một tương lai chắc chắn vì nó được xây dựng trên nền tảng suốt hơn 20 thế kỷ của Kitô Giáo. Do đó, đời sống tu trì được nâng đỡ bởi cùng một tinh thần của Đức Kitô vẫn duy trì Giáo Hội của Ngài, dù ngày nay có canh tân nhưng vẫn là một, bất kể thời gian và mọi thứ tàn phá. Một nhãn quan khác về đời sống tu trì không chỉ khác mà còn tương phản. Nó sẵn sàng chấp nhận quá khứ, và gọi là “quá khứ vinh quang”. Nhưng ngày nay, thời hoàng kim đó không còn, mà chỉ còn là điều mong ước. Theo đó, đời sống tu trì thực sự không có quá khứ theo dạng kiểu mẫu của hiện tại, nhưng là tương lai tạm thời và không chắc. Đó là một phần của sự mặc khải liên tiếp mà Thần Khí Thiên Chúa mà ngày nay chỉ thấy mờ nhạt, và có thể sẽ dần dần “mở ra” khi thế giới ngày nay đi xuyên qua lớp sương mù của các ý thức hệ xung khắc đang bao phủ Tây phương như đám mây đen. Theo tiền đề đó, không cần phải nói rằng khái niệm này vẫn có thể dùng thuật ngữ “đời sống tu trì”, và giữ lại nhiều từ ngữ mà ngày xưa đã dùng – nhưng ngữ nghĩa đã thay đổi. Do đó, ý nghĩa của ơn gọi tu trì cũng thay đổi nhiều. Nếu mỗi ơn gọi ( hoặc sự hướng nghiệp ) là sự đáp lại tiếng gọi từ nội tâm, sự đáp lại đó được xác định bằng ý niệm của người đó về những gì được nâng đỡ. Chẳng hạn, sự đáp lại của tôi là muốn trở thành bác sĩ, hiểu theo cách nào đó là “nghề thuốc”. Theo cách này, đó là vấn đề tiêu chuẩn được các trường y dược đòi hỏi ở những người thỉnh cầu. Điều cuối cùng họ muốn là một con người chưa rõ về nghề nghiệp mà người đó mong muốn. Có lợi khi biết các quan điểm đối lập về đời sống tu trì và ơn gọi. Sự phân tích sẽ cho thấy điều gì đó. Phía sau mỗi quan điểm đều có khái niệm khác về Giáo Hội. Điều đó cũng cho thấy những gì mà nhiều người vẫn không tin là thật, rằng chúng ta đối diện với những gì còn hơn là ngữ nghĩa học ( semantics ), thậm chí còn hơn là quen thuộc, và hiện nay, các tính từ có nghĩa xấu như “bảo thủ” và “phóng khoáng”, hoặc “tĩnh” và “động”, vẫn có điều gợi ý. Mục đích của tôi đặc biệt hơn. Đó là nói thẳng ra rằng chỉ có một khái niệm xác thực về đời sống tu trì, nghĩa là khái niệm thứ nhất, có nguồn gốc là thiêng liêng, vì Đức Kitô đã thực hiện cách sống này, 15
  • 16. và ngày nay, Ngài vẫn mời gọi cả nam và nữ đi theo Ngài và sống như Ngài đã sống: Sống theo lời khuyên Phúc Âm ( evangelical counsels ). Chúng ta trở lại vấn đề tảo luận: “Ơn gọi tu trì”. Kế hoạch của tôi là phản ánh các phương diện của vấn đề này: Điều này có ý nghĩa gì ? Ngụ ý thần học là gì ? Và điều gì là hệ quả thực tế, thậm chí là phê phán, khi thúc đẩy ơn gọi tu trì ? Ý NGHĨA When we affirm that a religious vocation is of divine origin we exclude, on principle, the claim that religious life – to which vocations respond – is merely the product of human genius. Một số người bảo chúng ta tin rằng đời sống tu trì có trong Giáo Hội trễ hơn sự phát triển của văn minh Kitô Giáo. Chúng ta được biết nhiều điều. Cuối thế kỷ 2 và 3, một số Kitô hữu muốn thoát khỏi sự bách hại và sự vô luân của các thành phố ở Rôma, Alexandria và Antioch, nên họ đã trốn vào hoang địa và lập thành các cộng đoàn để họ sống an toàn, khỏi bị sự cám dỗ và sự đe dọa của chủ nghĩa ngoại giáo suy đồi. Chúng ta chắc rằng Thánh Bênêđictô đã làm điều tương tự khi trốn khỏi cuộc xâm lược man rợ trong thời của ngài. Cũng vậy, Thánh Phanxicô là một nhà thần bí ( mystic ) chống lại sự sa hoa phản Kitô Giáo trong thời của ngài. Thế kỷ XVI, Giáo Hội cần người lãnh đạo quân đội để bảo vệ Giáo Hoàng và chống lại sự xâm nhập của Tin Lành. Ngay sau đó, cuộc Cải Cách Đối Lập ( Counter Reformation ) kêu gọi thành lập các trường học Công Giáo. Với sư hòa giải của Bắc Mỹ và Nam Mỹ, và mới đây là thuộc địa Á châu và Phi châu – người lao động nghèo ở các trại và các nhà cho người già, các nơi học tập và chăm sóc người khuyết tật. Trong mỗi trường hợp, người lãnh đạo uy tín đã thành lập một tổ chức để thỏa mãn nhu cầu của thời đại. Chắc chắn được gợi hứng bởi đức ái Kitô giáo, các thành viên được tuyển mộ để đáp ứng nhu cầu hiển nhiên, và rồi một cộng đoàn khác được thành lập rất nhanh. Chỉ có vậy thôi sao ? Đúng, chỉ có vậy chứ không có gì hơn. Tôi không chối rằng trong nhiều trường hợp, đối với những gì ngày nay chúng ta đang trả giá mắc, các ngành nghề được tuyển chọn khi chính phủ tuyển mộ người cho quân đội để thỏa mãn chỉ tiêu nào đó về giáo viên, y tá, nhân viên từ thiện, người quản lý các tổ chức,... Nhưng sự lạm dụng không là tiêu chuẩn để hiểu ý nghĩa. Khi Giáo luật được biên soạn năm 1917, và Bộ luật này đã chuẩn bị chi tiết về đời sống tu trì – để ngăn ngừa hoặc làm giảm các sai lỗi tương tự – không vạch ra tiêu chuẩn chính về ơn gọi tu trì. Tiêu chuẩn đã có trong Phúc Âm, và do đó phải theo nguồn gốc, như Hiến pháp Giáo Hội đối với “giáo huấn và mẫu gương của Chúa”. Chúa Giêsu Kitô là Tu sĩ đầu tiên. Đời sống và giáo huấn của Ngài đã gợi hứng nhiều người từ khi Giáo Hội sơ khai, họ bán tất cả những gì họ có và cho người nghèo, rồi đi theo Chúa, họ khước từ quyền kết hôn và quyền thừa kế, vui vẻ vâng phục những người hướng dẫn họ nhận ra tiếng Chúa gọi. Khoảng năm 100, không ai nói rằng có những dòng tu phát triển mạnh hơn so với ngày nay. Nhưng với cùng dấu hiệu, ngày nay không được diễn tả đầy đủ hoặc được hiểu rõ ràng. Cũng có điều tương tự khi phát triển giáo lý. Thánh Thể, quyền tối cao của Giáo Hoàng, đời sống ân sủng sâu sắc và mức độ thích hợp không chỉ có hồi năm 100, năm 700, hoặc thậm chí là năm 1900. Tuy nhiên, nói vậy không là vấn đề, điều đó xác nhận rằng bản chất và các yếu tố cần thiết của các mầu nhiệm chính trong Kitô giáo và chắc chắn được Đức Kitô mặc khải, do đó đã hiện hữu trong lòng Giáo Hội từ thời các Tông Đồ. NGỤ Ý THẦN HỌC Khi chúng ta chân nhận rằng tinh hoa của đời sống tu trì là một phần trong sự mặc khải Kitô giáo, với vô số ngụ ý thần học theo sau, ở đây tôi chỉ chọn ba điều: Các ngụ ý về Kitô học, Giáo Hội học, và Thần Học Khổ hạnh ( Christology, Ecclesiology, Ascetical Theology ). Trong các vấn đề cơ bản mà các nhà Kitô học đặt ra là vấn đề đã được tóm lược trong tác phẩm nổi tiếng của Thánh Anselmô, tác phẩm “Cur Deus Homo !” ( Tại sao Thiên Chúa làm người ). 16
  • 17. Xin trả lời ngay lập tức rằng Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại, giải thoát họ khỏi tội lỗi và kéo họ ra khỏi bóng tối. Nhưng nếu người ta chưa thỏa mãn, họ nói: “Thế thôi ư ?” Chúng ta phải nói rằng Thiên Chúa làm người không chỉ cứu độ thế giới bằng cách thánh hóa, không chỉ giải thoát các tội nhân chúng ta khỏi tội lỗi, mà còn dẫn chúng ta tới nguồn thánh thiện nhờ kết hợp với Ngài. Tương tự, chúng ta phải nói rằng Đức Kitô đã thiết lập Giáo Hội không chỉ là phương cách cứu độ, mà còn là phương cách thánh hóa. Nói cách khác, Ngài muốn các tín hữu của Ngài không chỉ được giải thoát khỏi cái ác mà còn được nâng tới sự hoàn hảo. Qua Giáo Hội, Ngài cung cấp cho các tín hữu cách nên thánh trong đời sống riêng, để người khác thấy gương của họ mà theo, và người khác được giúp đỡ để đạt tới sự thánh thiện bằng cách thực hành các nhân đức. Thánh Phaolô có lời khuyên mạnh mẽ: “Hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô” ( 1 Cr 11, 1 ). Một mệnh lệnh ngắn gọn nhưng tóm lược đời sống tu trì, do đó động lực chính phải thu hút ơn gọi tu trì. Hơn nữa, ơn gọi không đưa tới sự thánh thiện bình thường, mà tới sự từ bỏ mình hoàn toàn, thề hứa suốt đời – gọi là khấn trọng hoặc vĩnh thệ. Đó là sự hy sinh hoàn toàn qua ba lời khấn ( vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh ), phục vụ hoàn toàn vì người khác để thánh hóa thế giới. Nếu chúng ta lầm lẫn ơn gọi nên thánh này với ơn gọi mọi Kitô hữu nên giống Đức Kitô, chúng ta quên bài học về ơn gọi tuyển chọn của Thiên Chúa, từ thời Tổ Phụ Ápraham, đối với một số người được chọn làm khí cụ của ân sủng đối với những người khác. Từ chối sự tuyển chọn này là trở thành nạn nhân của chủ nghĩa quân bình cách mạng ( revolutionary egalitarianism ), tìm cách làm giảm các điều kỳ diệu và sự phụ thuộc lẫn nhau về xã hội ( social interdependence ) của những người trong thế giới của Thiên Chúa đối với sự không tưởng về xã hội không giai cấp của huyền thoại chủ nghĩa Mácxít ( classless Utopia of a Marxist mythology ). QUAN ĐIỂM GIÁO HỘI Mọi thứ khác là phụ, như hiện nay chúng ta được biết, tệ hơn là không dùng khi thiếu quan tâm. Một Tu Sĩ có thể có các công việc khác và tham gia nhiều hoạt động tông đồ. Ơn gọi của người đó là NÊN THÁNH. Từ quan điểm Giáo Hội, nguồn gốc đời sống tu trì ngụ ý rằng sự duy trì và cách hiểu, sự phê chuẩn và quy tắc của đời sống này thuộc về Giáo Hội và Tòa Thánh. Đây không là sự quan sát bình thường. Một công nghị mới đây nói: “Lời khuyên là tặng phẩm từ trời mà Giáo Hội đón nhận từ Thiên Chúa, luôn an toàn với sự giúp đỡ của ân sủng”. Sự bảo đảm của ân sủng này khi nuôi dưỡng và duy trì ơn gọi tu trì phải được chấp nhận về vấn đề này theo hướng dẫn của Giáo Hội. Chưa bao giờ có sự vâng lời đối với các chỉ thị của Giáo Hội lại rõ ràng và quan trọng hơn. Các bề trên của các dòng tu được mời gọi có thể so sánh với trách nhiệm nặng nề như các giám mục trong Giáo Hội Công Giáo. Các bề trên cũng đang được thử thách, nhất là việc trung thành với Giáo Hội – nghĩa là phù hợp – đối với các nguyên tắc của Giáo Hội được Công Đồng Vatican II đưa ra, và sự ủy thác mà Đức giáo hoàng dùng để hướng dẫn Giáo Hội. Điều đó không mới lạ hoặc bất thường, nghĩa là để làm chứng nhân trên thế gian về Thiên Chúa Ba Ngôi. NHU CẦU HƯỚNG DẪN Vì sự đa dạng hiệu quả này rất quý giá, cần có những người thề hứa để duy trì Giáo Hội. Cũng vậy, trong các cộng đoàn không có hai người giống nhau, và chính sự xác định của mỗi người là riêng biệt. Chúng ta cũng không phải chờ các tâm lý gia cho biết về điều đó. Nhưng vì tính cá nhân rất quý giá, cần có những người thề hứa để tránh vị kỷ thái quá. Một điều mỉa mai ngày nay là Rôma có hơn một người người bảo vệ tính đa dạng trong các gia đình và các cộng đoàn, đó là người bảo vệ tính cá nhân. Điều gì là nguồn gốc của đời sống tu trì ngụ ý trong lĩnh vực thần học khổ hạnh ? Ngụ ý quan trọng nhất là ơn gọi trong tình trạng của đời sống. Thiên Chúa kêu gọi thì Ngài cũng ban ân sủng để duy trì ơn gọi. Nhiều người khởi hành từ tu viện và đời sống tu trì. Không có điều như vậy xảy ra, ít là từ thế kỷ 16, và có thể không bao giờ có trong Kitô giáo trước đó. Hình ảnh đó đã không còn trong đầu của hàng triệu người. Thay vì ổn định thì lại không ổn định. Thay vì vĩnh viễn, ấn tượng còn lại nơi các tín hữu là các lời khấn của các tu sĩ. Vấn đề 17
  • 18. quá phức tạp khi xem xét các chi tiết. Sự không vững bền này là khái niệm sai lầm cho rằng đời sống tu trì là sự lầm lẫn. Thế giới ngày nay được mô tả bằng sự thay đổi nhanh đến chóng mặt. Ngay cả cách nói về “lối sống” cũng là triệu chứng của khuynh hướng chung. Lối sống thay đổi có lý do. Vì vậy, đời sống của con người cũng bất ổn, ai dám sống khác thì bị coi là “cấp tiến” hoặc “phản động”. Sự thật được Thiên Chúa mặc khải thì bất biến. Thực sự có những người được kêu gọi theo Thầy chí thánh Giêsu để sống theo các lời khuyên Phúc Âm. Có một hệ lụy thực tế, hệ lụy tất yếu đối với đời sống tu trì có nguồn gốc linh thiêng, do đó ơn gọi tu trì đến từ Thiên Chúa, Đấng làm người để sống lời khuyên Phúc Âm và muốn những người khác cũng sống như vậy. Họ được tuyển chọn, được đào tạo để phục vụ chứ không để được phục vụ ( Mt 20, 28; Mc 10, 45 ). TUYỂN CHỌN Chúa Giêsu xác định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi” ( Ga 15, 16 ). Đó là cách diễn tả bất ngờ về mầu nhiệm ơn gọi. Trong thực tế, điều đó có nghĩa là chúng ta phải hiểu rõ hơn rằng chúng ta hành động theo lời mời gọi của Thiên Chúa, chính Ngài tuyển chọn những người sống theo cách này. Dấu hiệu ơn gọi là có Đức Tin mạnh mẽ và đúng đắn – như Ápraham được Thiên Chúa kêu gọi. Đức Tin đó đơn giản và rõ ràng, được tôi luyện trong đau khổ, hoàn toàn tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, và chỉ hành động theo Thánh Ý Ngài. Thay vì tìm kiếm những người có mức cao về Chỉ Số Thông Minh ( I.Q. – Intelligence Quotient ) cao, hãy tìm những người có mức cao về Chỉ Số Đức Tin ( F.Q. – Faith Quotient ). Chỉ Số Đức Tin là tặng phẩm quý giá, sẵn sàng trung tín và hy sinh. Khi Thiên Chúa chọn, Ngài cũng ban ân sủng để có thể vác thập giá theo Đức Kitô. ĐÀO TẠO Chúa Giêsu đã quan tâm: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” ( Mt 9, 37 ). Tương quan với việc tìm kiếm điều đúng để nhận biết ơn gọi đích thực, cần có sự đào tạo về siêu nhiên để người được gọi sống đúng đời sống tu trì. Trong đó, đào tạo cầu nguyện là điều cơ bản nhất. Nhờ đó, chúng ta có thể hy vọng một tương lai tốt đẹp về ơn gọi. Tuy nhiên, họ có môi trường cầu nguyện ? Họ có thấy những tấm gương cầu nguyện ? Họ có được hướng dẫn đúng cách cầu nguyện ? Cầu nguyện là nghệ thuật giao tiếp với Thiên Chúa, nói đơn giản là cách nói chuyện với Thiên Chúa. Không khí cầu nguyện là môi trường tĩnh lặng đủ để có thể tập trung, không bị chia trí. Nói theo văn hoa, đó là sự hiểu biết về đức ái. “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Gương sáng luôn rất quan trọng. Có nhiều cách cầu nguyện, nhưng hướng dẫn phải đúng cách để giúp người ta biết cách tâm sự với Thiên Chúa một cách thân mật và hiệu quả. Cầu nguyện là một nhân đức. Cầu nguyện làm chúng ta nên thánh, phù hợp với Ý Chúa, vì Ngài muốn mọi người nên thánh ( x. Mt 5, 48 ). CẤU TRÚC Thoạt đầu, chúng ta thấy có vẻ không phù hợp để nói về “cấu trúc” trong việc liên kết ơn gọi tu trì, thậm chí còn có vẻ đối lập. Quan điểm thứ nhất lưỡng lự cho rằng đời sống tu trì có nền tảng trong Phúc Âm, trong mọi thời của Giáo Hội, và là phần quan trọng trong truyền thống Kitô giáo. Quan điểm thứ hai xác định những gì quan điểm thứ nhất bác bỏ. Cả hai quan điểm đều cho rằng ơn gọi tu trì xuất phát từ Thiên Chúa. Đó có phải là một cộng đoàn có cấu trúc, có bề trên và tu luật ? Đời sống tu trì là một dạng vườn nho của Chúa, hữu hình, có tổ chức và có trận tự. Trong số các phụ nữ liễu yếu đào tơ vẫn có người hướng dẫn. Đó là các phụ nữ như Thánh Teresa Avila, Julie Billiart, 18
  • 19. Sophie Barat và Francesca Cabrini. Họ là những người sáng lập các viện cứu tế cho những người cần được quan tâm ( thể lý và tâm linh ). Chính họ đã tạo nên những kỳ công cho Giáo Hội Công Giáo. PHỤC VỤ Chúng ta có còn một phương diện nữa về hệ quả thực tế trong việc hiểu biết ơn gọi tu trì có nguồn gốc từ Phúc Âm. Đó là “sự phục vụ” và chính đặc tính của việc tông đồ của các cộng đoàn tu. Mỗi người đều được Chúa Thánh Thần tác động hoặc linh hứng, được chuẩn bị bằng bản chất và ân sủng để tìm kiếm việc tông đồ và việc riêng, mọi việc đều vì lợi ích cho to dân Chúa. Có thể kiểm nghiệm lý thuyết này trên nền tảng lý thuyết. Nhưng để thuyết phục hơn, có thể xem đặc tính của việc tông đồ từ thời các Thánh Tông Đồ, từ thời khai sinh Kitô giáo. Năm 1000, có 100 Giáo Phận đã được thành lập dọc duyên hải Địa Trung Hải. Khi vua Henry 8 áp bức các Tu Viện ở Anh quốc, hơn 2.000 trường học Công Giáo dành cho trẻ em cũng bị cấm hoạt động. Khi Cộng Sản chiếm Hungary và Tiệp Khắc ( nay là Cộng hòa Séc và Slovakia ), mục đích đầu tiên của họ là phá hủy các cơ sở Công Giáo được các Tu Sĩ nam nữ điều hành. KHÔNG AI “SAI” CHÍNH MÌNH Sự thật cho biết rằng các giáo phận của Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức trong thế giới Công Giáo không hiện hữu hoặc phát triển mạnh – hoặc là đối tượng đối lập với Chủ Nghĩa Duy Vật Mácxít. Công Giáo Rôma có ý tưởng rất rõ ràng về bản chất ơn gọi là phục vụ Giáo Hội, dĩ nhiên được Đức Kitô ủy thác, nhưng sự ủy thác này bao gồm yếu tố “được sai đi”. Đó là nhận một sứ vụ từ những người có quyền nhân danh Đức Kitô, trừ phi chúng ta xuyên tạc ý nghĩa của từ ngữ, vì “không ai có thể tự sai mình”. Do đó, mỗi ơn gọi tu trì đều bao gồm ân sủng của sự khiêm nhường vâng lời đối với những người đại diện Giáo Hội. Họ không phân công ngẫu nhiên hoặc bừa bãi, hoặc không quan tâm khả năng và sự ưu tiên của những người họ “giao nhiệm vụ”. Nhưng họ sai phái như mọi chứng cớ của Phúc Âm bảo đảm với chúng ta rằng Đức Kitô đã sai những người mà Ngài đã kêu gọi. Cũng như ơn gọi, sứ vụ có nguồn gốc Thiên Chúa. VĨ NGÔN Xin được khép lại bài viết ngắn này. Những năm sắp tới sẽ rõ ràng hơn bây giờ, tùy mức độ tin tưởng rằng ơn gọi tu trì do từ Thiên Chúa. Từ Thiên Chúa, Đấng làm người để trở nên Linh Mục và Tu Sĩ. Thiên Chúa làm người tiếp tục gợi hứng rất nhiều người theo con đường nên thánh của Ngài và phục vụ nhân loại. Từ Thiên Chúa làm người, ân sủng nâng đỡ những người nói sự thật khi rằng ơn gọi là “hạt giống từ trời”. Kinh nghiệm đã chứng tỏ rằng hạt giống này khả dĩ sinh hoa kết trái khi được tiếp nhận trong niềm tin và được hỗ trợ bằng tình yêu thương. Lm JOHN A. HARDON, Dòng Tên Bản lược dịch của TRẦM THIÊN THU, từ TheRealPresence.org “HỌ KHÔNG THỂ GIẾT HẾT CHÚNG TA” Giữa trung tâm thương mãi Hồng Kông, một khẩu hiệu thật lớn đến năm thước mỗi bề được hằng trăm bạn trẻ giương cao "They can't kill us all", tạm dịch là "Họ không thể giết hết chúng ta". Các bạn trẻ cũng thường xuyên hô vang: "Họ không thể giết hết chúng ta" để nói lên quyết tâm đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của mình. Hồng Kông một lãnh thổ thuộc Anh Quốc từ năm 1842 đã chuyển giao cho Trung Quốc năm 1997 với quy định dân chúng Hồng Kông được hưởng quy chế tự trị ít nhất 50 năm hay đến năm 2047. Trong vòng 150 dưới sự quản lý của người ngọai quốc, người dân Hồng Kông được cho là chỉ biết kiếm tiền, chỉ sống vì tiền và ở đây tiền là tất cả. Nay thì tất cả đã đổi khác. Diễn Biến 19 CÙNG THÔNG TIN