Lịch sử lớp 12 / History of Vietnam
Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneve 1954
All rights reserved.
Please do NOT use it without any credit.
Download for more details.
Enjoy!
3. Cuối 1953, đầu 1954, khi
chiến tranh lạnh đã đi
đến đỉnh cao, trên thế
giới bắt đầu xuất hiện xu
thế các nước lớn đi vào
hòa hoãn, chủ trương
giải quyếthòa bình các
cuộc chiến tranh khu
vực.
Biểu hiện rõ nhất của xu
thế này là các nước lớn
Mỹ, Anh, Pháp và Liên
Xô triệu tập Hội nghị
ngoại trưởng bốn nước
tại Berlin tháng 2/1954
bàn về vấn đề Đức - Áo. Do bất đồng quá lớn trong việc giải quyết các vấn đề chính trị tồn tại
sau chiến tranh lạnh, hội nghị thất bại nên chuyển sang bàn vấn đề Đông Dương.
Ngày 18/2/1954, HộinghịNgoại trưởng 4 nước ra tuyên bố cuối cùng về việc xem xét
vấn đề Đông Dương. Điều này mở ra con đường mới cho khả năng kết thúc chiến tranh ở
Việt Nam, Đông Dương thông qua biện pháp thương lượng hòa bình.
Còn ở Việt Nam, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu ngày 13/3/1954. Trảiqua ba đợt,
liên tục trong 56 ngày đêm, chiến dịch giành thắng lợi vàongày 7/5/1954. Sựkiện giúp chấm
dứt cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân và dân Việt Nam, làm phá
sản kế hoạch Navarrevà mưu đồ giành thế mạnh về quân sựhòng xoay chuyển cục diện
chiến tranh trên chiến trường Đông Dương của Pháp, can thiệp Mỹ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ làm rung chuyển nội bộ xã hội và dân chúng Pháp, thúc
đẩy phong trào chống chiến tranh của nhân dân Pháp lên cao trào, tạo phân hóa trong
chính giới nước này; làm tăng thêm sựđồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa
bình thế giới đối vớisự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo thế vững vàng cho đoàn Việt Nam bước vào Hội nghị
Geneva với thế thắng, thế mạnh nhờ có thắng lợi quân sựkhắp chiến trường Việt Nam.
"Phương châm đấu tranh của ta là vừa đánh, vừa nói chuyện. Phải chủ động cả hai mặt
nhưng yếu tố quyết định vẫn là đấu tranh quân sự. Ta càng đánh càng thắng, nói chuyện
càng thuận lợi... Phải tích cực chủ động cả về quân sự lẫn ngoại giao", Phó thủ tướng Phạm
Văn Đồng ngày 15/3/1954 nói.
Hội nghị Geneva khai mạc ngày 8/5/1954, trải qua 75 ngà y với 31 phiên họp tại Thụy Sĩ.
4. DIỄ N BIẾ N HỘI NGHỊ
Hội nghị Geneva khaimạc ngày 8/5/1954, trảiqua 75 ngày với 31 phiên họp, trong đó
có 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp Trưởng đoàn.
1. Giai đoạn một (8/5/1954- 19/6/1954):
Ngoài việc trao đổi chương trình nghị sự, các đoàn trình bày lập trường về giải pháp
cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
Đoàn Pháp yêu cầu chỉ giải quyết vấn đề quân sự, không đề cập vấn đề chính trị và
tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt Nam. Trong khi đó, đoàn Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu yêu cầu phải có đại diện kháng chiến
Lào và Campuchia tham dự. Ông Đồng đưa ra lập trường 8 điểm của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là giải quyết đồng thời cả hai vấn đề quân sự và chính trị, cả ba vấn đề Việt Nam,
Lào, Campuchia.
Phó thủ tướng nhấn mạnh Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân
Việt Nam, Campuchia, Lào. Việc quân đội nước ngoài phải rút khỏiba nước Đông Dương là
cơ sở quan trọng nhất cho chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngày 25/5/1954, trong phiên họp hẹp, ông Phạm Văn Đồng đưa ra hai nguyên tắc cho vấn
đề đình chiến: ngừng bắn hoàn toàn trên toàn cõi Đông Dương, và điều chỉnh vùng trong
mỗi nước, trong từng chiến trường trên cơ sở đất đổi đất để mỗi bên có những vùng hoàn
chỉnh tương đối rộng lớn thuận lợi cho quản lý hành chính và hoạt động kinh tế. Đại diện
các bộ tư lệnh có liên quan nghiên cứu tại chỗ những biện pháp ngừng bắn để chuyển tới
hội nghị xem xét và thông qua.
Ngày 27/5/1954, Đoàn Pháp đồng ý lấy đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm
cơ sở thảo luận về đề nghị đại diện của hai Bộ Tư lệnh gặp nhau ở Geneva để nghiên cứu
việc chia ranh giới những khu vực tập trung quân ở Đông Dương.
Ngày 29/5/1954, sau 4 phiên họp toàn thể và 8 phiên họp cấp Trưởng đoàn, Hội nghị
Geneva ra quyết định: ngừng bắn toàn diện và đồng thời, đại diện hai Bộ tư lệnh gặp nhau
ở Geneva để bàn về bố trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến bắt đầu bằng phân vùng
tập kết quân đội ở Việt Nam.
Ngày 12/6/1954, Nộicác Bidault bị Quốc hội Pháp đánh đổ. Ngày 29/6/1954, Chính
phủ Mendes France lên cầm quyền, hứa vớiQuốc hội Pháp trong vòng một tháng sẽ giải
quyết xong vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đây là sự kiện quan trọng góp phần phá
vỡ bế tắc, thúc đẩy đàm phán tiến triển.
5. 2. Giai đoạn hai (20/6/1954 - 10/7/1954)
Trong giai đoạn này, hầu hết Trưởng đoàn các nước về báo cáo, chỉ có Trưởng đoàn Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa PhạmVăn Đồng ở lại. Các quyền Trưởng đoàn tổ chức các cuộc họp
hẹp và họp tiểu ban quân sựViệt - Pháp. Tuy nhiên, ccác cuộc họp hẹp ở Geneva trong giai
đoạn này không có tiến triển đáng kể.
Giai đoạn ba (từ 11/7 đến 21/7/1954): Nốilại các cuộc đàm phán cấp Trưởng đoàn
Trong 10 ngày cuối của Hội nghị Geneva, nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi tay đôi, tay ba hoặc
nhiều bên giữa các Trưởng đoàn đã diễn ra. Các phiên họp chủ yếu thông qua các văn kiện,
kể cả các điều khoản thi hành Hiệp định. Cuối cùng là phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị.
Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đoàn Pháp đàm phán rất gay go về phân chia vĩ
tuyến, thời hạn tổ chức tổng tuyển cử và các điều khác của Hiệp định.
Vào 24h ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký
kết. Sau đó, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào, Campuchia cũng được ký.
Ngày 21/7/1954, HộinghịGeneva về Đông Dương họp phiên toàn thể, ra Tuyên bố
cuối cùng gồm 13 điểm, trong đó điều khoản các nước tham gia Hội nghị Geneva cam kết
tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Thiếutướng Delteilthaymặt BộTổng tưlệnhQuânđội liênhiệpPháp ở Đông Dương kýbản hiệp định
đình chiến ở Việt Nam và Lào ở Hội nghị Geneva
6. KẾ T QUẢ CỦA HỘI NGHỊ GENÈVE
Bên cạnh thỏa thuận chung về việc đình chiến trên toàn cõi Đông Dương, hội nghị
còn đem đến những thỏa thuận riêng vớimỗi nước, trong đó có các hiệp định liên quan
đến Việt Nam.
Các hiệp định này gồm 4 nội dung chính. Đó là những điều khoản về đình chỉ chiến sự
và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời hạn
300 ngày, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề
mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.
Thứ hai, đó là những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới
tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự(Sông Bến Hải), vĩ tuyến 17 là giới
tuyến quân sự tạm thời, không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân
viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn
cứ quân sự mới, cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào, cấm sửdụng
mỗi miền để phục vụ một chính sách quân sựnào.
Thứ ba, đó là những điều khoản chính trị: vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước, Hiệp thương hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử tháng 7/1956, tựdo chọn
vùng sinh sống trong khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những
người đã hợp tác vớiđối phương trong thời gian chiến tranh.
Thứ tư, đó là những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban
kiểm soát liên hợp, Ủy ban giám sátquốc tế trung lập.
8. HÒA BÌNH MỘT NỬA
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành được lợi thế nhưng phải trả giá bằng cuộc chiến
tranh kéo dài 30 năm sau đó.
Niềm vui của ngườidân
khi Việt Nam được mời
tham gia Hiệp định
Genève
Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng, thời điểm đó là phó thủ
tướng, đau đớn thốt lên: “Tất cả cuộc chiến đấu của chúng ta mới đi được nửa đường. Tổ
quốc vẫn bị chia cắt. Chúng tôi đã cố hết sức, hết lòng, phấn đấu mọi cách mới mang lại cho
đất nước thế này thôi và chúng ta cần phải tiếp tục”. Những người tham gia đoàn đã bật
khóc.
Trong khi đó, người Mỹ lại có thái độ lẫn lộn giữa thành công và kết quả của hội nghị.
Tổng thống Dwight Eisenhower tại cuộc họp báo ngày 21-7-1954 tuyên bố: “Có những điều
mà chúng ta không thích nhưng phần lớn nó còn phụ thuộc vào việc chúng được hiện ra
trên thực tế như thế nào”.
Trực tiếp tham gia các cuộc đàm phán, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Bedell Smith cay
đắng: “Ngoại giao hiếm khi đạt được trên bàn đàm phán cái mà không thể đạt được hoặc
giữ được trên chiến trường”. Điều này cho thấy Mỹ không cho rằng mình giành được phần
bánh ngon trong hiệp định này.
Trong tham luận Từ Điện Biên Phủ đến Hiệp định Genève đầu tháng 5-2014, ông
Carlyle Thayer, giáo sư danh dự thuộc Đại học New South Wales - Học viện Quốc phòng Úc,
cho rằng Hiệp định Genève đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào một tình huống phức tạp
bởi cả hai đồng minh là Trung Quốc và Liên Xô đều vì lợi ích quốc gia của mình. Việt Nam
9. Dân chủ Cộng hòa không còn cách nào khác, phải chấp nhận một sự thỏa hiệp, chia cắt
quốc gia ở vĩ tuyến 17 và tổng tuyển cử thống nhất đất nước sau 2 năm.
BẢN ĐỒ VIỆ T NAM 1954
10. NGĂN CHẶN MỘT CUỘC CHIẾ N LAN RỘNG
Ở một góc độ khác, báo cáo của Lầu Năm Góc đánh giá Hiệp định Genève đã mang lại
thắng lợi cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để được bảo đảm về vùng lãnh thổ.
“Quyết định cuối cùng tạm thời chia cắt đất nước tại vĩ tuyến 17 dù sao đi nữa cũng
là một thắng lợi ở chỗ nó cung cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sự kiểm soát tuyệt đối,
không bị thách thức đối với một nửa Việt Nam. Đây là một tình thế mà Việt Minh sau đó đã
coi là một bước đi cốt tử đầu tiên trong hàng loạt hành động chính trị để đạt được các mục
tiêu tương xứng với sức mạnh quân sự của họ: Nhanh chóng “giải phóng” phần còn lại của
đất nước bằng con đường chính trị” - Lầu Năm Góc nhận định.
Ông Pierre Asselin - giáo sư khoa học lịch sử Mỹ, tác giả của nhiều cuốn sách nghiên
cứu về chiến tranh Việt Nam - cho rằng chấp nhận Hiệp định Genève, có vẻ như Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã đánh đổi lợi ích của mình để đáp ứng lợi ích của các đồng minh nhưng
lại nhận được nhiều thứ như kỳ vọng.
Việc chia cắt đất nước tại vĩ tuyến 17 chứ không phải 16 và các cuộc bầu cử trong 2
năm chứ không phải 1 năm không thay đổi thực tế: Dù mối quan tâm của Bắc Kinh và
Moscow như thế nào, các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng nhận biết ngay từ
đầu rằng sẽ phải chấp nhận khả năng một hoặc nhiều khu vực bị kẻ thù kiểm soát. Điều
quan trọng là họ đã ngăn chặn được chiến tranh lan rộng, trong khi bảo đảm được sự công
nhận quốc tế về chủ quyền và vạch ra được một con đường để thống nhất đất nước dưới
sự giám sát của một ủy ban quốc tế.
Nhà nghiên cứu ngoại giao Nguyễn Khắc Huỳnh, thành viên Phái đoàn Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tham gia đàm phán Hiệp định Paris, nêu ra bài học lớn nhất từ các cuộc đàm
phán Hiệp định Genève là tư tưởng độc lập, tự chủ. Ông Nguyễn Khắc Huỳnh nhớ lại khi
tổng kết hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói ngắn gọn: “Ta chưa độc lập tự chủ, ta
cả tin bạn”. Nguyên nhân ta thiếu độc lập tự chủ là do trong kháng chiến, ta phụ thuộc vào
Trung Quốc về một số mặt, thiếu hiểu biết về thế giới và ý đồ của các bên...
12. Trong thế kỷ XX dân tộc Việt Nam luôn phát huy và kế thừa những truyền thống quý
báu của cha ông ta trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã lập nên hai
chiến công chói lọi đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược. Mỗi khi nói về hai
chiến thắng vĩ đại của dân tộc, trong mỗi người Việt Nam chúng ta không thể không nhắc
tới cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao của thắng lợi đó là chiến
thắng lịch sử Chiến thắng Điện Biên, một thắng lợi “lừng lẫy năm Châu - chấn động địa cầu”.
Chiến thắng chói lọi của dân tộc ta đã đi vào lịch sử song những giá trị của thắng lợi trong
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc luôn còn đọng mãi với lịch sử của dân tộc Việt Nam ta
qua các thế hệ. Có được những thắng lợi đó trước hết là sự kế thừa truyền thống chống
giặc ngoại xâm của cha ông ta và sự vận dụng sáng tạo về lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin
và đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chiến thắng Điện Biên
Phủ có ý nghĩa lịch sử to lớn:
ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆ T NAM
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến
thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi cục diện chiến
tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân
Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành
quả cách mạng Tháng Tám; một nửa đất nước được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững
chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang
của Đảng vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
ĐỐI VỚI THẾ GIỚI
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong
trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu
nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới; báo hiệu sự
thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ
cầm đầu.
13. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo
Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào
đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời
đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng
tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã thôi thúc
và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ la tinh đứng lên đấu tranh tự giải
phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Phát huy tinh thần “quyết chiến, quyết thắng” của Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta chủ động nắm bắt thời cơ, vượt mọi khó khăn, thử thách xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 59 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chúng ta tự hào về Đảng Cộng sản
Việt Nam quang vinh, một Đảng Mác – Lênin chân chính; tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhà văn hóa kiệt xuất - anh hùng giải phóng dân tộc, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta;
tự hào về dân tộc anh hùng, về các lực lượng vũ trang nhân dân, về Quân đội nhân dân Việt
Nam bách chiến, bách thắng.
Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động: Các nước lớn tranh giành
ảnh hưởng, xu thế hình thành thế giới đa cực ngày càng rõ sẽ tác động đến tình hình chính
trị và kinh tế thế giới; cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế ở nhiều nước còn diễn
biến phức tạp; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động
khủng bố vẫn diễn ra có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Sau hơn
20 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi
cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen các thế lực thù địch gia tăng thực hiện âm mưu
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân
quyền…để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp
đổi mới của nhân dân ta. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn
cảnh giác, phát huy cao độ nội lực; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; giữ
vững và không ngừng tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và
Quân đội các nước theo truyền thống của Đảng, của dân tộc và của Quân đội ta; kết hợp
sức mạnh thời đại, tạo dựng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Các thế hệ cha ông đi trước không cam chịu làm nô lệ đã phát huy cao độ chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, dũng cảm, sáng tạo đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, hoàn thành vẻ
vang sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các thế hệ ngày nay quyết tâm phát huy tinh thần chiến
thắng Điện Biên Phủ, dám nghĩ, dám làm, năng động sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới, lập
nên kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tinh thần bất diệt của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, là
nguồn sức mạnh tiếp sức cho dân tộc ta giành những thắng lợi mới trên chặng đường xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.